Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
giảng giải
1
Lời DẪN NHẬP
* Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh là hệ tư tưởng Đại thừa tối
thượng. Hệ tư tưởng chỉ dành để riêng cho những người CHỦNG TÁNH
ĐẠI THỪA. Người Đại thừa nghe là hoan hỷ, là tiếp thu phấn khởi nhẹ
nhàng. Chợt bừng tỉnh, tưởng như mình từ ngục tối vô minh dày đặc
bỗng được ra và tung tăng dưới ánh trời xuân muôn hồng nghìn tía. Rồi
tự thấy mình như đang trút bỏ từng gùi, từng gánh nặng sầu khổ ưu tư.
Họ nhận rõ ra căn, trần, thức, giới chỉ là “trò ảo hóa” của kiếp phù sinh.
Thân và tâm người con Phật lúc bấy giờ thanh thoát, nhẹ nhàng lạ
thường, rồi tự hỏi: có phải chăng đây là hiện tượng “Giải thoát, Niết
bàn” mà Phật, tổ đã truyền trao? Dạy bảo?.
* Người chủng tánh Tiểu thừa; Thanh văn, Duyên giác nghe nhưng
chưa hiểu thấu suốt, chưa tường tận nghĩa lý thẳm sâu trên đường tu
học, thiền định quán chiếu, họ chỉ là người NHU THUẬN NHẪN. Nghe
giáo lý Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật họ không sợ hãi, không tránh né,
không thấy mình tuyệt phận lạc lõng như ngoại đạo phàm phu, nhưng
so với trình độ VÔ SANH PHÁP NHẪN của chủng tánh Đại thừa, họ tự
thấy mình chưa với tới.
* Chủng tánh phàm phu ngoại đạo đem tư tưởng Đại thừa Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật mà thí nghiệm, sẽ thấy và biết rõ y như đem
hàn thử biểu vào nơi tòa nhà đã mở máy lạnh (máy điều hòa hàn nhiệt
không khí) chỉ số nhiệt độ tăng giảm thấy rõ tức thì. Lại như viêm độ kế
thả vào khạp nước muối, chỉ số độ mặn lạt xuống lên từng sát na khi
người ta thêm bớt nước.
Người chủng tánh phàm phu ngoại đạo họ rất “sợ” tư tưởng Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật Đại thừa, họ tối kỵ nguồn giáo lý Bát Nhã như
người bị nhặm mắt sợ ánh sáng mặt trời. Trải qua bao nhiêu thế hệ dài
lâu cho đến thế kỷ 21 ngày nay, sự hù dọa, sự truyền bá của họ hết
sức ngây thơ, hết sức vô lý, vậy mà tác hại của sự đầu độc đó cản trở
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
2
quá nhiều trên bước đường tu học chánh pháp của Tăng Ni trẻ và Phật
tử cư sĩ.
Họ tuyên truyền rằng:
- Thọ trì đọc tụng kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật chùa sẽ
nghèo nàn không người đến cúng bái, cây cối vườn chùa sẽ
khô héo tiêu điều ...
- Phật tử cư sĩ đọc tụng kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật trở
thành người NGÃ MẠN CỐNG CAO. Thần Kim Cang vận chuyển
nhà cửa xào xáo, vườn tược hoa màu khô héo, cây cối tiêu
điều, làm ăn sa sút v.v...
Hai thí dụ điển hình nói trên, người có chủng tánh phàm phu ngoại
đạo, họ vì lẽ gì xin mọi người tự hiểu. Điểm trọng tâm và chủ đích của
họ là họ rất sợ nguồn giáo lý Đại thừa Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật phổ
biến trên đời. Bởi vì, giáo lý Đại thừa Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật truyền
bá lan rộng, sẽ dập tắt những tư tưởng mê tín dị đoan, huyễn hoặc
hoang đường. Cho nên, bộ phận người làm ăn bằng nghề ấy, họ xem
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh là nguồn tư tưởng đối lập với họ, phải
một mất một còn, ví như cần bảo vệ nhà tối thì phải hủy diệt bóng đèn
cao áp!
CHỦNG TÁNH PHÀM PHU nghe Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật mà
tâm không bực bội, không phỉ báng, không cự tuyệt, lòng tự nhủ lòng:
“Mình chưa làm được”! Đấy là người có được ÂM HƯỞNG NHẪN, hạt
giống đã được nằm trong nền đất ướt, tương lai sẽ thành cây, dây hoa
quả!
Đáng thương cho ai tự tạo cho mình là kẻ NHẤT XIỂN ĐỀ!
Viết tại LIỄU LIỄU ĐƯỜNG
Đồi Tà Dương – Lạc Sơn
Lâm Đồng, ngày 02 – 02 – 2009
Mùng 08 – 01 – Kỷ Sửu.
THÍCH TỪ THÔNG lão Hòa thượng
Pháp hiệu : Như Huyễn Thiền sư
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
3
PHẦN I
VĂN – TƯ – TU
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
4
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
5
KIM CANG BÁT NHÃ BA-LA-MẬT KINH
MA HA BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
Đời Diêu Tần Tam tạng Pháp sư
CƯU MA LA THẬP Hán dịch
Thế kỷ 21
Pháp sư THÍCH TỪ THÔNG Việt dịch
NHƯ HUYỄN Thiền sư Trực chỉ đề cương
CHƯƠNG MỘT
SINH HOẠT THƯỜNG NGÀY
Lời tự thuật của thầy Khất sĩ A Nan:
Thời điểm này Phật và các đệ tử xuất gia 1.250 thầy Tỳ kheo tạm trú tại
vùng lãnh thổ Xá Vệ đại thành.
Hôm nay đến giờ khất thực, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá
Vệ hóa trai, như pháp khất thực, Thế tôn xin thức ăn theo thứ tự của gia cư, mà
không có ý niệm lựa chọn. Khất thực xong trở về trụ xứ dùng cơm. Độ ngọ xong
Thế Tôn chỉnh sửa y phục, rửa chân rồi trải tọa cụ mà ngồi.
..
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
6
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Đọc kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa người đệ tử Phật hồi đầu phản
tỉnh ra, rằng đức THÍCH CA MÂU NI Phật chỉ là một con người, một con người
của đất nước Ấn Độ thời xa xưa ấy và cũng là một con người như một con
người trong 8,4 tỷ người, các nhà nhân số học thống kê tổng thể đến thời
điểm năm 2008 này.
Trước khi là Phật, người là một hoàng tử, sống trong chế độ xã hội giai
cấp nghiệt ngã vì sự phân biệt kỳ thị giữa người và người. Thích Ca, một dòng
dõi đứng vào hạng hai (Sát đế lỵ) trong bốn giai cấp.
Hoàng tử Tất Đạt Đa từ khi lọt lòng mẹ cho đến lúc được Tôn là PHẬT,
vẫn là một con người không gì thêm bớt, nghĩa là nhân thân của Phật vẫn là
một thân thể ngũ quan tứ chi bên ngoài, ngũ tạng lục phủ ở trong... Từ khi mới
sanh, vẫn hai mắt, hai tay, hai chân... Nói theo kinh Phật, trước ngày thành
Phật, thân ngũ uẩn của người hoàn toàn là một người như tất cả mọi người.
Phật không có lúc nào một mắt, ba mắt, bốn mắt, tám mắt, mười sáu mắt, cả
trăm mắt, cả ngàn mắt, hay nhiều hơn nữa bao giờ. Phật cũng chỉ một đầu,
không có lúc nào hai đầu, bốn đầu, tám đầu, mười một đầu, hay nhiều đầu
hơn nữa bao giờ. Phật chỉ có hai tay từ khai sanh ra, rồi xuất gia, rồi học đạo,
hành đạo, rồi trở thành Phật, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Đến lúc viên
tịch cũng chỉ là chiếc thân ngũ ấm, thất đại như lúc sơ sanh, không có lúc nào
bốn tay, tám tay, mười tám tay, cả trăm tay, cả ngàn tay, hay nhiều tay hơn
nữa bao giờ...
Sau khi xuất gia, trước khi thành Phật, Người là một khất sĩ. Hàng đệ tử
xuất gia, tại gia tứ chúng nghe thời pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa qua bộ kinh
này là thành quả HOA TRÁI sau thời điểm SINH HOẠT THƯỜNG NGÀY của Tăng
đoàn KHẤT SĨ * !
* TĂNG ĐOÀN KHẤT SĨ: Đi khất thực thường ngày, Phật là một khất sĩ trong Tăng đoàn. Bác sĩ,
nghệ sĩ, văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ... nếu có cũng vứt bỏ bằng cấp ở nhà không
được đem khoa trương khoác lác trong Tăng đoàn, rằng ta là TIẾN SĨ PHẬT HỌC A,B,C hay tiến
sĩ D...
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 7
CHƯƠNG HAI
NHÂN DUYÊN ĐỀ KHỞI
Trưởng lão Tu Bồ Đề thỉnh vấn:
Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu, Như Lai luôn luôn thương xót chúng sanh và
luôn luôn mong muốn dạy bảo nâng đỡ một cách tốt nhất cho các hàng Bồ tát.
Vậy con xin hỏi Thế Tôn: Người thiện nam, người thiện nữ họ phát tâm muốn
được quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thì phải hàng phục tâm như thế
nào? Họ phải trụ tâm cách sao?
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Đệ tử Phật, ngoài danh từ TỨ CHÚNG thông thường, còn thành phần tứ
chúng thứ hai, đó là: Phát khởi chúng, Đương cơ chúng, Kiết duyên chúng và
Ảnh hưởng chúng.
Trưởng lão Tu Bồ Đề, ở kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Thầy đóng vai
“Phát khởi chúng”. Thầy là người đại phát đoan, đặt vấn đề, nêu ra câu hỏi.
Tu Bồ Đề: Trung Hoa dịch KHÔNG SANH. Thầy có hạt giống Đại thừa lớn,
nhiều, rộng, mạnh đã từng tiếp thu chân lý “KHÔNG”, thể KHÔNG của hiện
tượng vạn vật (vạn pháp).
Tu Bồ Đề chủng tử Đại thừa, cho nên thay mặt tứ chúng nêu hỏi Phật
cách tu hành của Đại thừa Bồ tát. Ở trong kinh này, không đề cập giáo lý các
thừa khác.
A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ: Trung Hoa dịch VÔ THƯỢNG CHÁNH
ĐẲNG CHÁNH GIÁC, tức là quả vị Phật. Tu hành giác ngộ chân lý đến trình độ
quả vị này là tột cao không còn trên (vô thượng). Quả vị Phật còn gọi đơn
giản là : VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ.
Quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là đích đến của Bồ tát, của mọi
người phát tâm đi theo con đường Phật.
Muốn hái quả, tất phải gieo hạt trồng cây. Không gieo nhân, tất không
bao giờ có cây và trái, đó là lý sự bình thường. Đạo Phật có nền giáo lý VÔ
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 8
THƯỢNG THÂM THÂM VI DIỆU PHÁP, nhưng “diệu pháp” cũng không tách rời
hiện tượng vạn hữu sanh hóa ở thế gian.
Trọng tâm của chương này, thầy Tu Bồ Đề nêu hai câu hỏi, mà lời giải
đáp dạy bảo của Phật gồm tất cả pháp môn tu trong TAM TẠNG GIÁO ĐIỂN
“Tam thời ngũ giáo”, “Ngũ thời bát giáo”. Nói rốt lại: giáo lý kinh này bao hàm,
cô đọng, đúc kết trọn tôn chỉ, mục đích tinh yếu mà đức Phật giáo hóa suốt
49 năm!
Hai câu hỏi ấy:
1. VÂN HÀ ƯNG TRỤ?
2. VÂN HÀ HÀNG PHỤC KỲ TÂM?
Hàng Bồ tát đệ tử chúng con và chúng sanh đời sau phải:
* Trụ tâm như thế nào?
* Hàng phục tâm như thế nào?
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 9
CHƯƠNG BA
HÀNG PHỤC TÂM
Phật dạy:
Này, Tu Bồ Đề! Chúng sanh đại thể có mười loại sanh, như: Thai, trứng, ẩm
ướt, biến hóa, có chất, không chất, có tưởng, không tưởng, không phải có
tưởng, không phải không có tưởng. Bồ tát nên giúp đưa chúng đi vào Niết bàn
trọn vẹn. Giúp và đưa vô lượng vô số vô biên chúng sanh ấy mà đừng chấp
mắc, đừng thấy có chúng sanh nào do mình giúp. Vì sao vậy?
Tu Bồ Đề! Thầy cần lưu ý: Bồ tát mà còn thấy có tướng NGÃ, tướng NHƠN,
tướng CHÚNG SANH, tướng THỌ GIẢ không phải là Bồ tát thật!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Bồ tát phát tâm muốn tu hành thành Phật nên làm hai việc:
Một, Khéo hàng phục tâm
Hai, Học cách trụ tâm
.. Hàng phục tâm bằng cách nào?
Hàng phục bằng cách “diệt hết” và “độ tận” mười loại chúng sanh. Giúp
chúng sanh, đưa chúng sanh, khiến cho mười loại chúng sanh vào cõi Niết bàn
tịch diệt. Việc làm đó có khó lắm không?
Khó mà không khó. Có chí thì nên, có phát tâm thì được. Bởi vì, dù mười
loại, nhưng chúng vẫn là CHÚNG SANH mượn các duyên mà sanh không có
thật tánh.
- Thai sanh
- Noãn sanh
- Thấp sanh
- Hóa sanh
Động vật thể
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 10
- Thai sanh
- Noãn sanh
- Thấp sanh
- Hóa sanh
- Thực vật thể
- Khoáng vật thể
- Vô sắc
- Hữu tưởng
- Vô tưởng Phi vật thể
- Phi hữu tưởng
- Phi vô tưởng
Xem đồ biểu, ta thấy mười loại chúng sanh chỉ là sản phẩm duyên sanh
của bốn loại vật thể. Nói ngược lại, bốn loại vật thể đều là hiện tượng duyên
sanh. Mười loại chúng sanh chỉ là nương gá các duyên mà sanh. Nhìn bằng
tuệ nhãn, thấy rõ, biết rõ chúng không phải thật có. Rồi Bồ tát tự nhủ lòng, tự
quán chiếu tư duy: HỮU TÌNH, VÔ TÌNH gồm trong bốn thứ vật thể, mười loại
chúng sanh, đều là duyên sanh giả hợp, đúng như lời dạy của Như Lai:
CHÚNG SANH GIẢ NHƯ LAI THUYẾT TỨC PHI CHÚNG SANH THỊ DANH CHÚNG
SANH.
Chúng sanh: Lúc thuyết pháp đức Phật thường gọi chúng đệ tử, hay
những người nghe pháp với danh xưng CHÚNG SANH. Từ CHÚNG SANH bao
hàm chứa đựng ý nghĩa thâm thúy vô biên. Một từ CHÚNG SANH, vừa là một
danh xưng thay cho hết thảy đối tượng cả hữu tình lẫn vô tình mà đức Phật
đang đối thoại, vừa giới thiệu một nền giáo lý thậm thâm vi diệu, rằng hết
thảy thế gian, vũ trụ nhơn sinh cùng chung chân lý GIẢ CHÚNG DUYÊN NHI
SANH. Mượn các duyên nương gá các chất, hòa hợp các yếu tố, tích lũy
nhiều dữ kiện, cô đọng nhiều tánh khí, hợp thành một chỉnh thể nào đó hiện
hữu trước sự thấy nghe hiểu biết của động vật cao cấp được gọi là CON
NGƯỜI ! Do vậy cái từ CHÚNG SANH của đạo Phật không ám chỉ cho con
người, cho những người đối diện nghe pháp, cũng không phải con người đối
thoại trước Phật. Từ CHÚNG SANH của đạo Phật ám chỉ tất cả những gì đã có,
đang có, sẽ có trong vũ trụ bao la vô tận này. Tổng quát mà nói, CHÚNG
SANH có hai loại:
1) Hữu tình chúng sanh
2) Vô tình chúng sanh
Từ hai căn bản ấy chuyển biến vận động duyên khởi ra bốn hình thái:
1) Động vật thể ; Con người, thượng cầm, hạ thú, thủy, lục, phi, hành...
2) Thực vật thể : Cỏ, cây lùm rừng, ngũ quả, lục cốc...
Động vật thể
- Hữu sắc
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 11
3) Khoáng vật thể: Kim, thạch, thủy, hỏa, thổ...
4) Phi vật thể : Thanh, hương, vị, xúc, pháp...
Do có nguồn gốc như vậy, cho nên Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh, Phật
dạy cho các đệ tử học kỹ CHÂN LÝ của CHÂN LÝ thông qua CHÂN LÝ PHỦ
ĐỊNH trong kinh đó là chữ “PHI” Ví dụ: CHÚNG SANH GIẢ NHƯ LAI THUYẾT TỨC
PHI CHÚNG SANH.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 12
CHƯƠNG BỐN
TRỤ TÂM VÀO BỐ THÍ BA LA MẬT
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Đối với hiện tượng hữu vi vạn pháp “ƯNG VÔ SỞ TRỤ” nghĩa là
buông bỏ hết! Bố thí hết!
Bố thí cách sao?
- Tâm ly sắc, buông bỏ vật chất
- Tâm ly thanh, buông bỏ âm thanh
- Tâm ly hương, buông bỏ hương thơm
- Tâm ly vị, buông bỏ vị ngon
- Tâm ly xúc, buông bỏ khoái cảm
- Tâm ly pháp, buông bỏ niệm lự viễn vong...
* Tu Bồ Đề! Hãy trụ tâm bằng cách vô trụ, hãy giữ tâm buông bỏ bằng
cách buông bỏ. Bồ tát nên an trụ tâm như vậy. Đó là cách BỐ THÍ BA LA MẬT
của Bồ tát. Bố thí Ba la mật phước đức lớn, hư không mười phương không thể
sánh bằng. Tu Bồ Đề! Bồ tát nên trụ tâm như vậy mà tu hành!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Mọi người ai cũng có khả năng thiền định tư duy; sau khi thiền định tư
duy người ta thấy rõ nỗi khổ đau của đời người do hai thứ chấp; tên gọi khác
nhau, tựu trung tương quang ba cặp phạm trù về chấp:
- Chấp ngã - Chấp pháp
Chủ thể chấp - Chấp căn Đối tượng chấp - Chấp trần
- Chấp tâm - Chấp cảnh
Chủ thể chấp tên gọi có ba, thật lý không hai. Ba trong một, một trong
ba. Đối tượng chấp cũng vậy.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 13
* Người đệ tử Phật muốn có một tâm trí (không nên nói “tâm hồn”) thanh
thoát, an lạc; muốn thọ dụng Niết bàn hãy tu tập pháp xả ly. Vận dụng
huyễn tâm LY huyễn cảnh, dùng huyễn trí LY huyễn tâm, dùng huyễn không
LY huyễn trí, thành tựu như huyễn tam muội. Lúc bấy giờ tâm cảnh vẫn còn
đó mà tâm thiền giả đã viễn LY, thiền giả trở thành người không dính dáng với
hiện tượng vạn pháp, thiền giả được thọ dụng Niết bàn bất ly ư đương xứ.
“Ngã pháp”, “căn trần”, “tâm cảnh” không tương quan tác động được nhau.
Bấy giờ thiền giả là người “BẤT TRỤ Ư TƯỚNG, NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG.
* Đây là pháp tu bố thí của người đệ tử Phật. Bố thí như vậy Phật gọi BỐ
THÍ BA LA MẬT. Tu hạnh Bố thí Ba La Mật là hạnh đệ nhất trong lục Ba La Mật.
