KINH ĐẠI-THỪA BẢN-SINH
TÂM-ĐỊA-QUÁN
(KINH BỔN SINH - TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT)
Đường, Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt.
I. PHẨM TỰA
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật (Grdhrakùta), thành Vương-xá (Ràjagrha) cùng với ba vạn hai nghìn Đại-tỷ-khưu[2]. Các vị đều là bậc A-la-hán[3]: tâm thiện giải-thoát[4], tuệ thiện giải thoát[5], chỗ tạo-tác đã xong[6], bỏ mọi gánh nặng[7], việc lợi mình đã được, hết mọi sự ràng-buộc trong các cõi, được đại-tự-tại, an-trụ trong giới-phẩm thanh-tịnh, phương-tiện[8] khéo-léo, trí-tuệ trang-nghiêm, chứng được tám pháp giải-thoát, đến bờ Niết-bàn[9] như là: Cụ Thọ[10] A-Nhã-Kiều-Trần-Như (Tàu dịch: Hỏa-khí), A-Sử-Bỉ-Thất-Đa (Tàu dịch: Mã-thắng), Ma-Ha-Na-Ma (Tàu dịch:Đại-danh), Ba-Đế-Lỵ-Ca (Tàu dịch: Tiểu-hiền), Ma-Ha Ca-Diếp (Tàu dịch: Đại Ẩm-quang), Kiều-Phạm-Ba-Đề (Tàu dịch: Ngưu-Tư) La Ba-Đa (Tàu dịch:Tinh-tú), Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp (Tàu dịch:Mộc-qua-lâm), Na-Đề Ca-Diếp, Già-Gia Ca-Diếp (Tàu dịch: Tượng-thành), Xá-Lỵ-Phất (Tàu dịch: Thu-lộ-tử), Đại Mục-Kiền-Liên (Tàu dịch: Đại-tán-tụng), Ma-Ha Ca-Chiên-Diên (Tàu dịch: Đại-Hảo-kiên), Ma-Ha Ca-Tỳ-Na (Tàu dịch: Phòng-Tú), Chân-Đề-Na (Tàu dịch: Uy-như-vương), Phú-Lâu-Na-Di-Đa-La-Ni-Tử (Tàu dịch: Mãn-nguyện-tử), A-Ni-Lâu-Đà (Tàu dịch: Vô-diệt như-ý), Vi-Diệu-Tý, Tu-Bồ-Đề (Tàu dịch: Thiện-hiện), Bạc-Câu-La (Tàu dịch: Thiện-dung), Tôn-Đà-La-Nan-Đà (Tàu dịch: Diễm-hỷ) La-Hầu-La (Tàu dịch: Phú-chướng)…; các vị như thế đều là Cụ Thọ, A-la-hán cả.
Và, có những bậc Hữu-học[11] như ông A-Nan (Tàu dịch: Khánh-hỷ) v.v…đều cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng nhau lễ xuống chân Phật, lui ra, ngồi về một bên.
Lại có tám vạn bốn nghìn Đại-bồ-tát[12] cùng ở nơi Phật. Các vị đều là Đại-pháp-vương-tử[13], nhất sinh bổ-xứ[14], có uy-đức lớn như Đại-long-vương, trăm phúc viên-mãn, thân-quang chói-lọi như nghìn mặt trời làm quang-đãng mọi tối-tăm, trí-tuệ lắng-suốt, hơn cả bể lớn; hiểu thấu cảnh-giới bí-mật của chư Phật[15], đốt đuốc đại-pháp, dẫn-dắt chúng-sinh[16]; làm bậc Đại-thuyền-sư trong bể sinh-tử, thương-xót chúng-sinh như con đỏ, thường bố-thí cho chúng-sinh sự an-vui trong hết thảy thời-gian, tiếng khen đồn khắp mười phương thế-giới; thần-thông vi-diệu, tự-tại du-hí; đã thấu rõ được các môn Tổng-trì[17], đủ bốn pháp biện-tài vô-ngại tự-tại[18], đã viên-mãn được đại-nguyện tự-tại, thành-tựu tốt-đẹp sự-nghiệp tự-tại, đã chứng-nhập được Tam-muội[19] tự-tại, hoàn-toàn viên-mãn phúc-đức tự-tại; thường là người bạn không phải thỉnh của chúng-sinh, trải qua vô-lượng kiếp siêng tu sáu Độ[20], phụng-sự chư Phật khắp mãi, không an-trụ nơi Niết-bàn; dứt mọi phiền-não, giảng-thuyết diệu-pháp, trong vô-lượng thế-giới, giáo-hóa, đem lợi-ích cho mọi loài; ngăn mọi ngoại-đạo, nén dẹp tâm tà, xa-lìa nhân chấp đoạn, chấp thường, làm cho chúng-sinh sinh ra chính-kiến[21] mà không còn có tướng dao-động, lui tới; không phải trang-nghiêm mà là trang-nghiêm cả mười phương cõi Phật, không nói mà như nói ra diệu-lý tịch-diệt, ở nơi vô-sở-trụ (nơi không còn có chỗ chấp trước), độ cho chúng-sinh trong Nhân, Thiên, không ai là không lĩnh-thụ được những pháp mầu vui-vẻ, rộng lớn; mặc áo giáp tinh-tiến, cầm gươm trí-tuệ, đánh vang trống pháp, phá bọn ma-quân, thân thường thị-hiện[22] ngồi khắp trong hết thảy đạo-tràng[23] thổi loa đại-pháp, giác-ngộ mọi loài, hết thảy hữu-tình đều được nhờ lợi-ích, ai nghe thấy tên hiệu, trông thấy sắc-thân, không đến nỗi luống qua không ích gì, mà được đầy-đủ ba đạt-trí[24], ngộ được pháp của ba đời[25], biết rõ mọi căn linh-lợi, ngu-độn của chúng-sinh, tùy bệnh cho thuốc, mà không còn nghi-hoặc; chia rải mây đại-pháp, rưới mưa cam-lộ[26] chuyển trí-ấn pháp-luân[27] không thoái-chuyển, đóng ngục sinh-tử, mở cửa Niết-bàn, phát thệ-nguyện rộng, cho đến khi hết thuở vị-lai, nguyện độ thoát mọi loài. Các vị Bồ-tát ấy không bao lâu sẽ được đạo-quả Vô-thượng chính-đẳng, chính-giác[28]. Các vị ấy là: Vô-Cấu Bồ-tát, Di-Lặc (Tàu dịch: Từ-thị) Bồ-tát, Sư-Tử-Hống Bồ-tát, Diệu-Cát-Tường Bồ-tát, Duy-Ma-Cật (Tàu dịch: Tịnh-danh, Vô-cấu-xưng) Bồ-Tát, Quán-Tự-Tại Bồ-tát, Đắc-Đại-Thế Bồ-tát, Kim-Cương-Tạng-Vương Bồ tát, Địa-Tạng-Vương Bồ-tát, Hư-Không Tạng-Vương Bồ-tát, Đà-Ra-Ni Tự-Tại-Vương Bồ-tát, Tam-Muội Tự-Tại-Vương Bồ-tát, Diệu-Cao-Sơn-Vương Bồ-tát, Đại-Hải Thâm-Vương Bồ-tát, Diệu-Biện-Nghiêm-Vương Bồ-tát, Hoan-Hỷ Cao-Vương Bồ-tát, Đại-Thần Biến-Vương Bồ-tát, Pháp Tự-Tại-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Vũ-Vương Bồ-tát, Dược-Vương Bồ-tát, Dược-Thượng Bồ-tát, Liệu-Phiền-Não-Bệnh Bồ-tát, Bảo-Sơn Bồ-tát, Bảo-Tài Bồ-tát, Bảo-Thượng Bồ-tát, Bảo-Đức Bồ-tát, Bảo-Tạng Bồ-tát, Bảo-Tích Bồ-tát, Bảo-Thủ Bồ-tát, Bảo-Ấn-Thủ Bồ-tát, Bảo-Quang Bồ-tát, Bảo-Thí Bồ-tát, Bảo-Chàng Bồ-tát, Đại-Bảo-Chàng Bồ-tát, Bảo-Vũ Bồ-tát, Bảo-Đạt Bồ-tát, Bảo-Trượng Bồ-tát, Bảo-Kế Bồ-tát, Bảo-Cát-Tường Bồ-tát, Bảo-Tự-Tại Bồ-tát, Chiên-Đàn-Hương Bồ-tát, Đại-Bảo-Cự Bồ-tát, Đại Bảo-Nghiêm Bồ-tát, Nhật-Quang Bồ-tát, Nguyệt-Quang Bồ-tát, Tinh-Quang Bồ-tát, Hỏa-Quang Bồ-tát, Điện-Quang Bồ-tát, Năng-Niệm-Tuệ Bồ-tát, Phá-Ma Bồ-tát, Thắng-Ma Bồ-tát, Thường-Tinh-Tiến Bồ-tát, Bất-Hưu-Tức Bồ-tát, Bất-Đoạn-Đại-Nguyện Bồ-tát, Đại-Danh-Xưng Bồ-tát, Vô-Ngại-Biện-Tài Bồ-tát, Vô-Ngại Chuyển-Pháp-Luân Bồ-tát. Các vị Bồ-tát, như Vô-Cấu Bồ-tát Ma-ha-tát… trên đây như thế, cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có ức vạn Thiên-tử trên Lục-Dục-Thiên[29] như: Thiện-Trụ Thiên-tử, Uy-Đức Thiên-tử, Phổ-Quang Thiên-tử, Thanh-Tịnh-Tuệ Thiên-Tử, Cát-Tường Thiên-Tử, Đại-Cát-Tường Thiên-Tử, Tự-Tại Thiên-tử, Đại-Tự-Tại Thiên-tử, Nhật-Quang Thiên-tử, Nguyệt-Quang Thiên-tử… Trong các vị Thiên-tử ấy, Thích-Đề-Hoàn-Nhân[30] làm Thượng-Thủ[31]. Và, các vị ấy đều ưa thích diệu-pháp Đại-thừa, nguyện theo và phụng-sự các đức Như-Lai trong ba đời, vào cảnh-giới bí-mật bất-tư-nghị, trang-nghiêm các hội đạo-tràng của chư Phật[32]. Tất cả các vị Thiên-Tử ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có Hằng-hà-sa[33] Thiên-tử trong cõi Sắc, như: Đại-Quang-Phổ-Chiếu Thiên-tử, Vô-Cấu Trang-Nghiêm Thiên-tử, Thần-Thông Du-Hí Thiên-tử, Tam-Muội Tự-Tại Thiên-tử, Đà-Ra-Ni Tự-Tại Thiên-tử, Đại-Na-La-Diên Thiên-tử, Viên-Mãn Thượng-Nguyện Thiên-tử, Vô-Ngại Biện-Tài Thiên-tử, Cát-Tường Phúc-Tuệ Thiên-tử, Thường-Phát Đại-Nguyện Thiên-tử… Trong các vị Thiên-tử ấy, Quang-Minh Đại-Phạm Thiên-Vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ Tam-muội thần-thông, nhạo-thuyết biện-tài, thường thường phụng-sự chư Phật Như-Lai trong ba đời khi ở dưới gốc cây Bồ-đề[34], ngồi tòa Kim-Cương, phá ma-quân rồi, chứng đạo Bồ-đề, đến khắp chúng-hội và, đều ở trong lúc đầu tiên, khuyến-thỉnh Như-Lai quay xe diệu-pháp, mở cửa cam-lộ, độ mọi người trong cõi Nhân, Thiên; ngộ được ý-thú bí-mật của chư Phật, trong đạo Đại-bồ-đề, không còn thoái-chuyển[35]. Tất cả các vị Thiên-tử ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có bốn vạn tám nghìn vị Đại-Long-vương, như: Ma-Na-Tư Long-vương, Đức-Soa-Ca Long-vương, Nan-Đà Long-vương, Bạt-Nan-Đà Long-vương, A-Nốc-Đạt-Trì Long-vương, Đại-Kim-Diện Long-vương, Như-Ý-Bảo-Châu Long-vương, Vũ-Diệu-Trân-Bảo Long-vương, Thường-Chú Cam-Vũ Long-vương, Hữu Đại-Uy-Đức Long-vương, Cường-Lực Tự-Tại Long-vương… Trong các vị Long-vương ấy, Sa-Kiệt-La Long-vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều ưa-thích diệu-pháp Đại-thừa, phát thệ-nguyện rộng, cung-kính hộ-trì chính-pháp[36]. Tất cả các vị Đại-Long-Vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có năm vạn tám nghìn Dược-xoa-thần[37], như: Đại-Sư-Tử-Vương Dược-xoa-thần, Chuyển-Luân-Quang-Chiếu Dược-xoa-thần, Diệu-Na-La-Diên Dược-xoa-thần, Thậm-Khả-Bố-Úy Dược-xoa-thần, Liên-Hoa-Quang-Sắc Dược-xoa-thần, Chư-Căn-Mỹ-Diệu Dược-xoa-thần, Ngoại-Hộ Chính-Pháp Dược-xoa-thần, Cúng-Dàng Tam-Bảo Dược-xoa-thần, Vũ-Chúng Trân-Bảo Dược-xoa-thần, Ma-Ni-Bát-La Dược-xoa-thần… Trong các Dược-xoa-thần ấy, Tăng-Thận Nhĩ-Tà Dược-xoa-thần làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ trí-quang (ánh sáng trí-tuệ) khó nghĩ bàn, trí-cự (ngọn đuốc trí-tuệ) khó nghĩ bàn, trí-hành (hành-tướng trí-tuệ) khó nghĩ bàn, trí-tụ (giới-đức trí-tuệ) khó nghĩ bàn, mà thường vì chúng-sinh chế-phục những ác-quỷ, khiến họ được an-vui, làm cho phúc-đức, trí-tuệ được tăng-trưởng, diên-trường và giữ-gìn Đại-thừa-pháp không đoạn-tuyệt[38]. Tất cả các vị Dược-xoa-thần ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có tám vạn chín nghìn Càn-thàt-bà-vương[39], như: Đỉnh-Thượng-Bảo-Quan Càn-thát-bà-vương, Phổ-Phóng Quang-Minh Càn-thát-bà vương, Kim-Cương Bảo-Chàng Càn-thát-bà-vương, Diệu-Âm Thanh-Tịnh Càn-thát-bà-vương, Biến-Chí Chúng-Hội Càn-thát-bà-vương, Phổ-Hiện Chư-Phương Càn-thát-bà-vương, Ái-Nhạo Đại-Thừa Càn-thát-bà-vương, Chuyển Bất-Thoái-Luân Càn-thát-bà-vương… Trong các vị Càn-thát-bà-vương ấy, Chư-Căn Thanh-Tịnh Càn-thát-bà-vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đối với Đại-thừa đều sinh lòng ái-kính sâu-xa, làm lợi-lạc cho chúng-sinh, không bao giờ lười chán, mệt-mỏi[40]. Tất cả các vị Càn-thát-bà-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có nghìn ức A-tu-la-vương[41], như: La-Hầu-La A-tu-la-vương, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-tu-la-vương, Xuất-Hiện Uy-Đức A-tu-la-vương, Đại-Kiên-Cố-Lực A-tu-la-vương, Mỹ-Diệu Âm-Thanh A-tu-la-vương, Quang-Minh Biến-Chiếu A-tu-la-vương, Đấu-Chiến Hằng-Thắng A-tu-la-vương, Thiện-Sảo Huyễn-Hóa A-tu-la-vương… Trong các vị A-tu-la-vương ấy, Quảng-Đại Diệu-Biện A-tu-la-vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều khéo tu-tập, bỏ mọi ngã-mạn, thụ-trì Đại-thừa, tôn-trọng Tam-bảo[42]. Tất cả các vị A-tu-la-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có năm ức Ca-lâu-la-vương[43] như: Bảo-kế Ca-lâu-la-vương, Kim-cương Tịnh-quang Ca-lâu-la-vương, Tốc Tật Như Phong Ca-lâu-la-vương, Hư-không Tịnh-tuệ Ca-lâu-la-vương, Diệu-Thân Quảng-đại Ca-lâu-la-vương, Tâm Bất Thoái-chuyển Ca-lâu-la-vương, Quảng-mục Thanh-tịnh Ca-lâu-la-vương, Đại Phúc Bảo Mãn Ca-lâu-la-vương, Hữu Đại-uy-đức Ca-lâu-la-vương, Trí-tuệ Quang-minh Ca-lâu-la-vương. Trong các vị Ca-lâu-la-vương ấy, Bảo-quang Ca-lâu-la-vương làm Thượng-thủ. Các vị ấy đều thành-tựu “bất khởi pháp-nhẫn”, khéo đem lại được những sự lợi-ích cho hết thảy chúng-sinh[44]. Tất cả các vị Ca-lâu-la-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có chín ức Khẩn-na-la-vương[45] như: Động-địa Khẩn-na-la-vương, Diệu Bảo Hoa-Chàng Khẩn-na-la-vương , Bảo-Thụ Quang-minh Khẩn-na-la-vương, Thiện-Pháp Quang-minh Khẩn-na-la-vương, Tối Thắng Trang-nghiêm Khẩn-na-la-vương, Hỏa Pháp Quang-minh Khẩn-na-la-vương, Thụ-trì Diệu-pháp Khẩn-na-la-vương, Diệu-Bảo Nghiêm Sức Khẩn-na-la-vương, Thành-tựu Diệu-quán Khẩn-na-la-vương…Trong các Khẩn-na-la-vương ấy, Duyệt-ý Nhạc-thanh Khẩn-na-la-vương làm Thượng-thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ diệu-tuệ thanh-tịnh, thân-tâm khoái-lạc, du-hí tự-tại[46]. Tất cả các vị Khẩn-na-la-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có chín vạn tám nghìn Ma-hầu la-già-vương[47] như: Diệu-Kế Ma-hầu-la-già-vương. Cụ đại-uy-đức Ma-hầu la-già-vương, Trang-nghiêm bảo kế Ma-hầu-la-già-vương, Tịnh-nhãn vi-diệu Ma-hầu-la-già-vương, Quang-minh bảo chàng Ma-hầu-la-già-vương, Sư-tử hung ức Ma-hầu-la-già-vương, Như sơn bất động Ma-hầu-la-già-vương, Khả ái quang-minh Ma-hầu-la-già-vương… Trong các Ma-hầu-la-già-vương ấy, Du-hí thần-thông Ma-hầu-la-già-vương làm Thượng-thủ. Các vị ấy đã tu-tập được phương-tiện thiện-sảo, làm cho mọi chúng-sinh bỏ hẳn “ái-triền”[48]. Tất cả các vị Ma-hầu-la-già-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có các Chuyển-luân thánh-vương[49] trong vạn ức quốc-độ ở phương khác như: Kim-luân chuyển-luân thánh-vương, Ngân-luân chuyển-luân thánh-vương, Đồng-luân chuyển-luân thánh-vương, Thiết-luân chuyển-luân thánh-vương, cùng với quyến-thuộc nghìn con Thất-bảo, trang-nghiêm vô-lượng voi, ngựa, xe-cộ, vô số bảo-chàng, treo bảo-phan lớn, hoa-man, bảo-cái, tơ lụa, bạch-phất, mọi chuỗi ngọc báu trân-kỳ, vi-diệu, đồ-hương, mạt-hương, hòa-hợp muôn thứ hương lạ vi-diệu. Và, mỗi người đều cầm lò hương bằng mọi thứ báu vô-giá, đốt hương đại-bảo cúng-dàng Thế-Tôn, cùng đem những lời nói vi-diệu khen-ngợi trí-tuệ như bể rất sâu của Như-Lai, rồi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Nay chúng tôi không cầu quả-báo Nhân, Thiên hữu-lậu trong ba cõi, chúng tôi chỉ cầu đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác xuất-thế-gian mà thôi. Sở dĩ thế là sao? – Vì, trong ba cõi, tuy ở ngôi tôn, hưởng phúc vui trong Nhân, Thiên nhưng, khi phúc đời trước hết lại phải sinh vào ác-thú, chịu vô-lượng khổ; như thế ai là người có trí-tuệ lại ưa-thích sự vui sướng ở thế-gian này!”[50] Các vị Chuyển-luân nói lời ấy rồi, đều nhất tâm chắp tay và cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc của các vị ấy, đều cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
Lại có mười sáu vị Đại-Quốc-Vương như: Tịnh-Phạn Đại-Vương nước Ca-tỳ-la, Tần-bà-sa-la-vương nước Ma-già-đà, Ca-tư-đại-vương nước Ba-la-nại, Vu-xiển Đại-vương nước Hữu-vu-đà, Ca-tỳ na-vương nước Sa-la… Trong mười sáu Đại-vương và các Tiểu-vương ấy, vua Ba-tư-nặc, quốc-chủ nước Xá-vệ tên là Nguyệt-quang làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ phúc-trí[51] thần-thông, có uy-đức lớn như Chuyển-luân-vương; hết thảy oán-địch tự-nhiên hàng-phục, nhân dân rất thịnh, đất nước giàu vui. Các vị ấy trồng mọi căn lành nơi vô-lượng Phật nên thường được chư Phật hộ-niệm. Trong kiếp Trang-nghiêm (quá-khứ) nghìn đức Phật ra đời, các Đại-vương, Tiểu-vương ấy thường làm thí-chủ; trong Hiền-kiếp (hiện-tại) nghìn đức Phật ra đời, các Đại-vương, Tiểu-vương ấy cũng làm thí-chủ; trong kiếp Tinh-tú sau này nghìn đức Phật ra đời các vị ấy cũng sẽ làm thí-chủ; cho đến đời vị-lai hết thảy chư Phật xuất hiện thế-gian các Đại-vương, Tiểu-vương ấy đem bản nguyện-lực, thường làm việc bố-thí lợi-ích chúng-sinh, tùy nghi vào suốt các cửa phương-tiện. Các vị ấy tuy làm Quốc-vương nhưng, không tham sự vui sướng thế-gian, các vị ấy chán bỏ sinh-tử, tu nhân giải-thoát, cần cầu Phật-đạo, ưa-thích Đại-thừa, hóa-lợi quần-sinh, không chấp-trước các tướng, nối dòng Tam-Bảo, khiến hạt giống ấy không đoạn-tuyệt. Các vị ấy vì duyên nghe pháp, cúng-dàng Như-Lai, sắm nhiều đồ ăn quý báu, kính-cẩn đem hương hoa đến nơi Phật, cùng với một vạn, hai vạn cho đến nghìn vạn các quyến-thuộc, cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[52].
Lại có các phu-nhân của mười sáu Đại-quốc-vương như: Vi-đề-hy phu-nhân, Diệu-thắng-man phu-nhân, Thậm-khả ái-nhạo phu-nhân, Tam-giới vô tỷ phu-nhân, Phúc báo quang-minh phu-nhân, Như-ý bảo-quang phu-nhân, Mạt-lỵ phu-nhân, Diệu-đức phu-nhân…Trong các phu-nhân ấy, Thù-thắng diệu-nhan phu-nhân làm Thượng-thủ. Các phu-nhân ấy đã nhập được vô lượng chính-định. Song vì muốn độ chúng-sinh, các phu-nhân ấy thị hiện nữ-thân, dùng ba môn giải-thoát[53] tu tập tâm mình mà có đại trí-tuệ, phúc-đức viên-mãn, vô duyên đại-từ, vô ngại đại-bi, thương xót chúng-sinh như con đỏ. Do bản-nguyện-lực, các phu-nhân ấy được gặp Thế-Tôn và vì muốn nghe pháp nên tới nơi Phật, chiêm-ngưỡng Tôn-nhan, mắt không tạm chợp. Các phu-nhân ấy đem vô-lượng thứ thượng-cúng trong cõi người , kính dâng lên Thế-Tôn cùng đem vô-số chuỗi ngọc báu nhiệm-mầu cúng-dàng lên Như-Lai, rồi các phu-nhân ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[54].
Lại có vô số người như: Tỷ-khưu, Tỷ-khưu-ni[55], Ưu-bà-tắc[56], Ưu-bà-di[57], các Bà-la-môn[58]. Sát-đế-lỵ[59], Phệ-xá[60], Thú-đạt-la[61], cùng các Trưởng-giả[62], Cư-sĩ[63], hết thảy nhân-dân trong các quốc-giới. Các đại-chúng ấy phát khởi lòng tin thanh-tịnh, ân-trọng, vì xưa đã trồng căn lành, nên sinh gặp Phật-pháp và vì cầu đạo xuất-thế, nên khởi ra tưởng khó gặp, mà tới nơi Phật. Tới nơi Phật, các vị ấy đều phát-tâm, chắp tay và cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.[64]
Lại có vô số các đồ-chúng ngoại-đạo như: Khổ-hạnh ngoại-đạo, Đa-văn ngoại-đạo, Thế-trí ngoại-đạo, Nhạo-viễn-ly ngoại-đạo, Lộ-già-gia-đà[65] ngoại-đạo, mà Lộ-già-gia-trị-ca-nễ ngoại-đạo làm Thượng-thủ. Các ngoại đạo ấy thành-tựu năm pháp thần-thông[66] bay đi tự-tại. Và, phát-tâm hy-hữu, vì nhân-duyên nghe pháp nên lại nơi Phật, cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.[67]
Lại có vô-lượng, vô số phi-nhân[68] ngã-quỉ[69] như: Vô-tài-quỉ, Thực-nhân-thổ-quỉ, Não-chúng-sinh-quỉ, Thực-di-thóa-quỉ, Thục-bất bão-quỉ, Tỳ-xá-xà-quỉ[70], Sú-cực-sú-quỉ, Thực phẩn-uế-quỉ, Thực-nhân-thai-quỉ, Thực-sinh-tử-quỉ, Thực-bất-tịnh-quỉ, Sinh-cát-tường-quỉ. Trong các quỉ ấy, Tỳ-lô-đà-già đại quỉ-thần-vương làm Thượng-thủ. Các quỉ ấy lìa bỏ tâm độc-ác, quy-y Phật, Pháp, Tăng và đều vệ-hộ chính-pháp của Như-Lai. Các quỉ ấy vì duyên nghe pháp nên lại nơi Phật, năm thể[71] gieo xuống đất lễ Phật và khát-ngưỡng công-đức Phật, nên các quỉ ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[72].
Lại có vô-lượng vô số các vua cầm-thú như: Mệnh-mệnh điểu-vương, Anh-vũ điểu-vương, cùng Sư-tử-vương, Tượng-vương, Lộc-vương. Trong hết thảy các vua cầm-thú ấy Kim-sắc sư-tử-vương làm Thượng-thủ. Các vua cầm-thú ấy đều quy-mệnh Như-Lai đại-sư, vì muốn nghe pháp nên lại nơi Phật và đều tùy nguyện-lực mà cúng-dàng lên Thế-Tôn. Các vua cầm-thú ấy bạch Phật rằng: “Kính xin Như-Lai thương nhận chút ít thứ cúng-dàng của chúng tôi! Chúng tôi mong bỏ hẳn hạt giống ác-nghiệp trong ba đường[73], được hưởng quả-báo phúc-lạc trong Nhân, Thiên; xin Như-Lai mở tỏ pháp-môn Cam-lộ Đaị-thừa, để chúng tôi chóng dứt được ngu-si và sẽ được giải-thoát! ” Khi các vua cầm-thú nói lời ấy rồi đều nhất tâm, chắp tay chiêm-ngưỡng Như-Lai và cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[74].
Lại có trăm nghìn Diễm-ma-la-vương[75] cùng vô số các Đại-la-sát[76] đủ mọi hình loại, mọi ác-vương, quyến-thuộc chốn u-minh và những ngục-lại[77] coi giữ việc hình, tra xét tội-phúc, nhờ uy-lực Phật, dứt bỏ tâm ác, cùng Diễm-ma-la-vương cùng lại nghe pháp, bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Hết thảy chúng-sinh vì ngu-si, tham năm dục-lạc[78], tạo năm tội nghịch[79] nên phải vào trong các địa-ngục[80], bị luân-chuyển vô cùng. Sở dĩ bị thế, là do chỗ nghiệp-nhân của mình mà phải chịu khổ-não nhiều, cũng như con tằm, con kén ở đời, tự mình làm ra sự ràng-buộc lấy mình! Kính xin Như-Lai rưới mưa đại-pháp để diệt lửa địa-ngục, tỏa gió mát lành, mở cửa giải-thoát để đóng ba ác-thú lại!” Khi Diễm-ma-vương nói lời ấy rồi, đem mọi thứ trân-bảo cúng-dàng lên Như-Lai, nhất tâm cung-kính nhiễu Phật trăm nghìn vòng và cùng với hàng trăm nghìn quyến-thuộc đều lễ xuống chân Phật, rồi lui ngồi về một bên để nghe Phật thuyết-pháp[81].
Bấy giờ, đức Thế-Tôn ngồi trên tòa sư-tử[82] kết hoa sen báu. Tòa sư-tử ấy, mầu lưu-ly biếc, do các thứ ngọc lạ tô-điểm cách kẽ vào thành. Hoa sen, ken ngọc báu pha-lê làm cuống sen, vàng ròng mầu tía làm cánh sen và dùng ngọc ma-ni làm tua hoa trong đài sen. Có tám vạn bốn nghìn hoa sen lớn quý bằng vàng tốt của châu Nam-diêm phù-đề[83] làm quyến-thuộc. Đức Phật được đại-chúng nhiễu quanh trước sau, cúng-dàng, cung-kính, tôn-trọng, tán-thán.[84]
Khi ấy, đức Thế-Tôn ngồi kết gia-phu[85] trên tòa sư-tử, uy-nghi thù-thắng lạ-lùng, cũng như núi Tu-di[86] do bốn thứ báu[87] tạo-thành, ở trong bể lớn, tự-nhiên lóe ra như trăm nghìn mặt trời soi sáng hư-không, phóng ra vô-lượng ánh-sáng, phá mọi tối-tăm. Và, cũng như ức vầng trăng tròn-trịa ở trong các đám sao, phóng ra ánh-sáng mát-lành làm sáng-sủa thế-giới. Ngài nhập “Hữu-đỉnh-thiền cực-thiện tam-muội[88]” gọi là “Tâm anh-lạc bảo-trang-nghiêm-vương”.[89] Ngài trụ nơi định ấy, thân tâm không động.
Lúc đó, hết thảy Thiên-tử trên Vô-sắc-giới[90], rải vô-lượng thứ hoa hương vi-diệu, từ trong hư-không như mây sa xuống. Mười tám Phạm-vương trên các cõi trời thuộc Sắc-giới,[91] rải vô số những thiên-hoa tạp sắc, cùng trăm nghìn vạn thứ diệu-hương cõi Phạm-thiên[92], đầy khắp hư-không như mây sa xuống. Chư Thiên cùng Thiên-tử-chúng trên sáu cõi trời thuộc Dục-giới [93], dùng phúc-lực cõi thiên, rải mọi thứ hoa, như: Hoa Ưu-đàm bát-la, hoa Ba-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, hoa Chiêm-bặc-ca, hoa A-đề-mục-đa, hoa Ba-lỵ-thi-ca, hoa Tô-ma-na, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa[94] ở trong hư-không tần-vần rơi xuống, cúng-dàng Phật và chúng Pháp-bảo. Lại rắc những bảo-hương vô giá trên cõi trời, bảo-hương ấy như mây, hóa thành mầu sắc trăm báu và dùng thần-lực cõi thiên, làm cho hơi hương tỏa khắp các thế-giới cõi này, để cúng-dàng đại-hội.
