TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ
Nguyên tác: Pháp sư Thánh Nghiêm
Việt dịch: Thích Nhuận Độ
Pháp môn Tịnh độ, tuy nói đơn giản rõ ràng dễ tu nhưng nếu
muốn nghiên cứu đến chỗ thâm sâu tận cùng của tư tưởng Tịnh độ
thì đây cũng là một vấn đề hết sức phiền phức cho người nghiên
cứu. Dù vậy thời gian gần đây, giới Tín đồ Phật giáo Trung Quốc
còn chưa có người chú ý đến tính phức tạp của pháp môn Tịnh độ.
Tôi là người rất thích môn lịch sử mà lịch sử Phật giáo Trung
Quốc có một khuynh hướng không ngờ, tức là phần lớn mọi người
đều chú trọng vấn đề Giới luật, nhưng đa số cũng coi trọng việc
khảo sát lịch sử. Tuy nhiên đối chiếu mục lục sử truyện ... chúng ta
thấy các bậc cổ đức ngày xưa đã cống hiến rất lớn, như ngài Tăng
Hựu, Bảo Xướng, Tuệ Kiểu, Đạo Tuyên, Nghĩa Tịnh, Trí Thăng,
Viên Chiếu, Tán Ninh .... . Phần lớn các vị này có liên quan đến
nguồn gốc của việc chấn hưng Luật học. Tôi không thể đủ tư cách
bàn đến Giới luật, nhưng tôi là người trải qua nhiều năm công phu
chân chánh, thực hành trong vấn đề Giới luật, coi như đã hoàn
thành một giai đoạn. Vì thế tôi lại chú ý tập trung nghiên cứu về
phần giáo sử.
Thế nhưng sau khi tôi tiếp xúc tư liệu Giáo sử khổng lồ, càng
nhận thấy việc nghiên cứu Phật pháp rất khó khăn. Nhờ hiểu biết
đôi chút về tiếng Nhật, rồi tìm hiểu thành quả nghiên cứu và
phương pháp Trị học của nước Nhật Bản thời cận đại, tôi lại nhận
thấy không đủ khả năng bàn luận đến bốn chữ: “Nghiên cứu Phật
pháp”. Nhưng giới tín đồ Phật giáo Trung Quốc hiện nay, mọi
người hiểu biết một cách sơ sài ngay cả tình hình thông thường
như thế, chính tôi cũng không thể biết nhiều. Trước hoàn cảnh như
vậy, tôi không thể nào không hết sức cố gắng, cho nên mới mời
pháp sư Tịnh Hải cùng biên soạn một bộ: “Sử cương Phật giáo thế
giới”, nhằm để truyền bá một ít quan điểm về tư tưởng Tịnh độ,
hầu giúp những người sơ cơ nhập đạo. Do danh tiếng của hai
chúng tôi quá sức tầm thường không đáng kể, nên ít được sự ủng
2 TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ
hộ của mọi người, vì vậy việc sưu tập tham khảo phải tìm tòi ở
trong các loại thư tịch để viết một bộ: “Sử cương Phật giáo”, song
cũng gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, người biên tập của hội “Vô tận đăng”, muốn tôi viết
một tác phNm có liên quan đến pháp môn Tịnh độ. Với tâm nguyện
của tôi, nếu có khả năng tốt nhất là viết một bộ: “Tịnh độ giáo lý tư
tưởng sử”. Bởi vì Phật giáo Trung Quốc từ trước đến nay, phần lớn
số người chuyên tu pháp môn Tịnh độ rất nhiều, nhưng lại rất ít
người hiểu biết để phát triển tư tưởng Tịnh độ. Mặc dù đây là vấn
đề sâu xa, thiết nghĩ lại lưu truyền lâu dài, và căn cứ theo tình hình
Phật giáo Trung Quốc hiện nay mà nói, trải qua từng thời kỳ của
các vị Tổ sư thì tư tưởng Tịnh độ ở mỗi ngài đều có quan điểm sở
trường riêng biệt.
