Phước Thiện Bố Thí

“Bố thí cúng dường là nhân, giàu sang phú quí là quả”

***

 

Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phật dạy Bồ tát Địa Tạng Vương: “Trong cõi Nam Diêm Phù Đề có các vị quốc vương, hàng tể phụ quan chức lớn, hàng đại trưởng giả v.v... nếu gặp kẻ nghèo túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm, ngọng, điếc, mù v.v… mà có thể đủ tâm từ bi, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi, thì các vị đó sẽ được phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho trăm hằng hà sa chư Phật. Vì sao? Vì các vị đó phát tâm đại từ bi đối với kẻ nghèo cùng và tàn tật. Phước lành được hưởng quả báo như thế này: Trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ để thọ dụng như y phục, đồ uống ăn v.v...”.

Như vậy, cúng dường cho chúng sinh tàn tật nghèo khổ v.v… với tấm lòng kính trọng thương yêu, công đức cũng bằng cúng dường không phải chỉ cho một vị Phật mà cho hằng hà sa chư Phật. Vì thế, có những người không theo đạo Phật, không cúng chùa, chỉ lo bố thí cho người nghèo với tâm thương yêu thật sự cũng được phước lộc lớn.

 

***

 

Những tiền kiếp Ðức Bồ Tát đã từng tạo nhiều phước thiện bố thí, do thiện nghiệp ấy cho quả thường tái sanh trong dòng vua chúa, hoặc gia đình phú hộ có nhiều của cải. Khi cha mẹ qua đời, Ðức Bồ Tát được thừa hưởng toàn bộ gia tài của cha mẹ để lại.

Ngài xuy xét rằng: "Toàn bộ của cải này, ông bà cha mẹ để lại, không có một ai mang theo được một thứ nào cả, đến phiên ta, chắc chắn ta cũng chẳng mang theo được. Ðiều tốt hơn hết, ta nên sử dụng của cải này đem làm phước bố thí, như vậy, không những về phần ta có được phước thiện, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc ở kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai lâu dài, mà ta còn có thể hồi hướng phước thiện ấy đến cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ta nói riêng và tất cả chúng sinh nói chung. Nếu họ hay biết hoan hỉ phần phước bố thí thanh cao này, chắc chắn họ sẽ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh cảnh thiện giới (sugati), hưởng được sự an lạc lâu dài; nếu họ đang hưởng an lạc ở cảnh thiện giới nào rồi, họ hoan hỉ phần phước thiện này, thì sự an lạc càng thêm tăng trưởng đối với họ.

Suy xét rằng: mọi thứ của cải này liên quan đến 5 tai nạn:

Tai nạn do lửa cháy thiêu hủy.
Tai nạn do nước ngập lụt cuốn trôi.
Tai nạn do trộm cướp chiếm đoạt, sát hại chủ nhân.
Tai nạn do Ðức Vua tịch thu.
Tai nạn do người không ưa thích chiếm đoạt....

Như vậy, mọi thứ của cải trong đời, không chắc chắn thuộc về của riêng ai cả, chỉ làcủa chung cho tất cả mọi người; hễ ai có phước thì được hưởng. Nay ta là người đang thừa hưởng, là chủ nhân của cải này, nếu ta sử dụng của cải này đem làm phước thiện bố thí, giúp đỡ những người khác, để tạo được phước thiện thuộc của riêng mình trở thành một thứ của báu được bền vững lâu dài, chắc chắn không có tai nạn nào làm hư hại, không có một ai chiếm đoạt được.

Suy xét rằng: sự thật, tất cả mọi thứ của cải này, không có tính chất bền vững lâu dài, cuối cùng chắc chắn phải bị hư hoại, tan nát không còn nữa. Nhưng nếu ta sử dụng của cải này đem làm phước bố thí, thì sẽ trở thành thiện nghiệp của riêng ta, có tính chất bền vững lâu dài, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an laïc trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai nữa. Nếu được làm phước bố thí đến những bậc có giới đức trong sạch, sẽ cho quả báu vô lượng kiếp, lại còn tạo duyên lành trên con đường giải thoát khỏi tử sanh luân hồi, trong ba giới bốn loài nữa".

Ðức Bồ Tát thí dụ rằng:

Ngôi nhà bị cháy, người chủ nhà đem được đồ vật nào ra khỏi nhà, đồ vật ấy có ích lợi cho họ, những đồ vật còn lại trong nhà bị thiêu hủy hết, chẳng có ích lợi gì cho chủ nhà cả. Cũng như vậy, sắc thân này ví như ngôi nhà, luôn luôn bị cháy, bị thiêu hủy bởi 11 thứ lửa:lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, lửa già, lửa chết, lửa sầu não, lửa than khóc, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống khổ.... Biết sử dụng của cải đem ra làm phước thiện, thì trở thành thiện nghiệp là nơi nương nhờ an lành cho chủ nhân trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

Do sự suy xét đúng đắn như vậy, cho nên Ðức Bồ Tát sẵn sàng sử dụng của cải của mình đem làm phước thiện bố thí một cách dễ dàng, không có tâm keo kiệt bỏn xẻn nào có thể ngăn cản việc bố thí.

 

.

 

PHƯỚC BỐ THÍ CHO QUẢ KIẾP HIỆN TẠI

Tích người nghèo khó

Tích người nghèo khó Mahāduggata (Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Paṇṇitasāmaera-vatthu) tóm lược như sau:

Vào thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, Ðức Phật cùng với 20 ngàn bậc Thánh A-ra-hán ngự đến thành Bārāasī. Một hôm, sau khi độ vật thực xong, Ðức Phật thuyết pháp dạy rằng:

Này chư cận sự nam – nữ, trong đời này:

- Có số người tự mình làm phước bố thí, mà không động viên khuyến khích người khác cùng làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có được nhiều của cải đầy đủ, nhưng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.

- Có số người động viên khuyến khích người khác làm phước bố thí, còn mình thì không chịu đem của cải làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết, nhưng không có nhiều của cải.

- Có số người tự mình không làm phước bố thí, cũng không động viên khuyến khích người khác làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng không có của cải, nghèo khổ và cũng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.

- Có số người tự mình làm phước bố thí, lại còn động viên khuyến khích người khác cũng làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có được của cải đầy đủ, giàu sang phú quý và còn có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết, sống an lạc hạnh phúc....

Một người cận sự nam có trí tuệ ngồi nghe pháp, suy tư rằng: "ta muốn có được nhiều của cải và được nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết".

Người ấy đảnh lễ Ðức Phật bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng tất cả 20.000 chư Ðại Ðức Tăng, để làm phước bố thí vật thực.

Ðức Phật làm thinh nhận lời, ông trở về đi thông báo cho toàn thể dân chúng trong thành biết rằng ngày mai ông sẽ làm phước bố thí đến Ðức Phật cùng tất cả 20.000 chư Ðại Ðức Tăng, ai có khả năng làm phước bố thí đến bao nhiêu vị, xin ghi danh. Có gia đình đăng ký 10 vị, 20 vị, 100 vị... v.v....

Khi gặp cậu Mahāduggata là người nghèo khó nhất trong thành, ông động viên khuyến khích rằng:

Này cậu Mahāduggata, ngày mai, tôi có thỉnh Ðức Phật cùng 20.000 Ðại Ðức Tăng để làm phước bố thí, cậu có khả năng làm phước bố thí được bao nhiêu vị?

Thưa ông, gia đình con nghèo khó, vợ chồng con đi làm thuê, làm được ngày nào ăn ngày ấy còn không đủ nữa, thì lấy gì mà làm phước bố thí thưa ông?

- Này cậu Mahāduggata, trong thành này, những người giàu sang phú quý, có nhiều của cải, có quyền cao chức trọng... là do nhờ quả của phước thiện bố thí. Còn gia đình cậu, ngày qua ngày làm thuê mà không đủ ăn, đó là do không làm phước bố thí, cậu có hiểu biết rõ như vậy không?

- Thưa ông, con hiểu rồi, xin ông cho gia đình con một vị Ðại Ðức Tăng, để cho gia đình con làm phước bố thí ngày mai.

Ông cận sự nam hoan hỉ chấp thuận cho gia đình cậu Mahāduggata thỉnh một vị Ðại Ðức Tăng, để làm phước bố thí vào ngày mai, nhưng ông quên ghi vào danh sách, tiếp tục đi động viên khuyến khích người khác nhận đủ 20.000 vị Ðại Ðức Tăng.

Sau khi được ông cận sự nam cho lãnh một vị Ðại Ðức để làm phước bố thí vào ngày mai, cậu Mahāduggata vô cùng hoan hỉ, trở về báo tin cho người vợ hay biết, người vợ cũng vô cùng hoan hỉ, bàn tính nhau làm thuê kiếm gạo, đồ ăn về để ngày mai làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức.

Mahāduggata đi tìm việc làm, ông phú hộ nhìn thấy cậu gọi lại thuê chẻ đống củi, để ngày mai nấu đồ ăn dâng cúng đến chư Ðại Ðức Tăng, cậu vô cùng hoan hỉ, lấy búa chẻ một lát là xong ngay, ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:

- Này Mahāduggata, sao hôm nay cậu làm việc siêng năng và nhanh nhẹn đến thế?

- Thưa ông, ngày mai gia đình con có làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức, nên con cảm thấy hoan hỉ, sung sướng làm việc không biết mệt.

Ông phú hộ ca tụng cậu, làm một việc khó làm. Ông trả công cho 4 ô gạo sāli (loại gạo ngon).

Về phần vợ của cậu đi giúp việc nhà bếp cho bà phú hộ, cô rất hân hoan làm công việc nhà bếp sạch sẽ gọn gàng, nhanh nhẹn, làm cho bà phú hộ hài lòng lại vừa ngạc nhiên hỏi.

- Này con, sao hôm nay con có vẻ vui sướng, làm việc giỏi quá vậy?

- Thưa bà, ngày mai gia đình con có làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức, nên con cảm thấy sung sướng làm việc để được những món gia vị làm đồ ăn ngày mai.

Nghe nói vậy, bà phú hộ ca tụng làm một việc khó làm! Bà trả công bằng bơ, dầu, đồ dùng....

Vợ chồng Mahāduggata vô cùng hoan hỉ được gạo ngon, dầu bơ, đồ dùng để làm phước bố thí vào hôm sau.

Sáng sớm hôm sau, người vợ thưa với chồng, sáng nay anh đi kiếm một ít rau về nấu một bát canh, Mahāduggata đi ra khỏi nhà, vừa đi vừa ca hát, đi ngang bến ghe chài; đêm hôm trước, người dân chài bắt được nhiều cá vừa cập bến, nghe tiếng ca hát của Mahāduggata bèn gọi:

- Này Mahāduggata cậu đi đâu đó? Sao hôm nay vui sướng quá vậy? Hãy xuống đây giúp tôi đem cá bán, rồi tôi sẽ cho ít con cá.

- Này bạn, hôm nay gia đình tôi có làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức, tôi vui sướng đi tìm rau về nấu canh, may quá, có được cá lại càng tốt.

Mahāduggata hăng hái đem cá bán, hôm ấy dân chúng trong thành mua cá làm đồ ăn để làm phước bố thí cúng dường đến chư Ðại Ðức Tăng, nên phần cá bán không còn con nào cả. Cậu nóng lòng muốn về nhà cho kịp làm phước bố thí, bèn hỏi người chủ thuyền:

- Này bạn, phần cá của tôi đâu?

- Bạn đừng lo, tôi còn một phần cá đặc biệt cất dưới ghe, để tôi lấy cho bạn.

Người chủ đem cho Mahāduggata 4 con cá hồi (Rohitamaccha). Cậu vội vàng đem về nhà.

Canh chót đêm ấy, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh nào có duyên lành nên tế độ; Ðức Phật nhìn thấy Mahāduggata là người có đức tin trong sạch, nhận lãnh một vị Ðại Ðức để làm phước bố thí, nhưng người cận sự nam quên ghi vào danh sách, đến khi Mahāduggata gặp người cận sự nam xin nhận lãnh vị Ðại Ðức thỉnh về nhà, thì không còn một vị Ðại Ðức nào cả. Vậy chính Như Lai sẽ tế độ Mahāduggata mà thôi.

Vua trời Sakka cảm thấy chỗ ngồi phát nóng, quán xét thấy rõ hôm nay Mahāduggata sẽ làm phước bố thí cúng dường Ðức Phật, nên hiện xuống giúp đỡ y để tạo phước thiện. Vua trời Sakka biến hóa thành một người đầu bếp tài giỏi đến xin giúp việc cho Mahāduggata không lấy tiền công, chỉ bỏ công làm phước thiện mà thôi. Mahāduggata đồng ý chấp thuận, xin mời vào nhà lo giúp việc nấu ăn, vua trời Sakka nấu cơm, các món ăn đều bỏ đồ gia vị cõi trời, hương trời, đức vua Sakka bảo rằng:

- Này bạn, công việc nấu nướng để tôi lo, bạn đi thỉnh vị Ðại Ðức về nhà cho kịp giờ.