Khi đức Thế-Tôn từ trong thiền-định dậy, ngay nơi bản-tọa Ngài lại nhập “Sư-tử phấn-tấn tam-muội”,[95] hiện đại thần-thông, khiến tam-thiên đại-thiên thế-giới[96] này có sáu thứ chấn-động. Là: động, động mạnh, động mạnh khắp; tóe ra, tóe ra mạnh, tóe ra mạnh khắp; rung, rung mạnh, rung mạnh khắp: đánh, đánh mạnh, đánh mạnh khắp; gầm, gầm mạnh, gầm mạnh khắp; nổ, nổ mạnh, nổ mạnh khắp. Lại, thế-giới này, phương đông tóe ra, phương Tây tắt đi, phương Tây tóe ra, phương Đông tắt đi, phương Nam tóe ra, phương Bắc tắt đi, phương Bắc tóe ra, phương Nam tắt đi, ở giữa tóe ra, ở bên tắt đi, ở bên tóe ra, ở giữa tắt đi. Đất của thế-giới này trang-nghiêm, trong sạch và đều mềm nhũn, làm tốt, lớn cỏ cây, lợi-ích mọi loài. Do những chấn-động ấy, làm cho trong tam thiên giới không còn có địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh[97] nữa và những chún-sinh trong ác-thú khác bị đau khổ không được rảnh-rang cũng đều được khỏi khổ, xả thân này, được sinh vào đạo người và sáu cõi trời thuộc Dục-giới. Họ đều biết mệnh kiếp trước, đều vui mừng hớn hở và đồng đến nơi Phật, đem tâm ân-trọng, đỉnh lễ xuống chân Phật, mang các thứ ngọc báu, cùng vô số chuỗi ngọc cúng-dàng lên Phật và giác-ngộ nghĩa “tam luân không”[98] để báo ơn Phật.
Bấy giờ, ở nơi ngực và những lỗ chân lông của Như-Lai phóng ra hào-quang sáng lớn gọi là “Chư Bồ-tát du-hí thần-thông”, khiến các Bồ-tát không thoái-chuyển tâm vô thượng chính-đẳng chính-giác. Sắc của hào-quang sáng ấy như sắc vàng của Nam-diêm-phù-đề. Và, sắc hào-quang vàng ấy soi khắp tam thiên đại-thiên thế-giới cùng các thế-giới khác. Cho đến trăm ức núi Diệu-cao-sơn vương, hết thảy Tuyết-sơn, Hương-sơn, Hắc-sơn, Kim-sơn, Bảo-sơn, Di-lâu-sơn[99], Đại-di-lâu-sơn, Mục-chân-lân-đà-sơn[100], Đại mục-chân-lân-đà-sơn, Tiểu-thiết-vi-sơn, Đại thiết-vi-sơn, sông lớn, sông con, bể cả, suối chảy, ao tắm và đến trăm ức thế-giới trong bốn đại-châu[101], mặt trời, mặt trăng, sao, thiên-cung, long-cung, các tôn-thần-cung, những quốc-ấp-vương-cung, làng xóm. Cùng nơi cõi Diêm-ma-la có những tướng trạng của chúng-sinh tội nghiệp chịu khổ trong tám ngục hàn[102] tám ngục nhiệt[103] và các địa-ngục khác. Cả đến những tướng-trạng chịu khổ của súc-sinh, ngã-quỷ trong mười phương[104], những tướng trạng chịu sướng, khổ của chúng-sinh thuộc năm thú[105] trong hết thảy thế-gian…, tất cả những tướng-trạng như thế đều hiện trong hào-quang sáng lớn sắc vàng này.
Lại, trong hào-quang này ảnh-hiện ra mọi tướng-mạo của các vị Bồ-tát tu-hành Phật-đạo. Như Thích-Ca Bồ-tát trong thời xa xưa làm vua Quang-minh, khi tối-sơ phát tâm vô thượng chính-đẳng, chính-giác, cho đến lúc thành Phật-đạo dưới gốc Bồ-đề, nhập Niết-bàn trong rừng Sa-la. Và, trong khoảng giữa ba vô số trăm vạn kiếp, có hết thảy những sự về từ, bi, hỷ, xả, cùng tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật cũng đều hiện đủ.
Như trong thời quá-khứ, Bồ-tát làm Kim-luân-vương, cai trị bốn thiên-hạ cho đến tận cùng bể cả, Bồ-tát đem chính-pháp giáo-hóa-thế-gian qua vô-lương kiếp, nhân-dân rất thịnh, đất nước giầu vui, hết thảy của quý báu đầy dẫy quốc-giới. Khi ấy, Kim-luân-vương kia, quán-sát thế-gian đều là vô-thường, chán năm dục-lạc, bỏ ngôi Kim-luân, xuất-gia học đạo. Hoặc khi Bồ-tát làm ái-tử của vị Đại-quốc-vương, xả thân-mệnh, gieo mình vào nơi hổ đói. Hoặc khi Bồ-tát làm Thi-tỳ-vương cắt thịt mình cứu chim cáp. Hoặc khi Bồ-tát xả thân lộc-vương (con hươu đầu đàn) cứu con hươu chửa. Hoặc khi Bồ-tát vì cầu nửa bài kệ[106] mà xả toàn thân nơi núi Tuyết. Hoặc hiện thân thụ-sinh nơi nhà vua Tịnh-Phạn[107], bỏ sáu vạn thể-nữ, cùng bỏ mọi thứ kỹ-nhạc tuyệt hay nơi hậu-cung mà vượt thành xuất-gia; sáu năm tu khổ-hạnh, ngày ăn hạt vừng (mè), hạt gạo, hàng được các ngoại-đạo; dưới gốc Bồ-đề phá ma-quân, được vô thượng chính-đẳng chính-giác. Có hết thảy tướng-mạo của trăm nghìn hằng-sa hành-nguyện khó nghĩ, bàn như thế, đều hiện rõ trong hào-quang sáng lớn sắc vàng này .
Lại, trong hào-quang này ảnh-hiện ra tám bảo tháp lớn không thể nghĩ, bàn được của Như-Lai là: bảo-tháp kỷ-niệm nơi sinh trong cung vua Tịnh-Phạn nước Câu-sa-la (?); bảo-tháp kỷ-niệm khi thành Phật dưới gốc cây Bồ-đề, bên thành Già-gia (Gaya) nước Ma-già đà (Magadha); bảo-tháp kỷ-niệm khi Ngài bắt đầu chuyển-pháp-luân[108] độ-sinh trong vườn Lộc-giả (Mrgadàva) nước Ba-la-nại (Vàranasi, Benares); bảo-tháp tại vườn của ông Cấp-cô-độc trong nước Xá-vệ (Sràvasti) kỷ-niệm nơi Ngài cùng các ngoại-đạo luận-nghị sáu tháng mà Ngài được thanh-danh là “Nhất-thiết-trí”[109]; bảo tháp tại bên thành Khúc-nữ (Kanyakudja) nước An-đạt-la (?) kỷ-niệm sự thần-dị[110] khi Ngài lên Đao-lỵ-thiên, thuyết-pháp cho thân-mẫu, cùng Phạm-thiên-vương[111], Thiên-đế-thích[112] và mười hai vạn thính-chúng, từ Tam-thập tam-thiên hiện ra ba đường thềm báu xuống cõi Diêm-phù; bảo tháp tại núi Kỳ-xà-quật (Grjjakùta) bên thành Vương-xá (Ràjagrha) nước Ma-kiệt-đà (Magadha) kỷ-niệm khi Ngài nói về các kinh Đại-thừa[113]: Đại-bát-nhã, Pháp-hoa Nhất-thừa tâm-địa kinh v.v…; bảo tháp tại rừng An-la-vệ (?), nước Tỳ-xá-ly (Vaisàli) kỷ-niệm lúc ông Trưởng-giả Duy-ma-cật (Vimalakirti) hiện bệnh trong sự bất-khả-tư-nghị; bảo-tháp kỷ-niệm lúc sẽ viên-tịch[114] của Ngài trong rừng Sa-la, bên sông Bạt-đề (Hiranyavati) nước Câu-thi-na (Kusinagara). Tám tháp như thế là hóa-nghi[115] của Đại-thánh, là chỗ quy-y, cúng-dàng cung-kính, làm nhân thành Phật của hữu-tình trong cõi người và cõi trời.
Như thế các âm-thanh cùng các ảnh-tượng là những sự khó nghĩ, bàn ở trong ba đời, đều ảnh-hiện trong hào-quang sáng lớn cả.
Lại, chư Phật trong ba đời ở mười phương thế-giới, cùng các Đại-bồ-tát chúng-hội nơi đạo-tràng[116], các sự thần-thông biến-hóa hiếm có và những tiếng nói pháp vi-diệu của các Như-Lai nói ra, đều ghi rõ như vang ứng tiếng, trong hào-quang sáng lớn sắc vàng này không có gì là không trông thấy, nghe thấy. Hết thảy chúng-sinh gặp hào-quang sáng này, thấy thụy-tướng kia đều phát tâm vô đẳng đẳng vô-thượng chính-đẳng chính-giác[117].
Khi đại-chúng trông thấy thần-lực bất khả tư-nghị của Phật ai cũng đều khen chưa từng có bao giờ và đều bảo nhau rằng: “Ngày nay Như-Lai nhập chính-định, phóng ra hào-quang sáng lớn soi khắp mười phương thế giới, được thấy Như-Lai trong thuở xa xưa có-những sự khó nghĩ, bàn để điều-phục những chúng-sinh tà-kiến trong đời ác-trọc, khiến họ sinh lòng tin, hiểu và biết xu-hướng về đạo Bồ-đề. Đức Như-Lai là bậc hiếm có! Ngài là cha của hết thảy thế-gian, trong vô-lượng kiếp khó thấy được Ngài. Chúng ta nhiều kiếp tu các hành-nguyện, nên nay được gặp đức thầy của Nhân, Thiên trong ba cõi. Kính mong đức Từ-Tôn thương xót thế-gian, từ thiền-định dậy, Ngài nói pháp sâu xa, chỉ dạy cho chúng-sinh được những sự lợi-lạc, vui-vẻ!” Hết thảy chúng-sinh nói lên lời ấy rồi đứng im, chiêm-ngưỡng dung-nhan đức Từ-Tôn.
Bấy giờ, trong pháp-hội có một vị Bồ-tát tên là Sư-tử-hống, trong ba vô-số kiếp, Bồ-tát đã tu-hành về phúc-đức, trí-tuệ, trong Hiền-kiếp này Bồ-tát sẽ được bổ vào ngôi Phật, nhận ngôi Quán-đỉnh[118], làm Đại-pháp-vương[119]. Bồ-tát hướng về bốn phương xem xét đại-chúng trong hải-hội, cất giọng tiếng to lớn nói rằng: “Trong vô-lượng kiếp xa xưa tôi đã phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác đã phụng-sự Hằng-sa chư Phật, đã từng ở nơi đệ-nhất chúng-hội đạo-tràng, được thấy những thần-thông biến-hóa bất tư-nghị của chư Phật. Nhưng, tôi chưa từng trông thấy hào-quang sáng sắc vàng này, ảnh-hiện hết thảy hành-nguyện của Bồ-tát, cùng hiện ra mọi tướng mạo của Như-Lai, làm cho tôi được thấy những sự khó nghĩ, bàn trong ba đời. Vậy, kính mong các Nhân-giả[120] nhất tâm, chắp tay, chiêm-ngưỡng Tôn-nhan, từ thiền-định dậy Ngài sẽ trao cho chúng-sinh thuốc Cam-lộ, trừ những bệnh nhiệt-não, làm cho chúng-sinh chứng được pháp-thân[121] thường, lạc, ngã, tịnh[122]. Các đức Như-Lai có hai pháp mà các Ngài không ở lâu trong chính-định: một là ĐẠI-TỪ, hai là ĐẠI-BI. Y vào ĐẠI-TỪ phải cho chúng-sinh được vui, y vào ĐẠI-BI phải nhổ đau khổ cho chúng-sinh. Bởi hai pháp ấy, trong vô-số kiếp các Ngài đã huân-tu nơi tâm các Ngài mà thành ngôi chính-giác. Chúng-sinh trong thế-gian nhiều khổ-não quá, do nhân duyên ấy, không bao-lâu nữa đức Như-Lai từ chính-định dậy, sẽ vì chúng-sinh diễn-thuyết về diệu-pháp “TÂM-ĐỊA-QUÁN MÔN” của Đại-thừa. Tôi xin kính-cáo đại-chúng: “Đại-chúng không nên cầu các phúc-lạc trong Nhân, Thiên – mà nên cầu ngay đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác xuất-thế-gian. Sở dĩ thế là sao? Ngày nay Thế-Tôn từ nơi ngực phóng ra hào-quang sắc vàng, những nơi bị soi tới cũng đều như sắc vàng cả, đó là sự hiển-thị của Phật có ý-thú rất sâu mà hết thảy Thanh-Văn[123], Duyên-giác[124] ở thế-gian hết sức suy-nghĩ đo lường cũng không thể biết được. Các vị còn trong phàm-phu địa, không quán tự-tâm, nên phải trôi-giạt trong bể sinh-tử! Chư Phật, Bồ-tát vì quán được tâm, nên qua được bể sinh-tử, đến bờ Niết-bàn. Pháp của Như-Lai trong ba đời đều như thế, các Ngài phóng ra hào-quang sáng ấy, không phải là không có nhân-duyên!”.
Tất cả chúng-hội, nghe Đại-sĩ (Bồ-tát) nói, trong tâm đều vui mừng hớn-hở, cho rằng gặp được sự chưa từng có bao giờ[125].
Bấy giờ, Sư-tử-hống Bồ-tát ma-ha-tát muốn tuyên lại nghĩa ấy bằng lời kệ sau này:
Kính lễ: Thiên, Nhân Đại-giác-tôn, Hằng-sa phúc-trí đều viên-mãn; Chúng-sinh trông thấy sinh lòng mến, Tướng Kim-quang trăm phúc trang-nghiêm. Mình ở ngôi tôn hơn ba cõi, Công-đức tối-thắng gì sánh kịp; Dùng sức thần-thông tự-tại khắp, Tùy chỗ tạo-nghiệp, hiện trước họ. Tôi dùng thiên-nhãn quán thế-gian, Hết thảy không ai bằng được Phật; Hiếm có kim-dung như trăng tròn; Hiếm có còn hơn hoa Ưu-Đàm.[126] Vô biên phúc-trí lợi quần-sinh, Đại-quang soi như nghìn mặt trời, Chúng-sinh ngu-si khổ nhiều kiếp, Nhờ hào-quang soi trừ được cả. Tôi quán Như-Lai hành-nguyện xưa, Thân-cận cúng-dàng vô-số Phật; Trải qua vô-số, vô-lượng kiếp, Vì chúng-sinh rảo tới Bồ-đề. Thường ở trong bể khổ sinh-tử, Làm đại-thuyền-sư vớt mọi loài; Diễn nói pháp chân-tịnh Cam-lộ, Khiến vào cửa vô-vi[127] giải-thoát. Ba vô-số kiếp độ chúng-sinh, Siêng tu tám muôn Ba-la-mật[128]; Nhân tròn, quả đủ thành chính-giác, Trụ yên thọ-mệnh không đi, lại. Mỗi một tướng tốt khắp pháp-giới[129], Tướng thập phương Phật đều thế cả; Cảnh giới sâu xa khó nghĩ, bàn, Hết thảy Nhân, Thiên không lường được. Thể, dụng[130] chư Phật không sai khác, Như nghìn đèn soi sáng càng thêm; Trí-tuệ như không, không bờ-bến, Ứng vật hiện-hình như trăng nước. Vô-biên pháp-giới thường vẳng-lặng, Như-như bất-động ví hư-không; Như-Lai thanh-tịnh diệu-pháp-thân, Tự-nhiên đầy-đủ Hằng-sa đức. Khắp cả pháp-giới không cùng-tận, Không sinh, không diệt không đi, lại; Pháp-vương thường ở Diệu-pháp-cung, Ánh sáng pháp-thân soi khắp cả. Pháp-tính Như-Lai không vướng-ngại, Tùy duyên ứng khắp, lợi quần-sinh; Chúng-sinh đều thấy ngay trước mình, Vì mình tuyên nói pháp Cam-lộ. Tùy tâm hay diệt các phiền-não, Mọi khổ Nhân, Thiên đều giũ sạch; Phá “có”, Pháp-vương rất lạ-lùng, Ánh sáng soi sáng như núi vàng. Vì độ chúng-sinh khỏi thế-gian, Hay đốt đuốc PHÁP phá tăm-tối; Chúng-sinh chìm trong bể sinh-tử, Vòng quanh năm thú không kỳ ra. Thiện-thệ[131] hằng làm diệu-pháp-thuyền, Ngăn chặn dòng ái, tới ngàn kia; Đại-trí phương-tiện không thể lường, Thường cho chúng-sinh vui vô-tận. Ngài là Cha lành của thế-gian, Thương xót hết thảy hữu-tình-loại; Như-Lai ra đời rất khó gặp, Vô-số ức kiếp một lần hiện. Như hoa Ưu-đàm: hoa “Diệu-thụy”, Là hoa hiếm có trong người, trời; Trong vô-lượng kiếp một lần hiện, Thấy Phật ra đời cũng đồng vậy. Các chúng-sinh ấy không phúc-tuệ, Thường đắm-chìm trong bể sinh-tử; Ức kiếp không thấy các Như-Lai, Theo các nghiệp ác thường chịu khổ. Chúng ta vô-số trăm nghìn kiếp, Tu bốn vô-lượng,[132] ba giải-thoát; Nay thấy Đại-thánh Mưu-Ni-Tôn, Cũng như rùa mù gặp gỗ nổi. Nguyện trong Hằng-sa kiếp đời sau, Niệm niệm không bỏ Thiên-Nhân-Sư; Như bóng theo hình không rời tạm, Ngày đêm siêng tu về “Chủng-trí”[133]. Kính mong Thế-Tôn thương xót tôi, Thường cho được thấy Đại-từ-tôn; Ba nghiệp[134] tinh-tiến thường phụng-trì, Nguyện cùng chúng-sinh thành chính-giác. Nay Đại-đạo-sư trong ba cõi, Xếp bằng trên tòa nhập chính-định; Một mình vẳng-lặng nhà “không-tịch”, Thân-tâm chẳng động như Tu-di. Thế-gian hết thảy Phạm-thiên-ma, Không thể cảnh-giác Như-Lai định; Phàm, Thánh cõi này và phương khác, Đều biết Điều-ngự[135] ở trong thiền. Đặt nhiều đồ cúng rất nhiệm-mầu, Kính dâng Năng-nhân:[136] tối-thắng-đức; Chư Thiên Lục-dục lại cúng-dàng, Hoa trời rơi rộn khắp hư-không. Nén hương vô-giá do thập-thiện,[137] Biến-hóa hương-vân màu bách bảo; Che khắp vô-lượng chúng Nhân, Thiên, Mưa lẫn diệu-bảo hiến Như-Lai. Hơi hương ngào-ngạt trước Tam-bảo, Trăm nghìn kỹ-nhạc ran không-giới; Không gảy tự kêu thành diệu-khúc, Cúng-dàng Thế-Tôn đủ phúc-tuệ. Mười tám cõi Phạm rải thiên-hoa, Và rải tạp-bảo nghìn muôn thứ; Chuỗi ngọc Ma-ni[138] cõi Phạm-Ma, Mọi báu dát trong áo cõi trời. Chàng hoa đại-bảo treo phan tốt, Cầm đến cúng-dàng Mưu-Ni-Tôn; Cõi trời Vô-sắc rải hoa báu, Hoa ấy rộng lớn như vành xe. Rải hương vi-tế đầy thế-giới, Cúng-dàng chính-định khó bàn, nghĩ; Long-vương, Tu-la, nhân, phi-nhân, Dâng trân-diệu-bảo do cảm-mến. Đều đem cúng bậc Thiên-trung-thiên, Ưa nghe đạo Bồ-đề tối-thắng; Khi đấng Thế-Tôn: Đại-y-vương, Khéo chữa phiền-não-khổ của đời. Đấng Sư-tử chuyển sức Tam-muội, Sáu thứ chấn-động khắp tam-thiên; Dùng đó giác-ngộ kẻ có duyên Trong ấy vô duyên không biết được Tùy Nhân, Thiên kia có thể độ, Thấy các thần-thông của đức Phật; Chiêm-ngưỡng khuôn mặt Mưu-Ni-Tôn, Ba nghiệp sạch rồi đều vân-tập.[139] Như-Lai thường dùng vô-duyên từ, Lợi-ích chúng-sinh thành thắng-đức; Nơi ngực phóng đại-quang-minh này, Là: “Chư Bồ-tát bất-thoái-chuyển”. Như khi kiếp hết bảy mặt trời, Hiện, phóng nghìn tia sáng chói-lọi; Tất cả ánh sáng thế-gian có, Không bằng tia sáng chân lông Phật. Vô lượng đại-thần-quang vô-ngại Soi khắp mười phương các cõi Phật. Phúc-trí Như-Lai đều viên-mãn Chỗ phóng thần-quang cũng khó lường. Hào-quang rực-rỡ như sắc vàng, Soi khắp mười phương bao quốc-độ; Bóng hiện trong kim-quang của Phật Sắc tượng thế-gian đều thấy rõ. Tam thiên đại thiên thế-giới này, Trong có hết thảy các sơn-vương; Bốn báu tạo-thành núi Diệu-cao Tuyết-sơn, Hương-sơn, Thất-kim-sơn. Mục-chân-lân-đà, Di-lâu-sơn, Đại-thiết-vi-sơn, và Tiểu-sơn; Bể cả, giang hà cùng ao tắm, Vô-số trăm ức bốn đại-châu. Mặt trời, trăng, sao mọi bảo-cung; Thiên-cung, Long-cung, các thần-cung Quốc-ấp, vương-cung, các làng xóm, Hào-quang đều hiển-hiện như thế. Lại hiện nhân xưa của Như-Lai, Tích công, góp đức cầu Phật-đạo; Như-Lai xưa ở nước Thi-tỳ, Từng làm Nhân-vương trên tôn-vị. Ngọc báu đầy dẫy trong quốc-giới, Thường đem chính-pháp dạy răn đời; Từ-bi hỷ-xả thường không mỏi, Bỏ sự khó bỏ lên Bồ-tát. Cắt thân cứu chim cáp nào hối, Thâm tâm thương xót cứu chúng-sinh. Thuở xưa khi Phật tại phàm-phu, Vào trong non Tuyết cầu Phật-đạo. Nhiếp-tâm, dũng-mãnh chăm tinh-tiến, Vì cầu nửa kệ xả toàn thân; Vì bởi nhân-duyên cầu chính-pháp, Trong mười hai kiếp vượt sinh-tử. Khi xưa Ngài là Ma-nạp-tiên, Trải tóc cúng-dàng Nhiên-Đăng-Phật; Bởi vì nhân-duyên tinh-tiến ấy, Tám kiếp vượt qua bể sinh-tử. Thuở xưa làm Tát-Đóa vương-tử, Bỏ thân yêu quý gieo miệng hổ; Vì bởi nhân-duyên lợi người, mình, Vượt nhân sinh-tử mười một kiếp. Lưu-thủy trưởng-giả: đại-y-vương, Bình-đẳng cứu-độ chúng-sinh-loại; Vớt-cả đều được sinh thiên thượng, Trời mưa chuỗi ngọc báo ơn lại. Bảy ngày kiễng chân tán Như-Lai, Bởi vì tinh-tiến vượt chín kiếp. Thuở trước làm voi trắng sáu ngà, Ngà đẹp lạ-lùng gì sánh kịp; Bỏ thân mệnh mình cho người săn, Cầu vô-thượng bồ-đề của Phật. Hoặc làm Viên-mãn phúc-trí-vương, Cho mắt tinh-tiến cầu Phật-đạo. Lại làm Kim-sắc đại-lộc-vương, Xả thân tinh-tiến cầu Phật-đạo. Làm vua Từ-lực nước Ca-thi, Toàn thân thí cho năm Dạ-soa. Lại làm Trang-nghiêm-vương nước lớn, Đem vợ con cho không sẻn tiếc. Hoặc làm Tối-thượng-thân Bồ-tát, Đầu, mắt, tủy, não, cho chúng-sinh; Từ-bi Bồ-tát làm như thế, Đều nguyện cầu chứng Bồ-đề-đạo. Phật xưa từng làm Chuyển-luân-vương, Bốn châu ngọc báu đầy-đủ cả; Đầy-đủ nghìn con cùng quyến-thuộc, Thập-thiện dạy người trăm nghìn kiếp. Đất nước yên-ổn như thiên-cung, Hưởng năm dục-lạc vô cùng tận; Khi Luân-vương kia hiểu thân mình, Và, cả thế-gian không bền chắc. Chư thiên Vô-tưởng tám muôn tuổi, Phúc hết trở về trong ác-đạo; Như chiêm-bao dối cùng bọt, bóng, Như móc sớm mai và ánh chớp. Thấu rõ ba cõi như nhà lửa, Tám khổ[140] đầy dẫy khó ra được; Chưa được giải-thoát lên ngàn kia, Ai người có chí thích luân-hồi? Chỉ có Như-Lai thân xuất-thế, Không sinh, không diệt thường an-lạc; Những hạnh Bồ-tát khó làm ấy, Hết thảy hiện trong hào-quang vàng. Trong hào-quang này hiện tám tháp, Là ruộng phúc tốt của chúng-sinh; Tháp cung Tịnh-Phạn nhớ nơi sinh, Tháp gốc Bồ-đề ghi thành Phật. Tháp trong vườn Lộc quay xe pháp, Tháp vườn Cô-độc ghi tiếng khen; Tháp báu dựng bên thành Khúc-nữ, Tháp nơi Linh-Thứu tuyên Bát-nhã. Tháp Duy-ma-Cật tại Am-la, Tháp trong Sa-la ghi viên-tịch; Tám tháp của Phật ghi như thế, Chư thiên, long-thần thường dâng cúng. Kim-cương mật-tích bốn Thiên-vương, Ngày đêm giữ gìn không dời bỏ. Nếu xây tám tháp để cúng-dàng, Hiện thân phúc thọ được lâu dài; Trí-tuệ thêm lên, chúng tôn-kính, Nguyện thế, xuất-thế đều viên-mãn. Nếu ai lễ bái và tâm niệm, Tám tháp như thế không nghĩ, bàn; Hai người được phúc như nhau cả, Chóng chứng đạo Bồ-đề vô thượng. Những sự lợi-ích ba đời ấy, Ở trong hào-quang đều thấy rõ. Bồ tát trong mười phương cõi Phật, Các Linh-tiên đầy-đủ thần-thông; Chuyển-luân-vương trong muôn ức cõi, Theo hào-quang này đều vân-tập. Đều dùng thần-lực lại cúng-dàng, Rải ngọc Như-ý dâng Từ-tôn; Kỹ-nhạc chư thiên trăm nghìn thứ, Không gảy tự ngân tiếng vi-diệu. Hoa trời rơi rộn đầy hư-không, Mọi hương xông khắp trong đại-hội; Chàng báu vô-số các chuỗi ngọc, Cầm đem cúng-dàng Nhân-trung-tôn. Kệ-tụng nhiệm-mầu tán Như-Lai, Quý thay thường nhập trong chính-định! Hiện đại-thần-lực chẳng nghĩ, bàn, Điều-phục chúng-sinh khó hóa-độ. Kính mong Thế-tôn từ định dậy, Vì mọi chúng-sinh chuyển-pháp-luân. Dứt hẳn hết thảy các phiền-não, Trụ nơi vô-trụ[141] Đại-Niết-Bàn! Như hàng chúng tôi tâm thanh-tịnh, Từ muôn ức nước lại nghe pháp. Dùng sức chính-định thường xét kỹ, Vật mọn kính xin Ngài thương nhận! Người cho, bị cho và của cho, Ở trong ba đời vô-sở-đắc[142]. Chúng tôi an-trụ tâm tối-thắng, Cúng-dàng hết thảy mười phương Phật. Đời đời thân-cận Đại-bi-chủ, Thường thường phụng-sự Đại-từ-tôn; Đem diệu-thiện-căn vô-sở-đắc, Viên-dung pháp-giới về chân-giác. Quá-khứ Như-Lai vào tịch-định, Hiện đại-thần-thông quay xe pháp; Nay Phật Thế-Tôn cũng lại thế, Nhập-định, phóng quang đồng chư Phật. Vì vậy nghĩ rằng Thích-sư-tử, Quyết-định muốn nói Tâm-địa-môn. Nếu muốn xa lìa sinh-tử-nhân, Quyết hái quả chân-thường tam-thế. Các vị chắp tay nhất tâm đợi, Sẽ vào cung An-lạc Như-Lai.[143]
TOÁT-YẾU[144]
I. PHẨM TỰA
Ông A-Nan thuật: Có một thời đức Phật Thích-Ca Mưu-ni ở trong núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương-xá. Cùng ở nơi Ngài khi ấy, có:
- 82.000 Đại-tỷ-khưu và nhiều vị Thanh-văn Hữu-học. - 84.000 Đại-bồ-tát. - Ức vạn Thiên-tử trong sáu cõi trời thuộc Dục-giới. - Hằng-hà-sa Thiên-tử thuộc Sắc-giới. - 48.000 Đại-long-vương. - 58.000 thần Dược-xoa. - 89.000 Càn-thát-bà-vương. - Nghìn ức A-tu-la-vương. - Năm ức Ca-lâu-la-vương. - Chín ức Khẩn-na-la-vương. - 98.000 Ma-hầu-la-già-vương. - Các Chuyển-luân thánh-vương trong vạn ức quốc-độ. - 16 Đại-quốc-vương cùng phu-nhân.
- Vô-lượng Tỷ-khưu, Tỷ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bà-la-môn, Sát-đế-lỵ, Phệ-xá, Thủ-đà, Trưởng-giả, Cư-sĩ, nhân-dân cùng đồ-chúng ngoại-đạo. - Vô-lượng Phi-nhân, Ngã-quỷ, Cầm-thú-vương, Diễm-ma-la-vương, Đại-la-sát.
Và, mỗi đoàn có vô-lượng quyến-thuộc, đem đủ mọi thứ cúng-dàng dâng lên Phật, tán Phật, lễ Phật rồi ngồi về một bên.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn ngồi kết gia-phu trên tòa sư-tử, nhập “Hữu-đỉnh-thiền cực-thiện tam-muội”. Từ Tam-muội dậy, Ngài lại nhập “Sư-tử phấn-tấn tam-muội”. Ở nơi ngực và những lỗ chân lông, Ngài phóng ra hào-quang sáng lớn, soi khắp tam-thiên đại-thiên thế-giới. Trong hào-quang ấy hiện đủ tất cả những tướng-trạng sướng, khổ của chúng-sinh trong lục-đạo, sự tu-hành của các vị Bồ-tát, và sự tu hạnh Bồ-tát của Ngài trong thời quá-khứ. Cho đến, tám tháp báu ghi lại nơi sinh, nơi thành đạo, nơi chuyển pháp-luân, nơi luận-nghị với ngoại đạo, nơi lên Đao-lỵ thuyết-pháp, nơi nói kinh Đại-thừa, nơi Duy-Ma-Cật hiện bệnh, nơi nhập diệt trong đời hiện-tại của Ngài. Cùng những âm-thanh, ảnh-tượng của chư Phật, Bồ-tát hóa-độ chúng-sinh trong ba đời cũng đều hiện trong ấy.
Đại-chúng trông thấy hào-quang ấy ai cũng đều khen-ngợi và mong-mỏi khi Ngài từ thiền-định dậy, Ngài sẽ nói diệu-pháp đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh.