Chương này, đức Phật đáp câu hỏi thứ hai của ông Tu Bồ Đề. Đức Phật
dạy phương cách“An trụ tâm” của Bồ tát: Rằng phải nên bố thí, để đổi lấy
Niết bàn vô trụ xứ! Bố thí NGÃ CHẤP, bố thí PHÁP CHẤP, bố thí LỤC CĂN, bố thí
LỤC TRẦN, bố thí NỘI TÂM, bố thí NGOẠI CẢNH. Bố thí như vậy gọi là Bố thí BẤT
TRỤ Ư TƯỚNG, Bố thí Ba La Mật!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 14
CHƯƠNG NĂM
THẤY THÂN PHẬT
CHƯA HẲN ĐÃ THẤY ĐƯỢC NHƯ LAI PHẬT
Đức Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! thầy hiểu thế nào? Nhìn thấy tướng mạo qua sắc thân Phật, có
thể gọi đó là thấy được Như Lai Phật chăng?
- Tu Bồ Đề thưa: Theo con hiểu, không thể! Thấy tướng mạo qua sắc thân
Phật không thể gọi là người thấy Như Lai Phật. Vì sao? Vì Như Lai từng dạy: Sắc
thân, tướng mạo là một hợp thể duyên sanh, gọi là thân, tướng vậy thôi, nó
không có tự tánh chơn thật!
Phật dạy tiếp: Hể cái gì có tướng mạo có hình dáng, kích thước đều “hư
vọng”. Rời bỏ tánh thấy hư vọng ấy mới thấy NHƯ LAI PHẬT!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Nói về thân Phật chỉ có Thiền sư chính hiệu hoặc nhà Phật học thuộc
hàng “Cao tăng thạc đức” mới hiểu rõ. Ngoài ra không mấy ai hiểu đúng Phật
là người thế nào! Như Lai Phật là thế nào! Thân tướng Phật là thế nào! Sắc
thân Phật là thế nào!... Bởi vì muốn biết Phật phải học, phải thiền định tư duy
từ một thân đến ba thân, từ ba thân đến mười thân, rồi từ mười thân tư duy
thiền định, Thiền sư sẽ thấy và biết về thân Phật vô lượng vô biên thân.
Vì vậy, thấy sắc thân ngũ uẩn của Phật không phải thấy Phật; thấy sắc
thân 32 tướng cũng không phải thấy Phật, thấy Phật cốt làm bằng đồng, đất,
gỗ, đá, xi măng cốt thép hoặc vẽ hoặc thêu càng không tương quan chút
nào với Phật.
“Mời ông bà lên chùa lễ Phật”
“Lên chùa lễ Phật đi con”!
Hởi ôi! thật đáng thương!
Người mời lễ Phật cũng như người được lễ Phật vĩnh viễn không hề biết,
không hề thấy Phật, càng không hề biết Như Lai là thế nào!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 15
CHƯƠNG SÁU
GIÁO LÝ DÙ THẬM THÂM SIÊU TUYỆT
HẬU THẾ VẪN CÓ NGƯỜI NGHE HIỂU
Tu Bồ Đề thưa:
Bạch Thế Tôn! Cú nghĩa Như Lai vừa dạy quá cao sâu. Biết đâu chúng
sanh đời sau họ không đủ sức tiếp thu và tin nhận thì sao?
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Thầy chớ lo điều đó. Sau Như Lai diệt độ, một trăm, hai trăm, ba,
bốn, năm trăm năm về sau vẫn có người nghe hiểu tiếp thu tốt, thậm chí rất tốt!
Nhưng này, Như Lai nói cho thầy biết: Những chúng sanh ấy do họ đã trồng gốc
rễ cây lành rồi, không phải họ trồng trong một đức Phật hoặc hai, ba, bốn, năm
Phật mà họ đã trồng trong vô lượng ngàn muôn ức đức Phật rồi. Cho nên, nghe
là họ đã tin liền.
Này Tu Bồ Đề! Những chúng sanh có khả năng tin hiểu như vậy, Như Lai
đều biết hết, thấy hết và biết rằng phước đức mà họ được, lớn nhiều vô lượng
vô biên. Vì sao vậy? Vì chúng sanh ấy không bị mắc vào bốn tướng: Chấp ngã,
chấp nhơn, chấp chúng sanh và chấp thọ giả, cho nên họ mới tin nỗi điều đó.
Và người ấy cũng không vướng mắc vào ý niệm chấp, pháp này là đúng,
pháp kia không đúng!
Vì sao vậy? Tu Bồ Đề! Bởi nếu chúng sanh bảo thủ chấp một tướng thì
đương nhiên trở thành chấp đủ bốn tướng NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ GIẢ.
Chấp pháp đó là đúng cũng tức là chấp NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ
GIẢ.
Chấp pháp kia là sai cũng là chấp NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ GIẢ.
Thế nên, Như Lai dạy: Pháp sai không chấp thủ đã đành mà pháp đúng
cũng không nên bảo thủ.
Này, Tu Bồ Đề và tất cả các thầy Tỳ kheo đệ tử của ta! Giáo pháp mà
Như Lai dạy ví như thuyền bè, người trí nương thuyền bè để qua sông, qua đến
bờ kia rồi thì tự tại thong dong, người trí không khư khư ôm giữ thuyền bè nữa.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 16
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Hậu thế vẫn không hiếm người nghe hiểu tu tập theo giáo lý thậm thâm:
Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Vì cớ sao?
Bởi vì chúng sanh quá khứ đã có tri kiến Phật, có khả năng thành Phật,
có Phật tánh; chúng sanh hiện tại cũng có tri kiến Phật, có khả năng thành
Phật, có Phật tánh, cho nên nghe hiểu được kinh này. Chúng sanh hậu thế
cũng có tri kiến Phật, có khả năng thành Phật, có Phật tánh, vì vậy vẫn có
người thọ trì đọc tụng tin hiểu được kinh này.
* Tuy nhiên, người nghe hiểu ham mộ kinh này, nên biết rằng người đó
đã có trồng sâu gốc rễ cây lành chớ chẳng phải bỗng dưng mà được. Do họ
trồng sâu căn lành với nhiều đời, nhiều Phật, cho nên người này viễn ly nhiều
thứ chấp. Họ xa lìa tướng NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ GIẢ. Họ xa lìa chấp
đây đúng kia sai, đây nên lấy kia nên bỏ... Do vậy mà họ tin hiểu ái mộ kinh
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật nầy. Bởi vì, nếu người nào còn chấp một tướng
thì hiển nhiên bị vướng vào bốn tướng chấp, người đó sẽ không thể nghe hiểu
và ái mộ kinh này.
Thế cho nên học Phật, tu Phật, pháp sai bỏ đã đành mà pháp đúng
cũng không để lòng bảo thủ! Ví như dùng thuyền bè để qua sông, lên bờ rồi
người trí không cất giữ thuyền bè nữa.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 17
CHƯƠNG BẢY
QUẢ A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ
CHỈ LÀ DANH NGÔN
NHƯ LAI PHƯƠNG TIỆN NÓI
Đức Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Như Lai có đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề chăng? Như Lai có thuyết pháp chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Theo chỗ hiểu của con qua quá trình tu học thì không có
cái danh vị cố định tên A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề và cũng không có
pháp nào cố định trong những pháp Như Lai đã thuyết. Vì sao vậy? Bởi lẽ pháp
mà Như Lai thuyết đều không nên bảo thủ hoặc phân biệt chấp nê rằng: đây là
phi pháp (sai), kia là không phi pháp (đúng). Tại sao? Tại vì chỉ một pháp vô vi
Phật thuyết ra cho hàng đệ tử tu hành, vậy mà kẻ thì chứng quả Thánh, người
chỉ đến bậc hiền!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói giảng lược Quả Vô
Thượng Bồ Đề. Người Phật tử bình thường, hay hạng Tu sĩ tầm thường, ai cũng
tưởng rằng: có cái “QUẢ” tên ấy để cho Phật “CHỨNG ĐẮC”. Không phải vậy,
Phật không có CHỨNG, không có ĐẮC gì cả. Người đệ tử Phật nói Phật có
CHỨNG có ĐẮC người đó không xứng đáng là đệ tử Phật, mà còn là người phỉ
báng Phật dù họ không có ác ý!
* Bởi lẽ: Phật mà thấy rằng mình có CHỨNG QUẢ thì không còn là Phật
nữa rồi, vì phạm vào “chấp”!”ta đã...thành Phật”...
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 18
CHƯƠNG TÁM
PHƯỚC ĐỨC CHỈ LÀ DANH NGÔN
NHƯ LAI PHƯƠNG TIỆN NÓI
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! thầy nghĩ thế nào? Giả sử ai đó có thất bảo thật nhiều, đầy cả
tam thiên đại thiên thế giới, đem hết ra làm việc bố thí. Theo ý thầy, người đó
phước đức có được nhiều không?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Theo chỗ hiểu của con; tại vì
phước đức không tự tánh cố định, cho nên Như Lai nói người ấy phước đức
nhiều.
Phật dạy:
Đúng vậy, Tu Bồ Đề!
Này, Tu Bồ Đề! nếu có người nào thọ trì đọc tụng kinh này mà không nhớ
được nhiều, chỉ nhớ chừng một bài kệ bốn câu nào đó, rồi vì người khác mà
truyền đạt diễn nói, thì phước đức của người này nhiều hơn người dùng thất
bảo bố thí như đã nói trên.
Bởi vì sao? Tu Bồ Đề, bởi vì tất cả chư Phật và pháp A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề Phật, đều từ kinh này có ra.
Này, Tu Bồ Đề! nói là “Phật pháp” sự thật chẳng có Phật pháp gì cả, mà
gọi là “Phật pháp” vậy thôi!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Người thế gian biết đến chùa, được qui y Tam bảo thì không một ai
không ham mê, không mong cầu phước đức. Chỉ có bậc chân Thiền sư,
những bậc thạc đức cao Tăng mới vượt ra sự ham mê sự mong cầu ấy.
* Bởi vì phước đức không có tự tánh chơn thật, nó chỉ là một “biểu ngôn”
phương tiện của Như Lai! Đố ai chỉ ra nó? Hình dáng? Không có. Kích thước?
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 19
Không. Qui mô? Không. Vĩ mô? Không. Màu sắc? Không. Trọng lượng? Không!
Không và không tất cả!
* Vậy mà ai thọ trì đọc tụng, rồi vì người truyền bá ý thú kinh Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mật này chừng bốn câu kệ nào đó, phước đức của người này
nếu lấy sự rộng lớn của hư không cũng không thể so sánh. Bởi vì tất cả chư
Phật và pháp của chư Phật diễn đạt truyền bá đều từ kinh này mà ra.
Nói là nói vậy thôi, chứ nếu nói đúng chân lý thì chẳng có Như Lai nào
thành Phật, cũng chẳng có Phật nào nói pháp, dù được gọi là “chánh pháp”
Tu Bồ Đề ạ! Bởi vì ... thôi ... không ... nói ... nữa...!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 20
CHƯƠNG CHÍN
BỐN QUẢ THANH VĂN CHỈ LÀ DANH NGÔN
NHƯ LAI PHƯƠNG TIỆN NÓI
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Theo ý thầy hiểu thế nào? Người Tu Đà Hoàn họ có nghĩ rằng họ
chứng được quả Tu Đà Hoàn không?
- Bạch Thế Tôn! Không. Bởi vì Tu Đà Hoàn gọi là “Nhập lưu” nhưng sự thật
không có gì gọi là nhập lưu cả.
- Tư Đà Hàm gọi là “Nhất vãng lai” sự thật không có vãng lai gì, mà gọi là
“Nhất vãng lai” vậy thôi.
- A Na Hàm gọi là “Bất lai” nhưng sự thật họ chẳng nghĩ rằng họ được quả
Bất lai. Bởi vì họ không hề có bất lai, bất khứ gì. Họ biết đó là danh ngôn giả
đặt, là phương tiện của Như Lai gọi vậy thôi.
- Đến như hàng A La Hán, họ cũng chẳng có ý niệm rằng mình chứng đạo
A La Hán. Bởi vì không có đạo pháp nào cố định là A La Hán cả. Vì sao? Bạch
Thế Tôn! Vì nếu người A La Hán có ý nghĩ rằng mình được quả A La Hán, thì
ngay ý nghĩ đó, đã bị vướng mắc vào bốn đối tượng chấp: NGÃ, NHƠN,
CHÚNG SANH, THỌ GIẢ và cũng ngay lúc đó họ không còn là A La Hán được
nữa rồi!
Bạch Thế Tôn! Tự thân con được Phật khen là Tỳ kheo đắc “Vô tránh tam
muội”, là người đứng đầu trong các Tỳ kheo, là người ly dục bậc nhất trong
hàng A La Hán.
Bạch Thế Tôn! Nếu con có khởi ý niệm rằng con chứng đạo quả A La Hán,
chắc hẳn thế Tôn chẳng khen Tu Bồ Đề là Tỳ kheo ưa tịch tĩnh, thích sống một
mình. tại vì con không có ý nghĩ về con như vậy cho nên Như Lai mới khen Tu
Bồ Đề là người ưa thích tịch tĩnh, thích sống một mình.
..
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 21
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán đó là bốn quả vị nói lên sự
thành công của người đệ tử Phật trên quá trình học đạo, hành đạo và “đắc
đạo”. Bốn quả vị đó kinh điển gọi “TỨ QUẢ THANH VĂN” thành phần này chủ
yếu “nghe pháp” mà ngộ đạo đắc quả.
Ngộ đạo, đắc đạo, chứng quả là những danh từ ngôn thuyết phương
tiện tạm mượn để khi thì ám tỷ, khi thì hiển thị, khi thì khai đạo ... một pháp môn,
một đường lối tu tập. Thế cho nên danh ngôn chỉ là giả lập, chỉ là phương tiện
là ngón tay chỉ trăng, ngón tay không bao giờ là trăng được.
Đệ tử Phật, nếu người tâm cởi mở thì tu tập tiến mau, còn người tâm
chấp chặt thì tu tiến chậm. Chấp thị phi nhơn ngã cần cởi mở xả bỏ đã đành,
mà chấp ta là người tu giỏi, tu kỹ, ta ngộ đạo, ta đắc đạo, ta đã chứng quả
cũng phải xả bỏ. Bởi vì Chấp một tiếng TA là vướng mắc NGƯỜI, TỤI NÓ,
CHÚNG BÂY rồi.
Thế cho nên, người học đạo tu hành cẩn thận giáo lý Bát Nhã Ba La Mật
Đa này.
* Đương cơ và đối tượng thời pháp Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa này
là Bồ tát đại thừa. Dù vậy, học Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa thì lại không
phải vậy. Vì Thế Tôn dạy: “Vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết”. “Nhất thiết
thánh hiền giai dĩ, vô vi pháp nhi hữu sai biệt”! Người Thanh văn TỨ QUẢ càng
phải khắc kỹ về ý niệm: “Tu”, “hành”, “chứng”, “đắc” của mình!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 22
CHƯƠNG MƯỜI
ĐỪNG THẤY CÓ CHỨNG ĐẮC
ĐỪNG KHỞI NIỆM THIẾT LẬP TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! theo ý thầy, thầy nhận hiểu thế nào? Xưa kia ở vào thời Phật
Nhiên Đăng, ta tu hành đối với quả vị ta có chứng đắc gì chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu; lúc Như Lai ở chỗ Phật Nhiên
Đăng, Như Lai không hề thấy có chứng đắc.
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! thầy hiểu thế nào? Bồ tát có thiết lập và trang nghiêm cõi Phật
cho mình chăng?
Tu Bồ Đề thưa:
Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao vậy? Bởi vì gọi là thiết lập trang nghiêm, thực
ra Bồ tát không có thiết lập trang nghiêm gì cả, mà gọi là thiết lập trang
nghiêm vậy thôi.
Vì vậy cho nên, này Tu Bồ Đề! các Bồ tát cũng như hàng đại Bồ tát nên
khởi tâm thanh tịnh như vậy, không nên sanh tâm dính mắc sắc, không nên
sanh tâm dính mắc thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mà nên kích khởi sanh tâm “vô
sở trụ” đừng cho dính mắc
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Đời quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, trên đường tu học, hành
đạo không được nghĩ rằng ta có ĐẮC ĐẠO, ta được CHỨNG QUẢ ... Bởi vì có ý
nghĩ như vậy tức là ta đã vướng mắc CHẤP NGÃ rồi...
* Trên bước đường học đạo, hành đạo cũng không nên khởi tâm niệm
thiết lập cõi Phật trang nghiêm cho TA. Không nên có ý nghĩ xây dựng cho TA
cõi TỊNH ĐỘ ... Bởi vì mười phương cõi nước không có một khoảnh đất nào
thanh tịnh để cho TA xây hay thiết lập.
* Khởi ý niệm “ta thiết lập” trang nghiêm cõi Phật cho TA, ngay khi đó
không còn là Thanh văn, mất chất Bồ tát rồi, vì đã rơi vào bốn tướng CHẤP.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 23
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
BỐ THÍ PHÁP TRUYỀN BÁ
KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH
PHƯỚC ĐỨC HƠN BỐ THÍ TÀI.
Phật bảo:
Tu Bồ Đề! Như Lai hỏi thật thầy: Giả sử có người thiện nam hay thiện nữ
dùng thất bảo nhiều như số cát sông Hằng, và đầy khắp cả tam thiên đại thiên
thế giới mà bố thí. Thầy nghĩ sao? Người đó phước đức có nhiều không?
Tu Bồ Đề thưa: Rất nhiều, bạch Thế Tôn
Phật dạy:
Này, Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào ở trong kinh này tâm
đắc và thọ trì chừng bốn câu kệ... rồi vì người giảng nói, phước đức của người
này nhiều hơn người bố thí thất bảo như đã nói trên.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! tùy sự ghi nhớ kinh nhiều hay ít, thậm chí diễn giải
bài kệ chừng bốn câu. Nên biết, trụ xứ đó, tất cả thế gian; trời, người, A Tu La
v.v... đều nên cúng dường như cúng dường tháp điện của Phật. Huống chi
người tín thọ, hành trì giáo nghĩa của toàn kinh. Tu Bồ Đề! thầy nên biết, người
ấy đã thành tựu pháp tu, tối thượng hy hữu! Và kinh KIM CANG BÁT NHÃ BA LA
MẬT này ở nơi nào có, thì nơi ấy có Phật và hàng đệ tử đạo cao đức lớn của
Phật quang lâm.
..
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 24
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Bố thí tiền tài vật dụng, cứu ngặt chứ không thể cứu nghèo. Nếu cho
nhiều tiền có vốn làm giàu thì cứu nghèo chứ không thể cứu khổ. “Nhà giàu
cũng khóc...” là chuyện có thật.
* Truyền bá kinh Kim Cang Bát Nhã là trừ khổ, cứu khổ, giải khổ cho con
người là việc có thật. Thế cho nên giáo lý kinh này rất là quí hiếm. Chẳng
những trừ khổ, cứu khổ, giải khổ mà còn cho sự an vui, nếu tu hành tốt sẽ đạt
đến đỉnh cao Bồ đề, Niết bàn vô thượng!
Do vậy, kinh nói: Chỗ nào có kinh này, trời người nên cúng dường xem
như cúng tháp điện Phật. chỗ nào có kinh này là có Phật và hàng đại đệ tử
của Phật quang lâm ngự ở nơi đó. Thật đấy, thiền định đi, rồi sẽ thấy biết rõ
điều đó.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 25
CHƯƠNG MƯỜI HAI
TÊN KINH LÀ PHƯƠNG TIỆN HUYỄN DANH
THUYẾT PHÁP LÀ PHƯƠNG TIỆN NHƯ LAI HUYỄN THUYẾT!
Bấy giờ thầy Tu Bồ Đề thưa hỏi: Bạch Thế Tôn! Kinh Phật đang dạy đây, tên
gọi là gì? Để chúng con biết mà phụng trì?