Mahāduggata đi đến tìm người cận sự nam xin thỉnh một vị Ðại Ðức, mà ông đã động viên khuyến khích. Khi đến gặp ông, hởi ôi! Ông đã quên, nên không còn một vị Ðại Ðức nào cả, y thất vọng buồn tủi ôm mặt khóc; mọi người nhìn thấy y đáng thương và trách người cận sự nam ấy, người cận sự nam ấy an ủi y và hướng dẫn y rằng: còn Ðức Phật ở trong cốc chưa mở cửa. Ðức vua, các quan, phú hộ đang trông chờ Ðức Phật mở cửa để thỉnh bát của Ngài. Chư Phật thường tế độ những người nghèo khó, vậy nhà ngươi hãy vào xin Ðức Phật tế độ.

Nghe nói vậy, đôi mắt của Mahāduggata sáng lên, niềm hy vọng phát sanh, y dũng cảm đến trước cửa cốc, đảnh lễ, đầu va chạm vào cửa, bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, trong thành này người nghèo khó hơn con không có, kính xin Ngài có lòng đại bi tế độ con, bạch Ngài.

Ðức Phật mở cửa trao bình bát trên tay y. Y được bình bát của Ðức Phật mừng hơn được ngai vàng của Ðức Chuyển luân thánh vương. Ðức vua, các quan, phú hộ xin lại bình bát trên tay y hứa sẽ ban cho y nhiều tiền của, nhưng y không màng đến.

Y kính thỉnh Ðức Phật về đến nhà, Ðức vua trời Sakka hóa thành người đầu bếp đã làm xong vật thực ngon lành, trải chỗ ngồi cao quý, thỉnh Ðức Phật vào nhà.

Khi Ðức Phật bước vào, thì căn nhà cao hẳn lên, nên Ngài không phải cúi khom người xuống, Ngài ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn. Còn Ðức vua trời là người đầu bếp đã làm xong những món vật thực, liền bảo Mahāduggata đem những món vật thực dâng cúng đến Ðức Phật. Mùi thơm của các món vật thực toả khắp cả kinh thành Bārāasī. Trong khi đó, Ðức vua cùng các quan, phú hộ đi theo sau Ðức Phật đến nhà của Mahāduggata để biết xem y làm phước bố thí cúng dường Ðức Phật bằng những món vật thực gì, khi đến nơi ngửi được mùi thơm của những món vật thực, mà trong đời chưa từng ngửi bao giờ. Ðức vua trời Sakka đảnh lễ Ðức Phật.

Ðộ vật thực xong, Ðức Phật thuyết pháp tế độ gia đình Mahāduggata, rồi Ngài ngự trở về chùa, Mahāduggata ôm bát theo sau tiễn đưa Ðức Phật.

Ðức vua trời Sakka hoan hỉ phước thiện bố thí xong, cũng trở về cung Tam thập tam thiên.

Khi Mahāduggata trở về đứng trước cửa, nhìn thấy từ hư không mưa rơi 7 thứ báu vật xuống đầy nhà, người vợ dắt tay đứa con ra khỏi nhà, trong nhà đầy cả 7 thứ báu vật không còn chỗ nào trống.

Y nghĩ rằng: "đó là quả báu của phước thiện bố thí của chúng ta ngày hôm nay".Mahāduggata liền đến hầu Ðức vua tâu rằng:

- Tâu Ðức vua, nhà của tiện dân đầy cả thất báu, xin bệ hạ đem 1.000 chiếc xe đến nhà tiện dân chở tất cả thất báu ấy về cung điện.

Ðức vua truyền quân lính trong triều đình đem 1.000 chiếc xe chở tất cả 7 thứ báu vật đem về chất thành đống trước sân rồng. Ðức vua truyền hỏi:

- Trong thành này, người nào có của cải nhiều như thế này không?

Tất cả - Tâu Hoàng thượng, không một người nào có nhiều của báu như thế cả. đều tâu.

Do đó, Ðức vua tấn phong Mahāduggata địa vị đại phú hộ, rồi truyền rằng: tất cả của cải này là quả báu phước thiện bố thí của nhà ngươi, vậy nhà ngươi hãy nhận lấy.

Ðức vua cấp đất đai, xây cất những căn nhà lớn, cấp nhiều gia nhân. Khi xây cất nhà xong, phú hộ Mahāduggata thỉnh Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng làm phước đại bố thí suốt 7 ngày và từ đó về sau y thường bố thí, giữ giới, tạo mọi thiện pháp cho đến hết tuổi thọ, do năng lực mọi phước thiện ấy cho quả tái sanh lên cõi trời dục giới hưởng mọi sự an lạc.

Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của Mahāduggata, do năng lực phước thiện ấy cho quả tái sanh vào lòng con gái của gia đình phú hộ, là người hộ độ Ngài Ðại Ðức Sāriputta, khi sanh ra đời đặt tên là "Paṇṇita".

Lớn lên 7 tuổi, cậu bé Paṇṇita xin mẹ cha cho phép xuất gia trở thành Sa di Paṇṇita với Ngài Ðại Ðức Sāriputta là thầy tế độ.

Cha mẹ của Ngài đến chùa làm phước thiện bố thí vật thực đặc biệt có món cá hồi(Rohitamaccha) đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, suốt 7 ngày. Qua đến ngày thứ 8, Sa di Paṇṇita tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hoàn thành xong phận sự của Sa môn.

Ngài Ðại Ðức Sāriputta đi khất thực độ xong, còn đem một phần vật thực, trong đó có món cá hồi về cho Sa di Paṇṇita, theo nguyện vọng của Sa di, người đệ tử có sắc thân bé nhỏ, song tâm là bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Làm phước bố thí đến Ðức Phật với đức tin trong sạch, hoan hỉ trong phước thiện, quả báu của phước thiện bố thí ấy không chỉ ngay trong kiếp hiện tại giàu sang phú quý, những kiếp vị lai đầy đủ của cải thế gian, mà còn kiếp chót cũng có đầy đủ 9 pháp siêu tam giới đó là: 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn nữa.

 

.

Tích Gia Ðình Ông Puṇṇa

Trong thời kỳ Ðức Phật Gotama của chúng ta, có gia đình ông Puṇṇa [Chú giải Dhammapada, trong tích Uttarāupāsikā] nghèo khó, làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, toàn thể mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.

Một hôm, buổi sáng ông đi cày ruộng; cũng vào buổi sáng ấy, Ngài Ðại Ðức Sāriputta xả diệt thọ tưởng định (suốt 7 ngày đêm qua), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng. Ông Puṇṇa nhìn thấy Ngài Ðại Ðức Sāriputta liền bỏ cày đến hầu đảnh lễ Ngài, dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống. Ngài Ðại Ðức Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Ðại Ðức Sāriputta xong, bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực, phận nghèo khó của gia đình chúng con.

Ngài Ðại Ðức Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực, bà vô cùng hoan hỉ phát nguyện:

- Do nhờ phước thiện bố thí này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con được một phần pháp mà Ngài đã chứng đắc.

Ngài Ðại Ðức Sāriputta phúc chúc rằng:

- Mong cho gia đình các con được toại nguyện.

Bà vô cùng hoan hỉ đi trở về nhà nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, vội vàng mang cơm ra đồng ruộng với tâm hoan hỉ phước thiện bố thí đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta làm cho thân tâm của bà nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao dấu được.

Còn phần ông Puṇṇa trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng mát cây chờ đợi vợ, dầu đói bụng nhưng tâm vẫn hoan hỉ, niệm tưởng lại việc làm phước thiện bố thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta. Ông nhìn thấy từ xa, vợ mình đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc chắn bà đang hoan hỉ một điều gì đó. Bà vừa đến nơi liền thưa với chồng rằng:

- Hôm nay, xin anh hoan hỉ thật nhiều! Sáng nay, em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Ðại Ðức Sāriputta đang đi khất thực, em phát sanh đức tin trong sạch, đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta, Ngài không chê vật thực nghèo khó của chúng mình. Ngài Ðại Ðức có tâm từ bi tế độ thọ nhận tất cả vật thực phần của anh; xin anh nên hoan hỉ phần phước thiện bố thí này!

Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sanh thiện tâm hỉ lạc đến cực độ; nên không thể theo dõi liên tục tron vẹn lời nói của vợ ông. Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:

- Này em, em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!

Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự thật như vậy rồi, ông vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí của vợ, đã đem phần cơm của mình cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta, đồng thời ông cũng nói cho vợ biết, cũng chính sáng hôm ấy, ông đã làm phước thiện bố thí cúng dường cây tăm xỉa răng và nước đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta; nghe xong, bà cũng vô cùng hoan hỉ việc phước thiện bố thí của chồng.

Hai vợ chồng cùng nhau hoan hỉ việc phước thí cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta, ông dùng cơm xong nằm niệm tưởng việc phước thiện bố thí hôm nay, mới thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất cày ruộng hồi sáng đã hóa thành những thỏi vàng y (vàng ròng) làm cho ông hoa cả mắt; và vợ của ông cũng như ông vậy. Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng, đem khoe và nói với vợ rằng:

- Này em, vợ chồng chúng ta đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta, do phước thiện bố thí ấy, liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta ngày hôm nay, chúng ta không thể nào dấu một số vàng lớn như thế này được!

Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Ðức vua và tâu rằng:

- Tâu Ðức vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày hóa thành những thỏi vàng ròng, kính xin Ðức vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở về cất trong kho báu của Ðức vua.

- Nhà người là ai? – Ðức vua hỏi.

- Tâu Ðức vua, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê. – Puṇṇa tâu.

- Sáng nay, nhà ngươi đã làm việc gì đặc biệt vậy?

- Tâu Ðức vua, tiện dân làm phước cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta; còn phần vợ tiện dân làm phước cúng dường phần cơm của tiện dân đến Ngài Ðại Ðức.

Ðức vua phán rằng:

- Này Puṇṇa, vợ chồng ngươi đã làm phước thiện bố thí cúng dường trong sạch đến cho Ngài Ðại Ðức Sāriputta, cho nên, quả báu phát sanh ngay trong ngày hôm nay. Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?

- Tâu Ðức vua, tiện dân xin Ðức vua truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện. – Puṇṇa tâu.

Ðức vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, nhóm lính trong triều nói rằng: "Vàng của Ðức vua!", tức thì những thỏi vàng được lấy lên, hóa trở lại thành đất như cũ. Chúng về triều tâu lên Ðức vua sự việc xảy ra như vậy. Ðức vua sáng suốt bèn phán rằng:

- Các ngươi nghĩ như thế nào, khi lấy những thỏi vàng ấy?

- Tâu Hoàng Thượng, chúng thần nghĩ và nói rằng: "Vàng của Ðức vua!".

- Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người nên trở lại nghĩ và nói rằng: "Vàng của ông bà Puṇṇa!" rồi khuân số vàng ấy về đây. – Ðức vua phán.

Họ vâng lệnh Ðức vua ra đi. Thật đúng vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Ðức vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn hỏi rằng:

- Trong kinh thành này, người nào khác có số vàng lớn như thế này không?

- Tâu Hoàng Thượng, không có người nào khác cả! – Toàn thể dân chúng trong thành tâu.

- Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?

- Xin Hoàng thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

Ðức vua phán rằng:

- Này Puṇṇa, từ nay ngươi là đại phú hộ, có tên Bahudhanaseṭṭhi: phú hộ nhiều của cải.

Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, có Ðức Phật chủ trì suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 Ðức Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa, toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa, hai vợ chồng và đứa con gái tên Uttarā đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta vừa xả diệt thọ tưởng định, do năng lực phước thiện bố thí trong sạch và hội đủ nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều của cải thế gian và đặc biệt hơn nữa, toàn gia đình chứng đắc pháp siêu tam giới đó là Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Những trường hợp như trên, có không ít trong Phật giáo.

 

.

 

Phước bố thí cho quả hiện tại

Làm phước thiện bố thí có quả báu ngay trong kiếp sống hiện tại trong vòng 7 ngày, cần phải hội đủ 4 nhân duyên như sau:

1- Bậc thọ thí phải là bậc Thánh Bất Lai hoặc bậc Thánh A-ra-hán (vatthusampadā).

2- Vật bố thí phát sanh hoàn toàn hợp pháp và trong sạch (paccayasampadā).