Khi ấy, trong pháp-hội có Bồ-tát Sư-tử-hống cất tiếng nói: “Vô-lượng kiếp xa xưa, tôi đã từng phát tâm vô-thượng, từng phụng-sự chư Phật, từng được thấy sự thần-biến. Nhưng, chưa được thấy hào-quang ảnh-hiện như hôm nay. Vậy, kính mong các Nhân-giả nên nhất tâm chiêm-ngưỡng Tôn-nhan, từ thiền-định dậy Ngài sẽ ban cho Cam-lộ diệu-dược. Tôi tin chắc rằng vì lòng đại-từ, đại-bi mà Ngài sắp từ thiền-định dậy. Và, do sự hiện hào-quang ấy Ngài sẽ nói về diệu-pháp “Tâm-địa-quán-môn” của Đại-thừa. Kính cáo đại-chúng: “Chúng ta không cầu phúc-lạc Nhân, Thiên, chỉ cầu đạo vô-thượng xuất-thế!”
Tâm đại-chúng vui mừng, được gặp sự hiếm có!
[1] Kinh này là cuốn kinh số 159 trong Đại-tạng-kinh. Kinh Đại-thừa bản-sinh tâm-địa-quán là cuốn kinh thuộc Đại-thừa-giáo, nói rõ về việc làm của đức Phật trong những kiếp xưa (bản-sinh) và trong hiện-tại, vị-lai. Những việc ấy quán-sát thấy, đều do nơi tâm phát-khởi và sinh-trưởng, tỷ-dụ như đất, muôn vật đều từ đấy phát-sinh (tâm-địa-quán). Kinh này có 13 phẩm chia làm 8 quyển. Nhận thấy ý văn trong phẩm có sự liên-hệ, nên chúng tôi không để quyển như cũ. Nhưng đến cuối mỗi quyển cũ, chúng tôi có ghi nơi chú-thích để lưu lại dấu xưa (lời dịch-giả). [2] Đại-tỷ-khưu (Mahabhiksu): Tỷ-khưu Tàu dịch là “Khất-sĩ”: người tu-hành cầu xin pháp của Phật và xin ăn nơi quần-chúng. Đại-tỷ-khưu là chỉ cho vị Tỷ-khưu tuổi nhiều, đức cao. [3] A-la-hán (Arahat): Có chỗ dịch là “Vô-sinh”: Vĩnh-viễn nhập Niết-bàn không phải chịu quả-báo sinh-tử luân-hồi nữa; có chỗ dịch là “Ứng-cúng”: Ứng-thụ sự cúng-dàng của Nhân, Thiên. [4] Giải-thoát (Moksa): Khỏi sự bó-buộc, được tự-tại. Cổi sự ràng-buộc của hoặc-nghiệp, thoát quả khổ trong 3 cõi. [5] Tâm thiện giải-thoát: Tâm-thức lìa được hết thảy định-chướng, chứng-nhập Diệt tận-định. Tuệ thiện giải-thoát: Trí-tuệ xa-lìa hết thảy vô-minh, phiền-não-chướng, mà chứng-nhập Niết-bàn. Đây nói về tâm, trí của vị A-la-hán đã đạt tới chỗ giải-thoát thực sự. [6] Thân, khẩu, ý trong sạch không còn tạo-tác gì nữa. [7] Giũ sạch phiền-não. [8] Phương-tiện (Upàya): Phương-pháp tiện dụng .Phương-pháp tiện-dụng hợp với căn-cơ của hết thảy chúng-sinh. [9] Đoạn trên, tán-thán công-đức tu chứng của các vị Đại-tỷ-khưu: Dứt bỏ hết phiền-não, không còn phải luân-hồi trong cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô-sắc; mình được lợi-ích, được tự-tại, thanh-tịnh, trang-nghiêm, được 8 pháp giải-thoát, chứmg được Niết-bàn (Nirvana: Viên-tịch). Tám pháp giải-thoát này do nơi Thiền-địnhmà được: 1.-Nội hữu sắc tưởng, quán ngoại sắc giải-thoát: Trong thân có tham-tưởng về sắc, muốn trừ tham-tưởng ấy, ngoài nên đi quán-sát sắc-thân là bất-tịnh, như thây chết v.v…, sẽ không khởi ra tham-tưởng nữa, nên gọi là giải-thoát. Giải-thoát này y vào Sơ-thiền phát-khởi và duyên vào Sắc của cõi Dục. 2.- Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc giải-thoát: Trong thân tuy không có tham-tưởng về sắc nhưng, muốn được kiên-cố, ngoài cũng cần phải quán-sát sắc-thân là bất-tịnh v.v…, sẽ không khởi ra tham-tưởng nữa, nên gọi là giải-thoát. Giải-thoát này y vào Nhị-thiền phát-khởi và duyên vào sắc của Sơ-thiền. 3.- Tịnh-giải-thoát thân-tác-chứng cụ-túc-trụ: Ở trong định, quán những màu sắc sáng-suốt, nhiệm-mầu thanh-tịnh trong hào-quang, không sinh tham-tưởng, trong thân chứng được tính giải-thoát bằng cách viên-mãn cụ-túc ở ngay trong định ấy. Giải-thoát này y vào Tứ-thiền phát-khởi và cũng duyên vào của cõi Dục. 4.- Không-vô-biên-xứ giải-thoát: Không vô-biên-xứ là cõi trời thứ nhất của Vô-sắc-giới. Cõi này do chán cái thân về hình-sắc, nghĩ về cái “không vô-biên”, làm ra sự giải-ngộ về cái “không vô-biên” và, tâm tương-ứng với cái “không vô-biên” ấy, mà sinh vào nơi ấy. Nay quán khổ, không, vô-thường, vô-ngã, sinh tâm chán bỏ mà được giải-thoát. 5.-Thức-vô-biên-xứ giải-thoát: Thức-vô-biên-xứ là cõi trời thứ hai của Vô-sắc-giới. Cõi này do sự chán cái “không” trước, bỏ “không”, duyên vào nội-thức làm tâm, giải-ngộ “thức vô-biên” ấy và, tâm tương-ứng với cái “thức vô-biên” ấy mà thành. Nay quán khổ,không, vô-thường, vô ngã, sinh tâm chán bỏ mà được giải-thoát. 6.- Vô-sở-hữu-xứ giải-thoát: Nơi này do chán “thức”, quán-tưởng tâm-thức là vô-sở-hữu (không chỗ nào là có) và, tâm tương-ứng với vô-sở-hữu ấy mà thành. Nay quán khổ, không, vô-thường, vô-ngã, sinh tâm chán-bỏ mà được giải-thoát. 7.- Phi-tưởng, phi phi-tưởng-xứ giải-thoát: “Thức-xứ” trước đây là “hữu-tưởng”, “vô-sở-hữu xứ” là “vô-tưởng”, đến đây bỏ cái “hữu-tưởng” trước gọi là “Phi-tưởng”, bỏ cái “Vô-tưởng” gọi là “Phi phi-tưởng”. Nay quán khổ, không, vô-thường, vô-ngã, sinh tâm chán bỏ mà được giải-thoát. 8.- Diệt thụ-tưởng-định, thân-tác-chứng cụ-trụ giải-thoát: Tức là Diệt-tận-định, cũng y vào đệ Tứ-thiền, bỏ cả cái “Phi phi-tưởng” trước là sở-duyên của hết thảy, trong thân chứng được tính-giải-thoát cụ-túc ngay trong định ấy. [10] Cụ-thọ: Tiếng gọi thông-thường chỉ cho những vị có đầy-đủ tuổi thọ thế-gian và pháp-thân tuệ-mệnh. [11] Hữu-học: Người còn đang ở địa-vị nghiên-cứu chân-lý để dứt hẳn vọng-hoặc gọi là “Hữu-học”. Tiểu-thừa, từ quả thứ nhất đến quả thứ ba là “Hữu-học”, A-la-hán là “Vô-học”. Đại-thừa, Thập-địa Bồ-tát là “Hữu-học”, Phật là “Vô-học”. [12] Đại-bồ-tát (Maha bodhisattva): Tàu dịch là “Đại-tâm”: Những vị phát tâm rộng lớn, vì chúng-sinh cầu đạo vô-thượng và luôn luôn giác-ngộ cho chúng-sinh thành Vô-thuợng-đạo. [13] Đại-Pháp-Vương-Tử: Bậc Đại-bồ-tát vì sinh-trưởng, dưỡng-dục ở trong nhà Pháp-Vương Phật-Đà, nên gọi là Đại-pháp-vương-tử. Lại có nghĩa là chính-pháp từ nơi miệng Phật sinh ra, người nối dõi Pháp-thân của Phật mãi mãi không dứt, nên gọi là Pháp-Vương-Tử. [14] Nhất-sinh bổ-xứ: (Eka-jati-Pratibuđdha): Nhất là lý Nhất-thực. Bồ-tát Sơ-địa, được tịnh Bồ-đề-tâm, tự lý nhất-thực ấy xuất sinh ra vô-lượng Tam-muội Tổng-trì-môn, cho đến Thập-địa chỉ còn 1 lần chuyển sinh lên Phật-địa nữa thôi, nên gọi là “Nhất-sinh bổ-xứ”. [15] Đây nói: nơi Chân-như pháp-tính của chư Phật. [16] Ý nói dùng chính-pháp Đại-thừa vi-diệu soi-sáng, dẫn-dắt chúng-sinh. [17] Tổng-trì: Tổng-trì tiếng Phạm là Đà-ra-ni (Dharani) và có nghĩa là giữ-gìn việc thiện không mất, việc ác đừng khởi. [18] Bốn pháp biện-tài vô-ngại: Tức là bốn tài biện-thuyết, luận-nghị lưu-loát, không bị chướng-ngại: 1.- Giáo-pháp vô-ngại. 2.- Nghĩa-lý vô-ngại. 3.- Ngôn-từ vô-ngại. 4.- Biện-thuyết vô-ngại. [19] Tam-muội: (Samadhi): Tàu dịch là “định, chính-thụ”. [20] Sáu độ: Bố-thí, trì giới, nhẫn-nhục, tinh-tiến, thiền-định, trí-tuệ. Thường gọi là Lục (sáu) Ba-la-mật. [21] Chính-kiến: Tư-tưởng, quán-sát chân-chính, lìa bỏ những sự nghiêng, vạy. [22] Thị-hiện: Chư Phật, Bồ-tát ứng theo cơ-duyên mà hiện ra nhiều thân để cứu độ chúng-sinh. [23] Đạo-tràng: Nơi thành-đạo, hành-pháp, cúng-dàng, học đạo. [24] Ba đạt-trí: Ở nơi La-hán gọi là “tam-minh” (3 pháp Minh), ở nơi Phật gọi là “tam-đạt” (3 đạt trí) tức là Thiên-nhãn, Túc-mệnh, và Lậu-tận. Thiên-nhãn biết nhân-quả sinh-tử vị-lai; Túc-mệnh biết nhân-quả sinh-tử quá-khứ; Lậu-tận biết phiền-não hiện-tại mà đoạn diệt. Biết minh-bạch gọi là “Minh”, biết cùng tận gọi là “Đạt”. [25] Ba đời: Quá-khứ, hiện-tại, vị-lại. [26] Cam-lộ: Tiếng Phạm gọi là A-mật-rị-đa (Amrta): Tên thứ nước ở cõi trời, giống như hạt móc sớm mai, có mùi ngon-ngọt như mật, người cõi trời uống vào thân mệnh sống lâu, khỏe-mạnh, yên-lành và phát-sinh ánh-sáng. [27] Chuyển trí-ấn pháp-luân: Nghĩa là quay bánh xe pháp “Trí-ấn”. Trí-ấn có nghĩa là dùng trí-tuệ Bát-nhã làm ấn-tín, để vào được lý “thực-tướng”. Lại có nghĩa là dùng trí-tuệ, phân-biệt chân, vọng, phải, trái v.v… [28] Vô-thượng chính-đẳng chính-giác: Tức là phiên-dịch câu A-nốc-đa-la tam-miệu tam Bồ-đề (Anuttara-samyak – sambodhi) của chữ Phạm và có nghĩa là trí-tuệ vô-thượng chân-chính, bình-đẳng, hiểu-biết hết thảy chân-lý. Từ câu “lại có 84.000 vị Đại-bồ-tát…” đến chỗ “Chính-giác”, là tán-thán công-đức: hành, nguyện, bi, trí của các vị Đại-bồ-tát. [29] Lục-Dục-Thiên: 6 cõi trời còn đới dục-lạc là: 1/ Tứ-thiên-vương: Trì-quốc, Quảng-mục, Tăng-trưởng, Đa-văn. 2/ Đao-lỵ-thiên (Tàu dịch: Tam-thập tam thiên (33 cõi trời). 3/ Dạ-ma-thiên (Tàu dịch: Thời-phận). 4/ Đâu-suất-thiên (Tàu dịch: Hỷ-túc). 5/ Hóa-lạc-thiên. 6/ Tha-hóa-tự-tại-thiên. [30] Thích -Đề-Hoàn-Nhân: (Sakra devànàm Indra) Tàu dịch: “Năng-thiên-chủ”. Thường gọi là “Đế-thích”, làm chủ 33 nơi trong cõi trời Đao-lỵ . [31] Thượng-thủ: Là người có tài-đức được cử ra đứng đầu một nhóm hoặc đại-chúng. [32] Đoạn trên là tán-thán công-đức các vị Thiên-tử. [33] Hằng-hà-sa: Cát sông Hằng. Đây là chỉ số lượng rất nhiều không thể tính-toán xiết được. [34] Cây Bồ-đề: “Bồ-đề” (Bodhi): Xưa dịch là “Đạo”, nay dịch là “Giác”. – Bồ-đề-thụ (Bodhidruma hay Bodhivrksa): Cây này do đức Thích-Ca thành-đạo ở đó nên được tên ấy. Chính tên là cây Tất-bát-la (Pippala). [35] Từ chỗ “Các vị ấy đều…” đến chỗ “thoái-chuyển” là lời tán thán công-đức các vị Thiên-tử được thần-thông Tam-muội, luôn luôn phụng-sự chư Phật trong ba đời khi chư Phật thành-đạo dưới gốc Bồ-đề, lại thỉnh chư Phật thuyết-pháp độ sinh và, ngộ được chân-lý trong Đạo Bồ-đề không thoái-chuyển. [36] Đoạn trên tán-thán công-đức sự thành tâm thỉnh pháp và hộ-pháp của các vị Long-vương. [37] Dược-soa ( Yaksa): Có chỗ gọi là Dạ-xoa, Tàu dịch là “Tật-tiệp”, là loài quỷ-thần bay trên hư-không. [38] Đoạn trên là lời tán-thán đức-lực của các Dược-xoa-thần đầy đủ ánh-sáng trí-tuệ, ngăn dẹp ác-quỷ, làm cho chúng-sinh được an-vui, thêm phúc, trí và hộ-trì Đại-thừa-pháp được lâu dài. [39] Càn-thát-bà (Gadharva): Tàu dịch là “Hương-ấm”: không dùng rượu thịt, chỉ cần hương-vị để giúp cho thân ngũ-ấm; còn dịch là “Tầm-hương”, có nghĩa là thường tìm hương-khí để giúp cho thân-mệnh, hoặc nơi tự thân xuất ra những hương-khí . Đây là vị nhạc-thần nơi Thiên-đế. [40] Đoạn trên tán-thán công-đức các vị Càn-Thát-Bà-Vương có lòng ái-kính Đại-thừa-pháp và, làm cho chúng-sinh được lợi-lạc, không bao giờ thấy chán-nản, mỏi-mệt. [41] A-tu-la (Asura): Tàu dịch: “Phi-thiên”, nghĩa là loài quỷ-thần này gần bằng trời nhưng không phải trời, vì không được những đức-độ như các vị trên cõi Trời, mà lại hay có tính tranh-đấu. [42] Tam-bảo: Ba ngôi quý-báu: Phật (Buddha), Pháp (Dharma), Tăng (Sangha). Đoạn trên nói A-tu-la-vương vốn tính ngã-mạn, nay bỏ được tính ấy, tu theo thiện-pháp, thụ-trì Đại-thừa, tôn-trọng Tam-bảo. [43] Ca-lâu-la-vương (Garuda): Loại chim Kim-sí đầu đàn. [44] Bất khởi pháp-nhẫn….Đối với thực-tướng của các pháp hiểu rõ và tin thực sâu xa, không còn sinh khởi sự ngờ vực, luôn luôn chỉ đem lại lợi-ích cho chúng-sinh mà thôi. Đoạn trên tán-thán công-đức sự liễu-pháp và làm lợi-ích chúng-sinh của Ca-lâu-la-vương. [45] Khẩn-na-la-vương: Người đứng đầu trong loại Khẩn-na-la. Khẩn-na-la (Kimnara) xưa dịch là “Nhân-phi-nhân”:như người nhưng không phải người; nay dịch là “Ca-thần”: Thần chuyên việc hát, là nhạc-thần nơi Thiên-Đế. [46] Đoạn trên tán-thán công-đức các vị Khẩn-na-la-vương có đủ trí-tuệ vi-diệu, thanh-tịnh, thân tâm tự-tại. [47] Ma-hầu-la-già-vương: Loại Ma-hầu-la-già đầu đàn. Ma-hầu-la-già (Mahoraga): Đại-mãng-thần (thần rắn). [48] Ái-triền: Ân-ái quấn-quít. Đoạn trên tán-thán Ma-hầu-la-già-vương khéo tu tập, bỏ tham-ái và khéo dùng phương-tiện làm cho chúng-sinh bỏ được sự ân-ái quấn-quít. [49] Chuyển-luân thánh-vương: Tiếng Phạm gọi là Chước-ca-la-phạt-lạt để-hạt-la-xà (Cakavarti-Raja). Vua Chuyển-luân thánh-vương có 32 tướng. Khi tức vị, do thiên cảm, nhà vua được cỗ xe báu (luân-bảo); xe này quay chuyển hàng-phục được 4 phương nên gọi là Chuyển-luân-vương. Khi kiếp số tăng lên của nhân-loại, người ta thọ đến 20.000 tuổi trở lên thời Chuyển-luân-vương mới xuất-thế. Mà ở kiếp diệt, người ta thọ từ vô-lượng tuổi đến 80.000 tuổi, thời nhà vua ra đời. Luân-bảo (cỗ xe báu) của nhà vua có 4 loại: Kim (vàng), Ngân (bạc), Đồng và Thiết (sắt). Bốn cỗ xe báu này lần lượt thống-lĩnh 4 đại-châu, như Kim-luân-vương coi cả 4 châu; Ngân-luân-vương coi 3 châu: Đông, Tây và Nam; Đồng-luân-vương coi 2 châu: Đông và Nam; Thiết-luân-vương coi 1 châu Nam-diêm-phù-đề. [50] Đoạn trên nói các Chuyển-luân thánh-vương sùng-tín Tam-bảo, đem mọi thứ cúng-dàng Thế-Tôn, tán-thán Phật-trí và mong cầu đạo vô-thượng-giác. -Vì, biết thế-pháp vô-thường. [51] Phúc-trí: Tức là phúc-đức và trí-tuệ. Có chỗ còn gọi là “Phúc-tuệ, đức-trí, đức-tuệ, trí-đức v.v…” [52] Đoạn trên nói về 16 Đại-quốc-vương do trồng căn lành, được đầy-đủ phúc-trí, nhân-dân vui-vẻ, chư Phật hộ-niệm. Các vị ấy từng phát tâm làm thí-chủ cho chư Phật trong ba đời và bố-thí chúng-sinh. Các vị ấy chán sinh-tử, tu giải-thoát, cầu Phật-đạo, độ chúng-sinh, và nối dõi Phật-chủng. Vì, nhân-duyên nghe pháp, các vị ấy sắm đồ cúng-dàng dâng đức Thế-tôn. [53] Ba môn giải-thoát: 1/- Không giải-thoát: Quán các pháp do nhân-duyên sinh, không có ngã, ngã-sở mà được giải-thoát. 2/- Vô tướng giải-thoát: Chứng Niết-bàn xa lìa hết thảy tướng mà được giải-thoát. 3/- Vô nguyện giải-thoát (xưa gọi là vô-tác, vô-khởi): Đối với các pháp không còn ưa muốn gì, mà được giải-thoát. [54] Đoạn trên, tán-thán công-đức của 16 phu-nhân đã được chính-định nhưng, vì độ sinh mà thị-hiện nữ-thân. Và nay vì muốn nghe pháp nên đem các thứ quý báu cúng-dàng Thế-Tôn. [55] Tỷ-khưu-ni (Bhiksuni): Phái nữ đi tu, thụ-trì đại-giới. [56] Ưu-bà-tắc (Oupasaka): Tàu dịch là “Cận-sự-nam”: người đàn ông thụ-trì giới-pháp của Phật, luôn luôn thân-cận, phụng-sự Tam-bảo. [57] Ưu-bà-di (Oupasika): Tàu dịch là “Cận-sự-nữ”: người đàn bà thụ-trì giới-pháp của Phật, luôn luôn thân cận, phụng sự Tam-bảo. [58] Bà-la-môn (Bràhmana): Giai-cấp tu-sĩ của Ấn-độ-giáo, Tàu dịch là “Tịnh-hạnh”, “Tịnh-chí”, “Tĩnh-chí”. Giai-cấp thứ nhất trong 4 giai-cấp của Ấn-độ. [59] Sát-đế-lỵ (Ksatija): Tàu dịch là “Điền-chủ”. Giai-cấp vua chúa. Giai-cấp thứ 2 trong 4 giai-cấp của Ấn-độ. [60] Phệ-xá (Vesa): Giai-cấp buôn bán. Giai-cấp thứ 3 trong 4 giai-cấp của Ấn-độ. [61] Thú-đạt-la (Sudra): Giai-cấp nông-nhân, nô-lệ. Giai-cấp thứ tư trong 4 giai-cấp của Ấn-độ. [62] Trưởng-giả: Tiếng Phạm gọi là “Nghị-lực-hạ-bát-để” (Drha-pati): Tiếng gọi thông-thường chỉ cho người nhiều của, đủ đức. Bộ Pháp-Hoa Huyền-tán quyển 10 nói: “Trưởng-giả là người tâm bình, tính thẳng, nói thực, làm chăm, tuổi nhiều, của lắm”. [63] Cư-sĩ: Tiếng Phạm gọi là Ca-la-việt (Kulapati): Là người có của ở nhà không ra làm việc đời; là người ẩn-dật ở nơi nhà mình không ra làm quan; hay là người tại-gia có chí hướng về đạo Phật. Bộ Pháp-Hoa Huyền-tán quyển 10 nói: “Giữ đạo tự điềm-đạm, chứa đức, ít muốn gọi là Cư-sĩ”. [64] Đoạn trên nói về Tăng, tục đại-chúng có thiện-căn, có nhân-duyên phát tâm tới nghe pháp. [65] Lộ-già-gia-đà (Lokàyatika): Tàu dịch là “Thuận thế”. Tên một ngoại-đạo trong Ấn-độ xưa, thuận theo tình đời, chấp sự vật là thường, là có. [66] Năm pháp thần-thông: Thần-thông: những pháp có dụng-lực tự-tại vô ngại, không thể suy lường được. Năm pháp thần-thông là: 1/- Thần-túc-thông(Rddhivid-hi-jnàna): một niệm đi khắp mọi thế-giới, được tự-tại. 2/- Thiên-nhãn-thông (Divya-caksus): Trông suốt hết thảy. 3/- Thiên-nhĩ-thông (Divya-sirotra): nghe khắp mọi tiếng. 4/- Tha-tâm-thông (Paracit-ta-jnàna): biết hết thảy tâm chúng-sinh. 5/- Túc-mệnh-thông. (Purvanivàsà-nusmrti jnàna): nhớ biết mệnh kiếp trước. Thêm “Lậu-tận-thông” (As-ravaksaya-jnàna) nữa là 6. Lậu-tận-thông có nghĩa là dứt trừ hết thảy phiền-não được tự-tại vô ngại. [67] Đoạn trên nói: tuy là ngoại-đạo tu các pháp-môn khác với đạo Phật nhưng, tu-hành đã được thần-thông, được tự-tại vô-ngại, biết phát tâm hiếm có tới nghe Phật thuyết-pháp. [68] Phi-nhân: Chỉ chung cho các loài không phải người (phi-nhân) như Thiên, long 8 bộ cùng đồ-chúng u minh như Dạ-xoa, ác quỉ v.v… [69] Ngã-quỉ: Tiếng Phạm gọi là Bệ-lệ-đa (Preta). Ngã-quỉ là 1 thú trong 6 thú. Ngã-quỉ thường chịu khổ về đói khát. Và, do quả-báo phải chịu không đồng, nên có loài hơn, loài kém. Loài hơn, làm thần nơi rừng núi, miếu mạo; loài kém, ở nơi bất-tịnh, không được ăn uống và thường phải chịu khổ về dao, gậy đánh đập. [70] Tỳ-xá-xà-quỉ (Pisacà): Tàu dịch là “điên quỉ”: quỉ điên-cuồng; “Hám-tinh-quỉ”: quỉ ăn tinh-khí. [71] Năm thể : Đầu, hai tay và hai đầu gối. [72] Đoạn trên nói về loài quỉ là loài nhiều ác-độc nay đã diệt-trừ, biết quy-y Tam-bảo, hộ-trì chính-pháp nên tới nghe pháp. [73] Ba đường: Tức tam (3) ác đạo và còn gọi là tam (3) đồ, tam (3) ác thú: Địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh. [74] Đoạn trên nói loài súc-sinh (cầm-thú) tới nghe pháp đem các thức cúng-dàng lên Phật, thỉnh Phật thuyết-pháp, mong dứt ác-nghiệp, ngu-si, được giải-thoát. [75] Diễm-ma-la-vương (Yama-rãja): Xưa gọi là “Diêm-la” hay “Diêm-vương”. Tàu dịch là “Phọc” (phược): trói buộc tội nhân; “song thế”: vị này ở đời được hưởng thụ vui sướng và phải chịu cả sự khổ; “bình-đẳng-vương”: trị tội bình-đẳng Diễm-ma-la-vương là một chức vị cai quản tất cả các việc trong địa-ngục. [76] La-sát (Ràksasa): Tàu dịch là “Bạo-ác khả úy”: Loài quỉ hung-ác đáng sợ. Quỉ cái gọi là “La-xoa-tư” (Ràksasi). “Đại-la-sát” là quỉ La-sát có địa-vị cao hơn và hung-ác hơn. [77] Ngục-lại: Quan coi ngục. [78] Năm dục-lạc: Của-cải, sắc đẹp, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ . [79] Năm tội nghịch: “Ngũ nghịch” là 5 thứ tội ác trái ngược với đạo-lý. Còn gọi là “ngũ vô-gián nghiệp” là 5 ác-nghiệp phải chịu quả-khổ trong địa-ngục Vô-gián. Năm tội nghịch là: 1/- Giết cha. 2/- Giết mẹ. 3/- Giết A-la-hán. 4/- Làm chảy máu nơi thân Phật. 5/- Phá hòa-hợp Tăng. Còn 5 tội đặc-biệt nữa là: 1/- Phá chùa tháp, đốt kinh tượng, lấy của Tam-bảo. 2/- Hủy báng Tam-thừa-pháp. 3/- Bắt giam đánh đập, giết chóc nguời tín tâm xuất-gia. 4/- Phạm 1 trong 5 tội nghịch trên. 5/- Cho là không có nhân-quả, tạo 10 điều ác. [80] Địa-ngục: Tiếng Phạm gọi là “Na-lạc-ca” (Naraka), “Nê-lê” (Niraya). Tàu dịch là “bất lạc”: không vui; “khả yếm”: đáng chán, “khổ-cụ, khổ-khí”: đồ-vật, khí-cụ làm cho đau khổ; “vô hữu”: không có sự vui sướng, không có khí vị v.v…Y cứ vào nơi sinh (dưới đất: địa) và có những khổ trên, khác gì như ở trong ngục nên gọi ra thành “địa-ngục”. Địa-ngục có ba loại: 1/ Căn-bản địa-ngục: như 8 ngục nhiệt (nóng), 8 ngục hàn (rét). 2/ Cận biên địa-ngục: các ngục nhỏ phụ cận, như mỗi ngục lớn có 16 ngục nhỏ. 3/ Cô-độc địa-ngục: những ngục ở nơi núi rừng, đồng nội, dưới cây, trong không v.v… [81] Đoạn trên nói về Diêm-la-vương cùng những ác-quỉ tới nghe pháp. Vì, có nhiệt tâm độ-sinh, thương chúng-sinh: tự mình buộc mình, nên họ khẩn-thiết xin Phật nói pháp để chúng-sinh trong 3 ác-thú được giải-thoát. [82] Tòa sư-tử: Sư-tử đứng đầu loài thú, có uy-đức lớn, khi rống lên một tiếng các loài thú đều nép phục. Đức Phật nói pháp cảm-động pháp-giới hữu-tình. Vì vậy, nên nơi Ngài ngồi thuyết-pháp hay đem “tòa sư-tử” làm ví-dụ. [83] Nam-diêm phù-đề: Xưa phiên là “Diêm-phù-đề” (Jambudvipa) nay phiên là “Thiệm-bộ-châu”. Đây là tên một châu ở về phía Nam núi Tu-di, nên gọi là Nam-diêm-phù-đề. Châu này là cõi đất nhân-loại ở hiện nay. [84] Đoạn trên nói đức Phật là chủ pháp-hội. Ngài có uy-đức lớn được đại-chúng cung-kính, cúng-dàng . [85] Gia-phu: Ngồi xếp bằng, hai bàn chân để chéo lên hai vế. [86] Tu-di: (Sumeru): Tàu dịch là “Diệu-cao, Diệu-quang, An-minh, Thiện-tích, Thiện-cao…” Tên một trái núi ở trung tâm tiểu-thế-giới. [87] 4 thứ báu: Vàng, bạc, lưu-ly, pha-lê. Thêm xà-cừ, xích-châu, mã-não là thất-bảo (7 thứ báu). [88] Hữu-đỉnh-thiền cực thiện tam-muội: “Hữu-đỉnh” chỉ cho cõi trời Sắc-cứu-cánh là cõi cao cùng tột của cõi Sắc. Đây là tên một môn thiền-định cao siêu cùng cực và thiện-diệu. [89] Tâm anh-lạc bảo trang-nghiêm-vương: Đây ví vào tâm Phật. Tâm Phật và tâm chúng-sinh bình-đẳng. Song, tâm Phật có vô-lượng vô-biên công-đức trang-nghiêm, được viên-mãn tự-tại, ví như ngọc-báu trang-nghiêm, như vương-vị được tự-tại. [90] Vô-sắc-giới: Cõi này không có một cái gì có thể gọi là vật-chất của sắc-pháp, cũng không có thân thể, cung-điện, chỉ còn có thức-tâm và ở trong thiền-định sâu-sa vi-diệu nên gọi là “Vô-sắc-giới”. Vô sắc-giới có 4 cõi: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ. [91] Sắc-giới: Cõi này từ thân-thể, cung-điện, quốc-độ đều là vật-chất (sắc) tinh-hảo, thù-thắng vi-diệu. Sắc-giới chia làm Tứ-thiền: 1/ Sơ-thiền 3 cõi: Phạm-chúng-thiên, Phạm-phụ-thiên, Phạm-vương-thiên. 2/ Nhị-thiền 3 cõi: Thiểu-quang-thiên, Vô-lượng-quang-thiên, Quang-âm-thiên. 3/ Tam thiền 3 cõi: Thiểu-tịnh-thiên, Vô-lượng tịnh-thiên, Biến-tịnh-thiên. 