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Kinh này tên gọi KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT, thầy
nên phụng trì danh tự ấy. Vì cớ sao? Tu Bồ Đề, thầy nên hiểu: Phật nói”Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mật “ sự thật rõ ra, không có “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật gì cả,
mà huyễn gọi “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật” vậy thôi.
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Như Lai có thuyết pháp không?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! theo chỗ hiểu của con, Như Lai không có
thuyết pháp!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Kim cang hay Kim cương, một khoáng chất cứng hơn sắt thép và các
thứ đá khác.
Bát nhã là trí tuệ, thứ trí tuệ trên hết các thứ trí tuệ khôn ngoan hiểu biết
về vật chất hữu vi ở trần thế. Thứ trí tuệ của con người GIẢI THOÁT hoàn toàn
mọi vướng bận khổ đau trên thế cuộc.
Ba La Mật có nghĩa hoàn bị, tuyệt đỉnh, là rốt ráo, ví như dụng cụ viên qui
quay lấy vòng tròn rồi thì không có cái gì tròn hơn nữa được.
* Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là kinh dạy cho con người bồi dưỡng trí
tuệ, tư duy thiền định, quán chiếu nội tâm, suy nghiệm ngoại vật, nhận thức
sự vật một cách tinh tường viên mãn, không còn thứ trí tuệ, thứ hiểu biết nào
trên. Đó là KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH. Các đệ tử Phật nên phụng trì
kinh này, bồi dưỡng cho mình trí tuệ GIẢI THOÁT VIÊN MÃN ấy.
* Nói là nói vậy thôi! Chứ lời nói của Như Lai cũng chỉ là một huyễn ngôn
huyễn thuyết như các ngôn thuyết khác. Nói Như Lai thuyết pháp đúng lý
chơn mà suy, có pháp nào riêng của Như Lai đâu! Tại vì sự vật hiện tượng nó
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 26
sanh như vậy, nó trụ như vậy, nó dị như vậy và nó diệt như vậy, Như Lai cũng
nói nó sanh như vậy, nó trụ như vậy, nó dị như vậy và nó diệt như vậy. Thế
thôi!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 27
CHƯƠNG MƯỜI BA
VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI NÓI MỘT THÌ SAI
NÓI HAI KHÔNG ĐÚNG
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Theo ý thầy, thầy hiểu thế nào? Số vi trần của thế giới tam thiên
đại thiên có nhiều chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật dạy: Này, Tu Bồ Đề! Những vi trần ấy Như Lai nói không phải vi trần,
gọi đó là vi trần vậy thôi. Thế giới cũng vậy. Như Lai gọi thế giới nhưng không
có gì thế giới cả mà gọi là thế giới vậy thôi.
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Hãy học thiền, học tư duy, học quán chiếu. Đối tượng thiền; Một thật to
là thế giới là lục địa là quả cầu. Hai thật nhỏ: là vi trần, là thủy trần, là lân hư
trần. Vậy mà chúng nó làm “trở thành” nhau được qua chân lý NHÂN DUYÊN
SANH.
* Do nhân duyên thế giới hoá thành vi trần. Do nhân duyên vi trần đóng
khối thành thế giới.
Do nhân duyên từ con người có phân người. Do nhân duyên phân người
thành dinh dưỡng nuôi con người xuyên qua cải rau hoa quả!...
Đệ tử Phật hãy học tham thiền đi..! Rồi các vị sẽ có AN LẠC TỰ TẠI không
bao giờ bị cướp mất!...
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 28
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
THẤY THÂN 32 TƯỚNG CỦA PHẬT CHƯA PHẢI THẤY PHẬT
CÀNG CHƯA THẤY BIẾT NHƯ LAI
Đức Phật bảo:
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Có thể nhìn vào thân 32 tướng của Phật, gọi
là thấy Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Không! Bạch Thế Tôn, không thể nhìn thân 32 tướng mà cho
là thấy Như Lai Phật. Tại sao vậy? Vì Như Lai dạy: 32 tướng không phải tướng
chắc thật, tại vì thầy tướng số họ gọi 32 tướng vậy thôi.
Phật dạy tiếp:
Này, Tu Bồ Đề! Giả sử có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào đem thân
mạng nhiều như số cát sông Hằng để bố thí, nhưng nếu có người ở nơi kinh này
nghe hiểu thọ trì, rồi vì người giảng nói truyền đạt rộng ra, khoảng chừng bài kệ
bốn câu nào đó, phước đức người này nhiều không thua người bố thí thân
mạng nói trên.
Thầy Tu Bồ Đề nghe Phật dạy đến đây, nhận thức rõ nghĩa thú sâu xa mầu
nhiệm của kinh này, rơi nước mắt, không cầm được khóc, rồi bạch Phật rằng:
Thưa Thế Tôn! Rất hy hữu! Phật nói KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT kinh, nghĩa lý
thậm thâm vô cùng. Từ khi tu học cho đến khi con được tuệ nhãn, con chưa
từng được nghe kinh điển thậm thâm như vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu người nào nghe kinh này mà lòng tin trong sáng, thì
chắc chắn tỏ ngộ được THẬT TƯỚNG! Và nên biết rằng, người ấy thành tựu
công đức hy hữu bậc nhất.
..
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 29
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Theo giáo lý Đạo Phật, thân ngũ ấm là thân phàm phu, thân của tất cả
mọi con người. Thân ngũ uẩn thất đại cũng chẳng có gì là Phật. thế thì tại sao
thân 32 tướng lại là Như Lai? Giã sử thân ai đó 30, 31 hoặc 33, 34 tướng có thể
là Như Lai được không? Trên tinh thần của Đạo Phật, không có rắc rối về vấn
đề thân và tướng như vậy. Đạo Phật không chấp nhận thầy tướng, thầy số,
thầy bói, thầy cúng ... Thế cho nên, dạy các hàng đệ tử Phật, muốn thấy
Phật biết Như Lai. Không được nhìn Phật, Như Lai qua tướng 29, 30, 32, 34,... gì
ráo. Giả sử thấy người nào đó có 80, 90, 120 tướng đi nữa cũng không vì thầy
tướng nói có nhiều tướng mà là Phật là Như Lai! Phật, Như Lai căn cứ trí giác
ngộ, hạnh giải thoát, không căn cứ ở thân và tướng.
Có một số người ngoại đạo họ tưởng tượng, họ chạm trổ những thân
tướng hơn chục đầu, cả ngàn tay, cả ngàn con mắt... Như Lai không có vậy!
Người đệ tử chân chính của Phật nghĩ sao?
Do lẽ đó, người đệ tử Phật, tại gia cũng như xuất gia muốn thấy biết Như
Lai, Phật không y cứ nơi Thân và Tướng.
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng
Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến NHƯ LAI”
Vì vậy ở chương này, đức Phật mượn một đối trọng lạ thường vô tiền
khoáng hậu, để so sánh công lao và phước đức.
Đem thân mạng của chính mình như số cát sông Hằng bố thí để cầu
phước, so với người nghe hiểu giáo nghĩa kinh này, rồi diễn đạt truyền bá
giảng giải, đánh đổ mổ xẻ gột rửa những bộ óc có hạt giống mê tín, dị đoan
huyễn hoặc hoang đường về đức Phật về đạo Phật về Thế Tôn Như Lai ...
Người làm được việc này, truyền bá tư tưởng Bát Nhã Ba La Mật kinh, phước
đức nhiều hơn người bố thí thân mạng nhiều như cát sông Hằng.
Do vậy khi nghe đoạn này, thầy Tu Bồ Đề rơi nước mắt khóc trước Phật.
Rằng từ khi con được tuệ nhãn đến nay con mới nghe giáo lý thậm thâm Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật này. Người nghe mà hiểu được hành được rõ là
hạng người hy hữu ở trần gian. Chắc chắn người đó là người thâm ngộ THỰC
TƯỚNG các pháp!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 30
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
THẬT TƯỚNG VẪN PHÓNG XẢ
NHƯ PHÓNG XẢ PHÁP HỮU VI!
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu “Thật tướng” cũng chỉ là “VÔ
TƯỚNG” không có tự tánh chơn thật, vì vậy Như Lai gọi là THẬT TƯỚNG!
Bạch Thế Tôn! Hôm nay nghe kinh điển này, con tin hiểu và thọ trì không
lấy làm khó; Bốn, năm trăm năm về sau, nếu có chúng sanh nghe mà tin hiểu
thọ trì, ấy là người hy hữu bậc nhất! Vì sao vậy? Vì người đó không còn chấp
tướng NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH và THỌ GIẢ. Do đâu biết? Do vì người đó biết
Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng đều “phi tướng”
(huyễn vọng). Nói thế nghĩa là sao? Nghĩa là hễ ai ly hết thảy Tướng, thì những
người đó chính là Phật!
Đức Phật khen: Đúng vậy! Đúng vậy! Này, Tu Bồ Đề! Nếu có người nghe
kinh này mà lòng không ngỡ ngàng, không sợ hãi. Nên biết, đó là thành phần
hy hữu trên đời!
Tu Bồ Đề! Thầy nên nhớ: Như Lai nói Bố thí ba la mật, sự thật không bố thí
ba la mật gì cả, mà gọi bố thí ba la mật.
Này, Tu Bồ Đề! Nhẫn nhục ba la mật, Như Lai nói chẳng nhẫn nhục ba la
mật, mà gọi nhẫn nhục ba la mật. Vì sao nói như thế?
Phật bảo:
Này, Tu Bồ Đề! Nhớ kiếp xưa kia, ta bị vua Ca Lợi cắt xẻo từng phần thân
thể. Lúc bấy giờ, ta không có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng
thọ giả. Vì sao biết? Vì lúc đó thân thể ta bị cắt xẻo từng phần mà thân tâm ta
bất động. Nếu ta còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả,
thì lúc đó ta đã khởi tâm sân hận rồi!
Tu Bồ Đề! Lại nhớ thuở quá khứ, một giai đoạn cả năm trăm năm, ta là
một ông tiên tu hạnh nhẫn nhục. Thời gian dài đó ta không có tướng ngã, tướng
nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.
Thế cho nên, Tu Bồ Đề! Bồ tát nên ly tất cả tướng, phát tâm A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề. Không nên sanh tâm trụ sắc, không sanh tâm trụ thanh,
hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm “vô trụ”. Tâm có trụ tức là đã phạm sai lầm!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 31
Thế cho nên Như Lai dạy: Người phát tâm Bồ tát, tu bố thí không sanh tâm trụ
sắc. Tu Bồ Đề! Bồ tát vì lợi ích chúng sanh nên bố thí như vậy. Bởi Như Lai nói:
Tất cả chúng sanh không phải thật có chúng sanh! Như Lai cũng lại nói: Tất cả
các tướng không phải thật có các tướng. Tu Bồ Đề! Lời nói của Như Lai là chơn
ngữ, thật ngữ, bất dị ngữ, bất cuống ngữ (chơn chánh, thật lý không thay đổi,
trước sau khoảng giữa cũng vậy, không dối gạt phỉnh phờ).
Này, Tu Bồ Đề! Pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Như Lai được,
pháp ấy không thật, không hư. Tu Bồ Đề! Nếu tâm Bồ tát trụ chấp ở pháp làm
việc bố thí, như đi vào hang tối không thấy được gì. Nếu Bồ tát tâm không trụ
chấp ở pháp mà làm việc bố thí, như người sáng mắt đi dưới ánh mặt trời, vạn
vật đều thấy rõ hết.
Tu Bồ Đề! Hiện tại cũng như tương lai, nếu có thiện nam hay thiện nữ ở nơi
kinh này thọ trì đọc tụng, Như Lai dùng trí tuệ Phật biết rõ người đó, thấy rõ
người đó, rằng họ có được công đức vô lượng vô biên.
Tu Bồ Đề! Hãy suy gẫm lời dạy của Như Lai! Giả sử có kẻ thiện nam hay
người thiện nữ, buổi sáng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng bố thí;
ban trưa lại đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng bố thí; buổi chiều lại
cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng bố thí. Bố thí như thế trải qua
trăm kiếp, ngàn muôn ức kiếp. Nhưng nếu có người nghe kinh này mà tín tâm
không chao động, không chống trái, không sợ hãi, nghi ngờ, phước đức của
người này hơn người bố thí thân mạng đã nói trên. Còn nói chi người nghe rồi
tâm đắc, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng thuyết, phước đức của họ ngôn từ
không sao nói hết được!
Này, Tu Bồ Đề! Bất luận ở đâu, xứ nào có kinh này, tất cả thế gian trời,
người, A Tu La hãy nên cúng dường. Và xem chỗ ấy như tháp điện Phật, cung
kính, đãnh lễ, nhiễu quanh, dùng hương hoa tung rải cúng dường nơi đó!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Theo giáo lý đạo Phật dạy: Hiện tượng sự vật ngàn sai muôn khác,
không ai biết hết tên của chúng, dù tên đó cũng chỉ là ai đó đặt ra. Đến thế
kỷ 21 này, các nhà khoa học khái quát phân loại chúng thành bốn thể: Động
vật thể, Thực vật thể, Khoáng vật thể và Phi vật thể.
* Giáo lý đạo Phật gọi chung các vật thể ấy là Pháp hữu vi, mà hữu vi
pháp thì không thật, toàn bộ đều như mộng, như ảo... Người tu hành không
tinh tiến, không khéo thiền định tư duy quán chiếu, dù 95 hay 120 tuổi cũng
không nhận biết “thật tướng” của hữu vi là thế nào?
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 32
Thế cho nên, thiền giả nhận biết thật tướng đã là khó, CHỨNG NHẬP
“Thật tướng lại là một việc khó hơn nhiều, vậy mà khi đã chứng được thật
tướng rồi lại cũng phải xả bỏ như xả bỏ các pháp hữu vi. Vì thật tướng tức thị
PHI TƯỚNG! “Trụ vào THẬT TƯỚNG vẫn là trụ một cách sai lầm như trụ pháp hữu
vi vậy (nhược tâm hữu trụ tắc vi phi trụ).
Đức Phật kể lại chuyện xưa, rằng hồi đó người bị vua Ca Lợi cắt xẻo từng
phần thân thể mà người không giận không oán thù. Thời gian tu tiên cả 500
năm nhẫn nhục ... thiền định đến nỗi chim lót ổ trên đầu ... Nhìn bằng nhục
nhãn ai cũng nói tiền thân Phật tu hạnh bố thí ba la mật, thí cả thân mạng,
người tu hạnh nhẫn nhục ba la mật, cam chịu sự khổ đau cùng cực mà không
sân hận, không tham tiếc ...
Đức Phật đã từng dạy: Người nào nghe kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật
này mà tâm ưa thích, lòng không chống trái ngỡ ngàng, dùng tuệ nhãn, tuệ
nhĩ để thấy nghe sẽ nhận rõ ra rằng, tiền thân Phật lúc ấy chẳng tu BỐ THÍ BA
LA MẬT gì đâu! Người chỉ tu hạnh Bồ tát là VÔ NGÃ TƯỚNG, VÔ NHƠN TƯỚNG,
VÔ CHÚNG SANH TƯỚNG và VÔ THỌ GIẢ TƯỚNG vậy thôi! Vã lại khi tu Bồ tát
hạnh người đã ý thức rõ: Tất cả chúng sanh PHI chúng sanh, tất cả các tướng
PHI tướng. Cho nên giữ gìn chánh niệm ƯNG VÔ SỞ TRỤ mà vẫn ly TỨ TƯỚNG
vậy thôi! Tất cả ý tứ nói trên là chơn ngữ, thật ngữ của Như Lai.
* Cho đến như Quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề của Phật chứng
đắc vẫn không được gọi là THẬT. Tuy nhiên, cũng không được nói HƯ! Tại vì
những gì thuộc về Hữu vi pháp, có nói gì cũng không trúng!
* Thế cho nên, ai nghe hiểu, tin nhận, thọ trì, truyền đạt. Phước đức lớn,
ngôn từ không nói được.
Kinh này ở đâu coi như tháp miếy Phật ở đó, nên kính ngưỡng tôn trọng
cúng dường.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 33
CHƯƠNG MƯỜI SÁU
TRÌ KINH TIÊU NGHIỆP CHƯỚNG
TỨC THÂN THÀNH PHẬT.
Đức Phật bảo: Này nữa, Tu Bồ Đề! Nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ thọ
trì đọc tụng kinh này mà bị người ta xem thường khinh rẻ, là tại vì túc nghiệp
của người ấy nặng quá, đáng đọa đường ác, nhưng do hiện nay bị người đời
xem thường, khinh rẻ mà túc nghiệp được tiêu hết và sẽ tiến tới chứng quả A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề.
Tu Bồ Đề! Nhớ chuyện xa xưa cách nay vô luợng vô biên a tăng kỳ kiếp,
trước thời Phật Nhiên Đăng, ta từng gặp cả tám trăm bốn ngàn vạn ức na do
tha (vô số kể) chư Phật, ta đã cúng dường, phụng sự không hề bê trễ sơ suất.
Nhưng nếu đời sau có người nào nghe kinh này tâm đắc, hoan hỷ thọ trì đọc
tụng, công đức của ta trước kia đem so sánh, không bằng một phần trăm,
ngàn, ức, triệu, cho đến không có con số để so sánh được.
Này, Tu Bồ Đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ở đời sau, ai thọ trì đọc tụng
kinh này, công đức của họ nếu ta nói rõ và đầy đủ e có người nghe rồi, tâm họ
sanh cuồng loạn, hồ nghi không tin nỗi! Tu Bồ Đề! Thầy nên học và nhớ! Kinh
này nghĩa lý vượt ngoài sự nghĩ bàn, cho nên quả báo không thể nghĩ bàn!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Đã là nghiệp chướng thì nghiệp chướng hiện đời hay nghiệp chướng
đời trước chẳng khác gì nhau, chỉ là kết quả sai trái vặt vãnh của thân khẩu ý.
Còn cái thứ xem thường khinh rẻ của người đời chỉ là gió thoảng bên tai,
không thể là một đối trọng khổ đau đối với thứ trí tuệ Ba La Mật!
* Nghe kinh này mà tâm đắc, mà ái mộ, mà ưa thích đọc tụng thọ trì thì
những thứ “nghiệp chướng” tức PHI NGHIỆP CHƯỚNG; những thứ “khinh tiện”
tức PHI KHINH TIỆN kia, như tuyết đá bỏ vào chảo nước sôi tiêu tan không còn
xác gợn. Lúc bấy giờ ví như nhà tối mở toang cửa dưới ánh sáng ban trưa. Lật
chậu úp lên thì chốn chốn một thứ ban ngày rạng rỡ.
“Thực tánh vô minh tức Phật tánh
Ảo hóa không thân tức pháp thân”
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 34
Nghe kinh tiêu nghiệp chướng, tức thân thành Phật là một chân lý có
chân lý!
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
VÔ NGÃ, VÔ NHƠN, VÔ CHÚNG SANH, VÔ THỌ GIẢ,
VÔ NGÔN, VÔ HÀNH, VÔ ĐẮC, VÔ CHỨNG, VÔ TU
LÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC NHƯ LAI TÁI KHẲNG ĐỊNH ... ĐINH NINH...
Bấy giờ thầy Tu Bồ Đề lại bạch với đức Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ họ phát tâm A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề phải trụ tâm như thế nào? Phải hàng phục tâm như thế
nào?
Phật dạy! Này, Tu Bồ Đề! Kẻ thiện nam hay người thiện nữ phát tâm A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nên khởi tâm niệm rằng: Ta sẽ hóa độ hết thảy
chúng sanh. Hóa độ hết thảy chúng sanh rồi, mà không thấy mình là người hóa
độ. Tại sao thế? Tu Bồ Đề! Thầy nên nhớ: Nếu Bồ tát mà còn chấp tướng ngã,
tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải Bồ tát.