3- Người bố thí có đầy đủ 3 thời tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ: trước khi làm phước thiện bố thí, đang khi làm phước thiện bố thí và sau khi đã làm phước thiện bố thí xong(cetanāsampadā).

4- Bậc Thánh Bất Lai hoặc bậc Thánh A-ra-hán vừa mới xả diệt thọ tưởng định, đi khất thực (guātire-kasampadā).

Do năng lực hội đầy đủ 4 nhân duyên này, chắc chắn sẽ được quả báu của phước thiện bố thí ấy trong vòng 7 ngày.

 

 

 

Có Phước Chọn Ðược Cõi Tái Sanh

Trong đời, người giàu có nhiều tiền nhiều bạc, có thể chọn mua sắm những gì theo ý muốn của mình. Trong đạo, bậc Thiện trí phàm nhân có nhiều phước thiện cũng có thể chọn trước cảnh giới tái sanh theo ý muốn của mình.

Như những hành giả tiến hành thiền định chứng đắc được bậc thiền nào (bậc thiền sắc giới, bậc thiền vô sắc giới) cho đến khi gần chết chưa bị hư mất; sau khi chết, chắc chắn bậc thiền ấy cho quả tái sanh lên cõi sắc giới phạm thiên, hoặc cõi vô sắc giới phạm thiên tương xứng với bậc thiền sở đắc của mình.

Ðó là sắc giới thiện nghiệp và vô sắc giới thiện nghiệp.

Ðối với những bậc Thiện trí phàm nhân đã tạo dục giới thiện nghiệp như: làm phước bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định mà chưa chứng đắc được bậc thiền nào; tiến hành thiền tuệ..., còn thuộc về dục giới đại thiện tâm. Những bậc Thiện trí này có nhiều phước thiện, đến khi sắp từ bỏ thể xác (chết), có thể chọn 1 trong 7 cõi thiện giới: 1 cõi người và 6 cõi trời dục giới theo ý muốn của mình, để làm đối tượng nương nhờ tái sanh kiếp sau. Cho nên, sau khi từ bỏ sắc thân (chết), do năng lực dục giới thiện nghiệp cho quả tái sanh kiếp sau, theo cảnh giới mà mình đã chọn từ kiếp trước lúc sắp lâm chung.

Trích dẫn một tích người cận sự nam Dhammika [Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Dhammika upāsikavatthu] trong bộ Chú giải Pháp cú.

Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, đề cập đến cận sự nam Dhammika được tóm lược như sau:

Trong kinh thành Sāvatthi, ông cận sự nam Dhammika là người cao quý nhất trong nhóm 500 cận sự nam. Ông có 7 người con trai và 7 người con gái đều là những người cận sự nam, cận sự nữ, có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Tam bảo. Trong tư thất thường làm phước thiện bố thí như: bố thí cháo, bố thí vật thực, bố thí vật thực vào ngày rằm và cuối tháng, bố thí vật thực vào ngày giới hằng tháng, thỉnh chư Tỳ khưu Tăng thọ trai tại nhà, bố thí vật thực chư Tỳ khưu khách đến, cúng dường vật thực chư Tỳ khưu Tăng an cư nhập 3 tháng hạ v.v.... Toàn gia đình gồm cha mẹ và các con đều là những người hoan hỉ trong phước thiện bố thí, gìn giữ giới hạnh trong sạch, hoan hỉ trong việc nghe pháp.

Một hôm, ông Dhammika bị lâm bệnh nặng sắp lâm chung, muốn nghe tụng kinh, ông sai người đến hầu Ðức Phật, kính xin Ðức Phật cho phép 8 hoặc 16 vị Tỳ khưu Tăng đến nhà ông.

Ðức Phật cho phép chư Tỳ khưu đến nhà ông, thỉnh ngồi nơi đã sắp đặt sẵn quanh giường của ông, ông bạch rằng:

- Kính bạch chư Ðại Ðức, được chiêm ngưỡng quý Ngài là một điều khó đối với con, nay con yếu quá rồi, kính xin quý Ngài tế độ tụng cho con được nghe một bài kinh.

- Này Dhammika, ông muốn nghe bài kinh nào? – Chư Tỳ khưu hỏi.

- Kính bạch chư Ðại Ðức, con tha thiết cầu xin quý Ngài tụng cho con nghe bài kinh"Mahāsati-paṭṭhānasutta": kinh Ðại Niệm Xứ mà chư Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai)thường thuyết giảng.

Chư Tỳ khưu bắt đầu tụng rằng:

"Ekāyano aya bhikkhave maggo sattāna visuddhiyā...".

Ngay khi ấy có 6 chiếc xe trời, mỗi chiếc có 1.000 con ngựa quý kéo, trang hoàng lộng lẫy từ 6 cõi trời dục giới kéo đến xin đón rước ông [con ngựa thật là loài súc sanh không thể tái sanh lên cõi trời, những con ngựa quý này do phép mầu của chư thiên hoá ra làm phận sự kéo xe trời, không phải con ngựa loài súc sanh]. Chư thiên ở mỗi cõi trời đều khẩn khoản mời ông rằng:

Amhāka devaloka nessāma!
Amhāka
devaloka nessāma!...

Chúng tôi xin rước ông lên cõi trời của chúng tôi! 
Chúng tôi xin rước ông lên cõi trời của chúng tôi!

Kính mời ông tái sanh lên cõi trời của chúng tôi, để cho cõi trời của chúng tôi được huy hoàng xán lạn thêm, như người từ bỏ đồ dùng cũ kỹ rạn nứt rồi, đổi lấy đồ dùng bằng vàng ròng (vàng mười) tái sanh cõi trời chúng tôi hưởng nhiều sự an lạc lắm!

Ông cận sự nam không muốn những nhóm chư thiên ấy làm trở ngại việc nghe pháp của ông, nên ông bảo rằng:

Āgametha! Āgametha!
Xin quý Ngài chờ một lát! Xin quý Ngài chờ một lát!

Chư Tỳ khưu Tăng đang tụng kinh, nghe ông nói như vậy, nên ngừng lại, vì nghĩ rằng: ông nói với chúng ta.

Khi chư Tỳ khưu Tăng ngưng tụng kinh, các con ông than khóc kể lể rằng:

- Trước đây, cha của chúng con hoan hỉ trong việc lắng nghe pháp không bao giờ biết đủ, chính cha đã cho thỉnh chư Tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe. Nhưng bây giờ, chính cha đã ngăn cản chư Tỳ khưu không cho tụng kinh, cớ sao như vậy?

Chư Tỳ khưu bàn với nhau rằng: "Bây giờ không phải là lúc tụng kinh", nên các Ngài đứng dậy trở về chùa.

Ông cận sự nam không nghe tiếng tụng kinh mà nghe tiếng khóc của các con nên hỏi rằng:

- Này các con, tại sao các con lại khóc như vậy?

- Thưa cha, chính cha đã cho thỉnh chư Tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe, rồi cũng chính tự cha lại ngăn cấm Tỳ khưu không cho tụng kinh nữa. Thấy như vậy, nên chúng con buồn mà than khóc vậy.

- Chư Ðại Ðức đi đâu rồi? Ông cận sự nam hỏi.

- Thưa cha, chư Ðại Ðức bàn với nhau: "Bây giờ không phải lúc tụng kinh", nên quý Ngài đã trở về chùa rồi.

- Cha không phải ngăn cấm chư Ðại Ðức. – Ông cận sự nam nói.

- Thưa cha, nếu như vậy cha ngăn cấm ai vậy?

Ông cận sự nam Dhammika giải thích cho các con hiểu rằng:

- Có 6 chiếc xe từ 6 cõi trời dừng trên hư không, chư thiên mỗi cõi trời đều khẩn khoản mời cha rằng:

Amhāka devaloke abhirama! 
Amhāka
devaloke abhirama!

Xin ông hoan hỉ hưởng sự an lạc nơi cõi trời của chúng tôi! 
Xin ông hoan hỉ hưởng sự an lạc nơi cõi trời của chúng tôi!

Cha không muốn các chư thiên ấy quấy rầy, làm trở ngại việc nghe pháp của cha, nên cha chỉ ngăn cấm họ mà thôi.

- Thưa cha, xe trời ở đâu mà chúng con không thấy?

Ông cận sự nam hiểu biết rõ đây là Gatinimitta: hiện tượng cảnh giới tái sanh, chỉ có một mình ông thấy mà thôi, nên ông tìm cách khác để chứng minh cho các con tin lời của ông, ông hỏi rằng:

- Này các con, vòng hoa dành cho cha có không?

- Thưa cha, dạ có vòng hoa.

- Này các con, trong 6 cõi trời dục giới, cõi trời nào đáng hài lòng nhất?

- Thưa cha, cõi trời Tusita (Ðâu suất đà thiên) là cõi mà chư Bồ Tát, thân mẫu của Ðức Phật... thường hài lòng nơi cõi trời ấy.

Ông cận sự nam Dhammika chọn cõi trời Tusita là nơi sẽ tái sanh kiếp sau, do đó, ông dạy các con ông rằng:

- Này các con, các con nguyện rằng: "Xin cho vòng hoa này đeo vào đầu xe từ cõi trời Tusita" rồi các con ném lên hư không.

Các con của ông làm theo lời chỉ dạy của ông, ném vòng hoa lên hư không, kỳ diệu thay! Vòng hoa ấy treo lư lửng trên hư không, mọi người đều có thể nhìn thấy vòng hoa trên hư không, nhưng mắt thường không thể nhìn thấy chiếc xe trời (chỉ có nhãn thông mới nhìn thấy được).

Ông cận sự nam hỏi các con rằng:

- Này các con, các con có nhìn thấy vòng hoa trên hư không hay không?

- Thưa cha, chúng con đều nhìn thấy.

Ông cận sự nam Dhammika giải thích rằng:

- Cái vòng hoa ấy đeo trên chiếc xe từ cõi trời Tusita đấy. Sau khi cha từ giã (chết) cõi người này rồi, do thiện nghiệp dẫn dắt cho quả tái sanh lên cõi trời Tusita ấy.

Các con chớ nên buồn rầu, các con muốn tái sanh cùng cảnh giới với cha, thì các con nên tạo mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền, nghe pháp, hành theo pháp v.v... như cha vậy.

Sau khi ông cận sự nam Dhammika khuyên răn dạy dỗ các con của ông xong, ông giữ tâm an tịnh từ giã (chết) cõi người. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh lên cõi trời Tusita mà ông đã chọn từ trước lúc sắp lâm chung, hoá sanh lên cõi trời Tusita, là một thiên nam có thân hình cao 3 gāvuta [gāvuta: chiều dài 5.120,64 mét hoặc 3.18 miles], trang sức những đồ quý giá, trong một lâu đài bằng ngọc ngà nguy nga tráng lệ lớn rộng 25 do tuần [do tuần (yojana): chiều dài 20.482,56 mét hoặc 12.72 miles], có một ngàn thiên nữ xinh đẹp hầu hạ ngày đêm.

Khi chư Tỳ khưu trở về đến chùa, Ðức Thế Tôn bèn hỏi rằng:

- Này chư Tỳ khưu, ông cận sự nam có nghe trọn bài kinh hay không?

Kính bạch Ðức Thế Tôn, ông cận sự nam nghe phần đầu; trong khi đang tụng kinh, ông nói: "xin quý Ngài chờ một lát". Nghe như vậy, chúng con ngừng tụng kinh, thì các con của ông than khóc, chúng con bàn với nhau rằng: "Bây giờ không phải lúc tụng kinh" nên chúng con đứng dậy trở về đây.

- Này chư Tỳ khưu! Ông cận sự nam Dhammika không phải nói với các con đâu! Khi ấy, chư thiên từ 6 cõi trời, mỗi cõi đem mỗi chiếc xe trời khẩn khoản mời ông tái sanh lên cõi trời của mình. Ông không muốn quý vị chư thiên quấy rầy, làm trở ngại việc nghe pháp của ông, nên ông nói ngăn cấm các nhóm chư thiên ấy.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, đúng như vậy thì kiếp này ông tái sanh vào cõi nào?

- Này chư Tỳ khưu, ông đã tái sanh bằng hoá sanh vào cõi trời Tusita rồi.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, khi trong cõi người, ông cận sự nam Dhammika được hưởng sự an lạc trong gia đình bà con bè bạn; nay hoá sanh lên cõi trời, làm chư thiên cũng được hưởng sự an lạc trong cõi trời nữa.

Ðức Phật dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, đúng vậy, người không dễ duôi quên mình, tiến hoá trong mọi thiện pháp, dầu là người tại gia cư sĩ hoặc bậc xuất gia sống nơi nào cũng đều được sự an lạc.