4/ Tứ-thiền 9 cõi: Phúc-sinh-thiên, Phúc-ái-thiên, Quảng-quả-thiên, Vô-tưởng-thiên, Vô-phiền-thiên, Vô-nhiệt-thiên, Thiện-kiến-thiên, Thiện-hiện-thiên và Sắc cứu-cánh-thiên. Tổng cộng Sắc giới có 18 cõi trời. [92] Phạm-thiên (Brahmadeva): Là một cõi trong Sơ-thiền thuộc Sắc-giới. Cõi này ưa tịch-tĩnh thanh-tịnh, xa lìa sự dâm-dục của Dục-giới. [93] Sáu cõi trời Dục: Dục-giới là cõi mà chúng-sinh trong đó có 3 thứ dục: ăn, ngủ, và dâm-dục. Có 6 cõi trời còn vương trong vòng dục ấy là: 1/ Tứ thiên-vương (Caturmahàràjakàyikàs): Đông: Trì-quốc-thiên (Dhritaràstra). Nam: Tăng-trưởng-thiên (Virùdhaka). Tây: Quảng-mục-thiên (Virùpàksa), Bắc: Đa-văn-thiên (Dhanada). 2/ Đao-lỵ-thiên (Tràyas trmsa: Tàu dịch là “Tam-thập tam thiên”) 3/ Dạ-ma-thiên (Yàma: Tàu dịch là “Thời phận” 4/ Đâu suất-thiên (Tusita: Tàu dịch là “Tri-túc, Hỷ-túc”). 5/ Lạc biến-hóa-thiên (Tiếng Phạm là Ni-ma-na: Nirmanarataya). 6/ Tha hóa tự-tại-thiên (Tiếng Phạm là Sa-xá-bạt-đề: Pa-ranirmitavasavartina). [94] Tên các thứ hoa. Vì có nhiều tên hoa không thấy phiên nghĩa ra Hán-văn, nên đành để vậy. [95] Sư-tử phấn-tấn tam-muội: Môn thiền-định có tác-động rung-động mạnh-mẽ, mau lẹ như sư-tử. [96] Tam-thiên đại-thiên thế-giới: Đất nước trong vũ-trụ này rất nhiều. Một thái-dương-hệ là một tiểu-thế-giới. Một nghìn Tiểu-thế-giới thành Tiểu-thiên thế-giới. Một nghìn Tiểu-thiên thế-giới thành trung-thiên thế-giới. Một nghìn Trung-thiên thế-giới thành Đại-thiên thế-giới. Số lượng của Đại-thiên thế-giới là 1.000.000.000. Đại-thiên thế-giới do ba lần “thiên” (nghìn) mà thành, nên gọi là “Tam-thiên đại-thiên thế-giới”. [97] Súc-sinh: Tiếng Phạm gọi là “Để-lật-xa” (Tiryagyoni). “Súc-sinh “ chỉ cho các sinh-vật được nuôi dưỡng để ăn hay để làm việc. Nay dịch là “Bàng-sinh” có nghĩa là chỉ cho các sinh-loại đi ngang. [98] Tam luân không: Ba vòng rỗng không. Đây nói về sự bố-thí. Người vô-tâm thực-hành bố-thí, không còn bợn chút hình bóng gì trong tâm-thức về 3 loại: người bố-thí, người nhận của bố-thí và của bố-thí. Thế là “chân-bố-thí “, là “tam luân không”. [99] Di-lâu-sơn (Sumeru): Tàu dịch là “Cao-sơn , Quang-sơn”. [100] Mục-chân-lân-đà-sơn (Mucilinda): Tàu dịch là “Giải-thoát-sơn”. [101] Bốn đại-châu: Theo kinh Phật, thế-giới này chính giữa có núi Tu-di, chung-quanh có các núi, các bể, rồi đến 4 đại-châu: 1.- Nam Thiệm-bộ-châu, hay là Nam Diêm-phù-đề (Jambudvipa). 2.- Đông Thắng-thần-châu, hay là Đông Phất-bà-đề (Pùrva–videha). 3.- Tây Ngưu-hóa-châu, hay là Tây Cồ-gia-ni (Apara–godàniya) 4.- Bắc Cô-lô-châu, hay là Bắc Uất-đàn-việt (Uttara–kuru). [102] Tám ngục hàn (rét): Át-bộ-đà (Arbuda) Tàu dịch là “Pháo”: rét quá phỏng da. 2.-Ni-lạt-bộ-đà (Nirarbuda) Tàu dịch là “Bào-pháo”: rét quá da căng nứt. 3.- A-triết-tra (Atta). 4.- Hoắc-hoắc-bà (Apapa). 5.- Hổ-hổ-bà (Hàhàdharà) (3 ngục trên do rét quá mà miệng phát ra tiếng như thế). 6.- Uất-bát-la (Utpala): Tàu dịch là “Thanh-liên-hoa”: rét quá thân-thể nứt-nở tái xanh như cánh sen xanh. 7.- Bát-đặc-ma (Padma) Tàu dịch là “Hồng-liên-hoa”: rét quá thân-thể nứt, máu như cánh sen đỏ. 8.- Ma-ha-bát-dặc-ma (Mahàpadma) Tàu dịch là “Đại-hồng-liên-hoa”. Trong kinh Niết-bàn quyển 11 lại gọi là: “A-ba-ba, A-tra-tra, A-la-la, A-bà-bà, Ưu-bát-la, Ba-đầu-ma và Câu-vật-đầu….” [103] Tám ngục nhiệt (nóng): 1.- Đẳng-hoạt: bị tra-tấn, chết đi, lại sống lại. 2.- Hắc-thằng: Lấy dây trói rồi sau cưa, chém. 3.- Chúng-hợp: nhiều khí-cụ hợp lại tra-tấn. 4.- Hào-khiếu: tra-tấn đau, kêu gào khóc lóc. 5.- Đại-khiếu: đau quá kêu to. 6.- Viêm-nhiệt: lửa đốt chung-quanh. 7.- Đại-nhiệt: rất nóng. 8.- Vô-gián: Chịu khổ không gián-đoạn. [104] Mười phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-nam, Tây-nam, Đông-bắc, Tây-bắc, Thượng-phương và Hạ-phương. [105] Năm thú: Thiên (trời), Nhân (người), địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh. Thêm A-tu-la nữa là 6 thú hay 6 đạo. [106] Kệ: Tiếng Phạm gọi là “Kỳ-dạ” (Geya). Tàu dịch là “trùng-tụng” là một lối thơ bốn câu, nói lại nghĩa của văn xuôi. Lại còn một thứ kệ tiếng Phạm gọi là “Già-đà” (Gàthà): Tàu dịch là “Phúng-tụng” hay “Cô-khởi-tụng”. Nghĩa là: Lối thơ cũng 4 câu nhưng, tự sáng-tác riêng biệt, không phải nói lại nghĩa của văn xuôi. [107] Tịnh-Phạn: Tên Thân-phụ đức Phật Thích-Ca, tiếng Phạm gọi là Thủ-đồ-đà-na (Suddhodana) cai-trị nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). [108] Chuyển-pháp-luân (quay bánh xe pháp): Giáo pháp của Phật gọi là “pháp-luân” (bánh xe pháp); truyền nói pháp ấy gọi là “chuyển” (quay). Nghĩa là giáo-pháp của Phật , quay vòng khắp chúng-sinh-giới, phá tan phiền-não. Và, “chuyển” đây còn có nghĩa là chuyển pháp tự tâm mình, chuyển di sang tâm người khác. [109] Nhất-thiết-trí: Biết rõ tướng chung của hết thảy pháp. Tướng chung tức “không-tướng”. [110] Thần-dị: Thần-thông biến hóa lạ-lùng. [111] Phạm-thiên-vương: Tên gọi tắt của Đại-phạm-thiên-vương (Mahàbrahman), là ông vua trong cõi Sơ-thiền. Và, còn là tên gọi chung 18 cõi trời thuộc Sắc-giới. [112] Thiên-đế-thích: Chính gọi là “Thích-Ca đề hoàn-nhân” (Sakra devànàn Indra), gọi tắt là “Đế-thích” Tàu dịch là “Năng-thiên-chủ”, cai-trị cõi trời Tam-thập tam (Đao-lỵ). [113] Đại-thừa: Tiếng Phạm gọi là “Ma-ha-diễn” (Mahàyàna: “Đại” (lớn) đối với “Tiểu” (nhỏ) mà nói. “Thừa” (cỗ xe) có ý nghĩa là vận tải. Thập nhị môn luận nói: “Ma-ha-diễn” (Đại-thừa) hơn Thanh-văn-thừa, Duyên-giác-thừa nên gọi là “Đại-thừa”. Quả-vị của chư Phật rất cao-siêu, cỗ xe này vận chuyển được đến đó nên gọi là “Đại”. Chư Phật đại-nhân ngồi trên cỗ xe này gọi là “Đại”. Hay diệt trừ đại-khổ, cho chúng-sinh đại-lợi-ích nên gọi là “Đại” v.v… Đại-thừa là cỗ xe giáo-pháp cao-siêu, vi-diệu rộng lớn chuyên chở chúng-sinh mau tới chỗ đại-giác-ngộ. [114] Viên-tịch: Tức là Niết-bàn (Nirvàna) và có nghĩa là công-đức viên-mãn, tịch-diệt phiền-não. [115] Hóa-nghi: Phương-pháp, nghi-thức giáo-hóa chúng-sinh. [116] Đạo-tràng (Bodhimandala): Nơi Phật, Thánh thành đạo. Nơi hành-pháp, cúng-dàng, học đạo đều gọi là đạo-tràng. Đạo-tràng còn là tên riêng của pháp-tọa (tòa ngồi thuyết-pháp). [117] Vô đẳng đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác: Tức là “Vô đẳng đẳng a-nốc đa-la tam-miệu tam bồ-đề”, “Vô đẳng đẳng” (Asamsama): Đạo Phật và tôn-hiệu của Phật, Đạo Phật cao-siêu tuyệt-đối, không gì sánh bằng, nên gọi là “vô đẳng” (không sánh bằng). Đạo ấy chỉ Phật với Phật bằng được, nên thêm chữ “đẳng”. Còn “vô-thượng chính-đẳng chính-giác”, xem phần chú-thích đã giải ở số 28. [118] Quán-đỉnh (Abhisecani): Theo tục Ấn-độ, một khi vị Hoàng-tử được phong Thái-tử, hay Thái-tử lên ngôi vua, lúc tấn-phong hay lấy nước 4 bể rưới lên đầu, biểu ý chúc tụng. Nơi đây, ngụ ý: vị Bồ-tát sắp thành Phật-quả. [119] Đại-pháp-vương: Quả-vị tối-cực của Thánh-nhân là “Đại-pháp-vương”. “Pháp-vương” là đối với hết thảy pháp được tự-tại. Đây là danh-từ tôn xưng Phật. Danh-từ tôn xưng Phật còn có chỗ gọi là “Thiên-trung-thiên, Thánh-trung-vương, Đại-thánh-chúa, Đại-y-vương, Đại-đạo-sư, Đại-thuyền-sư, Nhân-trung-tôn, Thiên-nhân-sư v.v….” [120] Nhân-giả: Tiếng gọi tên những bậc có nhân-từ đức độ khả kính. [121] Pháp-thân (Dharmakàya): Chân-thân của Phật, đầy-đủ vô-lượng pháp công-đức. Còn gọi là “tự-tính-thân”, là thể-tính chân-như pháp-giới thanh-tịnh, bình-đẳng của hết thảy pháp. [122] Thường, lạc, ngã, tịnh: Đây là 4 đức của Niết-bàn. 1/ Thường: thể của Niết-bàn thường hằng bất biến, không sinh-diệt và, tùy duyên hóa-dụng, vẫn thường không đoạn-tuyệt. 2/ Lạc: thể của Niết-bàn tịch-diệt, an-lạc vĩnh-viễn và, vận-dụng tự-tại, làm gì đều hợp với tâm. 3/ Ngã: đứng về “thể”, “tự- thực” (chân-thực nơi tự-thể) là “ngã”; đứng về “dụng”, “tự-tại” (tự-do không chướng ngại) là “ngã”: Chân-thực không biến-đổi, tự-tại không ngăn vướng là “chân-ngã”. 4/ Tịnh: thể của Niết-bàn, giải-thoát hết thảy những cấu-nhiễm và, tùy nơi hóa-duyên mà không bị nhơ-nhớp. [123] Thanh-văn: Tiếng Phạm gọi là Xá-la-bà-ca (Sràvaka). Thanh-văn là hàng đệ-tử trong pháp Tiểu-thừa của Phật nghe giaó-lý nơi tiếng nói của Phật, ngộ lý Tứ-đế (khổ, tập, diệt, đạo), dứt được kiến-hoặc, tư-hoặc, chứng-nhập Niết-bàn. gọi là “Thanh-văn”. [124]Duyên-giác: Xưa gọi là Bích-chi-Phật, nay gọi là Bát-thích-ế-già-Phật đà (Pratyekabuddha) và xưa dịch là “Duyên-giác”, nay dịch là “Độc-giác”: - Duyên-giác có nghĩa là: 1/ Quán 12 nhân-duyên, đoạn hoặc, chứng lý. 2/ Nhận thấy ngoại-duyên như hoa rơi, lá rụng mà tự giác-ngộ lẽ vô thường, đoạn hoặc, chứng lý. - Độc-giác có nghĩa là trong đời không có Phật, do mầm mống của nhân trước, hoặc quán 12 nhân-duyên, hoặc quán hoa rơi, lá rụng mà tự-giác-ngộ. [125] Đoạn này từ câu “Khi ấy đức Thế-Tôn ngồi kết gia-phu…” (ở trang 12) đến chỗ “chưa từng có bao giờ”, là nói về: đức Phật nhập-định, phóng quang, ảnh-hiện mọi tướng, báo điềm Ngài sắp nói diệu-pháp Đại-thừa, chúng-sinh cung-kính, cúng-dàng mong mỏi nghe pháp, và, Bồ-tát Sư-tử-hống nói cho chúng-hội biết là Phật sẽ nói pháp “Tâm-địa-quán”, yêu-cầu chúng-hội nhất tâm cầu vô-thượng giác, đừng cầu đạo-quả Nhị-thừa. [126] Hoa Ưu-đàm: Ưu-đàm gọi đủ là Ưu-đàm-ba-la (Udumbara): Tàu dịch là “linh-thụy” (điềm linh thiêng); “thụy-ứng” (ứng vào điềm tốt). Theo Pháp-hoa văn-cú nói thời hoa này 3.000 năm một lần hiện, khi hoa ấy hiện ra thời có Kim-luân-vương ra đời. [127] Vô-vi (Asamskrta): Tên riêng của chân-lý. Không còn nhân-duyên tạo-tác, không còn 4 tướng: sinh, trụ, dị, diệt. Trái lại là “Hữu-vi” (Samskrta). Hữu-vi chỉ cho những sự-vật do nhân-duyên tạo-thành. [128] Ba-la-mật-đa (Pàramità): Đây là nêu tỏ đại-hạnh của Bồ-tát. Ba-la-mật-đa Tàu dịch là “cứu-cánh”: đại-hạnh của Bồ-tát hay đạt tới chỗ cùng-tột trong sự tự làm, dạy người; “Đáo-bỉ-ngạn”: thực-hành đại-nguyện ấy vượt qua bể sinh-tử bên này, đến bờ Niết-bàn bên kia; “Độ vô cực”: nhân đại-hạnh ấy Bồ-tát vượt qua sự xa rộng của mọi pháp. Và, dịch tắt là “Độ”, có nghĩa là “độ thoát”. Ba-la-mật có 6 hay 10 pháp. [129] Pháp-giới (Dharmadhàtu): Đứng về mặt sự, “pháp” là các pháp (sự-vật), “giới” là ranh-giới. Các pháp đều có tự-thể nhưng, giới-phận bất đồng nên gọi là “pháp-giới”. Pháp-giới trong khung-cảnh hẹp-hòi là chỉ cho mỗi pháp song , trên phạm-vi rộng lớn, nó là tượng-trưng cho đại-khối vạn-hữu. Đứng về mặt lý, “pháp-giới” chỉ cho “lý-tính chân-như”, hoặc gọi là “chân-như pháp-tính, thực-tướng, thực-tế”. Tới đây chữ “giới” có nghĩa là “tính”. Tức là “pháp-tính”. [130] Thể, dụng: “Thể” là “thực-thể, thể-tính” là cái nhất-định bất biến của sự-vật, nó là chỗ căn-bản cho những chi-phận khác nương-tựa, như “tướng-dụng” chẳng hạn. “Tướng” là tướng-trạng trong thể-tính của các pháp; là tướng-trạng của sự-vật biểu-hiện ở bên ngoài nhưng, có tưởng-tượng tại tâm. “Dụng” là tác-dụng: Y vào thể-tính sinh ra mọi tác-dụng thiện, ác của các pháp. “Thể, tướng, dụng” theo kinh, luân gọi là “tam đại” (3 thứ rộng lớn). [131] Thiện-thệ (Tu-già-đà: Sugata): Đây là một hiệu trong mười hiệu của Phật. “Thiện-thệ” có nghĩa; là “đi tốt ”. Ý nói: dùng Nhất-thiết-trí làm xe, đi trên đường bát-chính, rảo tới Niết-bàn, nên gọi là “Thiện-thệ”. [132] Bốn vô-lượng: Từ, bi, hỷ, xả. [133] Chủng-trí: Tức Nhất-thiết-chủng-trí: Trí-tuệ của Phật viên-minh, thông suốt hết thảy mọi pháp về tổng-tướng, biệt-tướng và, biết đạo-pháp của chư Phật, nhân-chủng của chúng-sinh, hóa-đạo chúng-sinh dứt trừ mê hoặc. [134] Ba nghiệp: Thân, miệng, ý. [135] Điều-ngự: Gọi đủ là “Điều-ngự trượng-phu” (Purusadamya-sàrathi): một hiệu trong mười hiệu của Phật và, có nghĩa là đức Phật tùy thời dùng lời hòa-dịu, tùy thời dùng lời khổ-thiết…; trông nom, điều-trị chúnh-sinh, làm cho họ không trái đạo, mà đi vào thiện-đạo . [136] Năng-nhân: Đây chỉ vào đức Phật Thích-Ca Mưu-ni. Vì, Tàu dịch “Thích-Ca” là “Năng-nhân”; Mưu-Ni là “Tịch-mặc”. [137] Thập-thiện: Mười nghiệp thiện: không: sát-sinh, trộm cắp, dâm-dục, nói dối, nói thêu-dệt, lưỡi đôi chiều, thô-ác, tham-lam, sân-hận và tà-kiến. Trái lại, là thập-ác (mười nghiệp ác). [138] Ma-ni (Ma-ni): Tên một thứ ngọc, Tàu dịch là “Như-ý”. [139] Vân-tập: Dáng rần-rộ kéo đến tụ-tập đông-đảo như mây ùn. Và, sự tụ-tập ấy như sự tụ-tập của mây với cái tướng-mạo vô tâm. [140] Tám-khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, cầu không được, oán ghét phải hội-ngộ, ân-ái phải biệt-ly và năm ấm (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) rỡ-thịnh. [141] Vô-trụ: Pháp không có tự-tính, vì không có tự-tính nên không có chỗ trụ-trước (ở liền mãi đấy), chỉ tùy duyên mà hiện-khởi, nên gọi là “vô-trụ”. “Vô-trụ” là gốc của vạn hữu. [142] Vô-sở-đắc: Chân-lý vô-tướng của tâm-thể không có chỗ chấp-trước, không có chỗ phân-biệt nên gọi là “Vô-sở-đắc” (không chỗ được). Vô-sở-đắc tức là “không-tuệ”, là vô phân-biệt. [143] Toàn văn kệ trên Bồ-tát Sư-tử-hống tán-thán phúc-đức, trí-tuệ của Phật và Nhân, Thiên, chúng-sinh tôn-kính cúng-dàng Phật. Tiếp đó, Bồ-tát nói lại việc Phật nhập-định, phóng quang, ảnh hiện. Sau cùng, nhất tâm thỉnh Phật thuyết-pháp. Đến đây hết quyển nhất. |
II. – PHẨM BÁO-ÂN 1
Bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chính-định khoan-thai trở dậy, bảo Đại-Bồ-Tát Di-Lặc2 rằng: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đại-sĩ các Ông, các thiện nam-tử vì muốn thân cận bậc Thế-gian-phụ, vì muốn nghe pháp xuất-thế, vì muốn suy-nghĩ như-như-lý, vì muốn tu-tập như-như-trí3 nên mới đến nơi Phật cung-kính, cúng-dàng. Nay Tôi diễn nói về TÂM-ĐỊA DIỆU-PHÁP, để dẫn-dắt chúng-sinh, khiến cho họ chứng-nhập Phật-trí. Diệu-pháp như thế, chư Phật Như-Lai quá vô-lượng kiếp hợp thời nói ra. Như-Lai Thế-Tôn ra đời rất khó gặp được, cũng như hoa Ưu-Đàm! Như-Lai xuất-hiện ra đời nói diệu-pháp này cũng lại khó gặp! Sở-dĩ thế là sao? – Hết thảy chúng-sinh xa lìa hành-nguyện của Đại-thừa Bồ-tát, xu-hướng về Bồ-Đề của Duyên-giác, Thanh-văn, chán-ngán sinh-tử, mong nhập Niết-bàn mãi, chứ không thích diệu quả thường -lạc của Đại-thừa. Song, các Như-Lai quay xe pháp, xa lìa bốn lỗi mà nói pháp tương-ứng4: Một là, vô-phi-xứ (nói không trái nơi chốn: hợp hoàn-cảnh). Hai là, vô-phi-thời (không lỗi thời: hợp thời). Ba là, vô-phi-khí (không trái căn-khí: hợp trình-độ chúng-sinh). Bốn là, vô-phi-pháp (không trái pháp: hợp chính-pháp) Hợp bệnh cho thuốc, khiến họ khỏi được, tức là đức bất-cộng5 của Như-Lai. Thanh-văn, Duyên-giác còn chưa được cảnh bất-cộng tự-tại của Bồ-tát-chúng. Huống là được đức bất-cộng của Như-lai. Bởi nhân-duyên ấy, nên họ khó thấy, khó nghe được “tâm-địa pháp-môn” của chính-đạo Bồ-Đề! Nhưng, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào nghe được diệu-pháp ấy qua tai một lần, trong khoảng chốc lát, họ nhiếp-niệm quán tâm được, là họ huân-thành hạt giống Đại-bồ-đề vô thượng, không bao lâu nữa họ sẽ ngồi trên tòa báu kim-cương, nơi cây Bồ-đề, được thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác.6
Khi ấy, nơi Vương-xá đại-thành có năm trăm ông Trưởng-giả tên là: Diệu-Đức Trưởng-giả, Dũng-Mãnh Trưởng-giả, Thiện-Pháp Trưởng-giả, Niệm-Phật Trưởng-giả, Diệu-trí Trưởng-giả, Bồ-Đề Trưởng-giả, Diệu Biện Trưởng-giả, Pháp-Nhãn Trưởng-giả, Quang-Minh Trưởng-giả, Mãn-Nguyện Trưởng-giả. Các Đại-phú Trưởng-giả ấy đã thành-tựu được chính-kiến, tới cúng-dàng Như-Lai cùng các Thánh-chúng. Các Trưởng-giả ấy, nghe đức Thế-Tôn tán-thán Đại-thừa tâm-địa pháp-môn, liền nghĩ rằng: “Chúng ta thấy Như-Lai phóng hào-quang sắc vàng, ảnh-hiện những sự khổ-hạnh khó làm của Bồ-tát, chúng ta không có tâm ưa thích làm hạnh khổ-hạnh, ai lại trong nhiều kiếp ở nơi sinh-tử, vì chúng-sinh chịu mọi khổ-não được?”. Các Trưởng-giả ấy nghĩ thế rồi, liền từ tòa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu quỳ xuống đất, chắp tay cung-kính, tuy khác miệng nhưng đồng âm, bạch trước Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi không ưa những hạnh của các Bồ-tát Đại-thừa, cũng không thích nghe những âm-thanh khổ-hạnh. Sở dĩ thế là sao? – Vì, hết thảy hành-nguyện tu-hành của các Bồ-tát, đều không phải là những sự “tri ân, báo ân” (biết ơn, trả ơn). Sao vậy? – Vì các vị ấy xa lìa cha mẹ, tới chỗ xuất-gia, đem vợ con mình cho những người ham muốn; cho đến đầu, mắt, tủy, não tùy sự mong muốn của họ, đều bố-thí cả, mà chịu các sự bức-não; trong ba vô số kiếp tu các pháp “Độ”, tám vạn bốn nghìn hạnh Ba-la-mật, vượt dòng sinh-tử, mới đến được nơi Bồ-Đề đại-an-lạc; chẳng bằng xu-hướng về đạo-quả Thanh-văn, Duyên-giác, chỉ độ ba đời hay trăm kiếp tu-tập tư-lương7, dứt được nhân sinh-tử, chứng quả Niết-bàn, chóng đến nơi yên-vui, như thế mới gọi là báo ân!”8
Đức Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông nghe Tôi tán-thán Đại-thừa, các ông sinh tâm thoái-chuyển. Nhưng, các ông lại phát khởi ra ý-nghĩa nhiệm-mầu, để đem lại sự lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh không biết ân-đức trong đời mai sau. Các ông hãy nghe cho kỹ, nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, nay Tôi sẽ vì các ông phân-biệt, diễn nói những chỗ có ơn của thế-gian và xuất-thế-gian để các ông hiểu!”.
Thiện-nam-tử! Những lời các ông nói chưa được chính-lý. Sao vậy? – Ơn của thế-gian và xuất-thế-gian có bốn bậc: Một là, ơn cha mẹ. Hai là, ơn chúng-sinh. Ba là, ơn Quốc-vương. Bốn là, ơn Tam-bảo. Bốn ơn như thế, hết thảy chúng sinh đều bình-đẳng gánh chịu.9
Thiện-nam-tử! ƠN CHA MẸ: Cha có “từ-ân”, mẹ có “bi-ân”. Bi-ân của mẹ, nếu Tôi ở đời trong một kiếp để nói về ơn ấy cũng không thể hết được. Nay Tôi vì các ông nói một ít phần về công ơn ấy để các ông hiểu: Giả-sử có người vì việc phúc-đức, cung-kính, cúng dàng một trăm vị Đại-bà-la-môn tịnh-hạnh, một trăm vị Đại-thần-tiên được năm pháp thần-thông, một trăm người bạn lành, xếp đặt cho các vị ấy ở yên trong nhà thất-bảo rất đẹp, đem trăm nghìn thứ đồ ăn ngon quý, y-phục bằng mọi thứ báu tua rủ các chuỗi ngọc, dựng các phòng xá bằng gỗ chiên-đàn10, trầm-hương, chăn gối, giường nằm trang-nghiêm bằng trăm báu, cùng trăm thứ thuốc thang chữa khỏi các bệnh và nhất tâm cúng-dàng trọn trăm nghìn kiếp, cũng không bằng một niệm để tâm hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng sắc-thân bi-mẫu. Và, theo chỗ cúng dàng hầu hạ ấy, đem so-sánh với công-đức trước thời đến trăm nghìn vạn phần cũng không thể nào xét lường kịp.
Sự thương nhớ con của bi-mẫu ở thế-gian không gì sánh được. Ân ấy đến với con ngay từ khi chưa có hình-hài. Nghĩa là bắt đầu từ khi thụ-thai, trải trong mười tháng, đi đứng, ngồi, nằm, mẹ chịu mọi khổ-não, không thể dùng miệng mà nói hết được. Tuy có những sự dục-lạc, ẩm-thực, y-phục nhưng, mẹ vẫn không sinh tâm ưa thích, mà tâm mẹ chỉ luôn luôn lo nghĩ đến con không quên nhãng.
Hãy tự suy-nghĩ: khi sắp sinh-sản, mẹ âm-thầm chịu đựng mọi khổ, ngày đêm sầu-não. Nhưng, đến lúc lâm-bồn, sự đau-khổ ấy quá đỗi, như trăm nghìn mũi nhọn bâu vào cắt xé, thực không thể nào kể xiết được, có khi đến chết. Sinh nở rồi, mẹ không còn bị khổ-não gì nữa, lúc đó họ hàng thân-thích vui mừng vô tận, cũng như người đàn bà nghèo được ngọc Như-ý. Khi đứa con cất tiếng khóc chào đời, mẹ như là người nghe được âm-nhạc. Mẹ dùng ngực mẹ làm nơi ngủ-nghỉ của con và trên hai đầu gối mẹ, thường thường là nơi chơi giỡn của con. Trong nơi ngực mẹ tuôn ra những dòng sữa như nước suối cam-lộ để nuôi lớn con. Ơn nuôi lớn ấy nhiều hơn trời đất và đức thương-xót ấy rộng lớn không gì sánh được. “Thế-gian, núi non là cao, ơn bi-mẫu còn cao hơn thế – cao hơn cả núi Tu-di. Thế-gian cõi đất là nặng, ơn bi-mẫu còn nặng hơn thế!”
Thảng-hoặc có con trai, con gái nào bội-ân, không hiếu-thuận với cha mẹ, làm cho cha mẹ sinh tâm oán-niệm, mà mẹ bực-bội, thốt ra một lời nói ác, tức thời con phải sa-đọa theo lời nói ấy, hoặc vào địa-ngục, hay ngã-quỷ, súc-sinh. Thế-gian, nhanh gì hơn gió dữ, một chút oán-niệm của cha mẹ còn nhanh hơn gió ấy, hết thảy Như-Lai, chư Thiên, Kim-cương cùng các vị Tiên được năm pháp thần-thông… không cứu-hộ được.
Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào theo lời dạy bảo của bi-mẫu và thừa-thuận không trái, thời được chư Thiên hộ-niệm, phúc-lạc vô-tận. Những nam, nữ ấy tức là dòng giống tôn-quý của Thiên, Nhân, hoặc là Bồ-tát vì độ chúng-sinh, hiện làm nam, nữ đem lại lợi-ích cho cha mẹ.
Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào vì báo ơn cha mẹ, suốt một kiếp mỗi ngày ba thời, tự cắt thịt mình để nuôi cha mẹ, cũng chưa trả được công ơn một ngày của cha mẹ. Sở-dĩ thế là sao? – Hết thảy nam, nữ ở trong thai mẹ, miệng nút cuống vú, uống huyết mẹ, khi ra khỏi bào-thai, trước thời ấu-trĩ, uống hết một trăm tám mươi hộc sữa của mẹ; mẹ được chút vị bổ nào đều cho con cả, ngay đến những y-phục quý tốt cũng đều như thế. Và, dù rằng bị người con ngu-si, xấu-xí đi nữa, tình yêu con của mẹ cũng chỉ là một không hai. Xem như xưa kia, có người đàn bà đi chơi xa tại nước người, bế con lội qua sông Hằng, không ngờ nước sông lên to, chảy mạnh, sức yếu không vượt qua nổi, lại yêu mến con quá, không nỡ rời bỏ con, nên cả hai mẹ con đều chết chìm. Song, bởi sức từ-tâm, thiện-căn ấy, tức thời người mẹ được sinh lên cõi Sắc-cứu-cánh-thiên, làm Đại-phạm-vương.