Này, Tu Bồ Đề! Thật ra, không có pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
để cho ai đó phát tâm.
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Như Lai ở vào thời Phật Nhiên Đăng xa xưa
ấy, có “Pháp” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề để cho Như Lai đắc chăng?
Bạch Thế Tôn: Không, Tu Bồ Đề thưa. Theo chỗ con hiểu ý nghĩa Phật nói;
thời điểm Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có “Pháp” hay “Quả” A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề để cho Như Lai đắc.
Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy, Tu Bồ Đề! Quả thật không có “Pháp” hay
“Quả” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nào Như Lai chứng đắc cả!
Này, Tu Bồ Đề! Nếu có pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề để Như Lai
chứng đắc, ắt hẳn Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho ta rằng: Đời tương lai
thầy sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Sự thật, do không có gì chứng đắc A
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 35
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thế cho nên Nhiên Đăng Phật thọ ký cho ta
rằng: thầy ở hậu thế sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni .
Tu Bồ Đề! Như Lai không hề chứng đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề.
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Thầy hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ! Như Lai có nghĩa là “bản thể
như như” của vạn pháp. Nếu ai nói Như Lai đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề là không đúng. Thật tế, không có pháp hay quả vị A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề Như Lai chứng đắc. Vì sao vậy? Vì quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề Như Lai được, không thật cũng không hư. Vì thế cho nên Như Lai nói: Tất
cả các pháp đều là Phật pháp.
Này, Tu Bồ Đề! Nói tất cả pháp, thật lý không có tất cả pháp, gọi là tất cả
pháp vậy thôi! Ví như con người khôn lớn vậy.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như Lai nói con người khôn lớn, thật lý không
có con người khôn lớn, gọi khôn lớn vậy thôi.
Tu Bồ Đề! Bồ tát cũng như vậy. Nếu Bồ tát khởi niệm rằng: “Ta sẽ tế độ
chúng sanh”; khởi tâm như thế, không gọi là Bồ tát. Vì cớ sao?
Tu Bồ Đề! Thật lý, không có chức danh, không có “pháp” gọi là Bồ tát. Vì
vậy, cho nên Phật nói: Tất cả pháp không NGÃ, không NHƠN, không CHÚNG
SANH, không THỌ GIẢ.
Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát khởi niệm: rằng Ta sẽ thiết lập và trang nghiêm cõi
Phật; khởi tâm niệm như thế, không thể gọi là Bồ tát. Tại sao vậy? Tại vì Như Lai
dạy: Người thiết lập trang nghiêm cõi Phật, không thấy mình trang nghiêm thiết
lập, gọi là thiết lập trang nghiêm vậy thôi.
Này, Tu Bồ Đề! Nếu người hiểu kỹ thông suốt “Vô ngã” “Vô pháp” (không
ngã, không pháp) Như Lai gọi đó “Bồ tát Thật nghĩa”*!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
- Hàng phục tâm, không chấp ta hàng phục.
- Đã trụ tâm, không trách ta có cách trụ tâm tốt.
- Diệt độ chúng sanh, không chấp ta giúp họ.
- Chúng sanh diệt độ, không chấp ta đã thi ân.
* Trái với thật nghĩa, Bồ tát giả danh
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 36
- Sinh hoạt ngang rộng, không chấp không gian chứa đựng.
- Trưởng thành nhỏ lớn, không chấp thời gian dưỡng nuôi.
- Dù nói chân lý, không chấp ta đã nói gì.
- Hành các hạnh lành, không chấp có phước đức.
- Dù đã giải thoát, không chấp ta đắc Niết bàn.
- Dù giác ngộ không trên, không chấp ta chứng quả Phật.
- Dù gọi Như Lai, không chấp có “ông” NHƯ LAI qua tướng mạo.
- Dù gọi “Qủa” A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, không chấp đó là
một cảnh ... một nơi ... một sự vật ...
- Dù nói vạn PHÁP, không chấp pháp một.
- Dù nói các PHÁP đều là PHẬT PHÁP, không chấp PHẬT PHÁP là PHÁP có
thật.
- Nói núi kia cao rộng, không chấp cao rộng của núi.
- Thằng A khôn lớn, không chấp cái khôn lớn của thằng A.
Ở chương này khái quát lại một số ý tứ Phật vừa dạy bảo, khẳng định
dặn dò những điểm trên đường tu tập Bồ tát phải ghi nhớ.
Nói gì cũng không trúng, là trúng
Viết gì cũng không trúng, là trúng
Nghĩ gì cũng không trúng, là trúng.
N.H.T.S
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 37
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
NHƯ LAI CHỈ CẦN MỘT ĐÔI MẮT
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Theo ý thầy, thầy hiểu thế nào? Như Lai có nhục nhãn không?
- Có. Bạch Thế Tôn!
- Như Lai có Pháp nhãn không?
- Có. Bạch Thế Tôn!
- Như Lai có Tuệ nhãn không?
- Có. Bạch Thế Tôn?
- Như Lai có Phật nhãn không?
- Có. Bạch Thế Tôn!
Phật bảo: Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ thế nào? Như trong sông Hằng kia có cát,
Phật có nói đó là cát không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, Phật nói đó là cát.
- Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ thế nào? Giả sử trong một sông Hằng có cát, số
sông Hằng nhiều bằng số cát ấy, số cát trong những sông Hằng kia, thầy nghĩ
có nhiều chăng?
- Nhiều không nói được. Bạch Thế Tôn!
- Tu Bồ Đề! Thế giới chư Phật cũng nhiều như vậy. Ấy thế mà bao nhiêu
tâm của chúng sanh trong vô lượng thế giới của chư Phật đó, Như Lai đều biết
hết. Làm sao mà biết hết? Tại vì Như Lai nói tâm, thật lý chẳng có tâm, gọi là
tâm vậy thôi! Tại sao lạ vậy?
Này, Tu Bồ Đề! Tại vì Tâm tìm ở quá khứ không có! Tìm Tâm ở hiện tại
không có! Và Tâm tìm ở vị lai lại càng không có!...
..
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 38
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết suốt hằng hà sa số bất khả
thuyết thế giới chư Phật mười phương.
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết hết thảy tâm chúng sanh ở cõi
Phật mười phương ấy.
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết suốt chân lý vũ trụ: không gian
vô cực, thời gian vô cùng.
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết rõ pháp giới chúng sanh có “ba
căn cơ” và “năm chủng tánh”.
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết rõ muốn hóa đạo chúng sanh
cần phương tiện triển khai: NGŨ THỪA PHẬT GIÁO giữa lòng chân lý “ĐẠO BỔN
VÔ NGÔN”
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết rõ: chúng sanh nhiều vượt ra
ngoài lượng số, Như Lai sử dụng ngôn từ “vô lượng vô biên”, rồi Như Lai lại biết
rõ chẳng thật có một chúng sanh nào!
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết rõ tam thiên đại thiên thế giới là
ngôn từ phương tiện của Phật, nào có tam thiên đại thiên thế giới gì đâu!
* Chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết rõ lục đạo tam đồ mà Phật nói,
chẳng khác trước đám người say ngủ Như Lai kể chuyện một giấc chiêm
bao!...
* Cũng chỉ cần một đôi mắt, NHƯ LAI thấy biết rõ tất cả pháp hữu vi như:
- Chiêm bao
- Ảo ảnh
- Bọt nước
- Bóng dáng lờ mờ
- Sương móc bình minh
- Điện nhoáng mưa mù
- Như khúc xạ nắng trưa
- Thành xây khói biếc
- Bóng trăng đáy nước
- Vật sắc trong gương.
Vậy mà sau Như Lai diệt độ chẳng nhớ rõ thời gian, người ta nói có một
người mệnh danh đệ tử Phật, người ấy có hơn chục cái đầu, có ngàn cánh
tay, ngàn con mắt, khiến Như Lai phải thiền định nhiều đêm dưới ánh trăng
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 39
ngà của núi rừng cô tịch, tư duy xem người đệ tử ấy dùng mắt để trông ngó
gì, tay để cầm giữ ôm đồm gì? mà cần mắt, cần tay nhiều đến thế?
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 40
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
PHƯỚC ĐỨC MỘT DANH NGÔN TRỪU TƯỢNG
DANH NGÔN GIẢ LẬP
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Ý thầy thế nào? Giả dụ có người giàu có, thất bảo của họ chất
chứa đầy cả thế giới tam thiên đại thiên, họ đem ra bố thí. Theo thầy, việc làm
của người đó, phước đức nhiều không?
Bạch Thế Tôn! Việc làm đó, phước đức rất nhiều. Tu Bồ Đề thưa.
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Nếu phước đức có thật Như Lai không nói phước đức
nhiều, vì phước đức không thật nên Như Lai nói phước đức nhiều.
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* “Phước đức” là một danh ngôn trừu tượng không ai thấy biết nó là gì?
Vậy mà nội đạo cũng như ngoại đạo, nhiều thành phần nhân loại, quí mến
nhiều tôn giáo khác nhau, đều ham thích ưa chuộng phước đức. Bởi vì nghe
cái từ PHƯỚC ĐỨC, dường như cái âm ba, cái tia sáng của danh ngôn ấy, gợi
cho con người một cảm nhận thánh thiện, an lành, khó tả ...
Thế cho nên, nghe và ham PHƯỚC ĐỨC không phải là một tật xấu, càng
không phải là một cái tội. Trái lại, nó còn vun vén bồi dưỡng tánh tốt và hạnh
lành cho con người. Đời sống của người có phước đức là một đời AN CƯ LẠC
NGHIỆP đấy.
Nói PHƯỚC ĐỨC MỘT DANH NGÔN TRỪU TƯỢNG nhằm nhắn nhủ dặn dò
người đệ tử Phật làm lành, làm phước, làm đức mà không để tâm CHẤP ở
công hạnh mình làm. Đòi nó thì nó không có; không đòi thì phước đức tự nó
biểu hiện ra! Bởi vì, phước đức tức “PHI” phước đức tánh, tức là phước đức
không có một tự tánh chơn thật nào.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 41
CHƯƠNG HAI MƯƠI
NHƯỢC KIẾN CHƯ TƯỚNG PHI TƯỚNG
TỨC KIẾN NHƯ LAI
(Thấy tất cả tướng như không thấy gì hết là người thấy Như Lai Phật)
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Hàng đệ tử Phật muốn thấy Phật, nhìn vào
sắc thân cụ túc của Phật, có thể gọi là thấy Phật không?
Tu Bồ Đề thưa: Không! Bạch Thế Tôn. Không thể nhìn vào sắc thân cụ túc
gọi là thấy Như Lai được. Vì sao? Vì Như Lai nói: Sắc thân cụ túc, thật lý chẳng
cụ túc, Như Lai gọi sắc thân cụ túc vậy thôi!
Còn nữa, Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ sao? Muốn thấy Như Lai, có thể nhìn vào
các tướng cụ túc của thân Phật, gọi là thấy Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Không, Bạch Thế Tôn! Thấy các tướng cụ túc ở thân Phật,
không thể gọi là thấy Như Lai. Vì cớ sao? Vì Như Lai nói các tướng cụ túc, thật lý
không các tướng cụ túc, gọi là các tướng cụ túc vậy thôi!
..
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Phật có nghĩa là người Giác ngộ chân lý tột đỉnh cao không còn giác
ngộ cách nào cao hơn nữa! Cho nên PHẬT gọi là VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ, bậc
GIÁC NGỘ KHÔNG TRÊN.
* NHƯ LAI có nghĩa là BẢN THỂ NHƯ NHƯ CHÂN THẬT của hiện tượng vạn
pháp. Nói cách khác, NHƯ LAI tức là PHÁP THÂN PHẬT. Pháp thân Phật, tức là
tự tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp. Dùng trí tuệ thiền định tư duy
nhận thức thấy biết và sống đúng sống hòa hợp với tánh thanh tịnh ấy, người
đó là người thấy Như Lai.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 42
* Một là PHẬT
* Hai, NHƯ LAI
Nếu có ai đó muốn biết, muốn chiêm ngưỡng PHẬT, chiêm ngưỡng NHƯ
LAI y cứ hình tướng, tượng, tượng vẽ, tượng thêu, tượng trổ, tượng nắn, tượng
đúc ... đương nhiên và hoàn toàn không tương quan với PHẬT với NHƯ LAI. Giả
dụ hồi Phật tại thế chưa viên tịch mà trông nhìn thấy PHẬT, NHƯ LAI qua sắc
thân “ngũ uẩn, thất đại”, thân “tam thập nhị tướng” thân “bát thập tùy hình
hảo”... Thấy rõ ràng, thấy ngay lúc đi, lúc đứng, lúc nằm, lúc ngồi, khi nói, khi
nín, khi động, khi tịnh ... Dù ai đó có gặp, có thấy, có biết rõ ràng như vậy,
nhưng ở hệ tư tưởng tối thượng Đại thừa của kinh KIM CANG BÁT NHÃ BA LA
MẬT ĐA này, đức Phật dạy: THẤY bằng cái thấy như vậy, không được gọi là
“được THẤY NHƯ LAI, PHẬT”.
Đệ tử Phật phải tu học thiền định, phải thực hành thiền định mới có cơ
hội gặp thấy NHƯ LAI, thấy PHẬT.
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng
Nhược kiến chư tướng PHI TƯỚNG tức kiến Như Lai”.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 43
CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT
NHƯ LAI CHẲNG CÓ PHÁP RIÊNG ĐỂ THUYẾT
(Đừng nói Như Lai có nói pháp)
Phật dạy:
Này, Tu Bồ Đề! Thầy đừng nghĩ, Như Lai có ý niệm, rằng Như Lai có
thuyết pháp. Thầy đừng có ý nghĩ như vậy. Bởi cớ sao? Bởi nếu ai đó
nói Như Lai có thuyết pháp, thì đó chính là người phỉ báng Như Lai. Vì
người đó hoàn toàn không hiểu gì về pháp mà Như Lai nói! Tu Bồ Đề!
Nói rằng thuyết pháp, thật lý Như Lai không có pháp gì để thuyết.
Bấy giờ, thầy Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật: Thế Tôn! Liệu chúng
sanh đời vị lai nghe kinh nghĩa quá cao sâu này, họ có tin và tiếp nhận
nổi không?
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Họ không là chúng sanh, nhưng họ cũng
không phải không chúng sanh! Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Người chúng sanh
mà Như Lai gọi chúng sanh ấy, họ không là chúng sanh, Như Lai gọi
chúng sanh, vậy thôi!
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Đệ tử Phật, nhiều người tự tin mình hiểu khá nhiều về đức Phật:
Rằng sau khi thành Đạo (thành Phật) khởi đầu ý nguyện lợi tha hóa đạo
chúng sanh, trước hết Phật đến Lộc Dã Uyển gặp gỡ năm bạn đồng tu
ngày trước đó là nhóm A Nhã Kiều Trần Như, A Thấp Bệ ... Thập Lực Ca
Diếp. Người ta nói ở pháp hội đầu tiên này đức Phật trình bày, thuyết
về TỨ DIỆU ĐẾ PHÁP, năm huynh đệ Kiều Trần Như nghe hết sức hoan
hỷ, tâm đắc lời vàng của Phật, cả năm huynh đệ cùng đắc A La Hán
quả. Cái từ TAM BẢO được hình thành, xuất xứ tại Pháp Hội này. Rồi
tiếng lành đồn xa. Đức Thế Tôn cũng như các đệ tử người, cùng thực
hiện tôn chỉ VÔ NGÃ VỊ THA và lối sống: NHẤT BÁT THIÊN GIA PHẠN ... cho
phạm hạnh người khất sĩ. Suốt 49 năm, cuộc đời khất sĩ rày đó mai đây,
ai cần điều lành thì chỉ bảo, thấy việc tổn thương đau khổ dạy cách
lánh đi ... Việc làm của Phật đem lại sự AN LẠC cho cuộc sống của
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 44
chúng sanh. Người ta gọi sự chỉ bảo, sự khuyên răn ấy là: PHẬT THUYẾT
PHÁP .
* Ở chương này, Như Lai nói Như Lai không có thuyết pháp, ai nói
Như Lai có thuyết pháp là người phỉ báng Phật. Và Như Lai cũng chẳng
có độ chúng sanh nào tất cả!
Thiền định tư duy, quán chiếu lời Phật dạy ở kinh này với những
nghĩa lý “vô thượng thậm thâm vi diệu”:
1) Nếu Như Lai nói pháp, thì Như Lai vướng vào CHẤP “năng
thuyết”, “năng độ”.
2) Nếu có chúng sanh nghe pháp, Như Lai vướng mắc CHẤP “sở
độ”, “người được độ”
3) Chúng sanh tức PHI CHÚNG SANH vậy thì thuyết pháp độ ai?
Độ cái gì? Vướng mắc CHÚNG SANH tướng!
4) PHÁP BỔN VÔ PHÁP PHÁP, vậy thì pháp của Như Lai ở đâu có
ra? Ở đâu tồn tại? Vướng chấp THỌ GIẢ TƯỚNG!
5) Như Lai không hề có PHÁP của Như Lai để dành riêng cho Như
Lai thuyết.
• Sanh diệt tứ đế thuyết tại Lộc Dã Uyển lần đầu sau khi
thành Phật, không phải của Phật.
• Vô sanh tứ đế không phải pháp của Phật
• Vô lượng tứ đế không phải pháp của Phật
• Vô tác tứ đế không phải pháp của Phật
• Thập nhị nhân duyên:
Vô minh – Hành – Thức – Danh sắc – Lục nhập – Xúc –
Thọ – Ái – Thủ – Hữu – Sanh – Lão tử – Ưu bi khổ não,
không phải riêng của Phật.
• Lục độ:
Bố thí – Trì giớ – Nhẫn nhục – Tinh tấn – Thiền định – Trí
tuệ không phải của Phật sáng chế.
• Vô thường – Khổ – Vô ngã – Bất tịnh
• Thường – Lạc – Ngã – Tịnh
• Không – Vô tướng – Vô nguyện
• Trí đức – Đoạn đức – Pháp thân đức
• Căn – Trần – Thức – Giới
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 45
* Nói gọn lại:
• Dù giáo lý TAM THỜI NGŨ GIÁO
• Hay NGŨ THỜI BÁT GIÁO
Nhất nhất không có PHÁP và nhất là PHÁP RIÊNG của Như Lai để
Như Lai nói.
Đừng nói Như Lai có thuyết pháp.
Tất cả việc tương quan TAM GIỚI thì không phải sở trường hay thiện
nghệ của Như Lai. Dù Như Lai có nói, có làm đó cũng chỉ là “CHƠI”!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 46
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
NHƯ LAI KHÔNG HỀ CHỨNG ĐẮC QUẢ VỊ!
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Phật đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề là không có chứng đắc sao?
Phật bảo: Đúng vậy, Tu bồ Đề!
Này, Tu Bồ Đề! Đối với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam bồ Đề quả, ta
không hề có “đắc” một tí ti nào, gọi là “đắc” A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, vậy thôi!
Còn nữa, Tu Bồ Đề! A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là một danh
ngôn, tên gọi tánh bình đẳng giữa các pháp. Pháp đó bình đẳng và
bình đẳng, trong đó không có xen ý niệm phân biệt cao thấp... gọi là A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Do vì không ngã, không nhơn, không
chúng sanh, không thọ giả, do tu tất cả thiện pháp gọi là “đắc” A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề!
Tu Bồ Đề! Nói “thiện pháp” thật lý, không thiện pháp gì, Như Lai gọi
thiện pháp vậy thôi!