Ðức Phật thuyết bài kệ rằng:

"Chư Tỳ khưu các con!
Người tạo nhiều phước thiện,
An lạc trong đời này,
Ðời sau cũng an lạc,
Cả hai đời an lạc,
Do thiện nghiệp của mình,
Trong sạch và thanh tịnh,
Ðời đời được an lạc".

Trường hợp ông cận sự nam Dhammika, trước khi lâm chung gatinimitta: hiện tượng cảnh giới tái sanh, đó là 6 chiếc xe trời cùng 6 nhóm chư thiên từ 6 cõi trời hiện xuống đón rước ông, ông đã chọn chiếc xe từ cõi trời Tusita làm đối tượng tái sanh kiếp sau. Cho nên, sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nam trong cõi trời Tusita.

Tóm lại, những bậc thiện trí có nhiều phước thiện có thể chọn được cảnh thiện giới làm cõi tái sanh kiếp sau theo ý muốn của mình. Cũng như người có nhiều tiền, nhiều bạc có thể chọn mua sắm thứ gì theo ý muốn của mình. Ngược lại, chúng sinh vô phước phải cam chịu cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) do bởi ác nghiệp của mình đã tạo, những chúng sinh ấy không có quyền chọn lựa cảnh giới để tái sanh; hoàn toàn tuỳ thuộc vào ác nghiệp cho quả khổ, cũng như người nghèo nàn phải chịu đời sống thiếu thốn, đói khát khổ cực.

Vậy, muốn chọn cõi tái sanh kiếp sau, trong cảnh giới thiện nào, thì nên tạo thiện nghiệp tương xứng với cảnh giới ấy.

 

.

CHÚ THÍCH:

Con người nói riêng, tất cả chúng sinh nói chung (trừ bậc Thánh A-ra-hán, bởi vì không còn tái sanh nữa) trước khi từ bỏ thân xác này (gọi là chết) luôn luôn có một trong ba hiện tượng hiện ra, để làm đối tượng nương nhờ tái sanh kiếp sau:

Ba hiện tượng:

1- Kamma: nghiệp, đó là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo từ trong kiếp quá khứ cho đến kiếp hiện tại trước lúc lâm chung, hiện ra trong tâm làm đối tượng nương nhờ để tái sanh kiếp sau.

2- Kammanimitta: hiện tượng nghiệp, đó là những hình ảnh, hoặc những đối tượng hiện ra liên quan đến thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo từ trước, làm đối tượng nương nhờ để tái sanh kiếp sau.

3- Gatinimitta: hiện tượng cảnh giới tái sanh, đó là cảnh giới hiện ra trước mắt, tạo nên ấn tượng sẽ được gặp, sẽ được thọ hưởng an lạc trong cõi thiện giới ở kiếp sau, do thiện nghiệp của mình đã tạo, hoặc chịu khổ cực trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) ở kiếp sau, do ác nghiệp của mình đã tạo.

Ba hiện tượng này chỉ có người hoặc chúng sinh sắp chết mới thấy, mới biết mà thôi; và đặc biệt có những bậc Thiện trí có thiên nhãn thông, và chư thiên có thể thấy, có thể biết được. Ngoài ra, những chúng sinh khác không thể thấy, không thể biết được.

 

 

3- Về lời phát nguyện và sự thành tựu.

Lời phát nguyện là điều mong muốn, ý nguyện riêng của mình có được thành tựu như ý hay không, đều do năng lực phước thiện của mình đã tạo. Năng lực phước thiện mạnh thì được thành tựu như ý, ngược lại năng lực phước thiện yếu, thì khó thành tựu. Năng lực phước thiện mạnh cần phải hội đủ 3 điều kiện:

Vật bố thí hoàn toàn hợp pháp.
Tác ý thiện tâm cả 3 thời hoàn toàn trong sạch.
Người thọ nhận vật bố thí phải là bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch; bậc ấy phải là Ðức Phật Toàn Giác, hoặc là Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh A-ra-hán.

Nếu đủ 3 điều kiện này, mới có năng lực phước thiện mạnh và nhiều; thì thí chủ có ý nguyện nào cũng dễ dàng thành tựu được như ý nguyện ấy.

Người chị dâu và người em chồng đều có đủ 3 điều kiện.

- Người chị dâu phát nguyện: Kiếp sau, cầu xin cho con có được sắc thân xinh đẹp tuyệt trần, không một ai sánh kịp, có ánh sáng hào quang toả ra từ sắc thân suốt đêm ngày. Xin đừng sống chung với hạng người ác như chú em chồng của con.

Kiếp sau, sanh làm công chúa Pabhāvatī đó là quả báu được thành tựu đúng theo lời phát nguyện trong tiền kiếp, trong đó có điều không muốn sống chung với đức vua Kusa.

- Người em chồng phát nguyện: Kiếp sau, chị dâu của con dầu ở xa hằng trăm do tuần, xin cho con có đủ khả năng rước đem về làm vợ của con.

Kiếp sau, sanh làm thái tử Kusa đã tìm được công chúa Pabhāvatī rước về làm chánh cung hoàng hậu. Ðó là quả báu được thành tựu đúng theo lời phát nguyện trong tiền kiếp.

Nhưng khi hoàng hậu Pabhāvatī (chị dâu tiền kiếp) nhìn thấy rõ đức vua Kusa (em chồng kiếp trước) liền có cảm ứng tự nhiên vừa ghét vừa ghê sợ Ðức vua, do bởi năng lực lời phát nguyện trong tiền kiếp, nên hoàng hậu từ bỏ đức vua Kusa trở về kinh thành Sāgala của phụ vương mình.

Bởi do năng lực lời phát nguyện trong tiền kiếp, nên đức vua Kusa đeo đuổi theo hoàng hậu Pabhāvatī. Do năng lực phước thiện và lời phát nguyện của Ðức Bồ Tát có nhiều năng lực hơn người thường, khiến vua trời Sakka phải giúp đỡ Ðức Bồ Tát cho được thành tựu như ý nguyện, làm thay đổi thân hình xấu xí đáng ghê sợ trở thành thân hình tốt đẹp, đem hoàng hậu trở lại kinh thành Kusavatī sống chung trong tình thương yêu kính mến nhau cho đến trọn đời.

Qua lời phát nguyện của hai người, chị dâu và em chồng có điều trái ngược nhau: kiếp sau người chị dâu không muốn sống chung với người em chồng; ngược lại người em chồng chỉ muốn sống chung với người chị dâu mà thôi.

Kết quả: lời phát nguyện của Ðức Bồ Tát có năng lực hơn lời phát nguyện của hoàng hậu Pabhāvatī, khiến hoàng hậu Pabhāvatī thay đổi thái độ tâm tính từ ghét và kinh sợ đức vua Kusa chuyển sang không ghét, một lòng thương yêu Ðức vua, và đức vua Kusa cũng thương yêu hoàng hậu. Cả hai người nói lên bằng lời thề chân thật với nhau.

Ðiều đó, có thể hiểu rõ rằng: quá khứ có ảnh hưởng đến hiện tại, song hiện tại cũng có thể làm thay đổi, để cho tương lai theo ý của mình.

 

 

 

BỐ THÍ - KẾT QUẢ

 

Thí chủ có tác ý thiện tâm sử dụng của cải đem làm phước thiện bố thí, ban bố phân phát cho mọi người khác, chúng sinh khác với tâm từ, tâm bi tế độ chúng sinh. Ðó là phước thiện bố thí.

 

Phước thiện bố thí này có kết quả nhiều hay ít, còn tuỳ thuộc vào 3 điều kiện (chi pháp).

 

1- Thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí.

2- Vật bố thí.

3- Người thọ thí.

 

Ðức Phật ví dụ:

 

Thí chủ ví như người nông dân.

Vật bố thí ví như hạt giống.

Người thọ thí ví như thửa ruộng, đất....

 

- Trường hợp người nông dân có chuyên môn, biết thời vụ, có hạt giống tốt, gieo trồng thửa ruộng màu mỡ, chắc chắn kết quả thu hoạch được nhiều.

 

Cũng như vậy,

 

- Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch, hoan hỉ suốt trong ba thời:

 

Trước khi làm phước thiện bố thí.

Ðang khi làm phước thiện bố thí.

Sau khi đã làm phước thiện bố thí xong.

 

- Có vật bố thí hợp pháp, phát sanh do chánh nghiệp.

 

- Người thọ thí là bậc có giới đức trong sạch thanh tịnh.

 

Như vậy, phước thiện bố thí ấy chắc chắn có qủa báu nhiều trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

 

- Trường hợp người nông dân không có chuyên môn, có hạt giống xấu, gieo trồng nơi thửa ruộng xấu, không màu mỡ; kết quả thu hoạch không được nhiều.

 

Cũng như vậy,

 

- Thí chủ có tác ý thiện tâm không hoàn toàn trong sạch suốt trong ba thời:

 

Trước khi làm phước bố thí.

Ðang khi làm phước bố thí.

Sau khi đã làm phước bố thí xong.

 

- Có vật bố thí không hợp pháp, phát sanh do tà nghiệp.

 

- Người thọ thí là người không có giới trong sạch, phá giới.

 

Như vậy, phước thiện bố thí ấy có quả báu không nhiều, không đáng hài lòng trong kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai.

 

Qua hai trường hợp trên, chúng ta nhận thấy rõ quả báu của phước thiện khác nhau.

 

Chúng ta làm phước thiện bố thí có nên chọn lựa hay không?

 

Ðể thành tựu phước thiện bố thí cần có đầy đủ 3 điều kiện (3 chi pháp): thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí, vật bố thí, người thọ thí. Nếu thiếu một điều kiện (chi) nào, thì không thành tựu phước thiện bố thí.

 

Ví dụ:

 

Thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí, có vật bố thí, nhưng không có người thọ thí, thì phước thiện bố thí không thành tựu.

 

Cho nên, muốn làm phước thiện bố thí, chúng ta cần phải tìm cho đủ 3 điều kiện trên. Chúng ta nên ý thức rằng: tạo phước thiện bố thí là một điều thiết yếu cho mình, có khi có cơ hội tốt đến với mình, có khi chính mình phải tìm lấy cơ hội, miễn sao cho đủ 3 điều kiện:

 

Thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí.

Vật bố thí.

Người thọ thí.

 

Trong 3 điều kiện này, điều kiện quan trọng: tác ý thiện tâm bố thí, với thiện tâm hoan hỉ trong sạch suốt 3 thời kỳ: trước khi bố thí, đang khi bố thí, sau khi đã bố thí rồi; cả 3 thời kỳ này với thiện tâm trong sạch, thanh tịnh, không bị ô nhiễm bởi phiền não, thì dầu vật thí tốt hoặc xấu, hợp pháp hoặc không hợp pháp; và người thọ thí có giới đức hoặc không có giới đức, thì phước thiện bố thí cũng không ít.

 

Ví dụ:

 

Người nông dân có chuyên môn, biết thời vụ, dầu có hạt giống xấu, thửa ruộng không màu mỡ nhiều. Song người nông dân biết bón phân đúng lúc đúng thời, biết cho nước vào, biết xả nước ra, biết chăm sóc cây cho tốt. Như vậy, kết quả thu hoạch cũng không ít.

 

Cũng như vậy, thí chủ có tác ý thiện tâm bố thí trong sạch, có đức tin về nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt hiểu biết rõ thiện nghiệp là của quý báu riêng mình; có cơ hội bố thí để tạo phước thiện là một điều tốt lành. Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi bố thí, hoan hỉ đang khi bố thí, hoan hỉ sau khi đã bố thí xong. Sự thành tựu phước thiện bố thí với tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ đầy đủ ba thời kỳ như vậy, dù vật thí như thế nào (tốt hoặc xấu) hoặc người thọ thí như thế nào (có giới đức hoặc không có giới đức), phước thiện bố thí cũng không ít, kết quả cũng đáng hài lòng.

 

Như trường hợp Ðức Bồ Tát Vessantara bố thí hai đứa con là hoàng tử Jāli và công chúa Kahā đến cho Bà la môn Jūjaka tàn nhẫn (không có giới), để tạo pháp hạnh bố thí ba la mật, thế mà phước thiện bố thí ấy cũng làm cho trái đất rung chuyển.

 

Bố thí người không có giới đức kết quả như thế nào?

 

Thí chủ bố thí đến người không có giới đức, cũng như người nông dân gieo trồng hạt giống trên thửa ruộng, đất xấu.