Do nhân-duyên ấy, mẹ có mười đức: Một là, như đại-địa: vì trong thai mẹ là chỗ nương-tựa của con. Hai là, năng-sinh: mẹ phải trải qua mọi sự khổ-não mới sinh được con. Ba là, năng-chính: thường do tay mẹ ve-vuốt, uốn-nắn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân con. Bốn là, dưỡng-dục: mẹ phải theo hợp bốn mùa mà nuôi-nấng con khôn lớn. Năm là, trí-giả: mẹ thường dùng phương-tiện, làm cho con sinh trí-tuệ. Sáu là, trang-nghiêm: mẹ lấy những chuỗi ngọc đẹp trang-sức cho con. Bảy là, an-ẩn: mẹ ôm-ấp con, làm cho con nghỉ-ngơi an-lành. Tám là, giáo-thụ: mẹ dùng phương-tiện khéo dắt-dẫn con. Chín là, giáo-giới: mẹ dùng lời nói lành để con xa-lìa những điều ác. Mười là, cho gia-nghiệp: mẹ thường đem gia-nghiệp giao lại cho con.
Thiện-nam-tử! “Ở thế-gian này gì là rất giàu? gì là rất nghèo? -Bi-mẫu tại đường, là giàu; bi-mẫu bất-tại là nghèo; bi-mẫu còn sống là mặt trời giữa trưa, bi-mẫu mất đi là mặt trời đã lặn; bi-mẫu còn sống là mặt trăng sáng, bi-mẫu mất đi là đêm tối! Thế nên, các ông nên siêng-năng tu-tập về sự hiếu-dưỡng phụ-mẫu thêm, thời như người cúng Phật, phúc-báo ấy và phúc-báo này bằng nhau không khác! Các ông nên báo ơn phụ-mẫu như thế!”11
Thiện-nam-tử! ƠN CHÚNG-SINH: Hết thảy chúng-sinh, từ đời vô-thủy đến nay, luân-chuyển trong năm đường: thiên, nhân, địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh, trải trăm nghìn kiếp và ở trong nhiều đời thường làm cha mẹ lẫn nhau. Vì làm cha mẹ lẫn nhau nên hết thảy nam-tử là từ-phụ, hết thảy nữ-nhân là bi-mẫu. Và, trong đời đời kiếp kiếp xưa kia cũng có tâm đại-bi như ơn của cha mẹ hiện-tại không khác. Như thế, các ơn xưa chưa trả được, rồi, hoặc nhân vọng-nghiệp sinh ra các sự thuận, nghịch, vì sự chấp-trước trở lại thành ra oán-hại lẫn nhau. Sao vậy? -Xưa có trí-tuệ sáng-suốt nhưng, vì vô-minh che-lấp, không hiểu đời trước mình đã từng làm cha mẹ lẫn nhau, chỗ đáng trả ơn là làm lợi-ích lẫn nhau, mà không làm lợi-ích lẫn nhau là bất-hiếu! Bởi nhân-duyên ấy, các loài chúng-sinh trong hết thảy thời, cũng có ơn lớn, thực là khó trả. Những sự như thế là ơn chúng-sinh!12
ƠN QUỐC-VƯƠNG: Vị đứng chủ một nước là người có đủ phúc-đức tối-thắng. Vị ấy tuy sinh trong cõi nhân-gian nhưng, được tự-tại, các Thiên-tử trong cõi Tam-thập tam-thiên thường giúp sức, thường hộ-trì và đối với quốc-giới, sơn-hà, đại-địa, tận cùng bể cả đều thuộc quyền nơi Quốc-vương. Vị ấy là một người có phúc-đức tối-thắng hơn hết thảy phúc của chúng-sinh. Vị ấy là vị Đại-thánh-vương dùng chính-pháp giáo-hóa, khiến chúng-sinh đều được yên vui. Ví như hết thảy điện đường của thế-gian, trụ (cột) là căn-bản; nhân-dân thịnh-vượng, vui-vẻ, Quốc-vương là căn-bản, vì phải y vào chính-pháp của Quốc-vương mới có. Như ngoại-đạo cho Phạm-vương sinh ra muôn vật, thì đây, Thánh-vương đặt ra pháp-luật trị nước, làm lợi-ích chúng-sinh cũng vậy. Như mặt trời soi sáng thế-gian, Thánh-vương cũng hay quan-sát thiên-hạ, đem lại sự yên-vui cho nhân-dân. Quốc-vương làm mất chính-trị, nhân-dân không có chỗ nương tựa. Nếu Quốc-vương đem chính-pháp giáo-hóa, tám sự khủng-bố lớn-lao không xâm-nhập vào trong nước được. Tám sự khủng-bố ấy là: nước ngoài xâm-bức, phản-nghịch trong cõi, ác-quỷ tật-bệnh, đất nước đói thiếu, gió mưa trái thời, gió mưa quá thời, nhật-thực, nguyệt-thực và tinh-tú biến-quái. Nhân-vương dùng chính hóa, lợi-ích nhân-dân, tám nạn như thế không xâm-phạm được. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một con, yêu-mến hơn hết, ông luôn luôn thuơng-xót con, cho con sự lợi-ích cho con sự yên vui, ngày đêm không rời. Vị Đại-thánh-vương trong nước cũng như thế, đồng coi quần sinh như con một, tâm ủng-hộ họ ngày đêm không rời. Nhân-vương như thế hay khiến chúng-sinh tu mười điều thiện, nên gọi là “Phúc-đức-vương”, vị nào không làm cho chúng-sinh tu thiện là “phi-phúc-chủ”. Sở dĩ thế là sao? – Nếu một người tu thiện ở trong Vương-quốc, sự tác phúc của họ chia làm bảy phần, người làm thiện được năm phần, Quốc-vương kia được hai phần. Trái lại, nhân lành của Quốc-vương tu, nhân-dân cũng đồng được phúc-lợi. Và, nếu tạo mười nghiệp ác cũng như thế, nghĩa là, cũng đồng như sự ấy. Hết thảy những vật sinh nơi ruộng đất, vườn, rừng trong nước đều chia làm bảy phần, cũng lại như thế. Nếu có Nhân-vương thành-tựu chính-kiến, như pháp dạy đời, thời gọi vị ấy là “Thiên-chúa” – vì vị ấy đem pháp lành của cõi Thiên dạy thế-gian -; chư Thiên, Thiện-thần cùng Hộ-thế-vương thường lại giúp-đỡ và giữ-gìn vương-cung. Nhân-vương tuy ở nhân-gian nhưng, tu-hành theo nghiệp của cõi Thiên, nên tâm thưởng, phạt không thiên-lệch. Chính-pháp của hết thảy Thánh-vương đều như thế!
Thánh-vương như thế gọi là “Chính-pháp-vương”. Và, bởi nhân-duyên ấy Chính-pháp-vương thành-tựu mười đức: Một là, soi sáng (năng-chiếu): đem mắt trí-tuệ soi-sáng thế-gian. Hai là, trang-nghiêm: đem phúc-đức, trí-tuệ trang-nghiêm đất nước. Ba là, cho vui (dữ lạc): đem đại-an-lạc cho nhân-dân. Bốn là, dẹp oán (phục-oán): hết thảy giặc oán tự-nhiên chịu nép. Năm là, khởi sợ (ly bố): đánh lùi tám nạn13, lìa khỏi sợ-hãi. Sáu là, trụ-hiền (ở với người hiền): họp các người hiền bàn-bạc việc nước. Bảy là, pháp-bản (gốc của chính-pháp): muôn họ an-cư nương nhờ Quốc-vương. Tám là, trì-thế (giữ-gìn thế-gian): đem pháp của Thiên-vương giữ-gìn thế-gian. Chín là, nghiệp-chủ (chủ của mọi nghiệp): các nghiệp thiện-ác đều thuộc Quốc-vương. Mười là, nhân-chủ: hết thảy nhân-dân, Quốc-vương là chủ. Hết thảy Quốc-vương, bởi phúc-đức đời trước thành-tựu mười thắng-đức như thế”.
Vì thế, Đại-phạm-thiên-vương cùng Đao-lỵ-thiên thường giúp Nhân-vương hưởng-thụ những sự vui thắng-diệu; các La-sát-vương và chư Thần… tuy không hiện-thân giúp-đỡ nhưng, ngấm-ngầm lại vệ-hộ Nhân-vương cùng quyến-thuộc Nhân-vương.
Nhân-vương thấy nhân-dân tạo các nghiệp ác không ngăn-cấm được, chư Thiên, Thần…đều xa-tránh. Nếu thấy nhân-dân tu thiện chư Thiên, Thần…vui-mừng, tán-thán và hết thảy đều xướng rằng: “Thánh-vương ta!…” long, thiên vui-mừng, rưới nước mưa Cam-lộ, ngũ-cốc14 thành-thục, nhân-dân vui-vẻ, thịnh-vượng. Nếu Nhân-vương không gần những người ác, chăm làm lợi-ích cho khắp thế-gian đều theo chính-hóa, thời ngọc báu Như-ý hiện ngay trong vương-quốc, các vua nước láng-diềng đều quy-phục, nhân, phi-nhân đều khen-ngợi. Và, nếu có ác-nhân ở trong vương-quốc sinh tâm phản-nghịch, trong chốc-lát, phúc của người ấy tự suy-diệt, mất đi, phải sa-đọa trong địa-ngục, qua sang súc-sinh chịu đủ mọi thứ đau-khổ. Sở-dĩ thế là sao? Bởi vì không biết ân-đức Thánh-vương, khởi ra những sự ác-nghiệp, nên phải quả-báo như thế. Nếu có nhân-dân thực-hành thiện-tâm, cung-kính, giúp-đỡ Nhân-vương và tôn-trọng như Phật, hiện-thế người ấy được yên-ổn, thịnh-vượng, vui-vẻ, có mong-cầu gì đều được vừa lòng. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy Quốc-vương trong thời-gian quá-khứ đã từng thụ-giới cấm thanh-tịnh của Như-Lai và đã thường làm Nhân-vương hưởng sự an-ổn, khoái-lạc. Bởi nhân-duyên ấy, quả-báo trái hay thuận đều như vang ứng tiếng. Ân-đức Thánh-vương rộng lớn như thế!15
Thiện-nam-tử! ƠN TAM BẢO: Ơn Tam-bảo là ơn không thể nghĩ, bàn được, vì Tam-bảo luôn luôn đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh không có thời nào và chỗ nào dừng nghỉ.
Thân chư Phật là chân-thiện vô-lậu, do tu nhân trong vô-số đại-kiếp mà chứng được. Chư Phật dứt hết nghiệp-quả ba cõi, công-đức như núi báu rực-rỡ, không gì so-sánh kịp, mà hết thảy hữu-tình không biết. Phúc-đức chư Phật rất sâu như bể cả, trí-tuệ vô-ngại như hư-không, thần-thông biến-hóa tràn đầy thế-gian, ánh sáng soi khắp mười phương ba đời.
Hết thảy chúng-sinh bị phiền-não nghiệp-chướng ngăn-che không hiểu biết gì, nên phải chìm-đắm trong bể khổ sinh-tử vô cùng. Tam-bảo ra đời làm Đại-thuyền-sư, ngăn chặn dòng ái-dục, để chúng-sinh vượt lên bờ Niết-bàn. Những bậc có trí ai cũng đều chiêm-ngưỡng!16
Thiện-nam-tử! Duy một ngôi PHẬT-BẢO đầy-đủ ba thân17: Một là, tự-tính-thân. Hai là, thụ-dụng-thân. Ba là, biến-hóa-thân.
Phật thân thứ nhất có ĐẠI-ĐOẠN-ĐỨC18, là chỗ hiển-lộ nhị-không,19 hết thảy chư Phật đều bình-đẳng.20
Phật thân thứ hai có ĐẠI-TRÍ-ĐỨC21 chân thường vô-lậu, hết thảy chư Phật đều đồng-ý.22
Phật thân thứ ba có ĐẠI-ÂN-ĐỨC23 định-thông biến-hiện, hết thảy chư Phật đều đồng-sự.24
Thiện-nam-tử! Tự-tính-thân của chư Phật vô-thủy, vô-chung, lìa hết thảy tướng, dứt mọi hí-luận25, tròn đầy, cùng khắp không còn bờ mé và lắng-im thường-trụ.26
Thụ-dụng-thân ấy có hai tướng: Một là, TỰ-THỤ-DỤNG-THÂN.27 Hai là, THA-THỤ-DỤNG THÂN.28
Tự-thụ-dụng-thân do tu muôn hạnh , đem lại lợi-ích yên-vui cho các chúng-sinh trong ba vô-số kiếp, được Thập-địa mãn-tâm29, vận-dụng thân-lực đi thẳng đến cõi Sắc-cứu-cánh-thiên30, vượt quá quốc-độ thanh-tịnh vi-diệu trong ba cõi, ngồi trên hoa sen vô-số lượng đại-bảo, mà các Bồ-tát số nhiều không thể nói được, ở trong hải-hội vây quanh trước sau, đem lụa vô-cấu kết trên đỉnh đầu31, cúng-dàng cung-kính, tôn-trọng, tán-thán, như thế gọi là “lợi-ích hậu-báo”32. Khi ấy, Bồ-tát nhập Kim-cương-định, dứt bỏ hết thảy sở-tri-chướng, phiền-não-chướng33 vi-tế, chứng được vô-thượng chính-đẳng, chính-giác; diệu-quả như thế gọi là “lợi-ích hiện-tiền”. Chân-báo-thân ấy hữu thủy (có trước), vô chung (không sau), thọ mệnh tùy theo sự mong-muốn, kiếp số không có hạn-lượng. Và, lại từ khi bắt đầu thành chính-giác cho đến lúc tận cùng thuở vị-lai, các căn-tướng tốt trang-nghiêm cùng khắp pháp-giới.34
Bốn trí viên-mãn là chân-báo-thân thụ-dụng-pháp-lạc 35:
Một là, ĐẠI-VIÊN-KÍNH-TRÍ: Chuyển Dị-thục-thức36, được trí-tuệ này, như tấm gương tròn lớn hiện đủ các sắc-tướng. Như thế trong gương trí-tuệ (kính-trí) của Như-Lai, hay hiện ra các nghiệp thiện, ác của chúng-sinh. Bởi nhân-duyên ấy, trí-tuệ này gọi là “Đại-viên-kính-trí”. Y vào đại-bi nên thường duyên với chúng-sinh, y vào đại-trí nên thường như pháp-tính, quán-sát song-song cả chân-đế, tục-đế37, không gián-đoạn, thường chấp giữ căn-thân vô-lậu và là chỗ y-chỉ của hết thảy công-đức.38
Hai là, BÌNH-ĐẲNG-TÍNH-TRÍ: Chuyển Ngã-kiến-thức39 được trí-tuệ này. Vì chứng được ngã-tính tự-tha bình-đẳng không hai, như thế nên gọi là “Bình-đẳng-tính-trí”.
Ba là, DIỆU-QUÁN-SÁT-TRÍ: Chuyển Phân-biệt-thức40, được trí-tuệ này. Hay quán-sát tự-tướng, cộng-tướng41 của mọi pháp và ở trước chúng-hội nói mọi pháp nhiệm-mầu, làm cho chúng-sinh chứng được Bất-thoái-chuyển. Bởi thế nên gọi là “Diệu-quán-sát-trí”.
Bốn là, THÀNH-SỞ-TÁC-TRÍ: Chuyển nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân-thức được trí-tuệ này, hay hiện ra hết thảy mọi hóa-thân, làm cho chúng-sinh thành-thục thiện-nghiệp. Bởi nhân-duyên ấy nên gọi là “Thành-sở-tác-trí”.
Bốn trí ấy là trí-tuệ trên hết, đầy-đủ tám vạn bốn nghìn trí-tuệ-môn. Hết thảy các công-đức-pháp như thế gọi là “Tự-thụ-dụng-thân” của Như-Lai.42
Thiện-nam-tử! Hai là, Tha-thụ-dụng-thân của Như-Lai đầy-đủ tám vạn bốn nghìn tướng tốt, ở nơi chân-tịnh-độ, nói pháp Nhất-thừa43, làm cho các Bồ-tát thụ-dụng được pháp-lạc vi-diệu của Đại-thừa. Hết thảy Như-Lai vì hóa-độ các Bồ-tát-chúng nơi Thập-địa, hiện ra mười loại tha-thụ-dụng-thân: Phật thân thứ nhất ngồi trên hoa sen trăm cánh vì Bồ-tát Sơ-địa nói về trăm pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong trăm thế-giới của chư Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-số chúng-sinh. Phật thân thứ hai ngồi trên hoa sen nghìn cánh, vì Bồ-tát Nhị-địa nói về nghìn pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong nghìn thế-giới của chư Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-lượng chúng-sinh. Phật thân thứ ba, ngồi trên hoa sen muôn cánh, vì Bồ-tát Tam-địa, nói về muôn pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong muôn quốc-độ của chư Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô số chúng-sinh. Như thế, Như-Lai tăng-trưởng dần dần, cho đến tha-thụ-dụng-thân nơi Thập-địa, ngồi trên hoa sen diệu-bảo không thể nói được, vì Bồ-tát Thập-địa nói về các pháp-minh-môn số nhiều không thể nói được; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp quốc-độ vi-diệu của chư Phật, số nhiều không thể nói được, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-lượng, vô-biên chủng-loại chúng-sinh với con số nhiều không thể tuyên-thuyết, không thể tuyên-thuyết được. Mười thân như thế, đều ngồi nơi cây Bồ-đề bằng bảy báu, chứng được vô-thượng chính-đẳng, chính-giác.
Các thiện-nam-tử! Mỗi một cánh hoa đều là một tam-thiên thế-giới, trong đó đều có trăm ức núi Diệu-cao cùng bốn đại-châu, mặt-trời, trăng, sao và chư thiên trong ba cõi cũng đầy-đủ cả. Các Nam-thiệm-bộ-châu ở trên mỗi cánh sen, có tòa Kim-cương, cây Bồ-đề, có trăm nghìn vạn, đến số nhiều không thể nói được những hóa Phật lớn, nhỏ, đều ở dưới gốc cây, phá ma-quân rồi, nhất thời chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Các thân của các hóa Phật lớn, nhỏ như thế đều đầy-đủ ba mươi hai tướng,44 tám mươi thứ tốt45, vì các Bồ-tát trong hàng Tư-lương46 và Tứ-thiện-căn47 cùng Nhị-thừa, phàm-phu, tùy nghi vì họ nói ra diệu-pháp Tam-thừa. Vì các Bồ-tát nói về sáu Ba-la-mật48 khiến các vị ấy được Vô-thượng chính-đẳng chính-giác cứu-cánh Phật-tuệ. Vì các vị cầu Bích-chi-Phật nói về mười hai pháp nhân-duyên.49 Vì các vị cầu Thanh-văn nói về pháp Tứ-đế,50 qua sinh, lão, bệnh, tử đến cứu-cánh Niết-bàn. Vì các chúng-sinh khác nói về Nhân-thiên-giáo, khiến họ được diệu-quả an-lạc trong Nhân, Thiên. Các hóa Phật lớn, nhỏ như thế gọi là “Biến-hóa thân của Phật”. Thiện-nam-tử! Hai loại ứng, hóa-thân Phật như thế, tuy hiện ra diệt-độ (nhập Niết-bàn) nhưng, thân Phật ấy vẫn nối tiếp thường-trụ.
Các thiện-nam-tử! Như một Phật-bảo có vô-lượng, vô-biên không thể nghĩ, bàn được những ân-đức rộng lớn đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh như thế, nên cũng bởi nhân duyên ấy mà gọi là Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hành-túc (viên-mãn), Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật, Thế-Tôn.51
Thiện-nam-tử! Trong một Phật-bảo đầy-đủ sáu thứ công-đức vi-diệu: Một là, là ngôi vô-thượng có ruộng công-đức lớn-lao trên hết. Hai là, là ngôi vô-thượng có ân-đức lớn. Ba là, là ngôi chí-tôn trong những chúng-sinh không chân, hai chân cho đến nhiều chân. Bốn là, là bậc rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm. Năm là, là ngôi độc nhất xuất-hiện trong Tam thiên đại thiên thế-giới. Sáu là, là ngôi đầy-đủ hết thảy nghĩa trong công đức thế-gian và xuất-thế-gian. Y vào chỗ đầy-đủ của sáu thứ công-đức như thế và thường đem lại lợi-lạc cho hết thảy chúng-sinh, thế gọi là ơn “Phật-bảo không thể nghĩ, bàn được!”
Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói: trong một Phật-bảo có vô-lượng hóa Phật, cùng khắp thế-giới đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh, vậy bởi nhân-duyên gì mà nhiều chúng-sinh trong thế-gian này không thấy Phật, phải chịu mọi khổ-não?”.
Đức Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Ví như mặt trời tỏa trăm nghìn ánh sáng soi sáng thế-giới, mà trong đó có những người mù không thấy ánh sáng mặt trời, thời ý các thiện-nam-tử nghĩ sao, mặt trời có bị lỗi không? -Các Trưởng-giả bạch: “Bạch đức Thế-Tôn! Mặt trời không có lỗi! “Đức Phật dạy: “Thiện-nam-tử! Chư Phật Như-lai thường diễn nói chính-pháp, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh nhưng, các chúng-sinh ấy thường tạo nghiệp ác, không hiểu biết gì, không có tâm thẹn-hổ, không ưa thân-cận Phật, Pháp, Tăng, chúng-sinh như thế tội-căn sâu nặng, trải vô-lượng kiếp không được trông thấy, nghe biết tên hiệu Tam-bảo, cũng như những người mù kia không trông thấy ánh sáng mặt trời vậy. Nếu có chúng-sinh cung-kính Như-Lai, ưa thích Đại-thừa, tôn-trọng Tam-bảo, nên biết người ấy nghiệp-chướng tiêu trừ, phúc-đức, trí-tuệ tăng-trưởng, căn lành thành-tựu, chóng được thấy Phật, khởi hẳn sinh-tử và sẽ chứng Bồ-đề”.52
Các thiện-nam-tử! Như một Phật-bảo có vô-lượng Phật, thời Như-Lai nói ra PHÁP-BẢO cũng thế. Nghĩa là trong một Pháp-bảo cũng có vô-lượng nghĩa.
Thiện-nam-tử! Trong PHÁP-BẢO có bốn loại: Một là giáo-pháp. Hai là, lý-pháp. Ba là, hành-pháp. Bốn là, quả-pháp. Hết thảy những thanh (tiếng), danh (tên) cú (câu), văn (chữ)53 thuộc pháp vô-lậu, phá tan vô-minh, phiền-não, nghiệp-chướng, gọi là “giáo-pháp”. Các pháp hữu-vi, vô-vi gọi là “lý-pháp”. Giới, Định, Tuệ-hạnh gọi là “Hành-pháp”. Diệu-quả vô-vi gọi là “Quả-pháp”. Bốn pháp như thế là PHÁP-BẢO, dẫn-dắt chúng-sinh ra khỏi bể sinh-tử, đến bờ Niết-bàn.
Thiện-nam-tử! Thầy chư Phật tức là Pháp-bảo. Sở-dĩ thế là sao? -Chư Phật trong quá-khứ, hiện-tại, vị-lai do y vào pháp tu-hành, mà dứt được hết thảy chướng-ngại, thành Bồ-đề, cho đến tận cùng thuở vị-lai đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh. Bởi nhân-duyên ấy, Như-Lai trong ba đời thường cúng-dàng các Pháp-bảo Ba-la-mật nhiệm-mầu, huống là hết thảy chúng-sinh trong ba cõi chưa được giải-thoát, há không cung-kính Pháp-bảo vi-diệu!
Thiện-nam-tử! Kiếp xưa Tôi từng làm vị Nhân-vương cầu pháp, phải gieo mình vào trong hầm lửa lớn để cầu chính-pháp, mới dứt hẳn được sinh-tử và chứng được Đại-bồ-đề. Thế nên, Pháp-bảo phá hết thảy lao-ngục sinh-tử, cũng như Kim-cương làm hư-hoại muôn vật. Pháp-bảo soi sáng chúng-sinh tăm-tối, như mặt trời soi sáng thế-giới. Pháp-bảo cứu chúng-sinh nghèo thiếu, như ngọc Ma-Ni hóa-hiện mọi của báu. Pháp bảo cho chúng-sinh sự vui mừng cũng như tiếng trống cõi trời làm vui chư thiên. Pháp-bảo làm thềm báu cho chư thiên, vì nghe chính-pháp được sinh Thiên. Pháp-bảo là chiếc thuyền lớn bền vững, vượt qua bể sinh-tử đến bờ Niết-bàn. Pháp-bảo cũng như Chuyển-luân Thánh-vương, trừ giặc phiền-não tam độc. Pháp-bảo là y-phục đẹp quý, che phủ sự không thẹn của các chúng-sinh. Pháp-bảo cũng như giáp-trụ kim-cương, phá bốn loại ma54, chứng đạo Bồ-đề. Pháp-bảo cũng như gươm trí-tuệ sắc, cắt dứt sinh-tử thoát khởi ràng-buộc. Pháp-bảo chính là xe báu Tam-thừa, chuyên-chở chúng-sinh ra khỏi nhà lửa. Pháp-bảo cũng như hết thảy đèn sáng, soi sáng nơi ba đường tối-tăm. Pháp-bảo cũng như cung, tên, giáo, mác, chấn giữ quốc-giới, dẹp tan oán-địch, Pháp-bảo cũng như đạo-sư nơi đường hiểm, khéo dẫn chúng sinh đạt tới Bảo-sở.55
Thiện-nam-tử! Như-Lai trong ba đời nói ra diệu-pháp, có những sự khó nghĩ, bàn như thế, thế gọi là ơn “Pháp-bảo không thể nghĩ, bàn được”.56
Thiện-nam-tử! Thế-gian, xuất-thế-gian có ba hạng TĂNG; Một là, Bồ-tát-tăng. Hai là, Thanh-văn-Tăng. Ba là, Phàm-phu-Tăng.
Như các Ông Văn-Thù-Sư-lỵ, Di-Lặc…là BỒ-TÁT-TĂNG.
Như các Ông Xá-Lỵ-Phất, Mục-kiền-Liên…là THANH-VĂN-TĂNG.
Và, như có những vị chân-thiện phàm-phu, thành-tựu Biệt-giải-thoát-giới57 cho đến những vị đầy-đủ hết thảy chính-kiến, thường rộng-rãi vì chúng-sinh diễn-thuyết, khai-thị mọi pháp của Thánh-đạo, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh, gọi là PHÀM-PHU-TĂNG. Tuy rằng các vị ấy chưa được Giới, Định, Tuệ, Giải-thoát vô-lậu nhưng, cúng-dàng các vị ấy cũng được phúc vô-lượng.
Ba hạng Tăng như thế gọi là “Chân-phúc-điền-Tăng”.
Lại có một hạng gọi là PHÚC-ĐIỀN-TĂNG. Hạng này đối với xá-lỵ58 Phật, hình tượng Phật cùng các Pháp, Tăng, các giới Thánh-chế, sinh tâm kính-tín sâu-sa; tự nơi mình không có tà kiến và làm cho người ta cũng thế. Lại hay tuyên thuyết chính-pháp, tán-thán Nhất-thừa, thâm-tín nhân-quả, thường phát thiện-nguyện, tùy theo lỗi mình phạm, mà hối trừ nghiệp-chướng. Nên biết sức tin Tam bảo của người ấy hơn các ngoại đạo gấp trăm nghìn vạn lần và cũng hơn cả bốn loại Chuyển-luân thánh-vương, huống là các loại khác trong hết thảy chúng-sinh. Như Uất-kim-hoa tuy héo úa nhưng, còn hơn hết thảy các loại tạp-hoa. Tỷ-khưu có chính-kiến cũng thế, hơn chúng-sinh khác gấp trăm nghìn vạn lần. Tuy rằng vị ấy hủy giới cấm nhưng, không hại chính-kiến, bởi nhân-duyên ấy nên gọi là “Phúc-điền-Tăng”. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào cúng-dàng các vị Phúc-điền-Tăng như thế, được phúc-đức không cùng tận, như cúng-dàng ba hạng Chân-thực Tăng-bảo trước được công-đức thế nào, thời nơi đây được công-đức cũng bằng thế không khác. Bốn hạng Thánh, phàm Tăng-bảo như thế, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh thường không tạm xả, nên gọi là ơn “Tăng-bảo không thể nghĩ, bàn được”.59
Bấy giờ, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Ngày nay chúng tôi nghe pháp-âm của Phật, được hiểu sự lợi-ích của Tam-bảo tại thế-gian. Song, nay chúng tôi không biết bởi nghĩa gì mà nói Phật, Pháp, Tăng được gọi là BẢO? Kính xin Phật giải-thuyết, bầy tỏ để chúng-hội, cùng hết thảy chúng-sinh đời mai sau kính-tín Tam-bảo, dứt hẳn lưới ngờ-vực, được lòng tin bất-hoại, làm cho họ vào được bể bất-tư-nghị60 của Tam-bảo!”
Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các thiện-nam-tử hỏi được những diệu-pháp rất sâu của Như-Lai như thế, hết thảy chúng-sinh đời mai sau được lợi-ích yên-vui nhiều lắm! Ví như ngọc báu thứ nhất của thế-gian có đầy-đủ mười nghĩa, làm trang-nghiêm quốc-giới, lợi-ích chúng-sinh, thời Phật, Pháp, Tăng cũng thế: Một là, bền chắc: như ngọc Ma-Ni không ai phá được; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, ngoại-đạo, Thiên-ma không thể phá được. Hai là, không nhơ: ngọc báu hơn hết của thế-gian thanh-tịnh trong sáng không lẫn chút bụi nhơ; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, đều xa lìa những phiền-não trần-cấu. Ba là, cho vui; như bình Thiên-đức61 thường cho sự yên-vui ; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, thường cho chúng-sinh sự vui trong thế-gian và xuất-thế-gian. Bốn là, khó gặp: như ngọc báu tốt lành hiếm có khó gặp; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, chúng-sinh nhiều nghiệp-chướng, ức kiếp cũng khó gặp được. Năm là, phá-tán: như ngọc báu Như-ý phá tan sự nghèo cùng của con người: Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, phá tan những sự nghèo khổ của chúng-sinh trong thế-gian. Sáu là, uy đức: như Chuyển-luân-vương có cỗ xe báu, hay dẹp oán-địch; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, đủ sáu pháp thần-thông, hàng-phục bốn loại ma. Bảy là, mãn-nguyện: như ngọc Ma-ni tùy tâm mong cầu, sẽ hóa hiện ra mọi của báu; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, hay làm thỏa-mãn những chúng-sinh muốn tu thiện nguyện. Tám là, trang-nghiêm: như ngọc-báu thế-gian trang-nghiêm vương-cung; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, trang-nghiêm bảo-cung Bồ-đề của Pháp-vương. Chín là, tối diệu: như diệu bảo cõi trời rất vi-diệu; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, vượt trên các diệu-bảo tối-thắng của thế-gian. Mười là, bất-biến: ví như vàng thực vào lửa không biến; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, tám thứ gió62 của thế gian, không rung động được. Phật, Pháp, Tăng bảo đầy-đủ vô lượng thần-thông biến-hóa, đem lại lợi-ích cho chúng-sinh, từng không có khi nào dừng nghỉ. Vì những nghĩa ấy nên chư Phật, Pháp, Tăng được gọi là “BẢO”. Thiện-nam-tử! Tôi vì các ông nói qua về bốn nơi có ơn của thế-gian, xuất-thế-gian như thế để các ông hiểu. Các ông nên biết: “Tu hạnh Bồ-tát cần phải trả bốn ơn như thế!”63
Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Bốn ơn như thế rất là khó trả, vậy nên tu hạnh gì để trả được những ơn ấy?”
Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Thiện-nam-tử! Người vì cầu đạo Bồ-đề cần phải có tâm tu về ba bậc64 của mười pháp Ba-la-mật: Một là, mười pháp Bố-thí Ba-la-mật-đa. Hai là, mười pháp Thân-cận Ba-la-mật-đa. Ba là, mười pháp Chân-thực ba-la-mật-đa. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, thường đem bảy báu đầy ngập Tam thiên đại thiên thế-giới, bố-thí cho vô-lượng chúng-sinh nghèo cùng nhưng, bố-thí như thế chỉ gọi là Bố-thí Ba-la-mật-đa, chứ không được gọi là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát tâm đại-bi, vì cầu vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề, đem thê-tử mình bố-thí cho người khác, tâm không sẻn tiếc; thân, thịt, tay, chân, đầu, mắt, tủy, não, cho đến thân-mệnh, đem bố-thí cho người lại xin nhưng, bố-thí như thế mới chỉ gọi là Thân-cận Ba-la-mật-đa, chứ chưa được gọi là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát-khởi tâm vô-thượng Đại-bồ-đề, trụ nơi “vô-sở-đắc”, khuyên các chúng-sinh đồng phát tâm ấy, đem pháp chân-thực bằng một bài kệ bốn câu, bố-thí cho một chúng-sinh làm cho họ hướng về đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề, thế mới gọi là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Hai bậc bố-thí trước chưa gọi là báo-ân được, nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào tu bậc thứ ba: Chân-thực Ba-la-mật-đa như thế, mới gọi là chân-thực báo-đáp bốn ân. Sở-dĩ thế là sao? – Hai bậc bố-thí trước còn có tâm “sở-đắc”, bậc bố-thí thứ ba tâm “vô-sở-đắc”, đem chân-pháp bố-thí hết thảy chúng-sinh, khiến họ phát tâm vô-thượng Đại-bồ-đề, sau này khi người ấy chứng được Bồ-đề, rộng độ chúng-sinh vô cùng tận, nối tiếp hạt giống Tam-bảo không đoạn-tuyệt, bởi nhân-duyên ấy nên gọi là báo-ân”.
Năm trăm ông Trưởng-giả theo Phật nghe được pháp báo-ân từ xưa tới nay chưa được nghe bao giờ ấy, tâm sinh hớn-hở, cho là được sự chưa từng có, các ông liền phát tâm cầu tới vô-thượng Bồ-đề, được Nhẫn-nhục tam-muội65, chứng-nhập trí-tuệ bất-tư-nghị, mãi mãi không thoái-chuyển.
Lúc đó, tám vạn bốn nghìn chúng-sinh trong pháp hội phát tâm Bồ-đề, được lòng tin kiên-cố và cũng được Tam-muội ấy; đại-chúng trong hải-hội đều được Kim-cương nhẫn-nhục tam-muội, ngộ Vô-sinh-nhẫn và Nhu-thuận-nhẫn, hoặc chứng Sơ-địa được Bất-khởi-nhẫn. Vô-lượng chúng-sinh phát tâm Bồ-đề ở ngôi Bất-thoái.66
Đức Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Hết thảy chúng-sinh trong đời vị-lai nếu nghe được phẩm Tâm-địa-quán báo tứ-ân này, thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép, lưu-bá xa rộng, những người ấy phúc-đức, trí-tuệ tăng thêm, chư Thiên vệ-hộ, hiện-thân không đau yếu, thọ-mệnh lâu dài; khi mệnh mất, được sinh lên nội-cung của đức Di-Lặc, trông thấy tướng bạch-hào của Ngài liền siêu-việt sinh-tử, trong ba hội Long-Hoa67 sẽ được giải-thoát và tùy ý vãng-sinh trong mười phương Tịnh-độ, thấy Phật, nghe pháp, nhập chính-định-tụ68 chóng thành trí-tuệ vô-thượng chính-đẳng chính-giác của Như-Lai.69
Bấy giờ, về phía Đông-bắc đại-thành Vuơng-xá cách tám mươi do-tuần70 có một nước nhỏ tên là Tăng-trưởng-phúc. Trong nước kia có một ông Trưởng-giả tên là Trí-Quang, tuổi nhiều, già yếu, chỉ có một con. Mà người con ấy có tính ác-nghịch, không thuận cha mẹ, cha mẹ dạy răn gì đều không theo lời. Ông Trưởng-giả xa nghe thấy đức Thích-Ca Mưu-Ni Như-Lai ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương-xá, vì vô-lượng chúng-sinh trong đời độc-ác, nhơ-đục, tuyên-thuyết về pháp báo-ân của Đại-thừa. Khi ấy cả cha mẹ và con cùng mọi người quyến-thuộc của ông vì muốn nghe pháp, đem các đồ cúng đến nơi Phật, cung-kính cúng-dàng Phật.
Cúng-dàng rồi, ông Trưởng-giả liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tôi có một người con, tính nó tệ-ác quá, nó không chịu nghe lời dạy răn của cha mẹ. Nay tôi nghe thấy Phật nói về việc báo-đáp tứ ân, tôi vì muốn nghe pháp nên lại nơi Phật, kính xin đức Thế-Tôn vì bọn chúng tôi cùng các người trong quyến-thuộc tuyên-thuyết về nghĩa thú sâu-xa, nhiệm-mầu của tứ-ân, khiến người con tệ-ác của tôi sinh tâm hiếu-thuận, đời nay, đời sau sẽ được sự an-lạc”.
Đức Phật bảo ông Trí-Quang: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Ông vì pháp lại nơi Tôi, cúng-dàng cung-kính và muốn nghe Pháp ấy, vậy các ông nên nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo! Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát tâm Bồ-đề, muốn nghe pháp-yếu, khi cất chân, đặt chân xuống đất, tùy theo số lượng vi-trần (bụi nhỏ) của đường đất đi xa hay gần, mà do nhân-duyên ấy, người ấy cảm được Kim-luân chuyển-luân thánh-vương, khi phúc-báo của Thánh-vương hết, được làm Thiên-vương trong Dục-giới; khi phúc-báo của Thiên-vương trong Dục-giới hết, được làm Phạm-thiên-vuơng, được thấy Phật, nghe pháp và chóng chứng được diệu-quả. Đại-trưởng-giả cùng những người khác đi với ông vì cầu pháp lại nơi Tôi, tính ra như thế là phải qua tám mươi do-tuần đại-địa vi-trần, mỗi một số vi-trần sẽ chiêu-cảm được những quả-báo về Nhân, Thiên, Luân-vương. Và, được nghe pháp rồi, đời sau sẽ chứng vô-thượng chính-đẳng chính-giác)).
Tuy trước Tôi đã nói về nghĩa-thú sâu-xa, nhiệm-mầu của tứ-ân, nay vì các ông, Tôi lại tuyên lại nghĩa ấy, bằng lời kệ sau này:
Tối-thắng Pháp-vương, Đại-thánh-chúa,
Hết thảy Nhân, Thiên chẳng sánh bằng;
Trang-nghiêm thân bằng mọi tướng tốt,
Bể trí như hư-không vô-lượng.
Hạnh lợi tự, tha đều viên-mãn,
Tiếng khen đồn khắp trong các cõi;
Dứt hẳn phiền-não cùng tập-khí…,71
Khéo trì mật-hạnh, giữ mọi căn.
Trăm bốn mươi thứ đức “bất-cộng”,72
Bể phúc rộng lớn đều viên-mãn;
Chính-định, thần-thông đầy-đủ cả,
Thường vui chơi “Bát tự-tại-cung”.73
Nhân, Thiên, ngoại-đạo trong mười phương,
Không ai “năng-nan”74 như Điều-ngự;
Miệng vàng nói biện-tài vô-ngại,
Tuy không ai hỏi mà tự nói.
Như đại-hải-triều75 không sai thời,
Cũng như thiên-cổ76 hợp thiên-tâm;
Tự-tại như thế duy Phật có,
Ngũ-thông-tiên, Ma, Phạm đâu có.
Kiếp-hải77 tu-hành nguyện khó nghĩ,
Chứng được đại-thần-thông như thế;
Trong đại-tịch-thất78 Tôi nhập-định,
Quán-sát các căn và bệnh, thuốc.
Tự ra thiền-định mà tán-thán:
Ba đời Phật-pháp “Tâm-địa-môn”;
Các Trưởng-giả nghe thoái đại-tâm,
Ưa hạng tự-lợi trong Nhị-thừa.
Tôi mở đại-trí phương-tiện-giáo,
Dẫn vào cửa giải-thoát “Tam không”;79
Ý-thú Như-Lai chẳng thể lường,
Duy Phật biết được chân-bí-mật.
Thanh-văn lợi-căn và Độc-giác,
Bồ-tát cần cầu ngôi bất-thoái;
Mười hai kiếp số cùng so lường,
Không có ai biết được phần nhỏ.
Giả-sử phàm, thánh-trí mười phương,
Nhận cho một người làm trí-giả;
Trí-giả như thế như rừng trúc,
Không thể so-lường được phần nhỏ.80
Thế-gian phàm-phu không mắt tuệ,
Mê nơi ân-đức mất diệu-quả;
Chúng-sinh trong đời năm ác-trọc,81
Không hiểu ơn sâu thường trái đức.
Tôi vì khai-thị về bốn ân,
Khiến vào chính-kiến Bồ-đề-đạo.82
TỪ-PHỤ BI-MẪU, ơn trưởng-dưỡng,
Hết thảy trai, gái đều yên vui.
Ơn từ-phụ cao như núi lớn,
Ơn bi-mẫu sâu như bể cả;
Nếu Tôi ở đời trong một kiếp,
Nói ơn bi-mẫu không hết được.
Tôi nay nói qua một phần nhỏ,
Như ruồi, muỗi uống nước bể cả.
Giả sử có người vì phúc-đức,
Cúng-dàng Bà-la-môn tịnh-hạnh.
Ngũ-thông thần-tiên được tự tại,
Đại-trí sư-trưởng cùng bạn lành.
Điện-đường đặt để toàn bảy báu,
Phòng toàn bằng gỗ Chiên-đàn-hương.
Đồ nằm trăm báu bày trải khắp,
Mỹ-vị thế-gian như cam-lộ;
Cùng các thuốc men chữa muôn bệnh,
Đựng đầy vàng bạc trong khí-vật.
Cúng-dàng như-thế ngày ba thời,
Cho đến đủ số một trăm kiếp;
Không bằng một niệm tỏ chút phần,
Cúng-dàng bi-mẫu đại-ân-điền.
Phúc-đức vô-biên không lường được,
Tính-toán, thí-dụ không sánh kịp.
Bi-mẫu thế-gian có mang con,
Mười tháng mang thai chịu khổ nhiều.
Tình không ham đắm năm dục-lạc,
Tùy thời ăn uống cũng đồng thế;
Ngày đêm thường mang lòng thương xót,
Đi, đứng, ngồi, nằm chịu mọi khổ.
Chính sắp sinh con khỏi thai-tạng,
Như góp mũi nhọn rạch chi-tiết;
Mê cảm đông, tây không phân-biệt,
Khắp mình đau-đớn không chịu nổi,
Hoặc nhân nạn ấy mà mệnh mất,
Lục thân83 quyến-thuộc đều bi-não;
Mọi khổ như thế đều vì con,
Lo, buồn, thống-thiết nói sao cùng.
Nếu được bình-phục thân yên-vui,
Như nghèo được ngọc mừng khôn tả;
Đoái nhìn mặt con không biết chán,
Tâm thương nhớ con không tạm xả.
Ân-tình mẫu-tử thường như thế,
Xuất, nhập không rời con trước ngực;
Sữa mẹ như là suối Cam-lộ,
Trưởng-dưỡng kịp thời không lúc kiệt.
Ơn nơi từ-niệm thực khó ví,
Công-đức nuôi-nấng cũng khó lường.
Thế-gian, đại-địa gọi là nặng,
Ơn bi-mẫu nặng hơn đất ấy.
Thế-gian Tu-di gọi là cao,
Ơn bi-mẫu cao hơn núi ấy;
Thế-gian, nhanh-chóng duy gió dữ,
Một niệm mống tâm nhanh hơn thế.
Nếu có chúng-sinh làm bất-hiếu,
Khiến mẹ tạm thời khởi tâm hận;
Thốt lời oán-niệm chỉ phần nhỏ,
Con theo lời ấy bị khổ-nạn.
Chư Phật cùng các Kim-cương-thiên,
Bí-pháp Thần-tiên không cứu được.
Nếu có trai, gái theo mẹ dạy,
Thừa-thuận nhan-sắc không dám trái.
Hết thảy tai-nạn đều tiêu-trừ,
Chư Thiên ủng-hộ thường an-lạc.
Nếu hay thừa-thuận theo bi-mẫu,
Trai, gái ấy đâu phải kẻ phàm.
Đại-bi Bồ-tát hóa nhân-gian,
Thị-hiện báo ân mọi phương-tiện.
Nếu có con trai và con gái,
Vì báo ân mẹ làm hiếu-dưỡng:
Cắt thịt, trích huyết thường cung-cấp,
Như thế đủ số trong một kiếp.
Mọi thứ cần tu trong hiếu-đạo,
Còn chưa báo được ơn tạm thời.
Mười tháng con ở trong thai-tạng,
Thường ngậm cuống vú uống thai-huyết.
Từ khi là con-nít, trẻ thơ,
Uống hơn trăm hộc sữa của mẹ.
Ăn uống, thuốc-thang, y-phục đẹp,
Con trước, mẹ sau đó lệ thường.
Con nếu ngu-si bị người ghét,
Mẹ cũng thương nhớ không vứt bỏ.
Xưa, một nữ-nhân ẵm đứa con,
Lội qua sông Hằng nước chảy mạnh;
Sức khó vượt qua vì nước ngập,
Mẹ chết cùng con không nỡ bỏ.
Vì sức thiện-căn từ-niệm ấy,
Mệnh mất được sinh lên Phạm-thiên;
Hưởng vui chính-định trên cõi Phạm,
Được gặp Như-Lai nhận Phật-ký.
Thế nên bi-mẫu có mười đức,
Tùy hợp nghĩa-lợi đặt ra tên:
Một là, đại-địa; hai năng sinh,
Ba là, năng-chính; bốn, dưỡng-dục.
Năm, cho trí-tuệ; sáu, trang-nghiêm,
Bảy là, an-ổn; tám, giáo-thụ;
Chín là, giáo-giới; mười, cho nghiệp,
Ân khác không hơn ân-đức mẹ.
Pháp gì ở đời là rất giàu?
Pháp gì ở đời là rất nghèo?
Khi mẹ tại đường là rất giàu,
Mẹ không tại đường là rất nghèo.
Khi mẹ còn, là mặt trời ngọ,
Khi mẹ mất, là mặt trời lặn;
Khi mẹ còn, hết đều đầy-đủ,
Khi mẹ mất, hết đều rỗng không.
Thế-gian hết thảy thiện-nam-tử:
Ơn cha mẹ nặng như gò, núi;
Hiếu kính cần phải luôn ở lòng,
Biết ơn, trả ơn là Thánh-đạo.
Không tiếc thân-mệnh dâng đồ ngon,
Chưa từng một niệm thiếu sắc-dưỡng;
Như khi cha mẹ bỗng mất đi,
Toan muốn báo-ân thực chẳng kịp.
Phật xưa tu-hành vì từ-mẫu,
Cảm được tướng tốt sắc thân vàng;
Tiếng đồn rộng lớn khắp mười phương,
Hết thảy Nhân, Thiên đều khể-thủ.
Nhân và phi-nhân đều cung-kính,
Từ duyên xưa trước báo từ-ân.
Tôi đã lên cung trời Đao-lỵ,
Ba tháng, vì mẹ nói chân-pháp.
Khiến mẹ Tôi nghe, quy chính-đạo,
Ngộ Vô-sinh-nhẫn thường không thoái;
Như thế đều là báo bi-ân,
Tuy báo ân sâu còn chưa đủ.
Mục-Liên được thần-thông đệ nhất,
Dứt hết phiền-não trong ba cõi;
Dùng sức thần-thông xem từ-mẫu,
Thấy mẹ chịu khổ trong ngã-quỷ.
Mục-Liên tự đi trả ơn mẹ,
Cứu thoát từ-thân nơi thụ-khổ;
Sinh lên các cõi trời Tha-Hóa,
Cùng được vui chơi nơi Thiên-cung.
Nếu biết ơn cha mẹ rất sâu,
Chư Phật, Thánh-hiền đều báo đức.
Nếu ai chí-tâm cúng-dàng Phật,
Có tâm tinh-cần tu hiếu-dưỡng.
Phúc hai người ấy bằng nhau cả,
Ba đời hưởng báo cũng vô cùng.
Người đời, làm con tạo các tội,
Sa ba ngả ác chịu khổ mãi.
Người chưa chứng Thánh, không thần-thông,
Không thấy luân-hồi, khó báo được.
Thương thay người đời không Thánh-lực,
Không hay cứu gỡ cho từ-mẫu!
Bởi nhân-duyên ấy, ông nên biết,
Cần tu phúc-lợi công-đức tốt:
Đem ngay thắng-phúc nơi nam, nữ,
Có đại-kim-quang soi địa-ngục.
Trong hào-quang diễn tiếng thâm-diệu,
Khai-ngộ cha mẹ mở tâm-ý.
Nhớ thuở xưa kia thường tạo tội,
Một niệm hối-tâm đều trừ diệt.
Miệng niệm: “Nam mô tam thế Phật”.
Thoát thân khổ-nạn không thong-thả;
Sinh lên Nhân, Thiên hưởng vui mãi,
Thấy Phật, nghe pháp, sẽ thành Phật.
Hoặc sinh tịnh độ tại mười phương,
Hoa sen bảy báu là cha mẹ;
Hoa nở thấy Phật ngộ Vô sinh,
Bồ-tát Bất-thoái là đồng học.
Được sáu thần-thông tự-tại-lực,
Được vào cung bồ-đề vi-diệu:
Bồ-tát đều là các nam, nữ.
Nương đại nguyện-lực hóa nhân-gian.
Thế là thực báo ân cha mẹ,
Các ông, chúng sinh cùng tu học!84
CHÚNG-SINH luân-hồi sinh sáu đạo,
Cũng như bánh xe không sau, trước.
Hoặc là cha mẹ, là trai, gái,
Đời đời, kiếp kiếp ơn lẫn nhau.
Như thấy cha mẹ… không khác chi,
Không chứng Thánh-trí, do đâu biết!
Hết thảy nam-tử đều là cha,
Hết thảy nữ-nhân đều là mẹ;
Ơn đời trước thế chưa trả xong,
Lại sinh niệm khác thành oán ghét!
Thường nên báo ân, ích lẫn nhau,
Không nên đánh mắng thành hiềm-oán!
Nếu muốn tu thêm phúc-trí-môn,
Ngày đêm sáu thời85 nên phát nguyện:
Nguyện con sinh sinh vô-lượng kiếp,
Được Túc-trụ-trí86 đại-thần-thông;
Biết được trăm nghìn kiếp quá-khứ,
Lại nhớ biết nhau là cha mẹ.
Xoay-vần sáu thú, bốn loài sinh,87
Cho tôi một niệm đến nơi ấy;
Vì nói diệu-pháp, lìa nhân khổ,
Trong Nhân, Thiên họ hưởng vui mãi.
Khuyến phát Bồ-đề-nguyện kiên-cố,
Tu-hành lục độ của Bồ-tát;
Dứt hẳn hai nhân của sinh tử,
Chóng chứng Niết-bàn vô-thượng-đạo88
Mười phương hết thảy các QUỐC-VƯƠNG
Chính pháp hóa-nhân là Thánh-chúa;
Phúc-đức Quốc-vương là tối-thắng,
Việc làm tự-tại gọi là “Thiên” (trời).
Vua trời Đao-lỵ và trời khác,
Thường đem phúc-lực trợ vương-hóa;
Chư Thiên ủng-hộ như con một,
Bởi thế được tên là “Thiên-tử”.
Thế-gian cho vua là cội-gốc,
Là chỗ nhân-dân hết thảy nương;
Cũng như nhà cửa của thế-gian,
Cột là cội-gốc, dựng nên được.
Vua dùng chính-pháp hóa nhân-dân,
Giả như Phạm-vương sinh muôn vật.
Vua làm phi-pháp không chính-lý,
Như Diễm-ma vương diệt thế-gian.
Nếu vua dung-nhận kẻ gian-tà,
Như là voi xéo ao hoa vậy.
Đừng bảo thời gặp đời ác-trọc,
Nên biết thiện, ác do vua tu!
Như mặt trời soi sáng thế gian,
Quốc-vương dạy đời cũng như thế.
Mặt trời, đêm tuy không chiếu tới,
Nhưng khiến chúng-sinh được an-lạc.
Vua đem phi-pháp ra dạy đời,
Hết thảy nhân-dân không tin cậy.
Thế gian có những sự sợ-hãi,
Nhưng nhờ phúc vua không sinh được.
Thành ra nhân-dân được an-lạc,
Như thế là phúc vua soi tới.
Thế-gian có những hoa rất đẹp,
Nhờ phúc nhà vua mà nở toả.
Thế-gian có những rừng, vườn đẹp,
Nhờ phúc nhà vua đều tươi tốt.
Thế-gian có những cây cỏ thuốc,
Nhờ phúc nhà vua khỏi các bệnh.
Thế-gian bách-cốc, cùng lúa má,
Nhờ phúc nhà vua đều thành hạt.
Nhân-dân trên đời hưởng vui sướng,
Nhờ phúc nhà vua thường tự-nhiên.
Ví như Trưởng-giả có một con,
Trí-tuệ đoan nghiêm đời không sánh;
Cha mẹ yêu mến như con mắt,
Ngày đêm thường sinh tâm hộ-niệm.
Thánh-vương trong nước cũng như thế,
Nhớ mến chúng-sinh như con một;
Nuôi-nấng người già, giúp cô độc,
Tâm dù thưởng, phạt nhưng thường một.
Nhân-vương như thế là Thánh-chúa,
Mọi loài kính-ngưỡng như Như-Lai;
Nhân-vương trị nước không tai-biến,
Muôn họ kính, chăm thường an-ổn.
Vua không đem pháp-chính dạy đời,
Tật-dịch lưu-hành hại chúng-sinh;
Như thế hết thảy nhân, phi-nhân,
Tội, phúc rõ-ràng không che được.
Trong pháp thiện, ác chia bảy phần,
Người tạo được năm, vua được hai;
Nhà cửa, ruộng, vườn, rừng đều thế,
Thuế-má phân chia cũng như vậy.
Chuyển-luân Thánh-vương khi xuất-hiện,
Chia làm sáu phần vua được một;
Nhân-dân khi ấy được năm phần.
Nghiệp-báo thiện, ác cũng đều thế.
Nếu có Nhân-vương tu chính-kiến,
Như pháp dạy đời là “Thiên-chúa”;
Bởi y pháp trời mà dạy đời,
Tỳ-sa-môn-vương thường ủng-hộ.
Ba cõi trời khác, chúng La-sát,
Đều sẽ gìn giữ Thánh-vương-cung.
Thánh-vương ra đời sửa-sang nước,
Lợi-ích chúng-sinh thành mười đức:
Một là, soi sáng trong quốc-giới,
Hai là, trang-nghiêm cho quốc-độ;
Ba là, thường cho sự yên-vui,
Bốn là, hàng-phục các oán-địch.
Năm là, cấm ngăn mọi sợ hãi,
Sáu là, hợp-tập các Thánh hiền;
Bảy là, căn-bản của mọi pháp,
Tám là, hộ-trì cho thế-gian.
Chín là, thường làm công tạo-hóa,
Mười là, chủ nhân-dân, đất nước.
Nếu vua thành-tựu mười thắng-đức,
Phạm-vương, Đế-thích và chư Thiên.
Dạ-soa, La-sát, Quỷ-thần-vương,
Ẩn mình thường lại hộ quốc-giới.
Long-vương hoan-hỷ tuôn Cam-vũ,
Ngũ-cốc thành-thục muôn họ yên.
Khắp nơi trong nước sinh ngọc báu,
Người, ngựa sức mạnh, không oán-địch.
Như-ý bảo-châu hiện trước vua,
Các vua ngoại-cảnh tự triều-phục.
Ai sinh tâm ác với Quốc-vương,
Một niệm khởi tâm thành mọi ác;
Người ấy mệnh mất sa địa-ngục,
Chịu khổ nhiều kiếp khó kỳ ra.
Nếu có tinh-thần chăm giúp vua,
Chư Thiên hộ-niệm thêm vinh-lộc.89
Trưởng-giả Trí-Quang, ông nên biết:
Hết thảy Nhân-vương do nghiệp-cảm.
Các pháp đều do nhân-duyên thành,
Nếu không nhân-duyên không các pháp.
Nói không sinh Thiên và ác-thú,
Những người như thế không hiểu nhân,
Không nhân, không quả: đại-tà-kiến,
Không biết tội, phúc sinh vọng-chấp.
Nay vua được hưởng mọi phúc vui,
Xưa kia từng giữ ba tịnh-giới.90
Giới-đức huân-tu chiêu-cảm tới,
Diệu-quả Nhân, Thiên được thân vua91
Nếu người phát-khởi Bồ-đề-tâm,
Nguyện-lực giúp thành vô-thượng-quả.
Giữ bền giới tịnh trong thượng-phẩm,
Đi, ở tự-tại làm Pháp-vương;
Thần thông biến-hóa khắp mười phương,
Tùy duyên giúp hết cả muôn loài.
Trung-phẩm thụ-trì Bồ-tát-giới,
Phúc-đức tự-tại Chuyển-luân-vương;
Tùy tâm làm gì đều nên cả,
Vô-lượng Nhân, Thiên đều tuân-phụng.
Hạ-thượng-phẩm trì: đại-quỷ-vương,
Hết thảy phi-nhân đều theo phục;
Thụ-trì giới phẩm tuy khuyết-phạm,
Nhưng, do giới thắng được làm vua.
Hạ-trung-phẩm trì: cầm-thú-vương,
Hết thảy chim, muông đều y-phục;
Trong thanh-tịnh-giới có khuyết-phạm,
Nhưng, do giới thắng được làm vua.
Hạ-hạ-phẩm trì: Diễm-ma-vương,
Ở trong địa-ngục thường tự-tại;
Tuy hủy giới cấm sinh ác-đạo.
Nhưng, do giới thắng được làm vua.92
Bởi vì nghĩa ấy các chúng-sinh,
Nên thụ Bồ-tát thanh-tịnh-giới;
Hãy gìn-giữ khéo không khuyết-phạm,
Tùy chỗ sinh ra làm Nhân-vương.
Nếu người không thụ-giới Như-Lai,
Còn không được thân con cáo đồng;
Huống là cảm-quả trong Nhân, Thiên,
Ở ngôi vua hưởng vui sướng tuyệt?
Thế nên làm vua phải có “nhân”,
Giới-nghiệp tinh siêng thành diệu-quả.
Quốc-vương tự là chủ nhân-dân,
Lành thương như mẹ nuôi con nhỏ.
Như thế Nhân-vương có ơn lớn,
Tấm lòng phủ-dục93 khó báo được
Bởi nhân-duyên ấy, các chúng-sinh,
Nếu tu chứng được Đại-bồ-đề.
Đối với chúng-sinh khởi đại-bi,
Nên thụ Như-Lai tam-tụ-giới.94
Nếu muốn như pháp mà thụ-giới,
Cần nên sám95 tội cho tiêu-diệt.
Nguyên-nhân khởi tội có mười duyên:96
Thân ba, miệng bốn và ý ba.
Sinh-tử vô-thủy, tội vô cùng,
Bể lớn phiền-não sâu không đáy.
Nghiệp-chướng cao vót như Tu-di,
Tạo-nghiệp do nhân hai thứ khởi:
Tức là HIỆN-HÀNH và CHỦNG-TỬ,97
Tạng-thức98 giữ, duyên NHẤT-THIẾT-CHỦNG.
Như bóng theo hình không rời thân,
Trong hết thảy thời chướng Thánh đạo;
Gần, chướng diệu-quả của Nhân, Thiên,
Xa, chướng vô-thượng Bồ-đề-quả.
Tại-gia thường vời nhân phiền-não,
Xuất-gia thì phá thanh-tịnh-giới.
Nếu ai như pháp mà sám-hối,
Có bao phiền-não đều trừ-diệt.
Cũng như kiếp lửa hoại thế-gian,
Đốt sạch Tu-di và bể cả.
Sám-hối, đốt sạch củi phiền-não,
Sám-hối, thường sinh lên đường trời.
Sám-hối, được vui nơi Tứ-thiền,99
Sám-hối, mưa báu ngọc Ma-ni;
Sám-hối, thân kim-cương thêm thọ,
Sám-hối, được vào cung “thường-lạc”.
Sám-hối, ra khỏi ngục ba cõi,
Sám-hối, nở ra hoa Bồ-đề;
Sám-hối, thấy đại-viên-kính Phật,100
Sám-hối, đến được nơi Bảo-sở.
Nếu y như pháp mà sám-hối,
Nên y hai pháp QUÁN-MÔN tu:
Một là, QUÁN SỰ DIỆT TỘI MÔN,
Hai là, QUÁN LÝ DIỆT TỘI MÔN.101
Quán sự diệt tội lại chia ba:
Thượng, trung, hạ-căn là ba phẩm.
Nếu có thượng căn cầu tịnh giới,
Phát đại tinh-tiến tâm không thoái.
Thương khóc rơi huyết thường tinh-khẩn,
Ai-cảm khắp mình đều ửng huyết;
Nghĩ luôn đến thập phương Tam-bảo,
Cùng các chúng-sinh trong lục-đạo.
Quỳ dài, chắp tay tâm bất từ,
Gột tâm phát-lộ cầu sám-hối:
“Kính xin thập phương Tam-thế Phật,
Lấy đại-từ-bi thương xót con.
Con ở luân-hồi không chỗ nương,
Sinh-tử đêm dài thường chẳng biết;
Con ở phàm-phu đủ mọi buộc,
Tâm cuồng giáo-giở, lăng-xăng khắp.
Con ở trong nhà lửa ba cõi,
Nhiễm bậy sáu trần102 không cứu-hộ;
Con sinh trong nhà nghèo, hạ-tiện,
Không được tự-tại thường chịu khổ.
…Sinh vào nhà cha mẹ tà-kiến,
Tạo tội nương theo quyến-thuộc ác.
Kính xin chư Phật Đại-từ-tôn,
Thương xót hộ-niệm như con một.
Một sám không tạo các tội nữa,
Tam-thế Như-Lai sẽ chứng-minh!”
Mạnh-mẽ sám-hối như như thế,
Gọi là thượng-phẩm cầu tịnh-giới.
Như có trung-căn cầu giới-phẩm,
Một lòng mạnh-mẽ sám mọi tội.
Nghĩ mình lệ ứa không ai biết,
Khắp mình bồ-hôi…, ai-cầu Phật:
“Dãi-bày vô-thủy nghiệp sinh-tử,
Xin nước từ bi gột bụi trần;
Giũ bỏ tội-chướng sạch sáu căn,103
Cho con tam-tụ-giới Bồ-tát.
Con nguyện giữ vững không lùi chuyển,
Tinh-tu, độ thoát khổ chúng-sinh,
Mình chưa đắc độ, trước độ người,
Hết thuở vị-lai thường không dứt”.
Như thế tinh-cần, dũng-mãnh làm,
Không tiếc thân-mệnh cầu Giác-đạo.
Cảm tướng lạ thiêng của Tam-bảo,
Gọi là trung-phẩm đại-sám-hối.
Nếu có hạ-căn cầu tịnh-giới,
Phát tâm Vô-thượng Bồ-đề ấy,
Rơi lệ, thương khóc, lông thân rởn,
Với chỗ tạo tội rất thẹn-hổ.