Đại khái như đã nói ở trên, tư tưởng Tịnh độ của Phật giáo
Trung Quốc thời cận đại, tiếp nhận ảnh hưởng hai vị đại sư Liên
Trì và Ngẫu Ích rất lớn. Hiện nay tôi đang tham khảo tư tưởng
Tịnh độ của đại sư Liên Trì và bộ “Trung Quốc Tịnh độ giáo lý
sử” của ngài Vọng Nguyệt Tín Đình người Nhật Bản. Vậy tôi xin
lược qua và trích dẫn một ít, để giới thiệu đến độc giả.
I. SỰ TÍCH VỀ ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ.
Đại sư Liên Trì, còn gọi là Châu Hoằng, tự Phật Huệ, hiệu là
Liên Trì. Ngài là người huyện Nhân Hòa tỉnh Chiết Giang, nay
thuộc huyện Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi, ngài thi đỗ tú tài, nổi
tiếng về học hành. Ngài thường nghe bà lão láng giềng hằng ngày
niệm Phật, lấy làm la. Nhân lúc rổi rảnh ngài sang chơi, mới hỏi
Bà lão: “Niệm Phật để làm gì?” Bà lão trả lời: “Ông nhà của tôi
lúc sinh tiền chuyên lo niệm Phật, đến khi lâm chung không bệnh
tình gì mà ra đi, nên tôi biết công đức niệm Phật không thể nghĩ
bàn”. Do có túc căn sâu dày, nên sau khi nghe xong câu chuyện
này, đại sư Liên Trì liền thâm tín hiểu rõ, không còn nghi ngờ, từ
đó hướng tâm về pháp môn Tịnh độ. Ngài lại tự tay viết bốn chữ:
“Sống chết việc lớn” (Sanh tử sự đại) đặt ở đầu bàn viết, để tự
cảnh tỉnh mình.
TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ 3
Năm 27 tuổi cha mất, năm 32 tuổi mẹ mất, (nhằm vào năm 45
niên hiệu Gia Tỉnh triều nhà Minh - 1566 T.L) cũng vào năm đó
ngài phát tâm xuất gia. Trước tiên ngài tìm đến đại sư Tánh Thiên
ở núi Tây Sơn xin xuống tóc xuất gia. Sau đó, theo ngài Chiêu
Khánh Vô Trần thọ Cụ túc giới, rồi đến phương bắc yết kiến đảnh
lễ đại sư Biến Dung. Đại sư dạy rằng: “Chớ vì tham lam danh lợi,
chỉ lấy nhất tâm mà hành đạo, luôn luôn trì giới niệm Phật”. Nghe
xong đại sư Liên Trì hết sức cảm động, vâng theo và ghi nhớ
không quên.
Thời gian thấm thoát trôi qua, ngài lại đến Liễu Hạng cầu học
với ngài Tiếu Nham Đức Bảo là pháp tôn của ngài Thiên Kỳ Bản
Thụy. Ở đây, ngài được truyền dạy rất nhiều. Trên đường đi đến
Đông Xương, ngài chợt nghe tiếng trống trên gác lầu canh, hốt
nhiên đại ngộ, nhân tiện ngài làm một bài kệ:
Ba mươi năm trước việc đáng ghi,
Ngoài ba ngàn dặm gặp sau kỳ,
Đốt hương, liệng kích dường như mộng,
Ma, Phật tranh suông thị lẫn phi1.
Vào năm thứ năm, niên hiệu Long Khánh (1571 TL), đại sư
Liên Trì đi đến núi Vân Thê, tỉnh Hàng Châu, thấy cảnh sơn thủy
hữu tình u tịch, thâm tâm ngài rất thích ở chỗ này và quyết chí cất
am ở lại trong núi, bắt đầu chuyên tu niệm Phật Tam-muội, đồng
thời ngài vân tập Tăng chúng và Phật tử xa gần đến để giảng dạy
cho họ. Chẳng bao lâu nơi này thành một đại Tùng Lâm.
Năm thứ 12 niên hiệu Vạn Lịch (1584 TL), ngài sưu tập những
chuyện “Niệm Phật vãng sanh” từ xưa đến nay mà viết thành bộ
“Vãng sanh tập”.