 

Tìm hiểu tích Cūaseṭṭhipetavatthu: tích ngạ quỷ Cūaseṭṭhi (tiểu phú hộ) [Khuddakanikāya, Petavatthu], tóm lược như sau:

 

Trong kinh thành Bārāasī có một tiểu phú hộ tên Cūaseṭṭhi là người không có đức tin, tâm bỏn xẻn keo kiệt, không bố thí của cải đến mọi người, mọi chúng sinh, tâm tham lam say đắm trong của cải, còn là người không có giới. Cho nên sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm loài ngạ quỷ cũng có tên là Cūaseṭṭhipeta (ngạ quỷ tiểu phú hộ), có thân hình gầy ốm da bọc xương, xanh xao, đầu trọc, trần truồng đói khát trông thảm thương. Y nghe tin người con gái tên Anulā ở nhà chồng trong tỉnh thành Andhakavinda có làm phước bố thí, để hồi hướng đến ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì... những người thân bằng quyến thuộc đã quá vãng.

 

Ban đêm ngạ quỷ Cūaseṭṭhi bay ngang qua kinh thành Rājagaha, khi ấy, đức vua Ajātasattu không ngủ được, nên đi kinh hành ở hành lang lâu đài, nhìn thấy ngạ quỷ bay ngang qua, bèn hỏi rằng:

 

- Này nhà ngươi, ngươi có phải là tu sĩ loã thể, gầy ốm do ác nghiệp nào vậy? Giữa đêm khuya này ngươi đi đâu? Ngươi hãy nói cho ta rõ, ta có thể giúp đỡ gì cho nhà ngươi?

 

Khi nghe Ðức Vua truyền dạy, ngạ quỷ tâu rằng:

 

- Tâu Ðại vương, trước đây, trong kinh thành Bārāasī, con là một tiểu phú hộ giàu nổi tiếng, phần đông ai cũng biết đến, con là người bỏn xẻn keo kiệt, không chịu bố thí, phân phát của cải đến một ai; con có tánh tham lam, say mê trong của cải của mình, không có đức tin, không có giới. Sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh trong hàng ngạ quỷ, chịu cảnh đói khát triền miên, sự đói khát luôn luôn dày vò đau khổ.

 

Ngoài con ra, còn có nhiều người khác có tâm bỏn xẻn keo kiệt, không bố thí, không tin quả báu của phước thiện bố thí, những hạng người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh vào loài ngạ quỷ chịu cảnh khổ đói khát như con.

 

Con được tin con gái của con có tác ý thiện tâm muốn làm phước bố thí đến nhóm Bà la môn, để hồi hướng phần phước thiện ấy đến ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì,... thân bằng quyến thuộc đã quá vãng. Do đó, con bay đến kinh thành Andhakavinda để chờ hoan hỉ phần phước thiện bố thí ấy, với hy vọng mong thoát khỏi cảnh khổ kiếp ngạ quỷ này.

 

Ðức Vua truyền dạy rằng:

 

- Này nhà ngươi, nếu ngươi thọ hưởng được phần phước thiện bố thí, mà thân quyến hồi hướng thật sự, thì ngươi hãy trở lại báo cho ta biết đúng theo sự thật, để ta cũng tạo phước thiện bố thí rồi hồi hướng đến thân quyến của ta đã quá vãng.

 

Ngạ quỷ Cūaseṭṭhi xin tuân theo lệnh của Ðức Vua xong, bay thẳng đến kinh thành Andhakavinda. Nhưng y thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy không đáng kể, vì nhóm Bà la môn ấy là những người không có giới đức. Cho nên, ngạ quỷ Cūaseṭṭhi trở lại kinh thành Rājagaha, hiện ra trước mặt đức vua Ajātasattu tâu rằng:

 

- Tâu Ðại Vương, con hưởng được phần phước thiện bố thí không đáng kể, bởi vì nhóm Bà la môn không có giới đức trong sạch.

 

Ðức Vua truyền dạy rằng:

 

- Này nhà ngươi, ta muốn cứu giúp ngươi thoát khỏi cảnh khổ, được sống an lạc đầy đủ lâu dài. Vậy, ta nên làm phước thiện bố thí như thế nào? Ngươi hãy nói cho ta biết?

 

Ngạ quỷ Cūaseṭṭhi tâu với Ðức Vua rằng:

 

- Tâu Ðại Vương, Ðại Vương có tâm bi mẫn cứu giúp con, xin Ðại Vương làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực, nước, y đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng. Xong rồi, xin Ðại Vương hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến cho con. Khi con được hoan hỉ phần phước thiện bố thí ấy rồi, do nhờ năng lực phước thiện ấy, con được giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, được tái sanh cõi thiện giới hưởng được sự an lạc lâu dài.

 

Vào ngày hôm sau, Ðức Vua làm phước thiện bố thí vật thực, nước, y cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng xong, Ðức Vua bạch với Ðức Phật rằng:

 

- Con xin hồi hướng phần phước bố thí này đến ngạ quỷ Cūaseṭṭhi. Xin ngạ quỷ Cūaseṭṭhi hoan hỉ phần phước thiện bố thí này.

 

Ngạ quỷ Cūaseṭṭhi hoan hỉ phần phước bố thí ấy, ngay tức khắc, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, hoá sanh trở thành vị thiên nam, hiện ra trước mặt Ðức Vua tâu rằng:

 

- Tâu Ðại Vương, nay con đã trở thành thiên nam, xin Ðại Vương xem con, con có đầy đủ vật thực, y phục, lâu đài, sự an lạc... của chư thiên. Những quả báu này phát sanh do phước thiện bố thí mà Ðại Vương đã hồi hướng cho con.

 

Con cầu mong Ðại Vương được hưởng sự an lạc cao cả trong loài người, con hết lòng thành kính tri ân Ðại Vương, con xin phép trở về cảnh giới của con.

 

Qua câu truyện ngạ quỷ Cūaseṭṭhi xét thấy rằng:

 

Kiếp ngạ quỷ chỉ còn biết trông chờ đến phần phước thiện, mà bà con thân quyến hồi hướng đến cho họ mà thôi.

 

Kiếp sống con người có tính chất đặc biệt hơn các chúng sinh khác là: thừa hưởng quả của thiện nghiệp, ác nghiệp. Cho nên, con người có khi được an lạc đó là quả của thiện nghiệp, có khi chịu khổ đau đó là quả của ác nghiệp. Con người đặc biệt có khả năng tạo mọi phước thiện như: bố thí, giữ giới, hành thiền định, hành thiền tuệ...; cũng có khả năng tạo ác nghiệp do thân, khẩu, ý như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, chia rẽ, nói lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; có khả năng tạo thiện nghiệp do thân, khẩu, ý như: tránh xa sự sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích, có tánh không tham lam, có tánh không thù hận, có chánh kiến.

 

Con người được giàu sang, phú quý có nhiều của cải, có quyền cao, chức trọng... những gì hiện hữu có thể thấy được bằng mắt, nghe bằng tai... tất cả đều không phải là phước thiện, đó chỉ là quả báu của phước thiện mà thôi. Chủ nhân có thể thọ hưởng các quả báu bằng mọi thứ của cải ngay trong kiếp hiện tại, cho đến cuối cùng của kiếp sống hiện tại (chết). Những thứ của cải trong kiếp hiện tại không liên quan gì đến kiếp sau. Kiếp sau là do thiện nghiệp hay ác nghiệp cho quả tái sanh:

 

* Nếu thiện nghiệp, thì cho quả tái sanh cõi thiện giới như: tái sanh làm người cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên cõi trời dục giới, hoặc tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới hay vô sắc giới, tuỳ theo thiện nghiệp của mình đã tạo, rồi hưởng sự an lạc tuỳ theo năng lực của thiện nghiệp ấy.

 

* Nếu ác nghiệp cho quả tái sanh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) chịu khổ do nghiệp ác của mình đã tạo.

 

Ngạ quỷ Cūaseṭṭhi ghi nhớ được tiền kiếp của mình là tiểu phú hộ bỏn xẻn keo kiệt, có tánh tham lam say đắm trong của cải của mình, không muốn sử dụng của cải của mình đem làm phước bố thí, ban bố phân phát đến mọi người, mọi chúng sinh, còn là người không có giới. Do đó, sau khi chết do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh trong hàng ngạ quỷ, phải chịu cảnh đói khát khốn khổ.

 

Ban đầu chính ngạ quỷ Cūaseṭṭhi tỏ vẻ thất vọng, bởi vì người con gái làm phước bố thí đến nhóm Bà la môn không có giới, nên hưởng được phước thiện không đủ để có khả năng thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát đau khổ.

 

Về sau nhờ đức vua Ajātasattu làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, rồi hồi hướng đến ngạ quỷ Cūaseṭṭhi. Ngạ quỷ Cūaseṭṭhi hoan hỉ phần phước thiện bố thí, mà đức vua Ajātasattu hồi hướng đến cho y; do nhờ năng lực phước thiện này, ngay khi ấy, y thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sanh bằng hoá sanh thành thiên nam có nhiều oai lực và hưởng mọi sự an lạc nơi cõi trời ấy.

 

Bố Thí Trong Phật Giáo – Ngoài Phật Giáo

 

Phước thiện bố thí trong Phật giáo có quả báu nhiều, có năng lực mạnh hơn phước thiện bố thí ngoài Phật giáo, hoặc thời kỳ không có Phật giáo.

 

Tích Ngài Ðại Ðức Mahākassapa và đức vua trời Sakka cõi Tam thập tam thiên tóm lược như sau:

 

Ngài Ðại Ðức Mahākassapa nhập diệt thọ tưởng định suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 xả định, Ngài đi khất thực với tâm bi tế độ những người nghèo khổ. Khi ấy, từ cõi Tam thập tam thiên có 500 thiên nữ là những thiên nữ hầu hạ của đức vua trời Sakka, hiện xuống cõi người, mỗi cô mỗi phần với tác ý thiện tâm để bát cho Ngài Ðại Ðức, nhưng Ngài từ chối không nhận vật thực của nhóm 500 thiên nữ. Ngài dạy rằng:

 

- Này các thiên nữ hãy tránh ra, bần Tăng đi khất thực để tế độ những người nghèo khổ.

 

Nhóm 500 thiên nữ không để bát được, buồn tủi trở về cõi trời tâu với đức vua trời Sakka:

 

- Chúng tiện thiếp hiện xuống cõi người với tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí để bát Ngài Ðại Ðức Mahākassapa vừa xả diệt thọ tưởng định hôm nay, nhưng Ngài từ chối, không nhận những vật thực của chúng tiện thiếp, Ngài dạy rằng: Ngài chỉ thọ nhận những vật thực của người nghèo khổ, để tế độ họ mà thôi.

 

Nghe tâu như vậy, đức vua trời Sakka gọi hoàng hậu Sujātā cùng hiện xuống cõi người biến hóa thành đôi vợ chồng già yếu, nghèo khổ sống trong một căn nhà lá cũ mèm ở ven rừng, chờ Ngài Ðại Ðức Mahākassapa đi khất thực ngang qua nhà.

 

Ngài Ðại Ðức Mahākassapa vừa đến, đức vua trời Sakka trong hình dáng một ông lão nghèo khổ đầu bạc, lưng còm, đôi chân run rẩy, chống gậy gọi hoàng hậu Sujātā trong hình dáng một bà lão nghèo khổ như ông ra, hai ông bà già cúi đầu đảnh lễ, xin Ngài tế độ vợ chồng già nghèo nàn, xin cái bát của Ngài vào nhà để những vật thực ngon lành của họ.

 

Ðức vua trời Sakka và hoàng hậu Sujātā để những món vật thực vào bát của Ngài Ðại Ðức Mahākassapa, mùi hương thơm của vật thực tỏa khắp kinh thành Rājagaha; hai vợ chồng nghèo nàn đem bát ra dâng Ngài Ðại Ðức, Ngài nhận bát, mùi hương thơm tỏa ra. Ngài biết ngay vật thực này không phải vật thực của hai vợ chồng trong hình dáng người già nghèo khổ, mà sự thật chính là đức vua trời Sakka và hoàng hậu Sujātā, Ngài quở trách rằng:

 

- Này vua trời Sakka và hoàng hậu, bần Tăng có tâm bi muốn tế độ người nghèo khổ, tại sao hai người lại giành phước thiện của người nghèo?

 

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, chúng con cũng là người nghèo nàn, mặc dầu con là Vua trời trị vì toàn thể chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên; nhưng chúng con làm phước thiện bố thí trong thời kỳ không có Phật giáo, không có chư Ðại Ðức Tăng, nên phước thiện bố thí của con nghèo nàn quá, bạch Ngài!

 

Con cảm thấy tủi phận mỗi khi gặp những vị chư thiên sanh lên cõi Tam thập tam thiên, do quả phước thiện bố thí trong kỳ Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, bởi họ có hào quang sáng ngời tỏa khắp mọi phương hướng, có nhiều oai lực phi thường, khiến con phải né tránh. Tuy con làm vua mà phước báu không bằng thuộc hạ của mình.