Đối trước Tam-bảo khắp mười phương,
Và trước chúng-sinh trong sáu đạo;
Chí thành phát-lộ từ vô-thủy,
Có những chúng-sinh bị não-loạn.
Khởi tâm đại-bi không chướng-ngại,
Không tiếc thân-mệnh hối ba nghiệp.
Những tội đã làm đều phát-lộ,
Những ác chưa làm không dám tạo.
Như thế, ba phẩm sám mọi tội,
Đều gọi thanh-tịnh-giới đệ-nhất.
Dùng nước thẹn-hổ rửa trần-lao,
Thân tâm đều là thanh-tịnh phẩm,
Các thiện-nam-tử, ông nên biết!
Đã nói tịnh-quán các sám-hối;
Trong sự, lý ấy không sai khác,
Chỉ bởi căn-duyên ứng chẳng đồng.
Nếu khi tu-tập quán chính-lý,
Xa lìa hết thảy mọi tán-loạn.
Mặc áo mới sạch ngồi gia-phu,
Nhiếp-tâm, chính-niệm bỏ mọi duyên:
Thường quán diệu-pháp-thân chư Phật,
Thể-tính như KHÔNG, không thể được;
Tính của các tội cũng đều như,
Nhân-duyên điên-đảo, tâm vọng khởi.
Tội-tướng như thế bản-lai không,
Ở trong ba đời “vô-sở-đắc”.
Không nội, không ngoại, không trung-gian,
Tính, tướng như-như đều chẳng động.
Diệu-lý chân-như dứt danh-ngôn,
Chỉ có Thánh-trí hay thông-suốt.
Phi hữu, phi vô, phi-hữu-vô,
Phi bất hữu-vô lìa danh-tướng.
Quanh khắp pháp-giới không sinh diệt,
Chư Phật bản-lai đồng một thể.
Kính xin chư Phật thùy gia-hộ,
Diệt được hết thảy tâm điên-đảo!
Nguyện, con sớm ngộ nguồn chân-tính,
Chóng chứng Như-Lai vô-thượng-đạo!
Nếu có thanh-tín thiện-nam-tử,
Ngày đêm hay quán diệu-lý-không.
Hết thảy tội-chướng tự tiêu-trừ,
Thế là giữ giới tịnh trên hết.
Nếu người quán biết thực-tướng-không,
Hay diệt hết thảy các tội trọng.
Cũng như gió to thổi lửa dữ,
Đốt cháy vô-lượng các cây cỏ.
Các thiện-nam-tử chân-thực-quán,
Là môn bí-yếu của chư Phật.
Nếu muốn vì người phân-biệt rộng,
Hạng người vô-trí đừng tuyên-thuyết.
Hết thảy chúng-sinh loại phàm ngu,
Nghe quyết sinh nghi tâm bất tín.
Nếu có trí-giả sinh tín-giải,
Niệm niệm quán-sát ngộ Chân-như;
Chư Phật mười phương đều hiện trưóc,
Bồ-đề diệu-quả tự-nhiên chứng.
Các thiện-nam-tử! Sau Tôi diệt,
Những người tịnh-tín trong đời sau;
Theo hai quán-môn thường sám-hối,
Nên thụ Bồ-tát tam-tụ-giới.
Nếu muốn thụ-trì thượng-phẩm-giới,
Nên thỉnh giới-sư : Phật, Bồ-tát.
Thỉnh Tôi: Thích-Ca Mưu-Ni Phật,
Làm vị Hòa-thượng104 giới Bồ-tát.
Long-chủng Tịnh-trí tôn vương Phật
Sẽ làm tịnh-giới A-xà-lê.105
Đạo-sư mai sau: Di-Lặc Phật,
Sẽ làm thanh-tịnh Giáo-thụ-sư.106
Hiện-tại mười phương Lưỡng-túc-tôn,107
Sẽ làm thanh-tịnh Chứng-giới-sư.108
Mười phương hết thảy các Bồ-tát,
Sẽ làm bạn-bè tu-học-giới.
Phạm, Thích, Tứ-vương, Kim-cương-thiên,
Sẽ làm chúng ngoại-hộ học-giới.
Phụng-thỉnh Phật, Bồ-tát như thế,
Và, các thầy truyền giới hiện-tiền.
Vì muốn trả khắp bốn ân sâu,
Phát khởi tâm Bồ-đề thanh-tịnh.
Nếu thụ tam-tụ-giới Bồ-tát :
Nhiêu-ích hết thảy hữu-tình-giới.
Tu-nhiếp hết thảy thiện-pháp-giới,
Tu-nhiếp hết thảy luật-nghi-giới.
Tam-tụ thanh-tịnh giới như thế,
Như-Lai ba đời đều hộ-niệm.
Chúng-sinh phi-pháp không nghe biết,
Trong vô-lượng kiếp không nghe, thấy.
Duy có thập phương Phật quá-khứ.
Đã thụ tịnh-giới thường hộ-trì.
Hai chướng phiền-não dứt trừ hẳn,
Chứng được quả Bồ-đề vô-thượng;
Hết thảy Thế-Tôn đời vị-lai,
Giữ-gìn tam-tụ tịnh-giới báu.
Dứt trừ ba chướng109 cùng tập-khí,
Sẽ chứng chính-đẳng đại-bồ-đề;
Mười phương các Thiện-thệ hiện-tại,
Đều tu nhân tam-tụ tịnh-giới.
Dứt hẳn sinh-tử khổ luân-hồi,
Được chứng tam thân110 Bồ-đề-quả.
Siêu-việt bể sinh-tử sâu lớn,
Tịnh-giới Bồ-tát là thuyền bè.
Dứt hẳn ràng-buộc tham, sân, si,
Tịnh-giới Bồ-tát là gươm sắc;
Đường hiểm sinh-tử các sợ-hãi,
Tịnh-giới Bồ-tát là nhà cửa.
Trừ khỏi các nhân khổ nghèo hèn,
Tịnh-giới thường làm ngọc Như-ý;
Bị ma quỉ ốp, các tật-bệnh,
Tịnh-giới Bồ-tát là lương-dược.
Làm vua Nhân, Thiên được tự-tại,
Tam-tụ tịnh-giới là duyên tốt;
Cùng các thân vua trong bốn thú,
Tịnh-giới là duyên được thắng-quả.
Thế nên tu được nhân tự-tại,
Sẽ được làm vua hưởng tôn-quý.
Trước nên lễ kính mười phương Phật,
Ngày đêm tu thêm thanh-tịnh-giới.
Chư Phật hộ-niệm đương thụ-trì,
Giới như kim-cương không phá-hoại;
Chư Thiên thiện thần trong ba cõi,
Hộ-vệ thân vua và quyến-thuộc.
Hết thảy oán-địch đều quy-phục,
Muôn họ vui mừng cảm vương hóa.
Thế nên thụ-trì giới Bồ-tát,
Cảm quả vô-vi thế, xuất-thế.111
Tam-Bảo thường-trụ hóa thế-gian,
Ân-đức rộng lớn bất tư-nghị;
Trong kiếp-hải này cùng quá-khứ,
Công-đức lợi sinh không dừng nghỉ.
Nghìn ánh Phật-nhật112 thường soi đời,
Lợi ích quần-sinh độ có duyên;
Vô duyên không thấy từ-quang Phật,
Cũng như người mù không trông thấy.
Pháp-bảo nhất vị không biến-đổi,
Phật trước, Phật sau nói đều đồng;
Như mưa, một vị thấm khắp cả,
Cỏ cây tươi-tốt, lớn, nhỏ khác.
Chúng-sinh tùy căn đều được giải,
Cỏ cây nhuần thấm cũng sai khác.
Bồ-tát, Thanh-văn hóa chúng-sinh,
Như nước sông lớn chảy không kiệt.
Chúng-sinh không tín, hóa không tới,
Như ở chỗ tối trời khó soi.
Ánh trăng Như-Lai rất thanh-lương,
Hay trừ mọi tối cũng như thế.
Cũng như chậu úp trăng không soi,
Chúng-sinh mê-hoặc cũng như thế.
Pháp-bảo như cam-lộ, thuốc hay,
Trị được hết thảy bệnh phiền-não.
Người tin uống thuốc, chứng Bồ-đề,
Không tin tùy duyên sa ác-đạo.
Bồ-tát, Thanh-văn thường ở đời,
Vô số phương-tiện độ chúng-sinh.
Chúng-sinh nếu có lòng tin, thích,
Nhập ngôi an-lạc của Tam-thừa.
Như-Lai không xuất-hiện thế-gian,
Hết thảy chúng-sinh vào tà-đạo.
Chê hoài cam-lộ, uống thuốc độc,
Chìm mãi bể khổ không kỳ ra.
Phật-nhật xuất-hiện ba nghìn cõi,
Tỏa ánh-sáng lớn chiếu đêm dài.
Chúng-sinh như ngủ không hay biết,
Nhờ sáng được vào vô-vi-thất.
Như-Lai chưa nói Nhất-thừa-pháp,
Quốc độ mười phương đều không-hư.
Phát tâm tu-hành thành chính-giác,
Hết thảy cõi Phật đều nghiêm-tịnh.
Pháp-bảo Nhất-thừa: mẹ chư Phật,
Như-Lai ba đời từ đấy sinh.
Bát-nhã phương-tiện tu không dứt,
Thành đạo giải-thoát lên Diệu-giác.
Nếu Phật, Bồ-tát không xuất-hiện,
Chúng-sinh ở đời không đạo-sư.
Hiểm-nạn sinh-tử do đâu qua,
Làm sao đến được nơi Bảo-sở?
Dùng đại-nguyện-lực làm bạn lành,
Thường nói diệu-pháp cho tu-hành.
Xu-hướng Thập-địa chứng Bồ-đề,
Khéo vào nơi Niết-bàn an-lạc.
Đại-bi Bồ-tát hóa thế-gian,
Phương-tiện dẫn-dắt các chúng-sinh.
Trong ẩn hạnh chân-thực Nhất-thừa,
Ngài hiện ra Duyên-giác, Thanh-văn.
Độn-căn, trí-nhỏ nghe Nhất-thừa,
Sợ-hãi phát tâm qua nhiều kiếp.
Không biết thân có Như-Lai-tạng,113
Chỉ vui tịch-diệt, chán trần-lao.
Chúng-sinh vốn có giống Bồ-đề,
Đều ở trong Tạng-thức: Lại-gia.
Nếu gặp bạn lành phát đại-tâm,
Ba thứ rèn, mài114 tu diệu-hạnh;
Dứt hẳn phiền-não, sở-tri-chướng,
Chứng được thân thường-trụ Như-Lai.
Diệu-quả Bồ-đề chẳng khó thành,
Chân thiện-trí-thức thực khó gặp.
Hết thảy Bồ-tát tu thắng-đạo,
Bốn thứ pháp-yếu cần nên biết:
Thân-cận bạn lành là thứ nhất,
Lắng nghe chính-pháp là thứ hai;
Như ý nghĩ lường là thứ ba,
Như pháp tu chứng là thứ tư.
Hết thảy Đại-thánh-chúa mười phương,
Tu bốn pháp ấy chứng Bồ-đề.
Các ông Trưởng-giả, đại-hội-chúng,
Và, thanh-tín-sĩ đời vị-lai.
Bốn pháp nơi Bồ-tát như thế,
Cốt nên tu-tập thành Phật-đạo.115
Các thiện-nam-tử nên nghe kỹ,
Như-Lai nói ra bốn ơn trên.
Thì ơn Phật-bảo là tối thượng,
Vì độ chúng-sinh phát đại-tâm.
Ba vô số kiếp trong đại-kiếp.
Tu đủ trăm nghìn các khổ-hạnh.
Công-đức viên-mãn khắp pháp-giới,
Thập-địa rốt-ráo chứng ba thân.
Pháp-thân thể khắp mọi chúng-sinh,
Muôn đức cô-đọng tính thường-trụ.
Không sinh, không diệt, không đi, lại,
Không một, không khác, phi đoạn, thường;
Đầy khắp pháp-giới như hư-không,
Hết thảy Như-Lai cùng tu chứng.
Hữu-vi, vô-vi các công-đức,
Nương-tựa Pháp-thân thường thanh-tịnh.
Bản-tính Pháp-thân như hư-không,
Xa lìa sáu trần không nhiễm-trước.
Pháp-thân vô hình lìa mọi tướng,
Năng-tướng, sở-tướng hết đều không.
Như thế, diệu-pháp-thân chư Phật,
Tướng ngôn-từ, hí-luận tịch-diệt.
Xa lìa hết thảy các phân-biệt,
Tâm-hành-xứ diệt116 thể đều như.
Vì muốn chứng được thân Như-Lai.
Bồ-tát khéo tu về muôn hạnh.
Thể “trí” vô-vi chân-pháp-tính,
Sắc, tâm hết thảy chư Phật đồng.
Ví như chim bay đến núi vàng,
Làm cho thân chim đồng sắc ấy.
Hết thảy Bồ-tát như chim bay,
Thể pháp-thân Phật tựa núi vàng.
Tự-thụ-dụng thân các tướng tốt,
Mỗi một đầy khắp cõi mười phương.
Bốn-trí viên-minh hưởng pháp-lạc,
Phật trước, Phật sau thể đồng nhau.
Tuy khắp pháp-giới không chướng-ngại,
Diệu-cảnh như thế không nghĩ, bàn.
Thân ấy thường-trụ báo-Phật-độ,
Tự hưởng pháp-lạc không gián-đoạn.
Tha thụ-dụng-thân các tướng tốt,
Tùy cơ ứng-hiện không thêm, bớt.
Vì hóa các Bồ-tát Địa-thượng,
Một Phật hiện ra mười loại thân.
Tùy chỗ ứng-hiện đều bất đồng,
Dần-dà tăng gấp đến vô-cực.
Hợp căn vì nói các pháp-yếu,
Khiến hưởng pháp-lạc vào Nhất-thừa.
Vị được thần-thông dần tăng-trưởng,
Pháp-môn sở ngộ cũng như thế.
Bồ-tát Hạ-địa khởi trí-tuệ,
Không thấu suốt được về Thượng-địa.
Năng-hóa, sở-hóa tùy Địa tăng,
Đều tùy bản-duyên làm sở-thuộc.
Hoặc một Bồ-tát, nhiều hóa Phật,
Hoặc nhiều Bồ-tát, một hóa-Phật.
Như thế, mười Phật thành chính-giác,
Đều ngồi dưới Bồ-đề thất-bảo.
Phật trước nhập-diệt, Phật sau thành,
Hóa-Phật chẳng đồng trải kiếp hiện.
Mười Phật ngồi trên đài hoa sen,
Quanh khắp đều có trăm nghìn cánh.
Mỗi một cánh sen một cõi Phật,
Tức là cõi Tam-thiên đại-thiên.
Trong mỗi một cõi có trăm ức,
Mặt trời, trăng, sao bốn đại-châu.
Sáu cõi trời Dục và bốn Thiền,
Không-xứ, Thức-xứ đến Phi-tưởng.
Riêng châu Nam-thiệm trong bốn châu,
Mỗi một đều có tòa Kim-cương.
Cùng với Bồ-đề đại-thụ-vương,
Các thân Phật hóa trong khi ấy;
Nhất thời chứng được Bồ-đề-đạo,
Quay xe diệu-pháp trong Đại-thiên.
Bồ-tát, Duyên-giác và Thanh-văn,
Tùy chỗ hợp căn thành Thánh-quả.
Như thế, nói ra ba thân Phật,
Trên hết, không gì sánh, là “BẢO”.117
Ứng, Hóa hai thân nói ra pháp,
Giáo, lý, hành, quả là PHÁP-BẢO.
Chư Phật lấy PHÁP làm đại-sư,
Tu tâm chứng được Bồ-đề-đạo.
Pháp-bảo ba đời không biến-đổi,
Hết thảy chư Phật đều quy, học.
Tôi nay đỉnh-lễ Nhất-thiết-trí,
Nên nói Pháp-bảo là thầy Phật.
Hoặc vào lửa dữ không cháy được,
Ứng thời liền được chân giải-thoát.
Pháp-bảo hủy phá ngục sinh-tử,
Cũng như Kim-cương phá muôn vật.
Pháp-bảo soi vào tâm chúng-sinh,
Ví như mặt trời trên không-giới.
Pháp-bảo hay làm thuyền bền chắc,
Vượt qua bể ái lên bờ giác.
Pháp-bảo hay cho chúng-sinh vui,
Ví như thiên-cổ hợp thiên-tâm;
Pháp-bảo hay giúp chúng-sinh nghèo,
Như ngọc Ma-ni mưa mọi báu.
Pháp-bảo hay làm thềm Tam-bảo,
Nhân tu nghe pháp sinh thượng-giới;
Pháp-bảo: Kim-luân đại-thánh-vương,
Dùng sức đại-pháp phá bốn ma.
Pháp-bảo hay làm xe báu lớn,
Chuyên chở chúng-sinh ra nhà lửa;
Pháp-bảo hay làm đại-đạo-sư,
Dẫn-dắt chúng-sinh đến Bảo-sở.
Pháp-bảo hay thổi loa đại-pháp,
Giác-ngộ chúng-sinh thành Phật-đạo;
Pháp-bảo hay làm đèn đại-pháp,
Soi chỗ tối-tăm trong sinh-tử.
Pháp-bảo hay làm tên Kim-cương,
Chấn giữ quốc-giới dẹp mọi oán.
Những pháp của Phật ba đời nói,
Làm lợi chúng-sinh khỏi khổ-phọc.
Dẫn vào thành Niết-bàn an-lạc,
Thế là ơn PHÁP-BẢO khó trả.118
Trưởng-giả Trí-quang ông nghe kỹ,
Thế, xuất-thế Tăng có ba hạng:
Bồ-tát, Thanh-văn thánh, phàm-chúng,
Là thửa ruộng phúc, ích chúng-sinh.
Văn-thù-sư-lỵ: đại-thánh-tôn,
Chư Phật ba đời cho là mẹ.
Như-Lai mười phương mới phát tâm,
Đều do giáo-hóa của Văn-Thù.
Hết thảy thế-gian, các hữu-tình,
Nghe tên, thấy thân và hào-quang.
Cùng thấy thân hóa hiện tùy loại,
Đều thành Phật-đạo khó nghĩ, bàn,
Di-lặc Bồ-Tát: Pháp-vương-tử,
Từ mới phát tâm không ăn thịt.
Bởi nhân-duyên ấy gọi “Từ-Thị”,
Vì muốn thành-thục các chúng-sinh.
Ở cõi thứ tư: Đâu-suất-thiên,
Trong Như-ý-điện bốn chín trùng.
Ngày đêm thường nói “bất-thoái-hạnh”,
Vô số phương-tiện độ Nhân, Thiên.
Nước tám công-đức119 ao Diệu-hoa,
Chúng-sinh có duyên đồng sinh đến.
Đệ-tử Tôi nay giao Di-Lặc,
Trong hội Long-Hoa được giải-thoát.
Các Thiện-nam-tử đời mạt-pháp,120
Một nắm cơm ăn cho chúng-sinh.
Bởi thiện-căn ấy thấy Di-Lặc,
Cứu-cánh sẽ được Bồ-đề-đạo.
Ông Xá-lỵ-phất…Đại-thanh-văn,
Trí-tuệ thần-thông hóa mọi loài.
Nếu thành-tựu được giới giải-thoát,
Thực là người tu-hành chính-kiến;
Vì người thuyết-pháp truyền Đại-thừa,
Ruộng phúc như thế là thứ nhất.
Hoặc có một hạng phàm-phu Tăng,
Giới-phẩm không trọn, sinh chính-kiến;
Tán-vịnh Nhất-thừa pháp mầu-nhiệm,
Tùy phạm, tùy hối, chướng đều trừ.
Vì muốn chúng-sinh thành Phật nhân,
Phàm-phu ấy cũng là Tăng-bảo.
Như Uất-kim-hoa121 tuy héo úa,
Còn hơn hết thảy các hoa quý.
Tỷ-khưu chính-kiến cũng như thế,
Bốn hạng Luân-vương so chẳng kịp.
Như thế, bốn hạng Thánh, phàm Tăng,
Lợi-lạc hữu-tình không tạm nghỉ.
Là ruộng phúc tốt của thế-gian,
Thế là Tăng-bảo ân-đức lớn.122
Như Tôi đã nói bốn ân-nghĩa,
Là ân tạo ra ruộng phúc đời.
Hết thảy muôn vật từ đấy sinh,
Nếu rời bốn ân không thể được.
Ví như các sắc-trần thế-gian,
Sinh được do nơi bốn ĐẠI123 tạo.
Hữu-tình thế-gian cũng như thế,
Bởi bốn ân kia được an-lập.124
Khi ấy, Trí-Quang trưởng-giả cùng con ông v.v…nghe Phật nói về bốn ân lớn ấy, cho rằng được nghe sự chưa từng có bao giờ, hoan-hỷ chắp tay bạch Phật rằng: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đại-từ Thế-Tôn! Ngài đã vì những chúng-sinh tà-kiến không tin nhân-quả, không hiếu cha mẹ trong đời trọc-ác, nói chân diệu-pháp đem lại lợi-lạc cho thế-gian, nay kính xin đức Thế-Tôn nói thêm cho về nghĩa báo-ân. Chúng tôi đã ngộ được ý rất sâu của bốn ân nhưng, nay chúng tôi chưa biết tu nghiệp thiện gì để báo được ân ấy.
Đức Phật bảo ông Trưởng-giả: “Các thiện-nam-tử! Trước kia tôi đã vì năm trăm ông Trưởng-giả nói rộng về nghĩa ấy rồi, nay Tôi sẽ vì các ông nói qua chút ít phần mà thôi! Các thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn được vô-thượng chính-đẳng chính-giác nên tinh siêng tu-hành mười pháp Ba-la-mật. Song, nếu còn “sở đắc” vẫn chưa được gọi là “báo-ân”. Nếu người nào chỉ trong giây lát làm được một thiện-tâm “vô-sở-đắc” mới được gọi là “báo-ân”. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy Như-Lai tới “vô-sở-đắc” mới thành Phật-đạo, hóa-độ chúng-sinh. Nếu có thiện-nam-tử tịnh-tín nào được nghe kinh này, tín-giải, thụ-trì, giải-thuyết, viết chép, đem “vô-sở-đắc, tam luân thể không”125 riêng vì một người nói pháp bốn câu khiến họ trừ được tâm tà-kiến, xu-hướng đạo Bồ-đề, thế tức là báo tứ-ân. Sao vậy? Vì, người ấy sẽ được Vô-thượng Bồ-đề, triển-chuyển giáo-hóa cho vô-lượng chúng-sinh, khiến họ nhập Phật-đạo làm cho hạt giống Tam-bảo mãi không đoạn-tuyệt”.
Khi ông Trưởng-giả Trí-Quang nghe bài kệ ấy rồi được Nhẫn-nhục tam-muội, yếm-ly thế-gian, được bất thoái-chuyển. Cùng lúc đó, tám nghìn người, con và quyến-thuộc cũng được Tam-muội ấy và đều được tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác; bốn vạn tám nghìn người khác cũng chứng được Tam-muội, xa lìa trần-cấu,126 được pháp-nhãn-tịnh.127
TOÁT-YẾU
II.- PHẨM BÁO-ÂN
Khi đức Thế-Tôn từ chính-định dậy Ngài gọi Bồ-tát Di-Lặc bảo: “Quý hóa! Các ông cùng hết thảy đại-chúng vì muốn thân-cận Tôi, muốn nghe pháp xuất-thế, muốn suy-nghĩ như-như-lý, muốn tu-tập như-như-trí nên tới đây cung-kính,cúng-dàng. Nay Tôi sẽ nói về diệu-pháp (Tâm-địa)), dắt-dẫn chúng-sinh chứng-nhập Phật-trí. Chúng-sinh chỉ xu-hướng về Bồ-đề của Nhị-thừa mà không thích diệu-quả thường-lạc của Đại-thừa. Song, Như-Lai chuyển-pháp-luân tùy bệnh cho thuốc, làm sao phải hợp hoàn-cảnh, hợp thời, hợp trình-độ, hợp pháp, khiến họ thoát khỏi được sự mê-chấp ấy!”
Lúc đó, có 500 ông Trưởng-giả ở thành Vương-xá thấy những ảnh-hiện khó làm ở nơi hào-quang của Phật và nghe đức Phật tán-thán về pháp-môn “Tâm-địa” của Đại-thừa, các ông ấy liền bạch Phật: “Hành-nguyện tu-hành của Bồ-tát không phải là sự “tri-ân, báo-ân” và phải tu lâu lắm mới tới nơi Bồ-đề được, không bằng tu về Thanh-văn, Duyên-giác chóng ngộ đạo và được là báo-ân!”
Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Ơn của thế-gian, xuất-thế-gian có bốn bậc: 1/ Ơn cha mẹ. 2/ Ơn chúng-sinh. 3/ Ơn Quốc-vương. 4/ Ơn Tam-bảo.
Ơn cha mẹ: Cha thuộc từ-ân, mẹ thuộc bi-ân. Bi-ân của mẹ dù nói một kiếp cũng không hết được. Vì sự vất-vả khó-nhọc, hy-sinh và thương nhớ con của mẹ từ khi có thai, khi sinh nở, trưởng-thành cho đến trọn đời, quá lớn-lao không kể xiết được. Ngay như sữa mẹ giúp con sinh-trưởng đến 180 hộc. Do nhân-duyên ấy nơi mẹ có mười thắng-đức. Thế nên, người con biết thừa-thuận cha mẹ, được chư Thiên hộ-niệm, được là dòng-giống của Thiên, Nhân tôn-quý và là Bồ-tát hóa-hiện độ-sinh. Kể sự báo ân cha mẹ vô cùng, nhưng nếu chỉ một niệm để tâm hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng cha mẹ, công-đức ấy còn gấp trăm nghìn vạn phần công-đức cúng-dàng đầy-đủ tứ sự và những thứ cao quý cho hàng trăm vị Đại-bà-la-môn, Đại-thần-tiên, bạn lành trong trăm nghìn kiếp.
Ơn chúng-sinh: Hết thảy chúng-sinh từ đời vô-thủy tới nay, đều là cha mẹ họ-hàng lẫn nhau. Hết thảy đàn ông là cha lành, hết thảy đàn bà là mẹ hiền. Đã là cha mẹ, là đã có ơn lớn. Đã có ơn lớn đương nhiên phải trả ơn ấy bằng cách phải làm lợi-ích lẫn nhau, không nên gây vọng-nghiệp, oán-hại, chấp-trước.
Ơn Quốc-vương: Quốc-vương là người đứng đầu việc cai-trị trong một nước. Người đứng đầu việc cai-trị này thành-thực vì chúng-sinh, đem chính-pháp hóa-trị nhân-dân, nhân-dân vui-vẻ, trong nước giàu thịnh, không bị ngoại xâm, nội loạn, ác-quỷ, tật-bệnh, đói thiếu, gió mưa quá thời, trái thời, nhật, nguyệt-thực và tinh-tú biến quái. Trái lại, thì nhân-dân đau khổ, trong nước bất an. Mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của người đứng đầu trong nước đều có quan-hệ mật-thiết đến đời sống, tinh-thần,vận-mệnh của nhân-dân, của quốc-giới và mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của nhân-dân cũng vậy. Việc tu thiện được bảy phần phúc-lợi, người tu được năm phần, Quốc-vương được hai phần; Quốc-vương tu nhân lành nhân-dân cũng đồng hưởng. Do nhân-duyên ấy, Quốc-vương còn được gọi là “Thánh-vương, Thiên-chúa, Nhân-vương, Phúc-đức-vương, Chính-pháp-vương” và, cũng do đó Chính-pháp-vương có mười thắng-đức và được Thiên, Thiện-thần, nhân-dân ủng-hộ. Ân-đức của Chính-pháp-vương rộng lớn đối với nhân-dân như-thế, nhân-dân phải biết cung-kính tôn-trọng đền đáp lại.
Ơn Tam-bảo: Tam-bảo là ba ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng.
Phật-bảo: đầy-đủ ba thân:
1/- Tự-tính-thân (còn gọi là pháp-thân) có Đại-đoạn-đức.
2/- Thụ-dụng-thân (còn gọi là báo-thân) có Đại-trí-đức. Thụ-dụng-thân có 2 tướng: Tự-thụ-dụng-thân và tha-thụ-dụng-thân. Tự-thụ-dụng-thân do tu muôn hạnh, thành-tựu 4 trí cùng hết thảy các pháp công-đức, được căn-tướng trang-nghiêm. Tha-thụ-dụng-thân là thân của Như-Lai có đầy-đủ các tướng tốt ở nơi chân tịnh-độ, nói pháp Nhất-thừa cho các hàng Bồ-tát được lợi-lạc trong chính-pháp vi-diệu. Ở nơi Thập-địa, Như-Lai hóa-hiện ra mười tha-thụ-dụng-thân. Và, còn hóa-hiện độ cho Duyên-giác, Thanh-văn cùng các chúng-sinh khác.
3/- Biến-hóa-thân có Đại-ân-đức, ứng hiện thân-hình hóa-độ các bậc Thánh, phàm.
Phật-bảo có nhiều ân-đức rộng lớn như thế nên có đầy-đủ 10 hiệu và 6 công-đức vi-diệu.
Tới đây đức Phật dạy tiếp: “Sở-dĩ chư Phật hóa-hiện nhiều thân mà có chúng-sinh không được gặp là vì do chúng-sinh tạo nhiều nghiệp ác, tội-căn sâu nặng, cũng như người mù không trông thấy mặt trời vậy!”
Pháp-bảo: Pháp-bảo vô-lượng nghĩa nhưng, chia làm 4 loại: giáo-pháp, lý-pháp, hành-pháp và quả-pháp.
Pháp-bảo là phương-pháp dẫn-dắt chúng-sinh ra khỏi bể sinh-tử đến bờ Niết-bàn. Pháp-bảo là thầy chư Phật. Pháp-bảo như kim-cương, như mặt trời, như ngọc Ma-ni, như tiếng trống cõi trời, như thềm báu, như thuyền lớn, như Chuyển-luân-vương, như y-phục đẹp, như giáp-trụ bền, như gươm trí-tuệ, như xe báu, như đèn sáng, như binh-khí, như đạo-sư.
Chư Phật trong ba đời nói ra diệu-pháp bất-tư-nghị ấy làm cho chúng-sinh giác-ngộ, nên Pháp-bảo có ân-đức bất-tư-nghị.
Tăng-bảo: Trong sự tu-hành, hóa-độ, thế-gian xuất-thế-gian có ba hạng Tăng:
1/- Bồ-tát-tăng: Các vị tu lục-độ, vạn hạnh như Bồ-tát Di-Lặc, Văn-Thù v.v…
2/- Thanh-văn-tăng: Các vị tu tứ-đế chứng Thánh-đạo như ông Xá-lỵ-phất v.v…
3/- Phàm-phu-tăng: Các vị chân-thiện phàm-phu được biệt-giải-thoát-giới và những vị đầy-đủ chính-kiến đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh.
Ba hạng Tăng trên được gọi là “Chân-phúc-điền-tăng”.
Còn một hạng nữa là Phúc-điền-tăng. Phúc-điền-tăng là những vị có tâm tín-kính Tam-bảo, thâm-tín nhân-quả, thuờng phát thiện-nguyện, đầy-đủ chính-kiến, mặc dù những vị ấy có hủy giới cấm.