Năm thứ 20 niên hiệu Vạn Lịch, ngài đến chùa Tịnh Từ ở
Hàng Châu, làm chủ tọa khai đàn thuyết pháp. Trong thời gian ở
đây, ngài đề xướng quy chế Giới Đàn, khuyến khích mọi người
thực hành phương pháp tự thệ thọ giới. Đồng thời ngài đích thân
soạn văn giới sát phóng sanh, khuyên bảo mọi người không nên sát
4 TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ
sanh hại vật, hơn nữa ngài dốc hết sức mình phát động đào ao
phóng sanh ở trong núi, kể cả nội thành và ngoại thành. Đại sư
Liên Trì là hành giả Tịnh độ và cũng là hành giả Thiền tông, cho
nên đại sư Liên Trì là người chủ trương Thiền Tịnh đồng quy.
Ngài rất đau lòng cho tín đồ Thiền tông đương thời, hạng người
hiểu biết cạn cợt, tâm kiêu ngạo, lấy lý lẽ của Thiền tông để giải
thích pháp môn Tịnh độ. Đương nhiên, người chủ trương Thiền
Tịnh song tu, bắt đầu từ thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ ở cuối đời
nhà Đường và trải qua đời nhà Tống thì có thiền sư Cao Phong
Nguyên Diệu, cho đến đại sư Liên Trì Châu Hoằng là tập đại
thành. Ngài sao chép những điều trọng yếu của hai ngài, Vĩnh
Minh Diên Thọ và Cao Phong Nguyên Diệu để khai thị cho hàng
học giả.
Vào tháng 7 năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch, nhân lúc bệnh
nặng ngài liền soạn ra “Ba điều đáng tiếc và mười điều đáng than”,
để cảnh sách đại chúng và dặn đi dặn lại phải “luôn luôn niệm
Phật”. Khuyên bảo các đệ tử xong, ngài an nhiên thị tịch, thọ 81
tuổi. Hậu thế suy tôn ngài làm tổ thứ tám của hội “Liên xã”.
Ngài trước tác rất nhiều tác phNm như: A-di-đà kinh sớ sao (4
quyển), Vãng sanh tập (3 quyển), Tịnh độ nghi biện (1quyển),
Thiền quan sách tấn (2 quyển), Phạm võng kinh giới sớ phát Nn (5
quyển), Lăng-già kinh mô tượng ký (1 quyển), Truy môn sùng
hạnh lục (1 quyển), Sơn phùng tạp lục (3 quyển), Trúc song tùy
bút (2 quyển) ... Toàn tập của ngài gọi là “Vân thê pháp vị”, tính
tổng cộng là 32 quyển.
II. TƯ TƯỞNG THIỀN TNNH ĐỒNG QUY.
Đứng về giáo lý Tịnh độ, lập trường của đại sư Liên Trì là đem
kinh điển Tịnh độ chia làm ba loại:
1. Kinh Vô lượng thọ và kinh A-di-đà gọi là “Đồng bộ”.
2. Kinh Quán vô lượng thọ và kinh Cổ âm vương cùng với bài
kệ kinh A-di-đà gọi là “Đồng loại”
TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ 5
3. Kinh Hoa nghiêm và kinh Pháp hoa cho đến tất cả kinh điển
Tịnh độ đã nói rõ, gọi là “Phi loại phi bộ”. Ở trong ba loại kinh
này, đại sư Liên Trì đặc biệt chú trong kinh A-di-đà, vì để “Trì
danh niệm Phật”. Hơn nữa, pháp môn này phù hợp với trình độ
căn cơ và hoàn cảnh mọi người. Kinh này cũng hoàn toàn do đức
Phật nói ra nguyên do có mười việc lớn, cho nên đại sư Liên Trì
đối với kinh A-di-đà hết sức tinh tấn hành trì. Ngài nói rằng: “giáo
lý bao quát một đời của đức Phật, mục đích không ngoài việc:
Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”.
Ngài dùng kinh này, để giải thích có mười nghĩa, hiện ghi chép
ở trong “Di-đà kinh sớ sao”, quyển 1:
1. Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, nên đức Phật nói kinh
này làm cầu bến cho đời mạt pháp nương tựa.
2. Vì trong vô lượng pháp môn, thì pháp môn này là tối thắng.
3. Vì sanh tử của chúng sanh mà giúp họ lìa khổ được vui.
4. Vì giáo hóa dẫn dắt hàng nhị thừa “chấp không” chẳng lo tu
Tịnh độ.