 

Ngài Ðại Ðức dạy rằng:

 

- Này Ðức vua trời, kể từ nay về sau, nhà ngươi không nên giả dạng người nghèo làm phước bố thí đến bần Tăng như vậy nữa!

 

Ðức vua trời Sakka cùng hoàng hậu Sujātā đảnh lễ Ðại Ðức tỏ lòng tôn kính, tri ân Ngài, tán dương ca tụng ân đức của Ngài, rồi xin phép trở về cõi Tam thập tam thiên.

 

Do năng lực phước thiện bố thí để bát đến Ngài Ðại Ðức Mahākassapa, đức vua trời Sakka có được hào quang, oai lực không kém chư thiên khác.

 

Tích hai thiên nam Indaka và Ankura

 

Tích hai thiên nam Indaka và Ankura [Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, trong tích Devorohaavatthu] tóm lược như sau:

 

Hai vị thiên nam này tiền kiếp đã từng làm phước thiện bố thí.

 

Tiền kiếp của vị thiên nam Ankura đã từng xây dựng trại làm phước thiện đại thí ngoài Phật giáo, thời kỳ không có Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, không có chư Ðại Ðức Tăng suốt 10.000 năm.

 

Tiền kiếp của vị thiên nam Indaka đã từng làm phước thiện bố thí để bát đến Ngài Ðại Ðức Anuruddha một muỗng cơm, trong thời kỳ Phật giáo.

 

Mùa hạ thứ bảy, Ðức Phật ngự an cư nhập hạ suốt 3 tháng trên cung Tam thập tam thiên thuyết giảng Vi diệu pháp tạng để tế độ Phật mẫu (kiếp này làm thiên nam Santussita cõi trời Tusita xuống cõi Tam thập tam thiên), cùng chư thiên, phạm thiên.

 

Ðức Phật ngự trên tảng đá thuyết giảng. Khi ấy, vị thiên nam Indaka ngồi phía bên phải của Ðức Phật, còn thiên nam Ankura ngồi phía bên trái của Ðức Phật lắng nghe Vi diệu pháp.

 

Khi có vị chư thiên nhiều oai lực đến hội nghe Vi diệu pháp, thì vị thiên nam Ankura lùi lại sau nhường cho vị thiên nam ấy. Mỗi lần phải lùi lại sau nhường chỗ như vậy, vị thiên nam Ankura lùi ra cách xa Ðức Phật đến 12 do tuần [1 do tuần khoảng 20.482,56 mét hoặc 12,72 miles]. Trong khi đó vị thiên nam Indaka vẫn ngồi yên chỗ ngồi của mình gần Ðức Phật.

 

Qua tích truyện trên, để chúng ta thấy rõ rằng, vị thiên nam Indaka, tiền kiếp đã từng làm phước thiện để bát đến Ngài Ðại Ðức Anuruddha một muỗng cơm trong Phật giáo, mà năng lực quả báu hơn vị thiên nam Ankura tiền kiếp đã từng làm phước thiện đại thí suốt 10 ngàn năm thời kỳ ngoài Phật giáo.

 

Tích Bà la môn Velāma làm phước thiện bố thí

 

Trong kinh Velāmasutta [Bộ Aguttaranikāya, phần Navakanipāta], Ðức Phật thuyết giảng về Bà la môn Velāma làm phước thiện bố thí thời kỳ ngoài Phật giáo và thí chủ làm phước thiện bố thí trong Phật giáo có đoạn như sau:

 

- "Này phú hộ Anāthapiṇṇika, chuyện đã từng xảy ra, có Bà la môn Velāma làm phước thiện đại thí như:

 

Bố thí 84.000 mâm vàng đầy bạc (rūpiya).

Bố thí 84.000 mâm bạc đầy vàng.

Bố thí 84.000 mâm đồng đầy bạc.

Bố thí 84.000 con voi gồm đầy đủ đồ trang sức bằng vàng.

Bố thí 84.000 đồ trải bằng da sư tử, da cọp.

Bố thí 84.000 con bò sữa cùng với đồ đựng sữa.

Bố thí 84.000 cô gái trẻ đẹp cùng với đồ trang sức ngọc mai....

Bố thí 84.000 chiếc ghế ngồi có trang trí đồ quý giá.

Bố thí 84.000 x 10.000.000 vải đủ loại đặc biệt. Ngoài ra, bố thí đồ ăn, đồ uống,... không sao kể xiết.

 

Bà la môn Velāma chính là tiền thân của Như Lai, làm phước đại thí vào thời đại ấy không có bậc Xứng Ðáng Cúng Dường (thời đại không có Ðức Phật và chư Ðại Ðức Tăng).

 

Này ông phú hộ, người nào làm phước thiện bố thí đến vị Thánh Nhập Lưu có chánh kiến đầy đủ, người ấy có phước thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn là làm phước thiện bố thí của Bà la môn Velāma.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh Nhập Lưu, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Nhập Lưu.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 vị Thánh Nhất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Nhập Lưu.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh Nhất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Nhất Lai.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 vị Thánh Bất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Nhất Lai.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh Bất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Bất Lai.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 vị Thánh A-ra-hán, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Bất Lai.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 100 vị Thánh A-ra-hán, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh A-ra-hán.

 

Người nào làm phước thiện bố thí đến 1 Ðức Phật Ðộc Giác thì quả báu nhiều hơn bố thí đến 100 vị Thánh A-ra-hán.

 

Người nào làm phước bố thí đến 100 Ðức Phật Ðộc Giác thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 Ðức Phật Ðộc Giác.

 

Người nào làm phước đến Ðức Phật Toàn Giác thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 Ðức Phật Ðộc Giác"....

 

Qua đoạn kinh trên, chúng ta nhận thấy sự khác biệt, mà có thể so sánh được quả báu của phước thiện bố thí ngoài Phật giáo và quả báu của phước thiện bố thí trong Phật giáo. Trong Phật giáo, quả báu cũng khác biệt giưõa các bậc Thánh thấp với bậc Thánh cao; giữa các bậc Thánh A-ra-hán với Ðức Phật Ðộc Giác, Ðức Phật Toàn Giác.

 

Như vậy, bậc nào có giới đức, định đức, tuệ đức, giải thoát đức, giải thoát tri kiến đức hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, thí chủ làm phước thiện bố thí đến bậc ấy có được nhiều phước thiện, có quả báu cao quý nhất.

 

Người Tại Gia Cư Sĩ

 

Người tại gia sinh sống bằng sức lao động của mình, để tạo ra của cải rồi hưởng thụ của cải ấy trong cuộc sống hằng ngày, có những điều đáng chê trách và đáng ca tụng.

 

Trong kinh Kāmabhogīsutta [Agattaranikāya, Dasakanipāta], Ðức Phật dạy ông phú hộ Anāthapiṇṇika có đoạn:

 

"Này phú hộ, có 10 hạng người sống tại gia:

 

1- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 3 điều:

 

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.

Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.

Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

 

2- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình được an lạc, nhưng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 2 điều, đáng ca tụng 1 điều:

 

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.

Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

 

3- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều, đáng ca tụng 2 điều:

 

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.

Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

 

4- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp và hợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 3 điều, đáng ca tụng 1 điều:

 

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.

Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.

Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

 

5- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp và hợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; nhưng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 2 điều, đáng ca tụng 2 điều:

 

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.

Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

 

6- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải không hợp pháp và hợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều, đáng ca tụng 3 điều:

 

Chê trách: Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

 

7- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc, và cũng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 2 điều và đáng ca tụng 1 điều:

 

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.

Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

 

8- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc, nhưng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều và đáng ca tụng 2 điều:

 

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

 

9- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh; nhưng tâm còn tham đắm say mê, bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần; không thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, không có trí tuệ cứu giúp mình giải thoát sự ràng buộc của ngũ trần.

 

Hạng người tại gia này đáng chê trách 1 điều và đáng ca tụng 3 điều:

 

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

 

Chê trách: Là người có tâm tham đắm, say mê, bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, không thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, không có trí tuệ cứu giúp mình giải thoát sự ràng buộc của ngũ trần.

 

10- Hạng người tại gia lao động tạo ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh; đặc biệt tâm không tham đắm say mê, không bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tánh các pháp, không bị ràng buộc trong ngũ trần và không chấp thủ trong ngũ trần.

 

Hạng người tại gia này đáng ca tụng đầy đủ 4 điều:

 

Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

Ca tụng: Là người không có tâm tham đắm, say mê, không bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, có trí tuệ thấy tội lỗi của ngũ trần, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tánh các pháp, không bị ràng buộc trong ngũ trần và không chấp thủ trong ngũ trần.

 

Bố Thí Tạo Tội Lỗi

 

Bố thí là việc làm sử dụng của cải đem ra ban bố, phân phát đến người khác, chúng sinh khác, về hình thức xem như là việc đối xử tốt. Việc bố thí để tạo phước thiện hay tạo tội lỗi còn tuỳ thuộc vào tác ý và kết quả của nó.

 

Nếu bố thí với tác ý thiện tâm, có những vật thí nào đem lại cho người thọ thí, hoặc thí chủ, hoặc cả hai (người thọ thí và thí chủ) sự an lạc lâu dài, thì việc bố thí ấy tạo phước thiện, không tạo tội lỗi.

 

Nếu bố thí với tác ý bất thiện, có những vật thí nào đem lại cho người thọ thí, hoặc thí chủ, hoặc cả hai (người thọ thí và thí chủ) sự khổ não lâu dài, thì việc bố thí ấy tạo tội lỗi, không phải tạo phước thiện.

 

Trong bộ Milindapañhā: Ðức vua Milinda vấn đạo, có đề cập đến 10 vật bố thí có tội là:

 

1- Majjadāna: bố thí rượu, chất say, ma tuý, heroin, thuốc phiện, thuốc lá, v.v....

2- Samajjadāna: bố thí lễ hội vui chơi, say mê....

3- Itthidāna: bố thí kỹ nữ ăn chơi truỵ lạc....

4- Usabhadāna: bố thí bò đực giao cấu với bò cái.

5- Cittakammadāna: bố thí những tranh ảnh khiêu dâm.

6- Satthadāna: bố thí vũ khí sát sanh.

7- Visadāna: bố thí thuốc độc sát sanh.

8- Sankhālikādāna: bố thí xiềng xích, gông cùm.

9- Kukkuasūkāradāna: bố thí gà heo để làm thịt.

10- Tulākūamānakūadāna: bố thí cân thiếu (trọng lượng), thước đo thiếu.

 

Những vật bố thí trên làm cho người thọ thí phải phạm giới, phát sanh phiền não, ác pháp, thiện pháp không thể phát sanh. Như vậy, dầu thí chủ có tác ý tốt như thế nào, sự thật những vật thí đem lại sự tai hại cho người thọ thí, thì sự bố thí ấy chắc chắn không phải tạo nên phước thiện, chỉ tạo nên tội lỗi ác nghiệp mà thôi. Do đó, thí chủ phải chịu khổ kiếp hiện tại; sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh phải chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

 

Xét về vật bố thí: vàng, bạc, tiền bạc

 

Ðối với người tại gia vàng, bạc, tiền bạc là thứ rất cần thiết trong cuộc sống, dùng để mua bán trao đổi hàng hoá hằng ngày. Thí chủ đem vàng, bạc, tiền bạc bố thí giúp đỡ những người tại gia với nhau là việc làm phước thiện.

 

Ðối với hàng xuất gia là Sa di, Tỳ khưu thì vàng, bạc, tiền bạc là thứ không hợp với giới luật của Sa di, Tỳ khưu mà Ðức Phật đã chế định như:

 

- Trong Sa di thập giới, giới thứ 10, Ðức Phật chế định ban hành rằng:

 

"Jātarūpa - rajata - paiggahanā veramai-sikkhāpada samādiyāmi".

"Con xin thọ trì điều học là tác ý tránh xa sự thọ nhận vàng, bạc".

 

Ðức Phật đã chế định ban hành đến cho tất cả Sa di, Sa di phải nghiêm chỉnh thực hành theo, không được phạm giới, phá giới.

 

Nếu Sa di nào thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc, Sa di ấy phạm giới thứ 10 của Sa di.

 

- Trong Bhikkhupātimokkha, Tỳ khưu giới gồm có 227 điều học, trong phần 30 giới Nissaggiya pācittiya, điều giới thứ 18 Ðức Phật chế định ban hành rằng:

 

18- "Yo pana bhikkhu jātarūpa rajata uggaheyya vā uggahāpeyya vā upanikkhitta vā sādiyeyya, nissaggiya pācittiya".