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Thông thường, tuyệt đại đa số những người có tương quan hiểu
biết đạo Phật ít nhiều, hoặc một số nam nữ cư sĩ, thậm chí một số Tăng
Ni khất sĩ đều hiểu rằng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Hoàng tử đi tu
và đã thành công, người đã CHỨNG QUẢ. Quả đó có tên VÔ THƯỢNG
BỒ ĐỀ hay VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC (A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề)
Học Đại thừa liễu nghĩa Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Phật
dạy: Đừng nói, đừng nghĩ Phật có CHỨNG ĐẮC. Hiểu biết như vậy mới
là “đệ tử Phật”, người đệ tử ấy chắc chắn có được sự giải thoát giác
ngộ của đạo Phật.
Vô thượng Bồ đề là “Bình đẳng vô hữu cao hạ” là “Tu nhất thiết
thiện pháp” chớ nó chẳng “quả” chẳng “vị” gì cả. Con người ly “tứ
tướng” gọi là “Vô thượng Bồ đề” vậy thôi.
Thiện pháp cũng không có thật! Cần phải xã ly không CHẤP.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 47
CHƯƠNG HAI MƯƠI BA
TRÌ KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT PHƯỚC LỚN HƠN BỐ THÍ TÀI
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Giả dụ có người giàu lớn, thất bảo chứa chất như núi Tu
Di, đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, đem dùng làm việc bố thí. Nếu
lại có người ham mộ kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, thọ trì, đọc tụng,
vì người diễn thuyết chừng bốn câu kệ nào đó, phước đức của tài thí
vô lượng vô số nói trên, không bằng một phần trăm, một phần ngàn,
một phần vạn ức, cho đến không thể dùng toán số mà thí dụ được!
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Trì kinh Kim Cang Bát Nhã là bồi dưỡng trí đức đến tột đỉnh cao. Trí
đức đến tột đỉnh cao thì đoạn đức đồng thời thành tựu. Ví như hễ có
nước chảy đến đâu thì tánh ướt của nước đến đó.
Trí đức, nói cách khác là Bát nhã hay Bồ đề
Đoạn đức, nói cách khác là Giải thoát hay Niết bàn.
Một đức Phật, một Như Lai PHÁP THÂN do trí đức, đoạn đức cộng
lại, hay do Bồ đề và Niết bàn cộng lại.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 48
CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN
NHƯ LAI KHÔNG CÓ ĐỘ CHÚNG SANH, VÌ KHÔNG CÓ CHÚNG SANH NHƯ LAI ĐỘ!
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Thầy chớ nghĩ rằng Như Lai có ý niệm Như Lai sẽ độ
chúng sanh! Tu Bồ Đề! Thầy đừng nghĩ như vậy! Vì cớ sao? Vì thật lý
không có chúng sanh Như Lai độ. Vì nếu có chúng sanh Như Lai độ, hóa
ra Như Lai thấy có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Tu Bồ Đề! Thầy nên
nhớ: Như Lai nói có ngã, nhưng không có thật ngã, tại vì phàm phu cho
là có ngã mà thôi!
Tu Bồ Đề! Gọi phàm phu, thật lý Như Lai nói không phàm phu, gọi
phàm phu, vậy thôi!
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Như Lai không bao giờ khởi niệm TA độ chúng sanh. Bởi vì Như Lai
đã vĩnh ly NGÃ tướng.
* Như Lai đã dạy: Gọi là “chúng sanh” tức “PHI chúng sanh” nghĩa
là chúng sanh chỉ là một trong vạn pháp “hữu vi huyễn hóa” không có
tự thể chúng sanh chơn thật để Như Lai độ, vì Như Lai đã vĩnh ly NGÃ
tướng, NHƠN tướng, CHÚNG SANH tướng, THỌ GIẢ tướng tự lâu rồi!
* NGÃ tướng mà Như Lai đề cập thật lý có “ngã tướng” gì đâu! Tại
vì phàm phu tham đắm TA, TÔI, TAO . của TA của TÔI của TAO. Do vậy
sanh đau khổ cho tự thân, cho gia đình, cho xã hội ... Như Lai gọi tánh
CHẤP, sanh ra nguyên nhân đau khổ ấy qua cái danh từ CHẤP NGÃ.
Thật lý mà suy NGÃ chẳng có cái gì!
* PHÀM PHU, Như Lai dạy không có tánh cố định phàm phu, ngày
nào họ giác ngộ, tỉnh thức thì họ là HIỀN, THÁNH., thậm chí, họ là PHẬT.
PHẬT xuất thân từ phàm phu. Khi toàn giác, trí tuệ thanh tịnh, gạn lọc
hết mê mờ, người đời gọi là PHẬT. Vì vậy Như lai dạy: phàm phu tức PHI
phàm phu!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 49
CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM
NHỚ TƯỞNG NHƯ LAI KHÔNG NHẬN THỨC NHƯ LAI QUA ÂM THANH
VÀ SẮC TƯỚNG
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Ý thầy hiểu thế nào? Khi nhớ tưởng Như lai có thể quán
chiếu qua thân 32 tướng của Phật được chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Được! Nhớ Như Lai có thể quán tưởng
qua thân 32 tướng của Phật.
Phật dạy: Này, Tu Bồ Đề! Nếu quán tưởng Như Lai qua sắc thân 32
tướng, vậy là Chuyển Luân Thánh Vương tức thị Như Lai sao? Bởi vì
Chuyển Luân Thánh Vương thân có 32 tướng.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Con đã hiểu ý Phật rồi! Không nên
quán tưởng qua thân 32 tướng của Phật mà cho rằng: để đỡ nhớ Như
Lai!
Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Vin sắc chất thấy ta
Nương âm thanh tìm ta
Người tu hành sai lạc
Không gặp được Như Lai.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Do kinh nghiệm, người xưa họ phát ngôn táo bạo, ai đó có thể
cho là sử dụng một hình dung quá ư cường điệu! Họ nói”
“Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại thánh đức”
“Kim nhơn biểu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc”
Có nghĩa là: Người xưa, đời sống của họ mộc mạc đơn sơ cho nên
dáng mạo không đẹp, trông cục mịch xù xì như thú vật, vậy mà tâm
của họ là tâm đức, tâm của đại thánh nhơn.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 50
Người đời nay, trông dáng vẻ đẹp đẽ phương phi, quí phái và sang
trọng mà tâm nham hiểm độc ác, tâm như rắn độc, như sài lang hổ báo
không lường biết! Tục ngữ có câu:
“Người mà khẩu Phật tâm xà
Công danh sự nghiệp chỉ là phù du”
* Nhìn người qua sắc diện, qua ngôn ngữ âm thanh, qua vẻ đẹp
tướng mạo, qua tác phong hiền thục, có thể lầm không hối kịp.
* Thương tưởng Phật, quí kính Phật qua âm thanh, qua 32 tướng,
qua tám mươi vẻ đẹp của thầy tướng phịa ra ... Hởi ôi! Người đệ tử
đáng thương ấy, sẽ không thọ dụng được chút hương vị giải thoát nào
của đạo Phật.
* Đừng tin ở nơi SẮC TƯỚNG
Đừng tin ở nơi LẬP HẠNH ...
Đừng tin ở SỰ NGHIỆP NGUY NGA ...
* Tin sai Phật pháp tu hành tà đạo, không thể thấy biết Như Lai,
Phật.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 51
CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU
HIỆN TƯỢNG VẠN PHÁP CHUYỂN BIẾN THAY ĐỔI LƯỢNG, DẦN DẦN
THAY ĐỔI CHẤT, CÓ RA HIỆN TƯỢNG MỚI.
Phật bảo:
Tu Bồ Đề! Thầy chớ cho Như Lai có ý nghĩ: Rằng, Như Lai phải chán
ghét “sắc thân cụ túc” để được “đắc” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề! Tu Bồ Đề! Thầy đừng bao giờ nghĩ như thế: Rằng, Như Lai phải từ bỏ
“tướng thân cụ túc” mới “đắc” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề!
Tu Bồ Đề! Nếu thầy khởi ý niệm như thế, hóa ra người phát tâm A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, là người nói vạn pháp có chấm dứt, là
người phải trốn tránh, sợ hãi trước sự chuyển hóa đổi thay của hiện
tượng vạn hữu (vạn pháp)? Đừng nên có ý nghĩ như vậy! Vì cớ sao? Vì
phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm, là người không bao giờ
chấp nhận chủ thuyết: Hiện tượng vạn pháp có “diệt vong thật” để rồi
tự sanh hiện tượng vạn pháp “mới“.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Như Lai không cần “diệt” bỏ cái tướng thân “ngũ uẩn, thất đại”
để có “quả vị mới” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề hay Bồ đề Niết
bàn vô thượng!
* Thật là một nền giáo lý vô tiền khoáng hậu. Thảo nào có người
hiểu biết, họ nói Phật là nhà khoa học, vật lý học, triết học, duy vật
biện chứng học. Rồi, động vật thể, thực vật thể, khoáng vật thể, phi vật
thể ... môn nào Phật cũng đã chỉ vẻ ra rồi. Hèn chi, những đệ tử trí thức
của Phật, tôn người là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, vô cùng
chính xác.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 52
* Rõ ra, Lục Tổ Huệ Năng là người chứng ngộ chân lý, có thật
chứng, cho nên người phát kiến nói ra bài kệ.
“Phật pháp tại thế gian
“Bất ly thế gian giác
“Ly thế mích Bồ đề
“Kháp như cầu thố giốc”
Hay quá! Thành Phật ngay con người ngũ uẩn thất đại còn y!
* Chỉ cần học:
“Dục thủ nhất thừa, vật ố lục trần
“Lục trần bất ố, hoàn đồng Chánh Giác”.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 53
CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY
LẠI VẤN ĐỀ PHƯỚC ĐỨC
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Thầy hãy lắng lòng nghe, tư duy sâu sắc lời Như Lai sắp
nói: Tu Bồ Đề! Giả sử có Bồ tát sử dụng thất bảo nhiều như số cát của
sông Hằng, chứa đựng đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, đem ra
làm việc bố thí, ai cũng có thể hiểu phước đức Bồ tát ấy khó mà nói
nhiều đến cỡ nào! Nhưng này, Tu Bồ Đề! Như Lai nói cho thầy biết: Nếu
có người thiện nam, thiện nữ nào, biết TẤT CẢ PHÁP VÔ NGÃ, và thâm
nhập chuyển hóa thành tiến trình tam nhẫn. Phước đức người này
được nhiều hơn phước đức của Bồ tát bố thí vật chất như đã nói trên!
Thầy Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Bồ tát không thọ phước đức là
thế nào?
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Bồ tát làm việc phước đức không có tâm
chấp mắc, không tham cầu phước báo, không tự đắc, tự hào công
việc mình làm, gọi là Bồt tát “bất thọ phước đức”.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Đọc, nghe, xem học Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh, đến
chương này, vấn đề phước đức lớn nhỏ, nhiều ít, thọ không thọ, lấy
không lấy ... người trí đã gột rửa tẩy sạch từ lâu trong trí của mình rồi.
* Chẳng những thế, mà còn hồi tưởng thuở thơ ngây chưa học,
chưa hiểu giáo lý Phật, hồi ấy mình bị ham hố, bị mong cầu, bị thèm
thuồng, chấp mắc. Có lúc tự cảm thấy bị buồn phiền chỉ vì cái từ
PHƯỚC ĐỨC và ham thọ PHƯỚC ĐỨC quá nhiều!
* Bây giờ thì biết rồi! Hễ làm lành thì AN LẠC thân tâm. Nghe, học,
hành theo kinh thì nghiệp chướng tiêu trừ, có nhẹ nhàng, có hạnh phúc.
Không đòi, không “thọ” gì cả!
* Điều trọng đại ở chương này, nghe kinh chuyển hóa ý và lời kinh
thành một tiến trình tam nhẫn:
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 54
1) Nghe kinh mà lòng không bỡ ngỡ bất bình, đó là bước một ta có
được ÂM HƯỞNG NHẪN.
2) Nghe kinh thấy lòng thích thú, nhẹ nhàng và tâm đắc, ấy là ta
tiến được bậc hai NHU THUẬN NHẪN.
3) Nghe kinh tỏ ngộ chân lý qua những giờ phút thiền định tư duy,
quán chiếu, tận đáy lòng nhận thức rõ thật tánh duyên sanh của vạn
pháp: Sanh không thật sanh; Diệt không thật diệt! Sanh diệt, diệt sanh vô
cùng vô cực. Đó là kết quả của giác ngộ, đạt đến trình độ VÔ SANH
PHÁP NHẪN, THỨ BA!
“HOA KHAI KIẾN PHẬT NGỘ VÔ SANH”
“BẤT THOÁI BỒ TÁT VI BẠN LỮ” rồi !
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 55
CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM
NHƯ LAI PHÁP THÂN
Phật dạy: Này, Tu Bồ Đề! Nếu có người hiểu NHƯ LAI qua các
tướng biểu hiện: Đi, đứng, nằm, ngồi ... người ấy không hiểu NHƯ LAI
đúng ý nghĩa Như Lai muốn nói. Vậy là thế nào?
Tu Bồ Đề! Như Lai phải được hiểu VÔ SỞ TÙNG LAI, DIỆC VÔ SỞ KHỨ
cố danh NHƯ LAI. Như Lai có nghĩa là bản thể chơn như của vạn pháp.
Không đi đâu, không đến đâu mà đến khắp chỗ rồi.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
“Thí như hư không, thể phi quần tướng bất cự chư tướng phát huy”.
Ví như hư không, không đi, không đến nơi đâu, mà đâu đâu không chỗ
nào thiếu vắng hư không. Như Lai là bản thể chân như của vạn pháp.
Phải hiểu NHƯ LAI qua PHÁP THÂN “Biến nhất thiết xứ”!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 56
CHƯƠNG HAI MƯƠI CHÍN
THẾ GIỚI VÀ VI TRẦN KHÔNG PHẢI HAI NHƯNG NÓI MỘT KHÔNG TRÚNG.
Phật bảo:
Tu Bồ Đề! Giả dụ có thiện nam, thiện nữ nào đó, họ lấy thế giới
tam thiên, nghiền nát thành vi trần. Ý thầy nghĩ thế nào? Những vi trần
kia có nhiều lắm không?
Tu Bồ Đề thưa: Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Vì sao vậy? Vì nếu những
vi trần kia nhiều thật, Như Lai ắt hẳn chẳng nói vi trần nhiều, thật lý vi
trần chẳng có nhiều, gọi vi trần nhiều vậy thôi!
Thế Tôn! Như Lai đã nói tam thiên đại thiên thế giới, thật lý chẳng
có thế giới, gọi thế giới vậy thôi. Vì cớ sao? Vì thế giới hiện có, chỉ là
tướng hợp một (nhồi vi trần thành khối) Như Lai nói tướng hợp một ấy,
thật lý chẳng có hợp, gọi là hợp một vậy thôi.
Tu Bồ Đề! Tướng hợp một nói gì cũng không trúng. Tại vì phàm phu
phân biệt chấp mắc: là vi trần là thế giới. Hai danh ngôn đó do nhìn khi
nhồi lại, lúc nghiền ra, vậy thôi.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Gọi là thế giới, dù gần dù xa, dù lớn, dù nhỏ, dù hành tinh hay
định tinh, thế giới vẫn là một pháp. Thậm chí tam thiên đại thiên thế giới
cũng là một pháp trong vạn pháp.
* Thế cho nên, không vì thế giới rộng lớn mà vượt ngoài sự chi phối
của chân lý vô ngã vô thường. Không vì thế giới tồn tại lâu xa mà ra
ngoài tính duyên sanh của vạn pháp.
* Thấy thế giới có một rộng, to do nhìn bên mặt “hợp” khi vi trần
đóng cục thành một khối.
* Thấy vi trần nhiều, do nhìn bên mặt “ly” lúc thế giới bị nghiền nát
ra thành tro bụi.
Do vậy, thế giới một là một của nhiều.Vi trần nhiều là nhiều của
một. Vạn pháp sanh nhau, vạn pháp “là” nhau. Một là tất cả, tất cả là
một.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 57
CHƯƠNG BA MƯƠI
TỨ TƯỚNG MÀ NHƯ LAI ĐỀ CẬP DO TÙY THUẬN NGÔN NGỮ PHÀM PHU
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Giả sử có người cho rằng Phật nói có “ngã kiến, nhơn
kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến” thật! Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ sao? Người
đó có hiểu đúng ý và nghĩa qua lời nói của Như Lai không?
Tu Bồ Đề thưa: Không đúng, Bạch Thế Tôn! Người đó hiểu hoàn
toàn không đúng cả ý cả nghĩa trong lời dạy của Như Lai. Vì sao biết?
Bởi Như Lai nói: Ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Thật
lý, không có ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Như Lai
tùy tục mà nói: “Ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến” vậy
thôi !
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Vào khoảng thế kỷ 20, phong tục của người Việt Nam, cụ Bà
cũng như cụ Ông đều thích ăn trầu. Cho nên, hễ có khách đến nhà mời
ăn trầu cái đã. Do vậy mà tục ngữ thời xưa ấy có câu “Miếng trầu là
đầu câu chuyện”, rồi sau đó tâm sự hàn huyên ..., nếu khách không
được mời đãi “miếng trầu” tự nó có nghĩa là chủ nhà không mặn mà
với ta trong buổi gặp gở thăm viếng ...
Ở kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Phật dạy pháp tu tối thượng
thừa này, ngay từ chương đầu đến chương cuối, đối tượng diệt trừ hóa
giải, gột rửa thân tâm Phật dạy đó là TỨ TƯỚNG. Vậy có thơ rằng:
Tứ tướng đường hướng tiến tu
Mong qua biển khổ đừng ngu vương vào
Ngã, nhơn ảo ảnh phù du
Chúng sanh, thọ giả lao tù trần gian
Thế cho nên Như Lai dạy: Ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh
tướng, thọ giả tướng tức thị PHI tướng. Phàm phu chấp bốn danh ngôn
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 58
như vậy, Như Lai tùy thuận ngôn thuyết phàm phu để chỉ sự hư giả, sự
trống rỗng của bốn tướng ấy!
Người đệ tử Phật học tu, nếu không để tâm hóa giải, không phát ý
viễn ly TỨ TƯỚNG thì giống như “Đầu trò tiếp khách” mà “trầu không có”
kia vậy.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 59
CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT
HÃY NHÌN VẠN PHÁP QUA TINH THẦN THẬP NHƯ THỊ CỦA TỰ NÓ
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Thầy nên minh tâm khắc cốt điều vi mật hôm nay, Như
Lai long trọng chỉ bày:
Này, Tu Bồ Đề! Người phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm
đối với tất cả pháp, nên nhận thức qua tinh thần NHƯ THỊ của vạn pháp
“NHƯ THỊ TRI, NHƯ THỊ KIẾN, NHƯ THỊ TÍN GIẢI” đừng khởi tâm phân biệt ở
pháp.
Vì sao vậy? Tu Bồ Đề! Gọi là “pháp tướng, thật lý, chẳng có “pháp
tướng”, gọi pháp tướng vậy thôi.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Ở đây Phật dạy có ba cách NHƯ THỊ: Như thị tri, như thị kiến, như
thị tín giải ... có nghĩa hãy biết bằng cái biết “vô phân biệt”, thấy bằng
cái thấy “vô phân biệt”, tin hiểu bằng cái tin hiểu “vô phân biệt”.
* Ở kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa đức Phật dạy hãy nhìn vạn
pháp qua THẬP NHƯ THỊ: Như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị
lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo,
như thị bổn mạc cứu cánh. Cắt nghĩa khái quát giản đơn: Nhìn vào một
cành hoa thấy sao biết vậy, không xen phân biệt nhận thức đánh giá
của TA vào. Nhìn muôn vật cũng như vậy, không xen sự phân biệt, sự
đánh giá rồi CHẤP MẮC, rồi vui buồn, rồi đau khổ ...