5. Vì khuyên những người mới phát tâm hành Bồ-tát đạo, nên
cố gắng niệm Phật để được gần gũi đức Như Lai.
6. Vì muốn độ thoát tất cả các hàng độn căn, lợi căn.
7. Vì muốn hộ trì những người tu hành gặp nhiều chướng nạn
khỏi bị đọa lạc.
8. Vì khai ngộ cho người, tự tâm hữu niệm mà nhập vô niệm.
9. Vì khai ngộ, nhân vãng sanh mà thật ngộ quả vô sanh .
10. Vì chỉ rõ trong các con đường tu hành thì đây là con đường
ngắn nhất.
6 TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ
Nên biết, đức Phật thuyết kinh A-di-đà, sự thật do hoài bão và
lòng thương xót rộng lớn của Ngài. Vì trong thời kỳ mạt pháp,
chúng sanh bị phiền não đau khổ quấy nhiễu, nên Ngài nói ra kinh
này để chỉ bày một con đường tắt duy nhất nhằm giúp chúng sanh
thoát ly sanh tử. Đồng thời đại sư Liên Trì lại căn cứ Phán giáo của
Ngũ giáo Hoa nghiêm tông, dựa vào kinh A-di-đà mà thâu nhiếp
Đốn giáo, kiêm thông cả Chung giáo và Viên giáo. Chính vì chỗ
thâu nhiếp Đốn giáo, cho nên kinh này nói địa vị phàm phu tuy bạc
mỏng, nhưng nếu trì danh niệm Phật thì sau khi lâm chung liền
được vãng sanh Tịnh độ, dự vào ngôi “Bất thoái chuyển”, thành
tựu đại sự thoát ly sanh tử, khác hẳn với Tiệm giáo cần phải trải
qua nhiều kiếp tu hành mới có thể nhập vào địa vị “Bất thối”. Nhờ
kiêm thông cả Chung giáo nên niệm Phật vãng sanh Tịnh độ, sau
này mới có thể dần dần thành Phật. Còn kiêm thông Viên giáo là
chỉ cho chúng ta thấy cảnh giới Tịnh độ, như ở trong kinh A-di-đà
nói: Nước, chim, cây, rừng, khắp nơi, hết thảy đều là diễn bày diệu
pháp của đức Như Lai hóa hiện ra. Lại ở trong kinh Vô lượng thọ,
đức Phật nói: có thể ở trong “Cây báu” đó cũng đủ thấy hết mười
phương cõi Phật. Tuy đức Phật A-di-đà thường trụ Tây phương
Tịnh độ nhưng cũng biến khắp mười phương cõi Phật. Lại cũng từ
trong mỗi mỗi đóa hoa phóng ra ba mươi sáu ức Na-do-tha2, trăm
ngàn ánh sáng quang minh, trong mỗi mỗi ánh sáng lại hiện ra 36
ức Na-do-tha trăm ngàn thân Phật, khắp vì tất cả mười phương
chúng sanh nói pháp. Những cảnh giới này, đều do “Sự sự vô
ngại” của Nhất thừa Biệt giáo trong Hoa nghiêm. Cho nên kinh Adi-
đà và kinh Vô lượng thọ đều thâu nhiếp vào phạm vi Đốn giáo.
Chúng ta nên biết, ngài Thanh Lương Trừng Quán đem Thiền tông
thâu nhiếp vào Đốn giáo, đại sư Liên Trì chủ trương Thiền Tịnh
“Đồng quy”, vì thế cũng đem kinh A-di-đà và kinh Vô lượng thọ
của Tịnh độ tông nhiếp vào trong Đốn giáo. Bởi vì, theo quan
điểm của hai ngài là Tịnh độ tông phải đặt trên nền tảng “Tâm,
Phật và chúng sanh tam vô sai biệt”. Tâm tức là Phật thì Phật cũng
là chúng sanh, như vậy chúng ta niệm Phật, thành chúng sanh
trong tâm của chư Phật và lúc niệm chư Phật trong tâm chúng
sanh. Đây là Đốn giáo.
TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ 7
Lại nói niệm Phật, niệm cho đến “Nhất tâm bất loạn”, nghĩa là
niệm đến chỗ tận cùng để trở về “không niệm” cũng chính là niệm
mà không niệm, thì mới gọi là chân niệm. Do đó, trọn ngày niệm
Phật chủ yếu là đạt đế__________n chỗ vô niệm, tức là đạt đến cái lý vô niệm.
Cầu sanh Tịnh độ là liễu ngộ cái “bất khả đắc”, nghĩa là không
sanh mà sanh, sanh mà thật chẳng sanh, chính là ý nghĩa “Tự tánh
Di-đà duy tâm Tịnh độ”. Tư tưởng này căn cứ nơi lý luận Thiền,
Tịnh đều quy về một chỗ nhất tâm.
III. THỰC TIỄN TNNH ĐỘ TÍN NGUYỆN HẠNH
Đại sư Liên Trì căn cứ theo thuyết của ngài Tử Nguyên (đời
nhà Tống) và ngài Phổ Độ (đời nhà Nguyên), là xác nhận rằng,
hành giả muốn thực hành pháp môn Tịnh độ, cần phải chuNn bị
đầy đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh.
1. Tín: Là tin rằng chúng sanh với Phật chẳng phải hai, chúng
sanh niệm Phật nhất định sẽ được vãng sanh và cũng nhất định
thành Phật. Cho nên, ở trong kinh A-di-đà đức Thích Tôn đã nói:
“Các ngươi đều phải tin theo lời Ta dạy”.
2. Nguyện: Nếu quả thật chỉ tin thôi mà không phát nguyện
hành trì, thì làm sao đến được cảnh giới Tây phương Cực lạc, cần
phải cầu vãng sanh mới được vãng sanh. Vì thế trong kinh A-di-đà
nói: “Cần phải phát nguyện, nguyện sanh về cảnh giới Tây phương
Cực lạc”.
3. Hạnh: Nếu phát nguyện mà không hành trì, thì chỉ là phát
nguyện suông, bởi thế cần phải tiến thêm một bước nữa, thường
tinh tấn thực hành mỗi niệm mỗi niệm nối tiếp nhau không để gián
đoạn. Ví như trong kinh A-di-đà nói: “Phải nắm giữ danh hiệu
Phật, niệm cho đến nhất tâm bất loạn”.
Điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh chính là ba loại tư lương cần
thiết cho việc vãng sanh Tịnh độ, nếu thiếu một trong ba loại thì
không thể được. Bởi vì ba loại tư lương này như một vòng tròn
không đầu mối, ba loại này là yếu tố quan trọng liên kết với nhau
8 TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ
để hành trì, dẫn dắt đến con đường giải thoát. Nhưng trong ba loại
tư lương này thì loại thứ ba “Chấp trì danh hiệu” (Phải nắm giữ
danh hiệu Phật, niệm cho đến nhất tâm bất loạn) cũng hàm chứa
nội dung ba món tuệ: Văn, Tư, Tu.
a. Văn tuệ: Là sau khi đọc kinh biết được bổn nguyện đức
Phật A-di-đà, liền nghĩ nhớ danh hiệu của Ngài nên gọi là Văn
Tuệ.
b. Tư tuệ: Sau khi nghe được danh hiệu biết được bổn nguyện
của đức Phật A-di-đà, lúc ấy liền tác ý tiếp thọ, nhưng phải tiếp thọ
như thế nào? Đương nhiên là dùng tâm tiếp thọ, nên gọi là Tư tuệ.
c. Tu tuệ: Sau khi tiếp thọ danh hiệu, phải giữ gìn không quên,
cho nên tu tuệ chính là niệm niệm nối tiếp nhau không dứt.
Phương pháp tu tập của pháp môn niệm Phật phân ra làm ba loại:
1. Niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà thành tiếng gọi là “Minh
trì”.
2. Niệm mà tâm niệm, gọi là “Mặc trì”.
3. Niệm khẽ nhắp môi giống như pháp môn trì chú Kim cang
gọi là “Nửa minh trì, nửa mặc trì”.