 

"Tỳ khưu nào tự mình thọ nhận vàng, bạc (tiền bạc) hoặc sai người thọ nhận vàng, bạc, hoặc hài lòng hoan hỉ vàng, bạc (tiền bạc) cất giữ dành cho riêng mình, Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ vàng, bạc (tiền bạc) ấy".

 

19- "Yo pana bhikkhu nānappakāraka rūpiyasavohāra samāpajjeyya, nissaggiya pācittiya".

 

"Tỳ khưu nào dùng tiền bạc (vàng, bạc) mua sắm thứ vật dụng nào, Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy".

 

20- "Yo pana bhikkhu nānappakāraka kayavikkhaya samāpajjeyya, nissaggiya pācittiya".

 

"Tỳ khưu nào mua bán, trao đổi, Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy".

 

[Bhikkhupātimokkhapāi, phần Nissaggiya pācittaya]

 

Ðức Phật đã chế định giới điều và ban hành đến tất cả Tỳ khưu, Tỳ khưu cần phải nghiêm chỉnh hành theo, không được phạm giới, phá giới.

 

Trường hợp phạm giới - cách sám hối

 

Nếu vị Tỳ khưu nào thọ nhận vàng, bạc (tiền bạc) riêng cho mình; trước tiên, cần phải xả bỏ vàng, bạc (tiền bạc) ấy, đúng theo cách thức mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu; sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có sabhāgāpatti [*] theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

 

[*] Sabhāgāpatti: Hai vị Tỳ khưu phạm giới có cùng đối tượng như nhau.Ví dụ: một vị giết muỗi, một vị giết kiến, hai vị Tỳ khưu này đều phạm giới pācittaya, không được phép sám hối với nhau.

 

Nếu vị Tỳ khưu nào dùng tiền bạc mua sắm thứ vật dụng nào dùng cho mình; trước tiên, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy, đúng theo cách thức mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu; sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có sabhāgāpatti theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

 

Nếu vị Tỳ khưu nào mua bán, trao thứ vật dụng đổi không hợp với giới luật của Tỳ khưu; trước tiên, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy, đúng theo cách thức mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu; sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có sabhāgāpatti theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

 

Trong giới luật Tỳ khưu, vị Tỳ khưu nào dùng tiền bạc mua sắm một thứ vật dụng nào dùng cho mình, thứ vật dụng ấy là vật làm cho phạm giới, không chỉ vị Tỳ khưu ấy không được phép sử dụng, mà còn các vị Tỳ khưu khác cũng không được phép sử dụng; thậm chí đem cho thứ vật dụng ấy đến vị Sa di, thì vị Sa di ấy cũng không được phép sử dụng nữa.

 

Như vậy, những thứ vàng, bạc, tiền bạc , vật dụng nào là vật làm cho phạm giới Tỳ khưu, Tỳ khưu cần phải xả bỏ những thứ ấy đúng theo cách thức của mỗi vật, mà Ðức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu. Nếu vị Tỳ khưu nào không chịu xả bỏ thứ vật dụng ấy, thì dầu cho vị Tỳ khưu ấy có sám hối āpatti bao nhiêu lần đi nữa cũng không thể thoát khỏi āpatti (phạm giới).

 

Tai hại của sự phạm giới

 

Vị Tỳ khưu nào phạm giới: dầu giới nặng hay nhẹ, như giới tác ác, giới ác khẩu, thì vị Tỳ khưu ấy bị trở ngại cho sự tiến hóa trong mọi thiện pháp, nhất là trở ngại cho sự tiến hành thiền định và tiến hành thiền tuệ, trở ngại cho sự chứng đắc các bậc thiền, Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn.

 

Trong Chú giải dạy:

 

"Āpannā āpattiyo’ti, sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā, sañcicca vītikkantañhi antamaso dukkaadubbhāsitampi saggamagga-phalāna antarāya karoti..." [Bộ Magalatthadīpanī, phần Vinayakathā]

 

"Āpannā āpattiyo’ti": "Tỳ khưu đã phạm giới": nghĩa là Tỳ khưu có tác ý phạm phải 7 loại āpatti (phạm giới). Sự thật, điều nguy hại đối với Tỳ khưu có tác ý phạm phải āpatti, dầu chỉ là dukkaa āpatti (giới tác ác), dubbhāsita āpatti (giới ác khẩu) cũng có thể làm trở ngại cho sự tái sanh lên cõi trời dục giới, cho sự chứng đắc các bậc thiền định, Thánh Ðạo, Thánh Quả...".

 

Nếu vị Sa di, Tỳ khưu phạm giới ấy, chưa sám hối, chưa làm cho giới trở nên trong sạch trước khi chết, sau khi chết, do giới không trong sạch, thì khó tránh khỏi bị sa đoạ trong cõi ác giới.

 

Ðức Phật dạy:

 

"Sāpattikassa bhikkhave niraya vā vadāmi tiracchānayoni vā’ti. Sāpattikasseva āpāyagamitā vuttā". [Bộ Saraṭṭhadīparūīkā , bộ Magalaṭṭhadīpanū]

 

"Này chư Tỳ khưu, Như Lai răn dạy các con: đối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) sẽ tái sanh cảnh địa ngục, hoặc loài súc sanh. Ðối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) chỉ có con đường ác giới mà thôi".

 

Xin dẫn chứng:

 

Trong bộ Chú giải Pháp cú, tích Erakapatta-nāgarājavatthu tóm lược như sau:

 

Trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa, một vị Tỳ khưu trẻ ngồi trên thuyền trong dòng sông Gaga, nước chảy xiết, vị Tỳ khưu ấy nắm bụi cỏ bên bờ sông, làm cho đứt lá cỏ, coi thường không sám hối āpatti. Sau đó, vị Tỳ khưu ấy một mình hành đạo trong rừng, đến lúc lâm chung hình ảnh lá cỏ hiện ra như quấn vào cổ, khi ấy, không có vị Tỳ khưu nào để sám hối āpatti, tâm hối hận phát sanh nghĩ rằng: "aparisuddha me sīla: giới của mình không trong sạch", nên sau khi vị Tỳ khưu ấy chết, do tâm ô nhiễm ấy, tái sanh làm loài súc sanh là long vương Erakapatta, đến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, long vương Erakapatta vẫn chưa thoát khỏi kiếp súc sanh.

 

Ðức Phật chế định giới điều cấm Sa di, Tỳ khưu thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc dành riêng cho mình; nếu vị Sa di, Tỳ khưu nào thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc riêng cho mình, thì vị Sa di, Tỳ khưu ấy phải phạm giới, giới không trong sạch.

 

Nếu Sa di, Tỳ khưu nào phạm giới do nguyên nhân thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc trực tiếp từ thí chủ dâng đến mình, dẫn đến những tai hại cho đời sống phạm hạnh của Sa di, Tỳ khưu trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai, thì thử hỏi:

 

- Thí chủ có được phước thiện bố thí thật hay không?

 

- Có phải thí chủ hộ độ Sa di, Tỳ khưu giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật của Sa di, Tỳ khưu mà Ðức Phật đã chế định ban hành đến Sa di, Tỳ khưu hay không?

 

- Có phải thí chủ hành đúng theo lời giáo huấn của Ðức Phật hay không?

 

- Có phải thí chủ có bổn phận bảo tồn Phật giáo cho được trường tồn lâu dài trên thế gian này không?

 

V.v....

 

Ðó là những vấn đề mà thí chủ nên có trí tuệ suy xét đúng đắn, kỹ lưỡng trước khi làm một việc gì.

 

Làm đúng lời dạy của Ðức Phật, thì có phước.

 

Làm sai lời dạy của Ðức Phật, thì có tội.

 

Không làm thì không tạo nghiệp, khi đã làm rồi, thì đã tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp, mà thiện nghiệp hoặc ác nghiệp đều do con người có quyền chủ động chọn lựa nên hay không nên. Nhưng quả của thiện nghiệp, ác nghiệp thì không có quyền chọn lựa, hoàn toàn bị động, phải chấp nhận như người thừa kế của nghiệp.

 

Thiện ghiệp cho quả an lạc.

Ác nghiệp cho quả khổ.

 

Người Phật tử có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, chắc chắn không có một ai muốn hậu quả không tốt sẽ phát sanh đến cho mình và những bậc thân yêu kính mến của mình. Nhưng một khi đã làm không đúng theo lời dạy của Ðức Phật, đã tạo ác nghiệp rồi, thì dầu muốn dầu không cũng phải chấp nhận quả của thiện ác nghiệp của mình đã tạo.

 

Bởi vậy cho nên, người Phật tử cần phải nên học hỏi để hiểu biết rõ:

 

Thế nào là tạo thiện nghiệp?

Thế nào là tạo ác nghiệp?

 

Thế nào là tạo phước thiện?

Thế nào là tạo tội ác?

 

Nhờ sự hiểu biết đúng đắn, mới có trí tuệ sáng suốt chọn lựa:

 

Nên cố gắng tạo mọi thiện nghiệp, mọi phước thiện.

Nên cố gắng tránh xa mọi ác nghiệp, mọi tội ác....

 

Thì chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho mình, cho mọi người, mọi chúng sinh..., đồng thời duy trì Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại.

 

Biết cách bố thí tạo phước thiện

 

- Phước thiện bố thí tiền bạc dâng gián tiếp đến Sadi, Tỳ khưu một cách hợp pháp

 

Thí chủ bố thí dâng tiền bạc trực tiếp đến cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu là điều bất hợp pháp, vì làm cho vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy phải phạm giới.

 

Trường hợp, người thí chủ có đức tin trong sạch nơi cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu nào, có tác ý thiện tâm muốn làm phước hộ độ 4 thứ vật dụng cần thiết đặc biệt đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy; nhưng tự mình không có điều kiện mua sắm những thứ vật dụng cần thiết làm phước bố thí trực tiếp dâng đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy; thí chủ có thể làm phước thiện bố thí bằng một số tiền theo cách gián tiếp. Trước tiên, thí chủ trao số tiền ấy cho người trung gian "người hộ Tăng" (Veyyāvaccakara), có phận sự lo công việc giúp đỡ hộ độ Sa di, Tỳ khưu trong chùa, nhờ người hộ Tăng thay mặt mình lo mua sắm thứ vật dụng cần thiết để làm phước bố thí dâng đặc biệt đến cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy. Sau đó, thí chủ đến bạch cho vị Sa di, Tỳ khưu ấy biết rõ rằng:

 

Kính bạch Sư (Ðại Ðức), con có gởi một số tịnh tài (tiền) nhờ người hộ Tăng "tên A" thay mặt con tìm những thứ vật dụng cần thiết dâng đến Sư (Ðại Ðức), khi nào Sư (Ðại Ðức) cần đến thứ vật dụng nào, xin thỉnh Sư đến gặp người hộ Tăng "tên A" ấy, nhờ người ấy đi tìm thứ vật dụng ấy dâng đến Sư (Ðại Ðức).

 

Ðiều này đã được Ðức Phật cho phép trong giới thứ 10 trong phần 30 điều giới Nisssaggiya pācittiya.

 

Trong điều giới này, thí chủ muốn làm phước dâng một thứ vật dụng nào, bằng một số tiền tương đương, đến riêng cá nhân vị Tỳ khưu nào, vị Tỳ khưu ấy phải từ chối bằng khẩu và thân, không được phép thọ nhận trực tiếp số tiền ấy, cũng không sai bảo người khác nhận cho mình. Nếu người thí chủ hỏi để biết người hộ Tăng, thì vị Tỳ khưu ấy có thể giới thiệu cho thí chủ được biết người hộ Tăng ấy. Ðiều trước tiên, thí chủ trực tiếp đến gặp người hộ Tăng và gởi số tiền, nhờ mua sắm giùm thứ vật dụng ấy. Sau đó, thí chủ đến bạch cho vị Tỳ khưu ấy biết. Khi nào vị Tỳ khưu ấy cần đến thứ vật dụng ấy, có thể đến gặp người hộ Tăng bảo rằng: Sư cần đến thứ vật dụng ấy. Người hộ Tăng đi tìm mua sắm thứ vật dụng ấy thay mặt thí chủ làm phước dâng đến vị Tỳ khưu ấy, thuộc về cá nhân thí, nên phước thiện bố thí được nhiều hay ít, tuỳ thuộc vào người thọ thí có giới đức trong sạch hay không trong sạch. Ðó là việc làm hợp với giới luật của Ðức Phật đã ban hành.