* Hãy nhìn vạn pháp với tinh thần THẬP NHƯ THỊ bạn sẽ AN LẠC
trong cuộc sống!
Bởi vì, PHÁP TƯỚNG do nhận thức phân biệt CHẤP MẮC của con
người. Nhận thức bằng Bát Nhã Ba La Mật thì “PHI” tất cả, có pháp
tướng nào chẳng là “DUYÊN SANH NHƯ HUYỄN”! Tức không!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 60
CHƯƠNG BA MƯƠI HAI
LẠI VẤN ĐỀ THÍ PHÁP THÍ TÀI PHƯỚC NHIỀU PHƯỚC ÍT
Phật bảo:
Tu Bồ Đề! Thầy nên lóng nghe, khéo tư duy lời Như Lai nói: Nếu có
người giàu của cải vật chất thất bảo, chứa đầy khắp cả vô lượng vô
số thế giới, đem ra làm việc bố thí. Tu Bồ Đề! Ai nghe cũng hiểu rằng
người thí chủ kia phước đức nhiều vô lượng vô biên. Nhưng này, Tu Bồ
Đề! Nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ, phát Bồ đề tâm thọ trì đọc
tụng kinh này, khoảng chừng bài kệ bốn câu, rồi vì người diễn thuyết,
phước đức người này nhiều hơn người bố thí thất bảo nói trên!
Vậy, vì người diễn thuyết những gì? Nên nói với họ điều chi?
Nên nói với họ rằng:
KHÔNG CHẤP THỦ HIỆN TƯỚNG!
HÃY NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG!
Vì sao? Bởi vì:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ và như điện
Nên quán chiếu thường xuyên
Sẽ vượt ra khổ ách.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
* Tiền tài, sự nghiệp lớn lao rộng nhiều, chủ yếu để cung cấp phục
vụ cho con người được an vui sung sướng, người đời gọi là hạnh phúc.
Điều đó có thật, so với người nghèo nàn, đương nhiên phải cực nhọc và
ưu tư ...Nhưng tiền tài sự nghiệp thất bảo dù có lớn lao đi nữa cũng
không đem lại an lạc hạnh phúc chơn thật bền chắc cho cuộc sống
của đời người. Thế cho nên, khách quan mà nhận xét: Tài thí chỉ cho vui
tạm bợ hiện tại, Pháp thí cho vui chơn thật Niết bàn. Pháp thí dạy người
BẤT THỦ Ư TƯỚNG, không chấp mắc một pháp nào trong vạn pháp, con
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 61
người sẽ an lạc, tự tại, tự do NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG, sống trong cảnh giới
CHƠN THƯỜNG, CHƠN LẠC, CHƠN NGÃ, CHƠN TỊNH vô trụ xứ Niết bàn,
* Hữu vi pháp, nào có giá trị gì?...
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 62
CHƯƠNG BA MƯƠI BA
(TÂM KINH)
VẠN PHÁP GIAI KHÔNG
Phật bảo:
Xá Lợi Phất! Thầy hãy lắng lòng nghe, hãy quan tâm tu học điều
Như Lai nói:
Xá Lợi Phất! Bồ tát thực hành tư duy quán chiếu sâu sắc KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH sẽ thấy rõ và biết NGŨ UẨN không tự
tánh, không thật chất, là một “SÁC THỦ THÚ” rỗng không, là một tổ hợp
ảo hóa của KHÔNG VÔ. Thế cho nên, Xá Lợi Phất! Thầy hãy khắc trí
minh tâm rằng:
SẮC chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác SẮC. SẮC là KHÔNG;
KHÔNG là SẮC
THỌ chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác THỌ. THỌ là KHÔNG;
KHÔNG là THỌ
TƯỞNG chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác TƯỞNG. TƯỞNG là
KHÔNG; KHÔNG là TƯỞNG
HÀNH chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác HÀNH. HÀNH là
KHÔNG; KHÔNG là HÀNH
THỨC chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác THỨC. THỨC là
KHÔNG; KHÔNG là THỨC. (Ngũ uẩn giai không)
Đức Phật dạy tiếp: Này Xá Lợi Phất! Thầy nên lưu ý.
KHÔNG mà Như Lai nói ở đây là: Không sanh, không diệt, không dơ,
không sạch, không thêm, không bớt.
Không SẮC, không THỌ, không TƯỞNG, không HÀNH, không THỨC.
Không NHÃN, không NHĨ, không TỶ, không THIỆT, không THÂN, không Ý.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 63
Không SẮC, không THANH, không HƯƠNG, không VỊ, không XÚC,
không PHÁP.
Sáu căn, sáu cảnh và sáu thức đều không.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Thọ trì, đọc tụng, tư duy, quán chiếu cô đọng lại trong cái từ
“HÀNH THÂM”. Bồ tát nào HÀNH THÂM Bát Nhã Ba La Mật Đa sẽ thấy và
nhận thức tánh KHÔNG của NGŨ UẨN. Thấy biết nhận thức NGŨ UẨN
KHÔNG, Bồ tát giải quyết 50% tri kiến VÔ MINH trong cuộc sống. Người
đệ tử Phật ấy, liễu ngộ phân nữa vấn đề trọng đại nhất của đời con
người, mà thế tục gọi là NHÂN SANH QUAN.
Nếu Bồ tát thiền định tư duy quán chiếu “hành thâm” một tầng trí
tuệ sâu hơn, Bồ tát có thể giải quyết gọn 50% tri kiến VÔ MINH còn lại
mà người thế tục gọi là VŨ TRỤ QUAN.
Đệ tử Phật hãy tu học:
NGŨ UẨN GIAI KHÔNG!
Tu học hành thâm, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, tức là ta chịu
buông bỏ, chịu gột rửa, chịu loại trừ mọi nguyên nhân đau khổ rồi đấy!
Bởi vì, thấy biết được ngũ uẩn không thật có, nhận thức rằng ngũ uẩn
chỉ là huyễn có, chúng chỉ là SÁC THỦ THÚ rỗng tuếch, tồn tại với một
chỉnh thể không tự chủ, tự tại, tự do ...
Từ cơ sở “NGŨ UẨN KHÔNG”, người đệ tử Phật thiền định quán
chiếu suy tư:
* Ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn rỗng
không, không thật.
* Lục căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn
rỗng không, không thật.
* Lục cảnh: Sắc cảnh, thanh cảnh, hương cảnh, vị cảnh, xúc cảnh,
pháp cảnh rỗng không, không thật.
* Lục thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý
thức cũng rỗng không, không thật.
Từ cơ sở đó, Bồ tát xuất gia hay Bồ tát tại gia nhận thức và giác
ngộ rằng:
- Ngũ uẩn
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 64
- Lục căn
- Lục cảnh
- Lục thức
- Thập bát giới
Mười tám món riêng lẻ gọp lại đều KHÔNG (Huyễn có).
Cái từ KHÔNG, Phật dạy ở đây nhằm chỉ rõ cái tánh “không thật”
“huyễn có” của hiện tượng vạn hữu.
Động vật thể, thực vật thể, khoáng vật thể và phi vật thể, dù
chúng có sanh, diệt, dơ, sạch, thêm, bớt nhưng nhìn bằng tuệ nhãn
đều không thật. Bởi vì ngũ uẩn đã “không” thì không còn cái gì “có
thật”. Thế cho nên:
“Nói gì cũng không đúng, là đúng”
“Viết gì cũng không đúng, là đúng”
“Nghĩ gì cũng không đúng, là đúng”
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 65
CHƯƠNG BA MƯƠI BỐN
(TÂM KINH)
DUYÊN SANH NHƯ HUYỄN
Phật dạy: Xá Lợi Phất! Thầy hãy chín chắn lưu tâm, trực diện chân
lý mà nhìn:
Không có “VÔ MINH”, cũng không hết “vô minh”
Không có “HÀNH”, cũng không hết “hành”
Không có “THỨC”, cũng không hết “thức”
Không có “DANH SẮC”, cũng không hết “danh sắc”
Không có “LỤC NHẬP”, cũng không hết “lục nhập”
Không có “XÚC”, cũng không hết “xúc”
Không có “THO”, cũng không hết “thọ”
Không có “ÁI”, cũng không hết “ái”
Không có “THỦ”, cũng không hết “thủ”
Không có “HỮU”, cũng không hết “hữu”
Không có “SANH”, cũng không hết “sanh”
Không có “LÃO TỬ”, cũng không hết “lão tử”
Không KHỔ
Không TẬP
Không DIỆT
Không ĐẠO
Không người tu hành
Không người đắc quả
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 66
Do vì không SỞ ĐẮC, tâm Bồ tát không bị chướng ngại.
Do hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm Bồ tát không hề có sợ
hãi, viễn ly sự điên đảo của MỘNG(1) của TƯỞNG(2), thọ dụng Niết Bàn
ngay nơi ăn và chốn ở của mình.
Ba đời chư Phật cũng hành sử Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Xá Lợi Phất! Thầy nên nhớ: Bát Nhã Ba La Mật Đa có thể sánh với
“chú đại thần”, “chú đại minh” của ngoại đạo tin tưởng. Hơn thế nữa,
có thể gọi đây là chú vô thượng, chú vô đẳng đẳng ... dứt lời so sánh.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh hay diệt trừ tất cả khổ đau một
cách chân thật không hề hư vọng!
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là nguồn giáo lý:
TỰ ĐỘ, ĐỘ THA, ĐỘ ĐÁO BỈ NGẠN, ĐỘ NHẤT THIẾT ĐÁO BỈ NGẠN,
VIÊN THÀNH VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
***
TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
“ĐẮC” hay “SỞ ĐẮC” là đối tượng CHẤP nặng nề, nó nhận chìm lôi
kéo con người trì trệ không giải thoát để vượt lên. Bởi lẽ: Nếu người đệ
tử Phật nhận thức NGŨ UẨN không tự tánh chơn thật, NGŨ UẨN GIAI
KHÔNG thì ý niệm ĐẮC hay SỞ ĐẮC không có lý do, không có cơ hội
nảy sanh.
Ý niệm ĐẮC hay SỞ ĐẮC sanh khởi ở lòng ta, tức là ta đã bằng
lòng, đã xác định VẠN PHÁP GIAI HỮU rồi.
Thế, có nghĩa là ta bị VẠN PHÁP HIỆN HỮU trói buộc ta rồi!
Tu Bồ tát hạnh y Bát Nhã Ba La Mật Đa: VÔ SỞ ĐẮC
Ba đời chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa: VÔ SỞ ĐẮC.
Thế Tôn dạy: Tất cả pháp không NGÃ, không NHƠN, không CHÚNG
SANH, không THỌ MẠNG.
(1) MỘNG: Ngủ nhắm mắt, cảnh vật hoàn toàn không, thấy có.
(2) TƯỞNG: Thức mở mắt, cảnh vật hoàn toàn giả, tưởng thật.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 67
CHƯƠNG BA MƯƠI LĂM
LỜI KẾT
Phật nói kinh này rồi, thời pháp Bát Nhã chấm dứt. Trưởng lão Tu Bồ
Đề và Trưởng lão Xá Lợi Phất cùng chư Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di, tất cả thế gian, trời, người, A Tu La đã nghe Phật thuyết giảng
thảy đều đại hoan hỷ tin tưởng, thọ trì, nguyện y giáo phụng hành lời
Phật dạy!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa.
HẾT
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 68
PHẦN II
THỌ TRÌ - ĐỌC TỤNG
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 69
KIM CANG BÁT NHÃ BA-LA-MẬT KINH
MA HA BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
Đời Diêu Tần Tam tạng Pháp sư
CƯU MA LA THẬP Hán dịch
Thế kỷ 21
Pháp sư THÍCH TỪ THÔNG Việt dịch
NHƯ HUYỄN Thiền sư Trực chỉ đề cương
LỜI TỰ THUẬT CỦA THẦY KHẤT SĨ A NAN
Thời điểm này Phật và các đệ tử xuất gia 1.250 thầy Tỳ kheo tạm
trú tại vùng lãnh thổ Xá Vệ đại thành.
Hôm nay đến giờ khất thực, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào
thành Xá Vệ hóa trai, như pháp khất thực, Thế tôn xin thức ăn theo thứ
tự của gia cư, mà không có ý niệm lựa chọn. Khất thực xong trở về trụ
xứ dùng cơm. Độ ngọ xong Thế Tôn chỉnh sửa y phục, rửa chân rồi trải
tọa cụ mà ngồi.
Trưởng lão Tu Bồ Đề thỉnh vấn:
Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu, Như Lai luôn luôn thương xót chúng
sanh và luôn luôn mong muốn dạy bảo nâng đở một cách tốt nhất cho
các hàng Bồ tát. Vậy con xin hỏi Thế Tôn: Người thiện nam, người thiện
nữ họ phát tâm muốn được quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thì
phải hàng phục Tâm như thế nào? Họ phải trụ tâm cách sao?
Phật dạy:
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 70
Này, Tu Bồ Đề! Chúng sanh đại thể có mười loại sanh, như: Thai,
trứng, ẩm ướt, biến hóa, có chất, không chất, có tưởng, không tưởng,
không phải có tưởng, không phải không có tưởng. Bồ tát nên giúp đưa
chúng đi vào Niết bàn trọn vẹn. Giúp và đưa vô lượng vô số vô biên
chúng sanh ấy mà đừng chấp mắc, đừng thấy có chúng sanh nào do
mình giúp. Vì sao vậy?
Tu Bồ Đề! Thầy cần lưu ý: Bồ tát mà còn thấy có tướng NGÃ,
tướng NHƠN, tướng CHÚNG SANH, tướng THỌ GIẢ không phải là Bồ tát
thật!
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Đối với hiện tượng hữu vi vạn pháp “ƯNG VÔ SỞ TRỤ”
nghĩa là buông bỏ hết! Bố thí hết!
Bố thí cách sao?
- Tâm ly sắc, buông bỏ vật chất
- Tâm ly thanh, buông bỏ âm thanh
- Tâm ly hương, buông bỏ hương thơm
- Tâm ly vị, buông bỏ vị ngon
- Tâm ly xúc, buông bỏ khoái cảm
- Tâm ly pháp, buông bỏ niệm lự viễn vong...
* Tu Bồ Đề! Hãy trụ tâm bằng cách vô trụ, hãy giữ tâm buông bỏ
bằng cách buông bỏ. Bồ tát nên an trụ tâm như vậy. Đó là cách BỐ THÍ
BA LA MẬT của Bồ tát. Bố thí Ba la mật phước đức lớn, hư không mười
phương không thể sánh bằng. Tu Bồ Đề! Bồ tát nên trụ tâm như vậy mà
tu hành!
Đức Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! thầy hiểu thế nào? Nhìn thấy tướng mạo qua sắc thân
Phật, có thể gọi đó là thấy được Như Lai Phật chăng?
- Tu Bồ Đề thưa: Theo con hiểu, không thể! Thấy tướng mạo qua
sắc thân Phật không thể gọi là người thấy Như Lai Phật. Vì sao? Vì Như
Lai từng dạy: Sắc thân, tướng mạo là một hợp thể duyên sanh, gọi là
thân, tướng vậy thôi, nó không có tự tánh chơn thật!
Phật dạy tiếp: Hể cái gì có tướng mạo có hình dáng, kích thước
đều “hư vọng”. Rời bỏ tánh thấy hư vọng ấy mới thấy NHƯ LAI PHẬT!
Tu Bồ Đề thưa:
Bạch Thế Tôn! Cú nghĩa Như Lai vừa dạy quá cao sâu. Biết đâu
chúng sanh đời sau họ không đủ sức tiếp thu và tin nhận thì sao?
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 71
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Thầy chớ lo điều đó. Sau Như Lai diệt độ, một trăm, hai
trăm, ba, bốn, năm trăm năm về sau vẫn có người nghe hiểu tiếp thu
tốt, thậm chí rất tốt! Nhưng này, Như Lai nói cho thầy biết: Những
chúng sanh ấy do họ đã trồng gốc rễ cây lành rồi, không phải họ trồng
trong một đức Phật hoặc hai, ba, bốn, năm Phật mà họ đã trồng trong
vô lượng ngàn muôn ức đức Phật rồi. Cho nên, nghe là họ đã tin liền.
Này Tu Bồ Đề! Những chúng sanh có khả năng tin hiểu như vậy,
Như Lai đều biết hết, thấy hết và biết rằng phước đức mà họ được, lớn
nhiều vô lượng vô biên. Vì sao vậy? Vì chúng sanh ấy không bị mắc vào
bốn tướng: Chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh và chấp thọ giả,
cho nên họ mới tin nỗi điều đó. Và người ấy cũng không vướng mắc
vào ý niệm chấp, pháp này là đúng, pháp kia không đúng!
Vì sao vậy? Tu Bồ Đề! Bởi nếu chúng sanh bảo thủ chấp một tướng
thì đương nhiên trở thành chấp đủ bốn tướng NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH,
THỌ GIẢ.
Chấp pháp đó là đúng cũng tức là chấp NGÃ, NHƠN, CHÚNG
SANH, THỌ GIẢ.
Chấp pháp ấy là sai cũng là chấp NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ
GIẢ.
Thế nên, Như Lai dạy: Pháp sai không chấp thủ đã đành mà pháp
đúng cũng không nên bảo thủ.
Này, Tu Bồ Đề và tất cả các thầy Tỳ kheo đệ tử của ta! Giáo pháp
mà Như Lai dạy ví như thuyền bè, người trí nương thuyền bè để qua
sông, qua đến bờ kia rồi thì tự tại thong dong, người trí không khư khư
ôm giữ thuyền bè nữa.
Đức Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Như Lai có đắc quả A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề chăng? Như Lai có thuyết pháp chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Theo chỗ hiểu của con qua quá trình tu học thì
không có cái danh vị cố định tên A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề và
cũng không có pháp nào cố định trong những pháp Như Lai đã thuyết.
Vì sao vậy? Bởi lẽ pháp mà Như Lai thuyết đều không nên bảo thủ hoặc
phân biệt chấp nê rằng: đây là phi pháp (sai), kia là không phi pháp
(đúng). Tại sao? Tại vì chỉ một pháp vô vi Phật thuyết ra cho hàng đệ tử
tu hành, vậy mà kẻ thì chứng quả Thánh, người chỉ đến bậc hiền!
Phật hỏi:
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 72
Tu Bồ Đề! thầy nghĩ thế nào? Giả sử ai đó có thất bảo thật nhiều,
đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, đem hết ra làm việc bố thí. Theo ý
thầy, người đó phước đức có được nhiều không?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Theo chỗ hiểu của con; tại
vì phước đức không tự tánh cố định, cho nên Như Lai nói người ấy
phước đức nhiều.
Phật dạy:
Đúng vậy, Tu Bồ Đề!
Này, Tu Bồ Đề! nếu có người nào thọ trì đọc tụng kinh này mà
không nhớ được nhiều, chỉ nhớ chừng một bài kệ bốn câu nào đó, rồi vì
người khác mà truyền đạt diễn nói, thì phước đức của người này nhiều
hơn người dùng thất bảo bố thí như đã nói trên.
Bởi vì sao? Tu Bồ Đề, bởi vì tất cả chư Phật và pháp A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề Phật, đều từ kinh này có ra.
Này, Tu Bồ Đề! nói là “Phật pháp” sự thật chẳng có Phật pháp gì
cả, mà gọi là “Phật pháp” vậy thôi!
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Theo ý thầy hiểu thế nào? Người Tu Đà Hoàn họ có nghĩ
rằng họ chứng được quả Tu Đà Hoàn không?
- Bạch Thế Tôn! Không. Bởi vì Tu Đà Hoàn gọi là “Nhập lưu” nhưng
sự thật không có gì gọi là nhập lưu cả.