Ở trong pháp môn niệm Phật cũng chia ra hai cách:
- Niệm Phật có tính số và niệm Phật không tính số. Tuy nhiên
có người dùng đến hạt đậu nhỏ để tính và có người niệm Phật chú
tâm vào số lần họ niệm. Ở đây đại sư Liên Trì không quy định
cứng rắn, miễn là người trì danh niệm Phật, việc tính số hay không
tính số đều tùy theo chỗ thuận của mỗi người mà thực hành. Vì
công năng niệm Phật cốt quan trọng ở chỗ nhất tâm bất loạn, nên
số lượng ít hay nhiều không liên quan đến ý chính.
TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ 9
IV. ĐẠO LÝ NHẤT TÂM BẤT LOẠN
Nhất tâm bất loạn là đem tâm của chúng ta chuyên chú vào
một đối tượng, không bị một loại trạng thái nào làm khởi lên vọng
tưởng tán loạn. Nhưng ở đây nói đến hai phương diện: nhất tâm về
sự và nhất tâm về lý .
1. Nhất tâm về sự: Khi niệm danh hiệu Phật, miệng đọc tai
nghe, tâm phải ghi nhận từng chữ từng chữ rõ ràng không bị gián
đoạn, ngay cả việc đi, đứng, nằm, ngồi nhất nhất chỉ một niệm
không có niệm thứ hai. Nhân đó mà ngăn chặn phiền não tạp niệm
tham sân si ..., hết thảy những tâm cảnh bên trong cũng như ngoại
cảnh bên ngoài đều loại bỏ. Nếu đạt đến giai đoạn này, thì dần dần
sẽ thành tựu được Tín lực, vì chỉ có lòng tin vững chắc và hiểu biết
như vậy, mới có thể điều phục được phiền não .
2. Nhất tâm về lý: Khi nghe danh hiệu Phật không những nhớ
nghĩ thường niệm, mà còn quán xét trở lại căn nguyên để đạt đến
cực điểm, tức là có thể quay về bổn tánh chơn như, khế hợp với
căn nguyên mà thành tựu được nhất tâm. Từ đây cũng có hai giai
đoạn:
Thứ nhất: “Năng niệm và sở niệm” biến đổi không ngoài hoàn
cảnh xung quanh, tức là bên trong tâm mình “năng niệm” không
có khác đức Phật bên ngoài “sở niệm”. Nếu bỏ đi đức Phật bên
ngoài “sở niệm” thì đức Phật trong tâm mình cũng không có “năng
niệm”, chỉ là nhất tâm mà thôi.
Thứ hai: “Năng niệm và sở niệm” là chẳng phải có, chẳng phải
không, lìa nghĩa tứ cú (có, không, cũng có, cũng không, chẳng
phải có chẳng phải không), dứt đường suy luận, không có tướng
trạng. Tức là ở trong sự nhất tâm thì năng niệm và sở niệm liền
tiêu dứt, không còn ngoài sự thấy biết, đích xác là như vậy. Vì “lý
thể” khế hợp với bản tánh thanh tịnh.
Đây là lý quán sự tướng thuần túy không hai. Khi năng lực
quán sát này đã thành tựu, là ở vào địa vị kiến đạo, thì có thể phá
10 TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ
trừ hết phiền não tạp niệm. Hơn nữa lý nhất tâm này, bao quát vô
cùng sâu rộng, ví như: “Nhất hạnh tam-muội” trong kinh Văn Thù
Bát-nhã, “Nhất hạnh niệm Phật” và “Nhất thời niệm Phật” trong
kinh Hoa nghiêm, “Quán Phật chơn như pháp thân” trong luận
Khởi tín cũng đồng nghĩa với nhất tâm. Lại như trong kinh Quán
vô lượng thọ, đã nói ba tâm: Chí thành tâm ... . Ba tâm trong luận
Khởi tín: Chân tâm ... . Ba tâm trong luận Vãng sanh: Thanh tịnh
tâm ... cho đến mười tâm trong kinh Hoa nghiêm và mười tâm
trong kinh Bảo tích cũng đều quy về nhất tâm này. Lại trong kinh
Tịnh danh nói tám pháp, Tỳ-kheo Đức Vân nói rõ hai mươi mốt
loại niệm Phật, cũng không ngoài lý nhất tâm này. Ở đây hàng Bồ-
tát gọi là niệm Phật “Tam-muội” trong thiền của Tổ sư Đạt-ma dạy
chính là “Trực chỉ chơn tâm”. Cho nên một tiếng niệm Phật có thể
diệt trừ tám mươi ức kiếp tội nặng trong sanh tử, đạo lý chỉ ở tại
pháp môn niệm Phật này cho đến cảnh giới lý nhất tâm mà thôi.