 

- Phước thiện bố thí tiền bạc dâng trực tiếp đến chư Tỳ khưu Tăng

 

Thí chủ có đức tin trong sạch đến chư Tỳ khưu Tăng, có tác ý thiện tâm muốn làm phước hộ độ 4 thứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ khưu Tăng. Thí chủ ấy có thể làm phước bố thí dâng một số tiền trực tiếp đến chung cho chư Tỳ khưu Tăng (không riêng cho cá nhân vị Tỳ khưu nào), để lo mua sắm những thứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ khưu Tăng. Vị Ðại Ðức đại diện chư Tỳ khưu Tăng có thể trực tiếp nhận số tiền ấy bằng khẩu (lời nói), nhưng không nên thọ nhận trực tiếp tiền bạc bằng thân [*], vì tiền bạc là vật mà Tỳ khưu không nên đụng chạm. Do đó, vị Ðại Ðức gọi người hộ Tăng cất giữ số tiền bạc ấy, và đi mua sắm những thứ vật dụng dâng chung đến chư Tỳ khưu Tăng.

 

[*] Tiền bạc, vàng, bạc, các đồ châu báu là những vật mà Tỳ khưu đụng chạm vào bị phạm giới dukkaa; nếu thọ nhận riêng cho mình thì phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ.

 

Thí chủ biết cách làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng, thuộc về Tăng thí, chắc chắn có phước thiện vô lượng, và có quả báu của phước thiện vô lượng kiếp.

 

* Phước thiện bố thí tiền bạc cúng dường Tam bảo

 

Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tác ý thiện tâm muốn dâng một số tiền, để cúng dường Tam bảo.

 

Cúng dường Phật bảo: xây cất chánh điện để tôn thờ Ðức Phật, tu sửa chánh điện, v.v....

 

Cúng dường Pháp bảo: ấn hành kinh sách, để truyền bá giáo pháp của Ðức Phật.

 

Cúng dường Tăng bảo: hộ độ 4 thứ vật dụng cần thiết như: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu Tăng.

 

Vị Sa di, vị Tỳ khưu nào theo pháp học, nên mua sắm sách, vở ... dâng đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy.

 

Vị Sa di, vị Tỳ khưu nào theo pháp hành, nên hộ độ đặc biệt y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy.

 

Nếu vị Sa di, vị Tỳ khưu bị lâm bệnh, nên hộ độ đặc biệt cứu chữa cho vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy mau khỏi bệnh.

 

Thí chủ có đức tin trong sạch, có tác ý thiện tâm dâng tiền bạc dầu ít dầu nhiều tuỳ theo khả năng của mình cúng dường Tam bảo, chắc chắn có phước thiện bố thí vô lượng, có quả báu của phước thiện vô lượng kiếp.

 

Như vậy, thí chủ có thể làm phước thiện bố thí dâng một số tiền trực tiếp đến vị Ðại Ðức trụ trì chùa, hoặc một vị Ðại Ðức đại diện chư Tỳ khưu Tăng thọ nhận trực tiếp bằng khẩu (lời nói), nhưng không nên thọ nhận trực tiếp tiền bạc bằng thân. Vị Ðại Ðức ấy gọi người hộ Tăng trong chùa cất giữ số tiền ấy, để lo phụng sự ngôi Tam bảo.

 

Phật Giáo Tồn Tại

 

Giáo pháp Ðức Phật Gotama của chúng ta được tồn tại 5.000 năm trên thế gian, có nghĩa là đến thời điểm đó, Phật giáo hoàn toàn bị tiêu hoại, bị mất hẳn. Bởi vì, không còn có người nào học và hành, hiểu biết về Phật giáo nữa.

 

Phật giáo đó là pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo và pháp thành Phật giáo. Hoàn toàn thuộc về nội tâm, không có một hình thức nào.

 

Thời kỳ Phật giáo phát triển, nhờ các hàng Phật tử là bậc xuất gia và tại gia cư sĩ tinh tấn, kiên trì, chăm chỉ theo học pháp học, thông thuộc Tam tạng, Chú giải bằng ngôn ngữ Pāi, lời giáo huấn của Ðức Phật, và thực hành nghiêm chỉnh theo pháp hành giới, hành định, hành tuệ, dẫn đến kết quả chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

 

Ðến thời kỳ Phật giáo suy đồi; do các hàng Phật tử là bậc xuất gia, và tại gia cư sĩ dần dần chểnh mảng việc theo học pháp học, giảm dần đức tin, thiếu tinh tấn thực hành theo pháp hành giới, pháp hành định, pháp hành tuệ. Do đó, A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả bậc cao bị tiêu hoại từ từ, đến bậc Bất Lai Thánh Ðạo – bậc Bất Lai Thánh Quả; bậc Nhất Lai Thánh Ðạo – bậc Nhất Lai Thánh Quả; cho đến cuối cùng bậc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả bậc thấp cũng suy đồi. Theo thời gian, trí tuệ kém dần, số hành giả tiến hành thiền tuệ không còn đúng theo Pháp hành Trung đạo, do đức tin giảm dần, nên việc gìn giữ giới không hoàn toàn trong sạch.

 

Sự tiêu hoại về pháp học Phật giáo, bắt đầu tiêu hoại Vi diệu pháp tạng bằng ngôn ngữ Pāi, còn Kinh tạng và Luật tạng, thì Phật giáo vẫn còn tồn tại.

 

Ðến khi tiêu hoại Kinh tạng bằng ngôn ngữ Pāi, còn Luật tạng, thì Phật giáo vẫn còn tồn tại.

 

Ðến khi Luật tạng tiêu hoại dần, chỉ còn hình thức Tỳ khưu mặc y màu lỏi mít, khi ấy Phật giáo vẫn còn tồn tại.

 

Cho đến khi hình thức chỉ còn một miếng vải màu y quấn nơi cổ hoặc cột cổ tay, vẫn còn nghe gọi tên "Tỳ khưu", khi ấy Phật giáo vẫn còn tồn tại. Cho đến không còn miếng vải màu y, cũng không còn ai gọi đến tên "Tỳ khưu" nữa, lúc ấy, thật sự Phật giáo hoàn toàn tiêu hoại trên thế gian. Như vậy, Luật tạng là nền tảng căn bản của Phật giáo.

 

Trong Chú giải Luật tạng dạy:

 

"Vinayo nāma Buddhasāsanassa āyu

Vinaye hite, sāsana hita hoti".

 

[Vinayapiaka aṭṭhakāthā, Parājikakaṇṇānidāna]

 

"Luật tạng là tuổi thọ Phật giáo,

Khi Luật tạng được trường tồn,

Thì Phật giáo được trường tồn".

 

Cho nên, công việc bảo tồn Phật giáo là phận sự chung của các hàng Phật tử: bậc xuất gia và hàng tại gia cư sĩ.

 

Phật giáo được phát triển hay suy đồi chính là do bên trong các hàng Phật tử; còn bên ngoài, người ngoài chắc chắn không thể làm cho Phật giáo được phát triển hoặc suy đồi.

 

Vậy, muốn cho pháp học Phật giáo được phát triển, mỗi người Phật tử cần phải học hỏi nghiên cứu, hiểu rõ đúng đắn theo Tam tạng – Chú giải bằng ngôn ngữ Pāi, lời giáo huấn của Ðức Phật và động viên khuyến khích người khác cũng học như vậy.

 

Và pháp hành Phật giáo được phát triển, mỗi người Phật tử cần phải gìn giữ giới cho được trong sạch, tinh tấn tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo, và động viên khuyến khích người khác cũng hành như vậy.

 

Như vậy, Phật giáo có thể phát triển nơi người Phật tử này, lại có thể suy đồi nơi người Phật tử khác.

 

Phật giáo có thể phát triển nơi này, lại có thể suy đồi nơi khác.

 

Phật giáo có thể phát triển nơi dân tộc này, lại có thể suy đồi nơi dân tộc khác.

 

Cho đến khi Phật giáo không còn tồn tại nơi người nào cả, nơi dân tộc nào cả, khi ấy mới gọi là Phật giáo hoàn toàn tiêu hoại trên thế gian.

 

Giáo pháp của Ðức Phật Gotama trường tồn 5.000 năm trên thế gian. Như vậy, đến nay đã trải qua 2.546 năm rồi, phần thời gian còn lại 2.454 năm nữa. Cho nên, chúng ta nhận thấy Phật giáo đang suy đồi nơi một số người này, một dân tộc này, đó cũng là việc bình thường tự nhiên. Ðiều tốt hơn hết, mỗi người trong chúng ta, ai cũng có tâm niệm đúng đắn rằng: "Phật giáo đang hiện hữu trong tôi, tôi cố gắng tinh tấn, kiên trì làm cho Phật giáo được phát triển".

 

Như vậy, Phật giáo được trường tồn sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an vui cho tất cả chúng sinh, nhất là chư thiên và nhân loại.

 

 

 

 

 

 

 

 

Hỏi: Kính thưa Thầy, có một sĩ quan quân đội hỏi con, vào chùa lễ Phật, một người cúng dường 1000đ và một người cúng dường 100.000đ thì người nào có phước đức hơn?

 

Đáp: Trong giới luật Phật, cấm các tu sĩ không được cất giữ tiền bạc. Người cất giữ tiền bạc thì bị tội xả đọa (Ni tát kỳ ba dật đề).

Phật tử vào chùa lạy Phật, cúng tiền bạc dù một đồng cho đến hằng tỷ đồng đã không có phước báo mà còn phi công đức như:

1- Khiến cho chư tăng ham mê tiền bạc mà quên giữ gìn Thánh hạnh của mình, đó là phi công đức thứ nhất.

2- Có tiền khiến cho chư tăng sa ngã chạy theo dục lạc thế gian, sống hưởng thụ, không giữ gìn giới luật, khiến cho người đời khinh chê Phật pháp và cũng vì vậy, khiến cho Phật pháp suy đồi, đó là phi công đức thứ hai.

3- Có tiền, khiến chư tăng chạy theo danh lợi, quên hạnh thiểu dục tri túc, phòng hộ sáu căn, đó là phi công đức thứ ba.

4- Có tiền, khiến cho chư Tăng xây dựng chùa to Phật lớn, làm cho dính mắc vật chất, tâm không xả ly dục và ác pháp, đó là điều phi công đức thứ tư.

5- Có tiền cúng dường của đàn na, thí chủ đem về nuôi giòng họ anh em con cháu và xây mồ mả tổ tiên, cất nhà cao cửa rộng cho cha mẹ ở, đó là điều phi công đức thứ năm.

6- Cúng dường tiền bạc cho bọn đầu trộm đuôi cướp gian xảo lợi dụng chiếc áo cà sa đi xin (khất thực) tiền bạc bất chánh, đó là điều phi công đức thứ sáu.

Do sáu điều phi công đức trên đây, người Phật tử cúng dường tiền bạc đã không được phước báo mà lại còn thêm sáu tội rất nặng, đó là tội diệt Phật pháp.

 

Xưa, đức Phật và chư Thánh Tăng đi khất thực tứ sự vừa đủ cho cuộc sống tu hành và thực phẩm, ngày ăn một bữa, không để dành và cũng không có xin tiền bạc. Ngày nay, gặp tu sĩ đi xin tiền bạc thì đó là những tu sĩ giả mạo, chứ không phải là người tu chơn chánh.

 

Người Phật tử nào cúng dường tiền bạc là người Phật tử đã bị kinh sách phát triển lừa đảo lường gạt “phước báo” để lấy tiền làm giàu riêng cho cá nhân, ngồi mát hưởng bát vàng.

 

Do sự cúng dường tiền bạc của Phật tử thiếu trách nhiệm và bổn phận đối với Phật giáo, nên có một số người lợi dụng kẽ hở đó chui vào Phật giáo, kinh doanh buôn Phật bán Pháp lẫn trong chiếc áo cà sa làm việc tồi tệ, khiến cho người đời không kính trọng Phật giáo.

 

Tóm lại, cúng dường chư Phật và chư thánh tăng, dù một đồng hay một tỷ đồng thì cũng không được phước báo một chút gì cả mà lại còn thêm tội. Phải nói người cúng một đồng ít tội hơn người cúng một tỷ đồng, vì cúng dường nhiều, khiến cho chư Tăng dễ sa ngã chạy theo vật chất, quên đường tu hành nên phải tội nhiều hơn. Khi cúng dường tiền bạc thì nên giao cho một người cư sĩ nguyện trọn đời mình lo cho đời sống chư Tăng thì được phước, vì đó là cúng dường đúng chánh pháp.

 

>>>Không biết thì ko có tội, việc làm trước đây của bạn xem như vẫn có phước nhưng sau này biết rồi phải lưu ý nhé. Phật chỉ cho phép chúng ta cúng dường Tứ Sự thôi: đó là Thức Ăn, Y phục, Thuốc men, và Liêu cốc (chỗ ở). Ngoài ra trong chùa nếu có 1 phật tử phát nguyện công quả thì bạn được phép gửi tiền cho vị ấy để lo cho chư Tăng. Trường hợp này hợp lệ (ko phạm giới)