- Tư Đà Hàm gọi là “Nhất vãng lai” sự thật không có vãng lai gì, mà
gọi là “Nhất vãng lai” vậy thôi.
- A Na Hàm gọi là “Bất lai” nhưng sự thật họ chẳng nghĩ rằng họ
được quả Bất lai. Bởi vì họ không hề có bất lai, bất khứ gì. Họ biết đó là
danh ngôn giả đặt, là phương tiện của Như Lai gọi vậy thôi.
- Đến như hàng A La Hán, họ cũng chẳng có ý niệm rằng mình
chứng đạo A La Hán. Bởi vì không có đạo pháp nào cố định là A La Hán
cả. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nếu người A La Hán có ý nghĩ rằng mình
được quả A La Hán, thì ngay ý nghĩ đó, đã bị vướng mắc vào bốn đối
tượng chấp: NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ GIẢ và cũng ngay lúc đó
họ không còn là A La Hán được nữa rồi!
Bạch Thế Tôn! Tự thân con được Phật khen là Tỳ kheo đắc “Vô
tránh tam muội”, là người đứng đầu trong các Tỳ kheo, là người ly dục
bậc nhất trong hàng A La Hán.
Bạch Thế Tôn! Nếu con có khởi ý niệm rằng con chứng đạo quả A
La Hán, chắc hẳn thế Tôn chẳng khen Tu Bồ Đề là Tỳ kheo ưa tịch tĩnh,
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 73
thích sống một mình. tại vì con không có ý nghĩ về con như vậy cho nên
Như Lai mới khen Tu Bồ Đề là người ưa thích tịch tĩnh, thích sống một
mình.
Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán đó là bốn quả vị nói
lên sự thành công của người đệ tử Phật trên quá trình học đạo, hành
đạo và “đắc đạo”. Bốn quả vị đó kinh điển gọi “TỨ QUẢ THANH VĂN”
thành phần này chủ yếu “nghe pháp” mà ngộ đạo đắc quả.
Ngộ đạo, đắc đạo, chứng quả là những danh từ ngôn thuyết
phương tiện tạm mượn để khi thì ám tỷ, khi thì hiển thị, khi thì khai đạo ...
một pháp môn, một đường lối tu tập. Thế cho nên danh ngôn chỉ là giả
lập, chỉ là phương tiện là ngón tay chỉ trăng, ngón tay không bao giờ là
trăng được.
Đệ tử Phật, nếu người tâm cởi mở thì tu tập tiến mau, còn người
tâm chấp chặc thì tu tiến chậm. Chấp thị phi nhơn ngã cần cởi mở xả
bỏ đã đành, mà chấp ta là người tu giỏi, tu kỷ, ta ngộ đạo, ta đắc đạo,
ta đã chứng quả cũng phải xả bỏ. Bởi vì Chấp một tiếng TA là vướng
mắc NGƯỜI, TỤI NÓ, CHÚNG BÂY rồi.
Thế cho nên, người học đạo tu hành cẩn thận giáo lý Bát Nhã Ba
La Mật Đa này.
* Đương cơ và đối tượng thời pháp Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật
Đa này là Bồ tát đại thừa. Dù vậy, học Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa
thì lại không phải vậy. Vì Thế Tôn dạy: “Vô hữu định pháp Như lai khả
thuyết”. “Nhất thiết thánh hiền giai dĩ, vô vi pháp nhi hữu sai biệt”! Người
Thanh văn TỨ QUẢ càng phải khắc kỹ về ý niệm: “Tu”, “hành”, “chứng”,
“đắc” của mình!
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! theo ý thầy, thầy nhận hiểu thế nào? Xưa kia ở vào thời
Phật Nhiên Đăng, ta tu hành đối với quả vị ta có chứng đắc gì chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu; lúc Như Lai ở chỗ Phật
Nhiên Đăng, Như Lai không hề thấy có chứng đắc.
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! thầy hiểu thế nào? Bồ tát có thiết lập và trang nghiêm
cõi Phật cho mình chăng?
Tu Bồ Đề thưa:
Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao vậy? Bởi vì gọi là thiết lập trang
nghiêm, thực ra Bồ tát không có thiết lập trang nghiêm gì cả, mà gọi là
thiết lập trang nghiêm vậy thôi.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 74
Vì vậy cho nên, này Tu Bồ Đề! các Bồ tát cũng như hàng đại Bồ tát
nên khởi tâm thanh tịnh như vậy, không nên sanh tâm dính mắc sắc,
không nên sanh tâm dính mắc thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mà nên kích
khởi sanh tâm “vô sở trụ” đừng cho dính mắc
Phật bảo:
Tu Bồ Đề! Như Lai hỏi thật thầy: Giả sử có người thiện nam hay
thiện nữ dùng thất bảo nhiều như số cát sông Hằng, và đầy khắp cả
tam thiên đại thiên thế giới mà bố thí. Thầy nghĩ sao? Người đó phước
đức có nhiều không?
Tu Bồ Đề thưa: Rất nhiều, bạch Thế Tôn
Phật dạy:
Này, Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào ở trong kinh
này tâm đắc và thọ trì chừng bốn câu kệ... rồi vì người giảng nói,
phước đức của người này nhiều hơn người bố thí thất bảo như đã nói
trên.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! tùy sự ghi nhớ kinh nhiều hay ít, thậm chí
diễn giải bài kệ chừng bốn câu. Nên biết, trụ xứ đó, tất cả thế gian; trời,
người, A Tu La v.v... đều nên cúng dường như cúng dường tháp điện
của Phật. Huống chi người tín thọ, hành trì giáo nghĩa của toàn kinh. Tu
Bồ Đề! thầy nên biết, người ấy đã thành tựu pháp tu, tối thượng hy hữu!
Và kinh KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT này ở nơi nào có, thì nơi ấy có
Phật và hàng đệ tử đạo cao đức lớn của Phật quang lâm.
Bấy giờ thầy Tu Bồ Đề thưa hỏi: Bạch Thế Tôn! Kinh Phật đang dạy
đây, tên gọi là gì? Để chúng con biết mà phụng trì?
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Kinh này tên gọi KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT,
thầy nên phụng trì danh tự ấy. Vì cớ sao? Tu Bồ Đề, thầy nên hiểu: Phật
nói”Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật “ sự thật rõ ra, không có “Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật gì cả, mà huyễn gọi “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật” vậy
thôi.
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Như Lai có thuyết pháp
không?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! theo chỗ hiểu của con, Như Lai không
có thuyết pháp!
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Theo ý thầy, thầy hiểu thế nào? Số vi trần của thế giới
tam thiên đại thiên có nhiều chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 75
Phật dạy: Này, Tu Bồ Đề! Những vi trần ấy Như Lai nói không phải
vi trần, gọi đó là vi trần vậy thôi. Thế giới cũng vậy. Như Lai gọi thế giới
nhưng không có gì thế giới cả mà gọi là thế giới vậy thôi.
Đức Phật bảo:
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Có thể nhìn vào thân 32 tướng của
Phật, gọi là thấy Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Không! Bạch Thế Tôn, không thể nhìn thân 32 tướng
mà cho là thấy Như Lai Phật. Tại sao vậy? Vì Như Lai dạy: 32 tướng
không phải tướng chắc thật, tại vì thầy tướng số họ gọi 32 tướng vậy
thôi.
Phật dạy tiếp:
Này, Tu Bồ Đề! Giả sử có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào đem
thân mạng nhiều như số cát sông Hằng để bố thí, nhưng nếu có người ở
nơi kinh này nghe hiểu thọ trì, rồi vì người giảng nói truyền đạt rộng ra,
khoảng chừng bài kệ bốn câu nào đó, phước đức người này nhiều
không thua người bố thí thân mạng nói trên.
Thầy Tu Bồ Đề nghe Phật dạy đến đây, nhận thức rõ nghĩa thú sâu
xa mầu nhiệm của kinh này, rơi nước mắt, không cầm được khóc, rồi
bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Rất hy hữu! Phật nói KIM CANG BÁT NHÃ
BA LA MẬT kinh, nghĩa lý thậm thâm vô cùng. Từ khi tu học cho đến khi
con được tuệ nhãn, con chưa từng được nghe kinh điển thậm thâm như
vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu người nào nghe kinh này mà lòng tin trong sáng,
thì chắc chắn tỏ ngộ được THẬT TƯỚNG! Và nên biết rằng, người ấy
thành tựu công đức hy hữu bậc nhất.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu “Thật tướng” cũng chỉ
là “VÔ TƯỚNG” không có tự tánh chơn thật, vì vậy Như Lai gọi là THẬT
TƯỚNG!
Bạch Thế Tôn! Hôm nay nghe kinh điển này, con tin hiểu và thọ trì
không lấy làm khó; Bốn, năm trăm năm về sau, nếu có chúng sanh
nghe mà tin hiểu thọ trì, ấy là người hy hữu bậc nhất! Vì sao vậy? Vì
người đó không còn chấp tướng NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH và THỌ GIẢ.
Do đâu biết? Do vì người đó biết Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh
tướng, Thọ giả tướng đều “phi tướng” (huyễn vọng). Nói thế nghĩa là
sao? Nghĩa là hễ ai ly hết thảy Tướng, thì những người đó chính là Phật!
Đức Phật khen: Đúng vậy! Đúng vậy! Này, Tu Bồ Đề! Nếu có người
nghe kinh này mà lòng không ngỡ ngàng, không sợ hãi. Nên biết, đó là
thành phần hy hữu trên đời!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 76
Tu Bồ Đề! Thầy nên nhớ: Như Lai nói Bố thí ba la mật, sự thật không
bố thí ba la mật gì cả, mà gọi bố thí ba la mật.
Này, Tu Bồ Đề! Nhẫn nhục ba la mật, Như Lai nói chẳng nhẫn nhục
ba la mật, mà gọi nhẫn nhục ba la mật. Vì sao nói như thế?
Phật bảo:
Này, Tu Bồ Đề! Nhớ kiếp xưa kia, ta bị vua Ca Lợi cắt xẻo từng
phần thân thể. Lúc bấy giờ, ta không có tướng ngã, tướng nhơn, tướng
chúng sanh, tướng thọ giả. Vì sao biết? Vì lúc đó thân thể ta bị cắt xẻo
từng phần mà thân tâm ta bất động. Nếu ta còn tướng ngã, tướng
nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì lúc đó ta đã khởi tâm sân
hận rồi!
Tu Bồ Đề! Lại nhớ thuở quá khứ, một giai đoạn cả năm trăm năm,
ta là một ông tiên tu hạnh nhẫn nhục. Thời gian dài đó ta không có
tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.
Thế cho nên, Tu Bồ Đề! Bồ tát nên ly tất cả tướng, phát tâm A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Không nên sanh tâm trụ sắc, không sanh
tâm trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm “vô trụ”. Tâm có trụ
tức là đã phạm sai lầm! Thế cho nên Như Lai dạy: Người phát tâm Bồ
tát, tu bố thí không sanh tâm trụ sắc. Tu Bồ Đề! Bồ tát vì lợi ích chúng
sanh nên bố thí như vậy. Bởi Như Lai nói: Tất cả chúng sanh không phải
thật có chúng sanh! Như Lai cũng lại nói: Tất cả các tướng không phải
thật có các tướng. Tu Bồ Đề! Lời nói của Như Lai là chơn ngữ, thật ngữ,
bất dị ngữ, bất cuống ngữ (chơn chánh, thật lý không thay đổi, trước
sau khoảng giữa cũng vậy, không dối gạt phỉnh phờ).
Này, Tu Bồ Đề! Pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Như Lai
được, pháp ấy không thật, không hư. Tu Bồ Đề! Nếu tâm Bồ tát trụ
chấp ở pháp làm việc bố thí, như đi vào hang tối không thấy được gì.
Nếu Bồ tát tâm không trụ chấp ở pháp mà làm việc bố thí, như người
sáng mắt đi dưới ánh mặt trời, vạn vật đều thấy rõ hết.
Tu Bồ Đề! Hiện tại cũng như tương lai, nếu có thiện nam hay thiện
nữ ở nơi kinh này thọ trì đọc tụng, Như Lai dùng trí tuệ Phật biết rõ người
đó, thấy rõ người đó, rằng họ có được công đức vô lượng vô biên.
Tu Bồ Đề! Hãy suy gẫm lời dạy của Như Lai! Giả sử có kẻ thiện nam
hay người thiện nữ, buổi sáng đem thân mình nhiều như số cát sông
Hằng bố thí; ban trưa lại đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng bố
thí; buổi chiều lại cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng bố
thí. Bố thí như thế trải qua trăm kiếp, ngàn muôn ức kiếp. Nhưng nếu có
người nghe kinh này mà tín tâm không chao động, không chống trái,
không sợ hãi, nghi ngờ, phước đức của người này hơn người bố thí thân
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 77
mạng đã nói trên. Còn nói chi người nghe rồi tâm đắc, thọ trì, đọc tụng,
vì người giảng thuyết, phước đức của họ ngôn từ không sao nói hết
được!
Này, Tu Bồ Đề! Bất luận ở đâu, xứ nào có kinh này, tất cả thế gian
trời, người, A Tu La hãy nên cúng dường. Và xem chỗ ấy như tháp điện
Phật, cung kính, đãnh lễ, nhiễu quanh, dùng hương hoa tung rải cúng
dường nơi đó!
Đức Phật bảo: Này nữa, Tu Bồ Đề! Nếu có kẻ thiện nam, người
thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này mà bị người ta xem thường khinh rẻ, là
tại vì túc nghiệp của người ấy nặng quá, đáng đọa đường ác, nhưng
do hiện nay bị người đời xem thường, khinh rẻ mà túc nghiệp được tiêu
hết và sẽ tiến tới chứng quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề.
Tu Bồ Đề! Nhớ chuyện xa xưa cách nay vô luợng vô biên a tăng kỳ
kiếp, trước thời Phật Nhiên Đăng, ta từng gặp cả tám trăm bốn ngàn
vạn ức na do tha (vô số kể) chư Phật, ta đã cúng dường, phụng sự
không hề bê trễ sơ suất. Nhưng nếu đời sau có người nào nghe kinh này
tâm đắc, hoan hỷ thọ trì đọc tụng, công đức của ta trước kia đem so
sánh, không bằng một phần trăm, ngàn, ức, triệu, cho đến không có
con số để so sánh được.
Này, Tu Bồ Đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ở đời sau, ai thọ trì đọc
tụng kinh này, công đức của họ nếu ta nói rõ và đầy đủ e có người
nghe rồi, tâm họ sanh cuồng loạn, hồ nghi không tin nỗi! Tu Bồ Đề! Thầy
nên học và nhớ! Kinh này nghĩa lý vượt ngoài sự nghĩ bàn, cho nên quả
báo không thể nghĩ bàn!
Bấy giờ thầy Tu Bồ Đề lại bạch với đức Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ họ phát tâm A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề phải trụ tâm như thế nào? Phải hàng phục
tâm như thế nào?
Phật dạy! Này, Tu Bồ Đề! Kẻ thiện nam hay người thiện nữ phát
tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nên khởi tâm niệm rằng: Ta sẽ
hóa độ hết thảy chúng sanh. Hóa độ hết thảy chúng sanh rồi, mà
không thấy mình là người hóa độ. Tại sao thế? Tu Bồ Đề! Thầy nên nhớ:
Nếu Bồ tát mà còn chấp tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh,
tướng thọ giả thì không phải Bồ tát.
Này, Tu Bồ Đề! Thật ra, không có pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề để cho ai đó phát tâm.
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Như Lai ở vào thời Phật Nhiên Đăng
xa xưa ấy, có “Pháp” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề để cho Như Lai
đắc chăng?
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 78
Bạch Thế Tôn: Không, Tu Bồ Đề thưa. Theo chỗ con hiểu ý nghĩa
Phật nói; thời điểm Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có “Pháp”
hay “Quả” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề để cho Như Lai đắc.
Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy, Tu Bồ Đề! Quả thật không có
“Pháp” hay “Quả” A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nào Như Lai
chứng đắc cả!
Này, Tu Bồ Đề! Nếu có pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề để
Như Lai chứng đắc, ắt hẳn Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho ta rằng:
Đời tương lai thầy sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Sự thật, do không
có gì chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thế cho nên Nhiên
Đăng Phật thọ ký cho ta rằng: thầy ở hậu thế sẽ thành Phật hiệu Thích
Ca Mâu Ni .
Tu Bồ Đề! Như Lai không hề chứng đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
Phật dạy:
Tu Bồ Đề! Thầy hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ! Như Lai có nghĩa là
“bản thể như như” của vạn pháp. Nếu ai nói Như Lai đắc quả A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề là không đúng. Thật tế, không có pháp hay
quả vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Như Lai chứng đắc. Vì sao vậy?
Vì quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Như Lai được, không thật
cũng không hư. Vì thế cho nên Như Lai nói: Tất cả các pháp đều là Phật
pháp.
Này, Tu Bồ Đề! Nói tất cả pháp, thật lý không có tất cả pháp, gọi
là tất cả pháp vậy thôi! Ví như con người khôn lớn vậy.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như Lai nói con người khôn lớn, thật lý
không có con người khôn lớn, gọi khôn lớn vậy thôi.
Tu Bồ Đề! Bồ tát cũng như vậy. Nếu Bồ tát khởi niệm rằng: “Ta sẽ tế
độ chúng sanh”; khởi tâm như thế, không gọi là Bồ tát. Vì cớ sao?
Tu Bồ Đề! Thật lý, không có chức danh, không có “pháp” gọi là Bồ
tát. Vì vậy, cho nên Phật nói: Tất cả pháp không NGÃ, không NHƠN,
không CHÚNG SANH, không THỌ GIẢ.
Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát khởi niệm: rằng Ta sẽ thiết lập và trang
nghiêm cõi Phật; khởi tâm niệm như thế, không thể gọi là Bồ tát. Tại sao
vậy? Tại vì Như Lai dạy: Người thiết lập trang nghiêm cõi Phật, không
thấy mình trang nghiêm thiết lập, gọi là thiết lập trang nghiêm vậy thôi.
Này, Tu Bồ Đề! Nếu người hiểu kỹ thông suốt “Vô ngã” “Vô pháp”
(không ngã, không pháp) Như Lai gọi đó “Bồ tát Thật nghĩa”!
Phật hỏi:
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 79
Tu Bồ Đề! Theo ý thầy, thầy hiểu thế nào? Như Lai có nhục nhãn
không?
- Có. Bạch Thế Tôn!
- Như Lai có Pháp nhãn không?
- Có. Bạch Thế Tôn!
- Như Lai có Tuệ nhãn không?
- Có. Bạch Thế Tôn?
- Như Lai có Phật nhãn không?
- Có. Bạch Thế Tôn!
Phật bảo: Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ thế nào? Như trong sông Hằng kia
có cát, Phật có nói đó là cát không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, Phật nói đó là cát.
- Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ thế nào? Giả sử trong một sông Hằng có cát,
số sông Hằng nhiều bằng số cát ấy, số cát trong những sông Hằng kia,
thầy nghĩ có nhiều chăng?
- Nhiều không nói được. Bạch Thế Tôn!
- Tu Bồ Đề! Thế giới chư Phật cũng nhiều như vậy. Ấy thế mà bao
nhiêu tâm của chúng sanh trong vô lượng thế giới của chư Phật đó,
Như Lai đều biết hết. Làm sao mà biết hết? Tại vì Như lai nói tâm, thật lý
chẳng có tâm, gọi là tâm vậy thôi! Tại sao lạ vậy?
Này, Tu Bồ Đề! Tại vì Tâm tìm ở quá khứ không có! Tìm Tâm ở hiện
tại không có! Và Tâm tìm ở vị lai lại càng không có!...