Chúng ta biết, niệm Phật tuy dễ dàng nhưng đạo lý thật không đơn
giản, nếu chẳng niệm đến nhất tâm bất loạn, thì sự liễu ngộ của ta
hết sức là nông cạn. Vì theo sở kiến của đại sư Liên Trì thì pháp
môn niệm Phật là giản dị, nhưng là cực kỳ tinh thâm, trong khi
thực hành thì rất đơn giản, hàm chứa “Triết lý tư biện” (triết lý tư
duy phân biệt) rất sâu xa. Cho nên người đời gọi ngài là “Đại Sư”,
vì nếu một hành giả Tịnh độ bình thường thì không đủ tư cách làm
một vị “Đại Sư”. Thời nay có người cho rằng pháp môn Tịnh độ là
giáo lý cạn cợt chỉ để tiếp dẫn những người sơ cơ nhập đạo mà
thôi, nhưng nếu chỉ luận bàn chỗ nông cạn đó thì quả là người
thiếu hiểu biết, chưa có đi sâu vào giáo lý Tịnh độ. Đại sư Liên Trì
lại căn cứ trong “Phổ Hiền hạnh nguyện phNm sớ” của đại sư Tông
Mật, đem pháp môn niệm Phật phân ra làm bốn loại:
1. Xưng danh niệm Phật: Là dựa vào trì danh niệm Phật mà
trong kinh A-di-đà đã nói rõ.
2. Quán tượng Niệm Phật: Tức là tập trung tư tưởng tâm thức,
quán tưởng chiêm ngưỡng hình tượng Phật được tạo lập từ đất, gỗ,
vàng, đồng, giấy ... để giúp tâm an trụ vào chánh niệm.
TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ 11
3. Quán tưởng niệm Phật: Là căn cứ theo phương pháp ở trong
kinh “Quán Phật tam-muội” và kinh “Thập lục quán” (16 phép
quán) đã nói rõ, nên dùng nhãn tâm quán tưởng đến thân tướng tốt
đẹp của Như Lai.
4. Thật tướng niệm Phật: Là lìa bỏ sự đối đãi giữa sanh và diệt,
không và có, năng và sở ... cũng hoàn toàn dứt hẳn ngôn ngữ và
danh tự, lìa hẳn tâm duyên, chuyên niệm tự tánh “Thiên chân
Phật”, nghĩa là Pháp thân Phật, bản lai thanh tịnh vốn sẵn có nơi
mỗi chúng sanh. Ví như kinh Hoa nghiêm nói: “Nếu muốn thấy
thế giới Cực lạc của đức Phật A-di-đà, thì tùy ý liền thấy”. Đây
chính là “Thật tướng niệm Phật”. Trong bốn cách niệm Phật thì
cách thứ tư hơn cách thứ nhất, vì cách thứ nhất “Xưng danh niệm
Phật” rất thiển cận, còn “Thật tướng niệm Phật” thì toàn diện hơn.
“Thật tướng niệm Phật” chính là lý nhất tâm, nên có thể vận dụng
cả đầu và cuối, đó là phương tiện thù thắng nhất.
V. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ
Đứng về phương diện giải thích thì “Nhất tâm bất loạn” phân
làm hai loại: Nhất tâm về sự và nhất tâm về lý. Chủ trương đề
xướng thuyết này, bắt đầu từ thiền sư Tịnh Giác Nhân Nhạc, sau
đó có thêm ngài Thiên Như Duy Tắc và Trạm Đường Tánh Trừng
mà đại sư Liên Trì là người kế thừa, noi theo ý nguyện của các bậc
Cổ đức đi trước, nhưng ở phương diện giải thích lại có phần khác
đôi chút so với tôn chỉ của các ngài. Ngài Tịnh Giác Nhân Nhạc và
các vị khác đều đứng trên lập trường giáo nghĩa Thiên thai tông
mà giải thích lý nhất tâm, nhằm để thích hợp với nghĩa “Nhất tâm
tam quán”. Họ là những người đề xướng Thiên thai tông và Tịnh
độ tông dung hợp, tức là căn cứ nơi giáo nghĩa và sự hành trì của
họ mà lập luận. Nhưng đại sư Liên Trì không phải là học giả của
Thiên thai tông, cho nên ngài nhận định rằng: nếu muốn thể
nghiệm lý nhất tâm thì phải quay về thNm xét lĩnh hội chỗ tận cùng
của bổn tâm mình. Đây cũng là “Trực chỉ thiền” của Tổ sư Đạtma.