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Ý thầy thế nào? Giả dụ có người giàu có, thất bảo của
họ chất chứa đầy cả thế giới tam thiên đại thiên, họ đem ra bố thí.
Theo thầy, việc làm của người đó, phước đức nhiều không?
Bạch Thế Tôn! Việc làm đó, phước đức rất nhiều. Tu Bồ Đề thưa.
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Nếu phước đức có thật Như Lai không nói
phước đức nhiều, vì phước đức không thật nên Như Lai nói phước đức
nhiều.
Phật hỏi:
Tu Bồ Đề! Thầy hiểu thế nào? Hàng đệ tử Phật muốn thấy Phật,
nhìn vào sắc thân cụ túc của Phật, có thể gọi là thấy Phật không?
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 80
Tu Bồ Đề thưa: Không! Bạch Thế Tôn. Không thể nhìn vào sắc thân
cụ túc gọi là thấy Như Lai được. Vì sao? Vì Như Lai nói: Sắc thân cụ túc,
thật lý chẳng cụ túc, Như Lai gọi sắc thân cụ túc vậy thôi!
Còn nữa, Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ sao? Muốn thấy Như Lai, có thể nhìn
vào các tướng cụ túc của thân Phật, gọi là thấy Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Không, Bạch Thế Tôn! Thấy các tướng cụ túc ở thân
Phật, không thể gọi là thấy Như Lai. Vì cớ sao? Vì Như lai nói các tướng
cụ túc, thật lý không các tướng cụ túc, gọi là các tướng cụ túc vậy
thôi!
Phật dạy:
Này, Tu Bồ Đề! Thầy đừng nghĩ, Như Lai có ý niệm, rằng Như Lai có
thuyết pháp. Thầy đừng có ý nghĩ như vậy. Bởi cớ sao? Bởi nếu ai đó
nói Như Lai có thuyết pháp, thì đó chính là người phỉ báng Như Lai. Vì
người đó hoàn toàn không hiểu gì về pháp mà như Lai nói! Tu Bồ Đề! Nói
rằng thuyết pháp, thật lý Như Lai không có pháp gì để thuyết.
Bấy giờ, thầy Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật: Thế Tôn! Liệu chúng
sanh đời vị lai nghe kinh nghĩa quá cao sâu này, họ có tin và tiếp nhận
nỗi không?
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Họ không là chúng sanh, nhưng họ cũng
không phải không chúng sanh! Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Người chúng sanh
mà Như Lai gọi chúng sanh ấy, họ không là chúng sanh, Như Lai gọi
chúng sanh, vậy thôi!
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Phật đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề là không có chứng đắc sao?
Phật bảo: Đúng vậy, Tu bồ Đề!
Này, Tu Bồ Đề! Đối với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam bồ Đề quả, ta
không hề có “đắc” một tí ti nào, gọi là “đắc” A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, vậy thôi!
Còn nữa, Tu Bồ Đề! A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là một danh
ngôn, tên gọi tánh bình đẳng giữa các pháp. Pháp đó bình đẳng và
bình đẳng, trong đó không có xen ý niệm phân biệt cao thấp... gọi là A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Do vì không ngã, không nhơn, không
chúng sanh, không thọ giả, do tu tất cả thiện pháp gọi là “đắc” A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề!
Tu Bồ Đề! Nói “thiện pháp” thật lý, không thiện pháp gì, Như Lai gọi
thiện pháp vậy thôi!
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Giả dụ có người giàu lớn, thất bảo chứa chất
như núi Tu Di, đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, đem dùng làm việc
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 81
bố thí. Nếu lại có người ham mộ kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, thọ
trì, đọc tụng, vì người diễn thuyết chừng bốn câu kệ nào đó, phước
đức của tài thí vô lượng vô số nói trên, không bằng một phần trăm, một
phần ngàn, một phần vạn ức, cho đến không thể dùng toán số mà thí
dụ được!
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Thầy chớ nghĩ rằng Như Lai có ý niệm Như Lai
sẽ độ chúng sanh! Tu Bồ Đề! Thầy đừng nghĩ như vậy! Vì cớ sao? Vì thật
lý không có chúng sanh Như Lai độ. Vì nếu có chúng sanh Như Lai độ,
hóa ra Như Lai thấy có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Tu Bồ Đề! Thầy
nên nhớ: Như Lai nói có ngã, nhưng không có thật ngã, tại vì phàm phu
cho là có ngã mà thôi!
Tu Bồ Đề! Gọi phàm phu, thật lý Như Lai nói không phàm phu, gọi
phàm phu, vậy thôi!
Phật hỏi: Tu Bồ Đề! Ý thầy hiểu thế nào? Khi nhớ tưởng Như lai có
thể quán chiếu qua thân 32 tướng của Phật được chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Được! Nhớ Như Lai có thể quán tưởng
qua thân 32 tướng của Phật.
Phật dạy: Này, Tu Bồ Đề! Nếu quán tưởng Như Lai qua sắc thân 32
tướng, vậy là Chuyển Luân Thánh Vương tức thị Như Lai sao? Bởi vì
Chuyển Luân Thánh Vương thân có 32 tướng.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Con đã hiểu ý Phật rồi! Không nên
quán tưởng qua thân 32 tướng của Phật mà cho rằng: để đỡ nhớ Như
Lai!
Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Vin sắc chất thấy ta
Nương âm thanh tìm ta
Người tu hành sai lạc
Không gặp được Như Lai.
Phật bảo: Tu Bồ Đề! Thầy chớ cho Như Lai có ý nghĩ: Rằng, Như Lai
phải chán ghét “sắc thân cụ túc” để được “đắc” A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề! Tu Bồ Đề! Thầy đừng bao giờ nghĩ như thế: Rằng, Như
Lai phải từ bỏ “tướng thân cụ túc” mới “đắc” A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề!
Tu Bồ Đề! Nếu thầy khởi ý niệm như thế, hóa ra người phát tâm A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, là người nói vạn pháp có chấm dứt, là
người phải trốn tránh, sợ hãi trước sự chuyển hóa đổi thay của hiện
tượng vạn hữu (vạn pháp)? Đừng nên có ý nghĩ như vậy! Vì cớ sao? Vì
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 82
phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm, là người không bao giờ
chấp nhận chủ thuyết: Hiện tượng vạn pháp có “diệt vong thật” để rồi
tự sanh hiện tượng vạn pháp “mới“.
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Thầy hãy lắng lòng nghe, tư duy sâu sắc lời
Như Lai sắp nói: Tu Bồ Đề! Giả sử có Bồ tát sử dụng thất bảo nhiều như
số cát của sông Hằng, chứa đựng đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới,
đem ra làm việc bố thí, ai cũng có thể hiểu phước đức Bồ tát ấy khó
mà nói nhiều đến cỡ nào! Nhưng này, Tu Bồ Đề! Như Lai nói cho thầy
biết: Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào, biết TẤT CẢ PHÁP VÔ NGÃ,
và thâm nhập chuyển hóa thành tiến trình tam nhẫn. Phước đức người
này được nhiều hơn phước đức của Bồ tát bố thí vật chất như đã nói
trên!
Thầy Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Bồ tát không thọ phước đức là
thế nào?
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Bồ tát làm việc phước đức không có tâm
chấp mắc, không tham cầu phước báo, không tự đắc, tự hào công
việc mình làm, gọi là Bồt tát “bất thọ phước đức”.
Phật dạy: Này, Tu Bồ Đề! Nếu có người hiểu NHƯ LAI qua các
tướng biểu hiện: Đi, đứng, nằm, ngồi ... người ấy không hiểu NHƯ LAI
đúng ý nghĩa Như Lai muốn nói. Vậy là thế nào?
Tu Bồ Đề! Như Lai phải được hiểu VÔ SỞ TÙNG LAI, DIỆC VÔ SỞ KHỨ
cố danh NHƯ LAI. Như Lai có nghĩa là bản thể chơn như của vạn pháp.
Không đi đâu, không đến đâu mà đến khắp chỗ rồi.
Phật bảo: Tu Bồ Đề! Giả dụ có thiện nam, thiện nữ nào đó, họ lấy
thế giới tam thiên, nghiền nát thành vi trần. Ý thầy nghĩ thế nào? Những
vi trần kia có nhiều lắm không?
Tu Bồ Đề thưa: Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Vì sao vậy? Vì nếu những
vi trần kia nhiều thật, Như Lai ắt hẳn chẳng nói vi trần nhiều, thật lý vi
trần chẳng có nhiều, gọi vi trần nhiều vậy thôi!
Thế Tôn! Như Lai đã nói tam thiên đại thiên thế giới, thật lý chẳng
có thế giới, gọi thế giới vậy thôi. Vì cớ sao? Vì thế giới hiện có, chỉ là
tướng hợp một (nhồi vi trần thành khối) Như Lai nói tướng hợp một ấy,
thật lý chẳng có hợp, gọi là hợp một vậy thôi.
Tu Bồ Đề! Tướng hợp một nói gì cũng không trúng. Tại vì phàm phu
phân biệt chấp mắc: là vi trần là thế giới. Hai danh ngôn đó do nhìn khi
nhồi lại, lúc nghiền ra, vậy thôi.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 83
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Giả sử có người cho rằng Phật nói có “ngã
kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến” thật! Tu Bồ Đề! Thầy nghĩ
sao? Người đó có hiểu đúng ý và nghĩa qua lời nói của Như Lai không?
Tu Bồ Đề thưa: Không đúng, Bạch Thế Tôn! Người đó hiểu hoàn
toàn không đúng cả ý cả nghĩa trong lời dạy của Như Lai. Vì sao biết?
Bởi Như Lai nói: Ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Thật
lý, không có ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Như Lai
tùy tục mà nói: “Ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến” vậy
thôi !
Phật dạy: Tu Bồ Đề! Thầy nên minh tâm khắc cốt điều vi mật hôm
nay, Như Lai long trọng chỉ bày:
Này, Tu Bồ Đề! Người phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm
đối với tất cả pháp, nên nhận thức qua tinh thần NHƯ THỊ của vạn pháp
“NHƯ THỊ TRI, NHƯ THỊ KIẾN, NHƯ THỊ TÍN GIẢI” đừng khởi tâm phân biệt ở
pháp.
Vì sao vậy? Tu Bồ Đề! Gọi là “pháp tướng, thật lý, chẳng có “pháp
tướng”, gọi pháp tướng vậy thôi.
Phật bảo: Tu Bồ Đề! Thầy nên lóng nghe, khéo tư duy lời Như Lai nói:
Nếu có người giàu của cải vật chất thất bảo, chứa đầy khắp cả vô
lượng vô số thế giới, đem ra làm việc bố thí. Tu Bồ Đề! Ai nghe cũng hiểu
rằng người thí chủ kia phước đức nhiều vô lượng vô biên. Nhưng này, Tu
Bồ Đề! Nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ, phát Bồ đề tâm thọ trì đọc
tụng kinh này, khoảng chừng bài kệ bốn câu, rồi vì người diễn thuyết,
phước đức người này nhiều hơn người bố thí thất bảo nói trên!
Vậy, vì người diễn thuyết những gì? Nên nói với họ điều chi?
Nên nói với họ rằng:
KHÔNG CHẤP THỦ HIỆN TƯỚNG!
HÃY NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG!
Vì sao? Bởi vì:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ và như điện
Nên quán chiếu thường xuyên
Sẽ vượt ra khổ ách.
Phật bảo: Xá Lợi Phất! Thầy hãy lắng lòng nghe, hãy quan tâm tu
học điều Như Lai nói:
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 84
Xá Lợi Phất! Bồ tát thực hành tư duy quán chiếu sâu sắc KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH sẽ thấy rõ và biết NGŨ UẨN không tự
tánh, không thật chất, là một “SÁC THỦ THÚ” rỗng không, là một tổ hợp
ảo hóa của KHÔNG VÔ. Thế cho nên, Xá Lợi Phất! Thầy hãy khắc trí
minh tâm rằng:
SẮC chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác SẮC. SẮC là KHÔNG;
KHÔNG là SẮC
THỌ chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác THỌ. THỌ là KHÔNG;
KHÔNG là THỌ
TƯỞNG chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác TƯỞNG. TƯỞNG là
KHÔNG; KHÔNG là TƯỞNG
HÀNH chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác HÀNH. HÀNH là
KHÔNG; KHÔNG là HÀNH
THỨC chẳng khác KHÔNG; KHÔNG chẳng khác THỨC. THỨC là
KHÔNG; KHÔNG là THỨC. (Ngũ uẩn giai không)
Đức Phật dạy tiếp: Này Xá Lợi Phất! Thầy nên lưu ý.
KHÔNG mà Như Lai nói ở đây là: Không sanh, không diệt, không dơ,
không sạch, không thêm, không bớt.
Không SẮC, không THỌ, không TƯỞNG, không HÀNH, không THỨC.
Không NHÃN, không NHĨ, không TỶ, không THIỆT, không THÂN, không Ý.
Không SẮC, không THANH, không HƯƠNG, không VỊ, không XÚC,
không PHÁP.
Sáu căn, sáu cảnh và sáu thức đều không.
Phật dạy: Xá Lợi Phất! Thầy hãy chín chắn lưu tâm, trực diện chân
lý mà nhìn:
Không có “VÔ MINH”, cũng không hết “vô minh”
Không có “HÀNH”, cũng không hết “hành”
Không có “THỨC”, cũng không hết “thức”
Không có “DANH SẮC”, cũng không hết “danh sắc”
Không có “LỤC NHẬP”, cũng không hết “lục nhập”
Không có “XÚC”, cũng không hết “xúc”
Không có “THO”, cũng không hết “thọ”
Không có “ÁI”, cũng không hết “ái”
Không có “THỦ”, cũng không hết “thủ”
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 85
Không có “HỮU”, cũng không hết “hữu”
Không có “SANH”, cũng không hết “sanh”
Không có “LÃO TỬ”, cũng không hết “lão tử”
Không KHỔ
Không TẬP
Không DIỆT
Không ĐẠO
Không người tu hành
Không người đắc quả
Do vì không SỞ ĐẮC, tâm Bồ tát không bị chướng ngại.
Do hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm Bồ tát không hề có sợ
hãi, viễn ly sự điên đảo của MỘNG của TƯỞNG, thọ dụng Niết Bàn ngay
nơi ăn và chốn ở của mình.
Ba đời chư Phật cũng hành sử Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Xá Lợi Phất! Thầy nên nhớ: Bát Nhã Ba La Mật Đa có thể sánh với
“chú đại thần”, “chú đại minh” của ngoại đạo tin tưởng. Hơn thế nữa,
có thể gọi đây là chú vô thượng, chú vô đẳng đẳng ... dứt lời so sánh.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh hay diệt trừ tất cả khổ đau một
cách chân thật không hề hư vọng!
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là nguồn giáo lý:
TỰ ĐỘ, ĐỘ THA, ĐỘ ĐÁO BỈ NGẠN, ĐỘ NHẤT THIẾT ĐÁO BỈ NGẠN,
VIÊN THÀNH VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
Phật nói kinh này rồi, thời pháp Bát Nhã chấm dứt. Trưởng lão Tu Bồ
Đề và Trưởng lão Xá Lợi Phất cùng chư Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di, tất cả thế gian, trời, người, A Tu La đã nghe Phật thuyết giảng
thảy đều đại hoan hỷ tin tưởng, thọ trì, nguyện y giáo phụng hành lời
Phật dạy!
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 86
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 87
BẠT VĂN
* Đức Phật Thích Ca và chư Phật mười phương được ghi chép ở
các kinh, Phật thường tự ví mình với danh xưng: PHÁP VƯƠNG hoặc VÔ
THƯỢNG Y VƯƠNG.
- PHÁP VƯƠNG có nghĩa là “vua các pháp” là người tự tại tự chủ
trước vạn loại hữu tình chúng sanh và vô tình chúng sanh.
Chữ PHÁP bao hàm cả “hữu tình và vô tình”ấy.
Chữ VƯƠNG là một ẩn dụ, mượn công năng ý nghĩa tự tại tự chủ
của vua thời phong kiến chuyên chế.
- VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG cũng là một danh xưng ẩn dụ, trong danh
xưng này có ba dụng ý :
1) Phật muốn chúng sanh nhớ và hiểu cho Phật rằng: Phật là một
con người, một con người thôi, đừng bao giờ thần thánh hóa
đức Phật, để rồi lễ bái van xin cầu nguyện, để rồi trông chờ
mong đợi sự che chở sự ủng hộ, để rồi trông ngóng lòng lân
mẫn từ bi cứu giúp ban cho của Phật. Đừng đau buồn, thất
vọng; Phật xin được phép nói thẳng nói thật rằng: Phật không
làm được việc đó. Bởi vì, Phật không là một đấng thiêng liêng,
một đấng thần linh có quyền ban cho hay giúp đở.
2) Phật lưu ý chúng sanh rằng: Phật chỉ có thể xem mình và ví mình
như là một thầy thuốc, một thầy thuốc giỏi thật giỏi, giỏi không
ai có thể hơn. Điều này Phật nói ra với tất cả sự dè dặt và đảm
bảo lời nói danh dự của vị Y VƯƠNG VÔ THƯỢNG, của một Như
Lai Thế Tôn.
3) VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG, thầy thuốc giỏi, chẩn mạch đúng cách,
cho thuốc đúng người, trị lành đúng bệnh. Điều đó, thầy thuốc
giỏi đấng VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG làm được, nhưng lành bệnh
hay không còn tùy ở nơi người bệnh :
- Chịu uống thuốc hay không chịu uống
- Uống đúng chỉ định hay uống lấy lệ lấy lòng.
Uống qua loa “trả lễ” mà đòi lành bệnh là điều không hợp chân lý.
* Chánh pháp của Phật nói ra ghi thành kinh điển, được ví như đơn
thuốc (toa thuốc) của lương y. Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh là một
bộ kinh cực thâm cực diệu. Ai hành thâm viên mãn “tức thân thành
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa 88
Phật”, con người đó là hiện thân của Bồ đề, Niết bàn như Phật Thích Ca
xưa kia.
Kim cang Bát Nhã Ba La Mật kinh là một đơn thuốc trị tận gốc rễ vô
minh, hóa giải hết mọi tình chấp nguyên nhân của đau thương sầu khổ
ở cõi trần ai.
Thọ dụng phương thang Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, xin đọc kỹ
hướng dẫn và lưu ý những điều dưới đây :
I ) CHỈ ĐỊNH
1. Chủng tánh Đại thừa
2. Có tâm ưa thích THIỀN NA, QUÁN CHIẾU
3. Từng nhận thức ít nhiều thế cuộc BỂ DÂU
4. Từng nhận thức ít nhiều bốn chân lý : VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ
NGÃ, BẤT TỊNH.
5. Có khả năng tư duy nhận thức VẠN PHÁP GIAI KHÔNG,
DUYÊN SANH NHƯ HUYỄN.
6. Không đồng thuận với Mê tín dị đoan, huyễn hoặc hoang
đường.
II) CHỐNG CHỈ ĐỊNH
1. Chủng tánh ngoại đạo phàm phu
2. Đam mê cúng lạy, cầu khẩn, van xin, tin tưởng huyễn
hoặc hoang đường, siêu hình vô căn cứ.
3. Không thích lý trí, si mê tình cảm, thích tâng bốc, chuộng
hư danh.
4. Đam mê vật chất trở thành vô liêm sỉ
5. Quá đam mê bản ngã và ngã sở hữu
6. Quá đam mê phú quí công danh
Rất mong mọi bệnh nhân may mắn gặp thầy giỏi thuốc hay, bệnh
chướng sớm tiêu trừ, đủ sức vượt qua :
Biển khổ mênh mông tình dậy sóng
Sông mê sâu thẩm ái lao xao.
N.H.T.S
--- HẾT ---