Dựa theo lý luận này, ngài Liên Trì lấy đó làm cơ sở để hợp
nhất Thiền tông và Tịnh độ.
12 TƯ TƯ_NG T_NH ĐO C_A Đ_I SƯ LIÊN TRÌ
Đại sư Liên trì nối gót theo ngài Vĩnh Minh Diên Thọ mà tập
đại thành, Thiền Tịnh viên dung. Vì ngài Vĩnh Minh Diên Thọ và
các vị tổ sư khác kết hợp cả Thiền tông và Tịnh độ, chẳng qua
muốn giúp cho những hành giả Thiền tông bụng rỗng tâm ngạo,
chỉ hiểu biết phiến diện mà cố chấp chẳng thực sự tu hành, khuyên
họ nên kiêm tu niệm Phật. Trước đây bản chất của hai tông Thiền,
Tịnh phủ định là hai, trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền.
Sau này nhờ tham cứu trong luận Niệm Phật của đại sư Ngẫu Ích
cũng có nói Thiền tông và Tịnh độ vốn không hai. Đồng thời đại
sư Ngẫu Ích đề xướng chỉnh đốn thống nhất Giáo, Luật, Thiền
tông quy về nhất nguyên, đây là một lập luận mới, hơn nữa đại sư
Ngẫu Ích cũng có thêm kiến giải mới đối với tư tưởng Tịnh độ.
Vấn đề này, đến phần đại sư Ngẫu Ích sẽ nói rõ hơn.
Tóm lại, tư tưởng của Tịnh độ tông không phải là không thay
đổi, mà vẫn luôn luôn thay đổi. Đến thời cận đại, đại sư Ấn Quang
là tổ thứ mười ba của “Liên xã” vẫn có chỗ bất đồng trong quan
điểm tư tưởng giữa mười ba vị tổ. Bởi vì, cứ trải qua từng thời kỳ
thì trình độ căn cơ của mọi người có chỗ sai biệt, nên tư tưởng
Tịnh độ của mỗi ngài có sự khác nhau. Nhưng trên nguyên tắc thì
nên tuân theo một điều, dù có thay đổi đến vạn lần hay dưới hình
thức nào đi nữa cũng không rời căn bản Tam vô lậu học. Chính là
giới, định, tuệ. Người tu theo pháp môn niệm Phật cần phải chú
trọng hành trì, Ngũ giới, Thập thiện, cho đến Lục độ và Tứ nhiếp
pháp, chứ không thể chỉ nương một câu niệm Phật A-di-đà, vì ở
trong kinh A-di-đà đã nói rõ: “Bất đắc dĩ thiểu thiện căn phước
đức nhơn duyên, đắc sanh bĩ quốc” (Nghĩa là không thể dùng chút
ít nhân duyên thiện căn phước đức mà được sanh về cõi Tây
phương Cực lạc).
Cho nên hành giả niệm Phật đến nhất tâm bất loạn hoặc được
Tam-muội, thì công phu ấy chính là thiền định, bởi do trì giới niệm
Phật thực hành Văn, Tư, Tu, thì nhất định có thể phát sanh trí tuệ
vô lậu, đoạn trừ vọng tưởng của căn bản phiền não, giải thoát sanh
tử luân hồi. Tư lương của hành giả cầu sanh Tịnh độ là Tín,
Nguyện, Hạnh, nhưng khi hành trì thì chắc chắn lấy niệm Phật làm
căn bản. Vì thế phải lấy bố thí, trì giới để trợ giúp lẫn nhau. Đây là
cách nhìn nhận của tôi (ngài Thánh Nghiêm) đối với hành giả Tịnh
độ tông.
--- o0o ---