Tất cả các hạng Thánh, phàm Tăng-bảo trên luôn luôn đem lại sự lợi-ích cho chúng-sinh, nên có ân-đức lớn đối với chúng-sinh. Phật, pháp, Tăng được gọi là Bảo vì có mười nghĩa: bền chắc, không nhơ, cho vui, khó gặp, phá nghèo, uy-đức, mãn-nguyện, trang-nghiêm, tốt diệu và bất biến.
Nay muốn trả bốn ơn lớn-lao ấy cần phải tu-hành đầy-đủ ba bậc: danh-tự, thân-cận, chân-thực trong mười pháp Ba-la-mật-đa: 1/ Bố-thí. 2/ Trì-giới. 3/ Nhẫn-nhục. 4/ Tinh-tiến. 5/ Thiền-định. 6/ Bát-nhã. 7/ Phương-tiện. 8/ Nguyện. 9/ Lực. 10/ Trí.
Khi nghe đức Phật nói về sự tri-ân, báo-ân rồi, các ông Trưởng-giả cùng vô số chúng-sinh phát-tâm Bồ-đề và trong đó có nhiều người chứng được đạo-quả.
Đức Phật kết-khuyến: “Sau đây nếu ai thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép và truyền-bá phẩm báo-ân này, hiện-tại được chư Thiên vệ-hộ, mạnh-khỏe, sống lâu, phúc-tuệ thêm lên, đương-lai được sinh trong hội Long-Hoa của đức Di-Lặc và sẽ được thành Phật”.
Sau đó đức Phật lại giảng lại ý-nghĩa tri-ân, báo-ân như trên bằng lời kệ, thể theo lời thỉnh-cầu của ông Trưởng-giả Trí-Quang ở nước Tăng-trưởng phúc. Sở-dĩ có sự giảng lại như thế vì ông Trí-Quang muốn giác-ngộ cho người con ác nghịch của ông.
Kết-quả cuộc thuyết-pháp về sự báo-ân lần thứ hai này ông Trưởng-giả Trí-Quang cùng quyến-thuộc đều được Nhẫn-nhục tam-muội, phát tâm vô-thượng bất thoái-chuyển và những người khác cũng chứng được Tam-muội, xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.
1 Báo-ân: Những người có ơn đức với mình, mình tận-tâm, chí-lực đền đáp lại.
2 Di-Lặc: Tiếng Phạm gọi là “Mai-đê-lê” (Maitrya) Tàu dịch nghĩa là “Từ-Thị”. “Di-Lặc” là tên họ, chính tên là “A-dật-đa” (Adjita), Tàu dịch nghĩa là “Vô-năng-thắng”. Ngài sinh trong họ Bà-la-môn, thuộc Nam-Ấn-độ. Ngài là vị Bổ-xứ Bồ-tát, nối Phật Thích-Ca làm Giáo-chủ cõi Sa-bà sau này.
3 Như-như-lý, như-như trí: “Như-như”: lý-thể của pháp-tính bình-đẳng không hai, nên gọi là “như” và các pháp này, nọ đều “như”, nên gọi là “như-như”, là chính-trí hợp với lý-thể. Đại-thừa Nghĩa-chương nói: “Như-như là chính-trí hợp với lý-thể: thể của các pháp đồng, nên gọi là “như”. Trong “nhất-như”, thể của nó đầy-đủ trong pháp-giới Hằng-sa Phật-pháp, tùy pháp phân-biệt “như”, thời nghĩa “như” chẳng phải một, mà này, nọ đều “như”, nên gọi là “như-như”. “Như” không hư-vọng, nên trong kinh cũng gọi là “Chân-như”. “Như-như-lý” là lý thể như-như. “Như-như-trí” là trí-tuệ hợp lý-thể như-như.
4 Tương-ứng: Có nghĩa là khế-hợp với nhau.
5 Bất-cộng : Công-đức của Phật không cộng đồng với các hàng Nhị-thừa, Bồ-tát nên gọi là “bất-cộng”. Theo trong kinh thời đức bất-cộng của Phật có 18 pháp: 1/ Thân không lầm. 2/ Miệng không lầm. 3/ Niệm không lầm. 4/ Không có tưởng khác. 5/ Không có cái gì là không định tâm. 6/ Không có cái gì là không biết xả. 7/ Lòng mong muốn độ-sinh không diệt (chữ “diệt” có chỗ lại in là chữ “giảm”). 8/ Tinh-tiến không diệt. 9/ Niệm không diệt. 10/ Tuệ không diệt. 11/ Giải-thoát không diệt. 12/ Giải-thoát tri-kiến không diệt. 13/ Hết thảy nghiệp thân làm theo trí-tuệ. 14/ Hết thảy nghiệp khẩu làm theo trí-tuệ. 15/ Hết thảy nghiệp ý làm theo trí-tuệ. 16/ Trí-tuệ biết được đời quá-khứ không bị chướng-ngại. 17/ Trí-tuệ biết được đời vị-lai không bị chướng-ngại. 18/ Trí-tuệ biết được đời hiện-tại không bị chướng-ngại.
6 Đoạn trên từ câu “Bấy giờ, đức Thế-Tôn…” đến chỗ “chính-giác” là đức Phật khen các Bồ-tát tới nghe pháp và Ngài nói Ngài sẽ thuyết về diệu-pháp Tâm-địa. Ngài than chúng-sinh không biết hướng về Đại-thừa. Song, nếu ai biết, nghe qua diệu-pháp này sau sẽ thành Phật.
7 Tư-lương: “Tư” là tư-trợ (giúp-đỡ), “lương” là lương-thực. Như người đi xa phải nhờ lương-thực giúp đỡ thân mình. Người tu-hành muốn chứng quả Tam-thừa, cần phải lấy công-đức thiện-căn làm lương-thực, để giúp-đỡ thân mình.
8 Đoạn trên , từ chỗ “Khi ấy…” đến chỗ “báo-ân” là nói về các ông Trưởng-giả nghe Phật nói về pháp-môn Tâm-địa của Đại-thừa khó quá không muốn, chỉ muốn tu về Nhị-thừa chóng và mới là báo-ân.
9 Đoạn trên từ chỗ “Đức Phật…” đến chỗ “gánh chịu”, đức Phật khen các ông Trưởng-giả và Ngài nói: thế-gian, xuất-thế-gian có 4 ơn.
10 Chiên-đàn (Candana): Tên một thứ gỗ thơm ở núi Ma-la-da, Nam Ấn-độ. Núi này hình đầu. trâu nên gọi là Ngưu-đầu. Có chỗ gọi là Ngưu-đầu chiên-đàn, Tàu dịch là “dữ-lạc” (cho vui), vì nó chữa được bệnh.
11 Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử ! Ơn cha mẹ…” cho đến chỗ “báo ơn phụ mẫu như thế!” đức Phật giải-thuyết rõ về ơn cha mẹ; nhất là ơn mẹ đối với con phải báo đáp lại.
12 Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử ! Ơn chúng-sinh…” cho đến đây, đức Phật nói rõ về chúng-sinh trong 3 đời đều là thân-thích với nhau, cần phải làm lợi-ích cho nhau.
13 Tám-nạn: Thấy Phật, nghe pháp có 8 chỗ chướng-nạn: 1/ Địa-ngục. 2/ Ngã-quỉ. 3/ Súc-sinh. 4/ Bắc Câu-lô-châu được hưởng quả-báo vui sướng thù-thắng, cho là không có khổ. 5/ Ở các cõi trời trường-thọ, an-ổn, cho là không có khổ. 6/ Điếc, mù, câm, ngọng. 7/ Trí đời biện-thông. 8/ Sinh trong khoảng giữa đức Phật trước, đức Phật sau.
14 Ngũ-cốc: 5 giống thóc: lúa nếp, kê, đậu, lúa mì, lúa sạ.
15 Đoạn trên từ chỗ “Ơn quốc-vương….” “đến chỗ như thế!” đức Phật nói rõ phúc-đức và ảnh-hưởng sự cai trị của vị Nguyên-thủ chân-chính trong một nước rất lớn lao, cùng ảnh-hưởng về hành-động của người dân đối với quốc-gia cũng rất hệ-trọng.
16 Đoạn trên, nêu chung chỗ tu nhân và công-đức Tam-bảo đối với chúng-sinh.
17 Ba-thân: Chư Phật có 3 thân: 1/ Tự-tính-thân: thể-tính chân-như pháp-giới thanh-tịnh, bình-đẳng trong hết thảy pháp. Còn gọi là “Pháp-thân” là chân-thân của Phật đầy-đủ vô-lượng pháp-công-đức. 2/ Thụ-dụng-thân hay là “báo-thân”: Do tu nhiều công-đức được quả-báo sắc-thân thanh-tịnh, trang-nghiêm và được hưởng pháp-lạc rộng lớn nhiệm-mầu. 3/ Biến-hóa-thân: Do Phật-trí biến hóa nhiều thân, tùy theo căn-cơ chúng-sinh mà hóa-độ.
18 Đại-đoạn-đức: Đoạn-trừ hoàn-toàn hết thảy phiền-não; đầy-đủ vô-thượng Niết-bàn.
19Nhị không : Hai thứ “không”, chia làm 5 loại:
A.- 1/ Nhân không (còn gọi là ngã-không, sinh-không): người và ta là không. 2/ Pháp-không: các pháp là không.
B.- 1/ Tính-không: pháp không có thực-tính. 2/ Tướng-không: pháp không có thực-tính chỉ có giả-tướng, tướng ấy chẳng phải thực.
C.- 1/ Đản-không: Tiểu-thừa chỉ cần thấy không. 2/ Bất đản không: Đại-thừa không những thấy không, mà cả cái thấy không cũng không.
D.- 1/ Nội không: Nội-thân là không. 2/ Ngoại-không: Khí-vật bên ngoài là không.
E.- 1/ Như-thực-không: thể chân-như, trong không có các vọng-nhiễm. 2/ Như-thực bất không: thể chân-như trong đủ hết thảy công-đức vô-lậu.
20 Toàn câu “Phật thân thứ nhất…” này nói: về tự-tính-thân, thể khắp pháp-giới, bình-đẳng thanh-tịnh, đoạn diệt hết thảy, nhân-không, pháp-không hiển-lộ, nên chư Phật chứng tự-tính-thân, là thể-nhập bình-đẳng.
21 Đại-trí-đức: Phá hoàn-toàn hết thảy sự mê-lầm không biết ; đầy-đủ vô-thượng-giác.
22 Toàn câu “Phật thân thứ hai…” này nói: Báo-thân do trí-tuệ thành, thành với lẽ chân-thực, thường hằng, không dò-rỉ, không biến-đổi. Không biến-đổi, là thường-hằng, chân-thực, tức là không còn sự suy-lường về ngã-tính, mà đồng một ý trong chung cùng và bình-đẳng tất cả; nghĩa là Phật, Phật đều đồng.
23 Đại-ân-đức: Đầy-đủ hoàn-toàn tâm đại-bi, cứu giúp hết thảy chúng-sinh.
24 Toàn câu “Phật thân thứ ba…” này nói: chư Phật đồng một tâm đại-bi, đồng một sự độ-sinh, nên tùy cơ nhập-định, hiện thần-thông và thị-hiện thân-hình.
25 Hí-luận : Bàn đùa. Là ngôn-luận phi-lý, vô-nghĩa, là giả-danh không thực.
26 Toàn câu “tự-tính-thân…” này đại-ý nói : pháp-thể của nó không còn sinh-diệt, tạo-tác, không còn danh-ngôn giả đặt, không còn cục-hạn, mà nó là như-như và cùng khắp.
27 Tự-thụ-dụng thân: Thân do tu phúc-đức, trí-tuệ thành, tự được hưởng-thụ sự vui của pháp-vị trong cõi thực-báo trang-nghiêm.
28 Tha-thụ-dụng-thân: Đem tính-đức do quả-báo mình được, hiện ra 10 thân, làm cho các Bồ-tát Thập-địa được hưởng-thụ sự vui của pháp-vị.
29 Thập-địa-mãn-tâm: Thập-địa là: 1/ Hoan-hỷ-địa 2/ Ly-khổ-địa. 3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/ Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa. 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là “địa”, vì thâu tóm các công-đức hữu-vi và vô-vi, dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương tựa chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi là “địa”. Thập-địa mãn-tâm tức là ngôi Đẳng-giác.
30 Sắc-cứu-cánh-thiên: Tiếng Phạm gọi là A-ca-ni-tra thiên (Akanistha). Tên một cõi trời cao nhất trong 18 cõi của Sắc-giới.
31 Câu này ví-dụ cho địa-vị tối-cao của Bồ-tát.
32 Hậu-báo: Đây là nói quả-báo tối-hậu của Bồ-tát.
33 Sở-tri-chướng, phiền-não-chướng: Đây là hai chướng: 1/ Phiền-não-chướng: Nghiệp buộc chúng-sinh trong sinh-tử, do đó, làm chướng-ngại lý Niết-bàn tịch-tĩnh. 2/ Sở-tri-chướng: tham, sân, si… làm mê-ám, không hiểu biết được sự-tướng và thực-tính của các pháp, tức là làm chướng-ngại diệu-trí bồ-đề.
34 Đoạn trên, từ chỗ “chân-báo-thân…” đến chỗ “pháp-giới” là nói: do diệt-trừ hết phiền-não, thành diệu-quả, là được chân-báo-thân (tự-thụ-dụng-thân). Được chân báo-thân thời kể từ đó là đầu, nên gọi là “hữu thủy” nhưng, “vô chung”, nghĩa là sự sống lâu không cùng-tận. Và, từ khi được chân-báo-thân, chính-báo trang-nghiêm cùng khắp.
35 Pháp-lạc : Lấy pháp-vị làm vui tâm-thần gọi là “pháp-lạc”. Làm thiện, tích-đức, để tự vui cũng là “pháp-lạc”.
36 Dị-thục (Vipaka): Xưa dịch là “quả-báo”, nay dịch là “dị-thục”. Dị-thục là tên chung của quả-báo do y vào thiện, ác quá-khứ mà được. Và, nó có tính-chất quả khác nhân mà thành-thục, như thiện-nghiệp cảm lạc-quả, ác-nghiệp cảm ác-quả v.v…Theo Duy-thức thuật-ký thời “Dị-thục hoặc khác thời mà chín (dị thời nhi thục), biến khác mà chín (biến dị nhi thục), khác loại mà chín (dị loại nhi thục). Di-thục-thức là tên riêng của thức thứ 8.
37 Chân-đế, tục-đế: “Chân-đế”: thực-nghĩa của chân-lý, là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhận thấy. Còn gọi là “không-đế” hay “thắng-nghĩa-đế”. “Tục-đế”: thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn gọi là “giả-đế” hay “thế-đế”.
38 Đoạn trên từ chỗ “Một là”… đến chỗ “công-đức” là nói: do chuyển thức thứ 8 mà thành Đại-viên-kính trí. Nơi đây bao gồm bi, trí, chân, tục-đế, duy-trì căn-thân vô-lậu và làm chỗ y-chỉ cho hết thảy công-đức.
39 Ngã-kiến-thức: “Ngã-kiến” là “chấp-ngã”: thân tâm này do 5 uẩn giả-hợp, lại coi là “thường hằng”, đối với cái “phi-ngã-chấp”, chấp càn là “ngã” (ta), nên gọi là “ngã-kiến”. Ngã-kiến-thức tức là thức Mạt-na thứ 7. Thức này phân-biệt, chấp thức thứ 8 làm “ngã”. Thức này luôn luôn tương-ứng với si, kiến, mạn, ái nên gọi là “ngã-kiến-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là trừ bỏ được chấp-ngã, thành “Bình-đẳng tính-trí”.
40 Phân-biệt-thức: Tức là Ý-thức thứ 6. Đối với 6 trần, các cảnh, thức này hay khởi ra sự phân biệt, gọi là “Phân-biệt-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là bỏ được sự phân biệt, thành “Diệu-quán-sát-trí”.
41 Tự-tướng, cộng-tướng: Các pháp có hai tướng: Tướng riêng là “tự-tướng”, tướng chung là “cộng-tướng”. Tướng cục-hạn nơi tự-thể là “tự-tướng”; tướng thông cả với người gọi là “cộng-tướng”.
42 Đoạn trên, từ chỗ “Hai là…” đến chỗ “Như-Lai” là nói về chuyển thức thứ 7, thức 6 cùng 5 thức trước thành trí-tuệ; do 4 trí này thành 84.000 trí. Và, kết-thành cho rằng tự-thụ-dụng-thân có hết thảy các công-đức.
43 Nhất-thừa: Giáo-pháp duy-nhất để thành Phật. “Thừa” là cỗ xe, lấy ví-dụ cho giáo-pháp của Phật. Giáo-pháp hay chở người, đi đến bờ Niết-bàn, nên gọi là “Thừa”.
44 Ba mươi hai tướng: 1/ Lòng bàn chân bằng. 2/ Lòng bàn chân có nghìn vòng xoáy. 3/ Ngón tay thon dài. 4/ Tay chân mềm-mại. 5/ Tay, chân có màng lưới giao-tiếp. 6/ Gót chân đầy-đặn. 7/ Mu chân cao đẹp. 8/ Vế tròn lăm như con hươu. 9/ Tay dài quá gối. 10/ Dương-vật ẩn-tàng như dương-vật con ngựa. 11/Mình cao lớn, từ chân đến đầu cao bao nhiêu, 2 tay duỗi ra cũng bằng ấy. 12/ Lỗ chân lông sinh sắc xanh. 13/ Lông trên mình chia xoáy hướng đều. 14/ Thân sắc vàng. 15/ Luôn luôn có hào-quang phóng xa một trượng. 16/ Da-dẻ mịn bóng. 17/Bảy nơi: 2 lòng bàn chân, 2 lòng bàn tay, 2 vai và đỉnh đầu đều đầy, bằng. 18/ Hai nách đầy-đặn. 19/ Thân uy-nghiêm như sư-tử. 20/ Thân hình đoan-chính. 21/ Vai tròn , đầy. 22/ Có 40 cái răng. 23/ Răng trắng, bằng và khít. 24/ Bốn răng nanh trắng sạch. 25/ Má đầy như má sư-tử. 26/ Nước tân-dịch trong cổ họng có thượng-vị. 27/ Lưỡi dài, rộng. 28/ Tiếng phạm-âm (thanh-tịnh) vang xa và sâu nhiệm. 29/ Con ngươi mắt xanh-biếc. 30/ Lông mi mắt cong dài, đẹp như lông mi mắt trâu. 31/ Khoảng giữa hai lông mày có tia hào-quang trắng. 32/ Đầu có nhục-kế (thịt nổi lên như búi tóc).
45 Tám mươi thứ tốt: 80 thứ (giống) tốt này y theo 32 tướng mà phân-biệt tỷ-mỷ ra: 1/ Vô-kiến-đỉnh (tướng nhục-kế cao không trông thấy được). 2/ Mũi cao không thấy lỗ. 3/ Lông mày như mặt trăng đầu tháng mới mọc. 4/ Vành tai rủ xuống. 5/ Mình dắn chắc như lực-sĩ. 6/ Chỗ đầu xương giao nhau như vòng câu. 7/ Khi quay lại, nhất thời thân quay lại như voi quay lại. 8/ Khi đi, chân cách đất 4 tấc, mà đất vẫn có vằn in xuống. 9/ Móng tay, chân mỏng, bóng và đỏ như đồng đỏ. 10/ Xương đầu gối dắn, tròn và đẹp. 11/ Thân thanh-khiết. 12/ Thân mềm-mại. 13/ Thân không nghiêng-vẹo. 14/ Ngón tay tròn, thon, nhỏ. 15/ Vằn ngón tay lặn khuất. 16/ Mạch sâu không nổi. 17/ Mắt cá chân không nổi. 18/ Thân bóng đẹp. 19/ Thân tự giữ được không xiên-xẹo. 20/ Thân đầy-đủ. 21/ Dung-nghi bị-túc. 22/ Dung-nghi đầy-đủ. 23/ Trụ-xứ yên không động. 24/ Uy-đức chấn-động hết thảy. 25/ Hết thảy chúng-sinh thấy đều vui. 26/ Mặt không dài, lớn. 27/ Dung-mạo nghiêm-chỉnh, sắc không biến-đổi. 28/ Mặt tròn đầy. 29/ Môi sắc đỏ như quả Tần-bà. 30/ Tiếng nói vang xa, sâu-nhiệm. 31/ Rốn sâu, tròn, đẹp. 32/ Lông xoáy về bên hữu. 33/ Tay, chân đầy-đặn. 34/ Tay, chân như ý. 35/ Vằn tay thẳng, rõ. 36/ Vằn tay dài. 37/ Vằn tay không đứt. 38/ Hết thảy chúng-sinh có ác-tâm trông thấy đều vui-mừng. 39/ Mặt rộng đẹp lạ. 40/ Mặt đầy-đặn, trong-trẻo như mặt trăng. 41/ Theo ý hòa-duyệt của chúng-sinh mà nói. 42/ Từ nơi lỗ chân lông tỏa ra hơi hương. 43/ Từ miệng tỏa ra mùi hương vô-thượng. 44/ Nghi-dung như sư-tử. 45/ Đi, ở như voi đầu đàn. 46/ Tướng đi như con ngan đầu đàn. 47/ Đầu như quả Ma-đà-na. 48/ Đầy-đủ hết thảy tiếng. 49/ Bốn răng nanh trắng nhọn. 50/ Lưỡi màu đỏ. 51/ Lưỡi mỏng. 52/ Lông màu đỏ. 53/ Lông mềm sạch. 54/ Mắt dài rộng. 55/ Đủ tướng tử-môn. 56/ Tay, chân trắng hồng như màu hoa sen. 57/ Rốn không lồi ra. 58/ Bụng không phình. 59/ Bụng nhỏ. 60/ Thân không rung-động, nghiêng-ngả. 61/ Thân trì-trọng. 62/ Thân to lớn. 63/ Thân cao. 64/ Tay chân mềm, sạch, trơn bóng. 65/ Hào-quang bốn bên phóng ra xa một trượng. 66/ Ánh sáng soi cho thân đi. 67/ Coi chúng-sinh bình-đẳng. 68/ Không khinh chúng-sinh. 69/ Theo giọng tiếng chúng-sinh, không thêm, không bớt. 70/ Thuyết-pháp không chấp trước. 71/ Thuyết-pháp theo tiếng nói của chúng-sinh. 72/ Cất giọng nói hợp tiếng chúng-sinh. 73/ Theo nhân-duyên thuyết-pháp lần-lượt. 74/ Hết thảy chúng-sinh xem dung-tướng mãi không hết. 75/ Xem không thấy chán và đủ. 76/ Tóc dài đẹp. 77/ Tóc không rối. 78/ Tóc cuộn đẹp. 79/ Màu tóc như ngọc xanh. 80/ Tay, chân coi dáng có đức.
46 Hàng-Tư-lương: Tức Tư-lương-vị là: Thập- trụ. Thập-hành và nửa phần trong Thập Hồi-hướng.
47 Tứ-thiện-căn: 4 thiện-căn (tức Gia hành-vị), là 4 môn thiền-định và là mãn-vị của Thập hồi-hướng: 1/ Noãn: hơi nóng, ví cho lửa trí-tuệ sắp phát-khởi. 2/ Đỉnh:ví như đỉnh núi có thể lên xuống. 3/ Nhẫn: nhẫn-tiến. 4/ Thế-đệ-nhất: pháp tối-thắng hơn đời.
48 Saú Ba-la-mật: 1/ Đàn-na (bố-thí) Ba-la-mật-đa (Dànapàramità). 2/ Thi-la (trì-giới) Ba-la-mật-đa (Silapàramità). 3/ Sàn-đề (nhẫn-nhục) Ba-la-mật-đa (Ksantipàramità). 4/ Tì-lê-gia (tinh-tiến) Ba-la-mật-đa (Viryapàramità). 5/ Thiền-na (thiền-định) Ba-la-mật-đa (Dhyànapàramità). 6/ Bát-nhã (tuệ) Ba-la-mật-đa (Prajnàpà-ramità).
49 Mười hai nhân duyên: 1/ Vô-minh. 2/ Hành. 3/ Thức. 4/ Danh-sắc. 5/ Lục-nhập. 6/ Xúc. 7/ Thụ. 8/ Ái. 9/ Thủ. 10/ Hữu. 11/ Sinh. 12/ Lão tử.
50 Tứ-đế: Khổ, tập, diệt, đạo.
51 Đây là mười hiệu của Phật :
1/ Như-Lai: (Đa đà a già đà: Tathàgata): Noi theo đạo như thực, thành ngôi chính-giác,
2/ Ứng-cúng (A-la-ha: Arhat): Ứng-thụ sự cúng-dàng của Nhân, Thiên.
3/ Chính-biến-tri (Tam miệu tam Phật-đà: Samya Ksambuddha): Chính thực biết khắp hết thảy mọi pháp.
4/ Minh-hành-túc (Bệ đa thứ la na tam bát na: Vidyàcaranampanna): Thực-hành đầy-đủ ba phép minh: a.- Túc-mệnh-minh: Biết tướng sinh-tử đời trước của thân mình và thân người. b.- Thiên-nhãn-minh: Biết tướng sinh-tử đời vị-lai của thân mình và thân người. c.- Lậu-tận-minh: Trí-tuệ biết khổ-tướng hiện-tại, dứt hết thảy phiền-não.
5/ Thiện-thệ (Tu-già-đà: Sugata): Nghĩa là “đi tốt”. Ý nói: dùng Nhất-thiết-trí làm xe, đi trên đường bát chính, rảo tới Niết-bàn.
6/ Thế-gian-giải (Lộ-già-bị: Lokavid): Hiểu rõ những sự thuộc hữu-tình và phi-tình ở thế-gian.
7/ Vô-thượng-sĩ (A-nốc-đa-la: Anuttara): Trong các pháp, Niết-bàn là hơn cả và, trong hết thảy chúng-sinh, Phật là vô-thượng.
8/ Điều-ngự trượng-phu: (Phú lâu sa nẵng miệu bà la đề: Puru-sa-dnmya-sàrathi): Phật tùy thời dùng lời hòa-dịu, tùy thời dùng lời khổ thiết…trông nom, điều-trị chúng-sinh, làm cho họ không trái đạo, mà đi vào thiện-đạo.
9/ Thiên-nhân-sư: (Xá đa đề bà ma nâu sa nẫm: Sastà-deavama-nusyànàm): Phật là bậc Đạo-sư cõi Nhân, cõi Thiên, thường hay dạy bảo những sự nên làm.
10/ Phật, Thế-tôn (Phật-đà, Lô-ca-na-tha: Buddha-Locanatha): Phật nghĩa là người giác-ngộ, Thế-Tôn có nghĩa là được thế-gian tôn-trọng. Thế-Tôn còn có chỗ gọi là Bạc-già-phạm (Bhagavàn).
52 Đoạn trên , từ chỗ “Thiện-nam-tử!” (trang 38) đến chỗ “chứng Bồ-đề” là nói về Tha-thụ-dụng-thân của Phật-bảo. Phật-bảo biến-hóa nhiều thân độ cho các Bồ-tát Thập-địa, Nhị-thừa, Nhân, Thiên chóng được cứu-cánh Niết-bàn. Vì vậy, Phật-bảo có 10 hiệu, 6 công-đức vi-diệu. Và, sở-dĩ chúng-sinh không được thấy Phật-bảo, vì chúng-sinh tạo nhiều ác-nghiệp.
53 Thanh, danh, cú, văn: Là tiếng nói của Phật nói ra những giáo-pháp cao-siêu (vô-lậu) nhưng, phải dùng đến tên gọi, đặt thành từng câu và văn-tự để làm cửa hiển-lộ.
54 Bốn loại ma: 1/ Phiền-não ma (tham, sân, si ). 2/ Ngũ-ấm-ma (sắc, thụ, tưởng, hành, thức ). 3/ Tử-ma (sự chết). Tha-hóa-tự-tại-thiên-ma.
55 Bảo-sở: Nơi có những ngọc báu. Đây ám-chỉ cho Nhất-thừa, Bồ-đề, Niết-bàn.
56 Đoạn trên, từ chỗ “Các thiện-nam-tử!….” (trang 41) cho đến chỗ “không thể nghĩ, bàn được” là nói về Pháp-bảo. Pháp-bảo có: giáo, lý, hành, quả. Pháp-bảo là thầy chư Phật, là tất cả những cái đem lại lợi-ích an-vui cho chúng-sinh và tới chỗ giải-thoát.
57 Biệt-giải-thoát-giới: Là một trong ba thứ luật-nghi. Trong Dục-giới, y vào sự tác-pháp thụ các giới-pháp, giới-pháp ấy phát-sinh giới-thể, làm cho thân, khẩu ác-nghiệp được giải-thoát riêng-biệt.
58 Xá-lỵ (Sarira): Có chỗ gọi là “Thất-lỵ-la” hay “Thiết-lỵ-la”. Có nghĩa là thân cốt của Phật. Xá-lỵ do vô-lượng công-đức lục-độ họp thành, là do sự huân-tu của Giới, Định, Tuệ mà thành. Xá-lỵ có 3 hình sắc: sắc trắng là xá-lỵ bằng xương; sắc đen là xá-lỵ bằng tóc; sắc đỏ là xá-lỵ bằng thịt. Và, có 2 loại xá-lỵ: 1/ Toàn thân xá-lỵ: Như xá-lỵ Phật Đa-bảo (trong kinh Pháp-hoa). 2/ Toái-thân-xá-lỵ: Thân đốt vụn ra như thân đức Phật Thích-Ca. Lại có hai thứ nữa: 1/ Sinh-thân-xá-lỵ: Thân do tu Giới, Định, Tuệ mà thành, Như-Lai sau khi nhập-diệt lưu lại thân cốt, làm cho Nhân, Thiên được phúc-đức cúng-dàng mãi-mãi. 2/ Pháp thân-xá-lỵ: Tức là hết thảy kinh sách Đại, Tiểu-thừa.
59 Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử! Thế-gian…” (trang 42) đến chỗ “không thể nghĩ-bàn được”, đức Phật nói rõ về giới-đức của 3 hạng Chân-phúc-điền-tăng và một hạng Phúc-điền-tăng. Ai cúng-dàng 4 hạng Tăng ấy đều được phúc-đức vô-lượng.
60 Bể bất-tư-nghị: “Bất-tư-nghị”: hoặc là lý sâu-sa, huyền-diệu, hoặc là sự hiếm có lạ-lùng, không thể dùng tâm suy-nghĩ và không thể dùng lời bàn-bạc được. Đây nói Tam-bảo có nhiều sự, lý bất tư-nghị ấy nên gọi là “bể bất-tư-nghị”.
61 Bình Thiên đức: Cái bình hiện ra tất cả những thứ theo như tâm mong muốn, như ngọc Như-ý vậy. Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm bồ-đề là bình Thiên-đức, cho đầy-đủ hết thảy sự mong muốn.”
62 Tám thứ gió: Còn gọi là 8 pháp. Có 8 pháp là chỗ yêu, ghét của thế-gian, nó hay thổi động tâm người, nên gọi là “tám thứ gió”: 1.- Lợi. 2.- Suy (kém, sút). 3.- Hủy (nói xấu). 4.- Dự (khen-ngợi). 5.- Xưng (tâng bốc). 6.- Cơ (quở-trách). 7.- Khổ. 8.- Lạc (vui).
63 Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ….” ( trang 43) đến chỗ “như thế”, đức Phật nói: Phật, Pháp, Tăng có 10 nghĩa cao-quý, nên được gọi là “Bảo”. Vậy nên cần báo ân.
64 Ba bậc: Tức là danh-tự, thân-cận và chân-thực.
65 Nhẫn-nhục tam-muội: “Tam-muội” là chính-định; “Nhẫn” là nhẫn-khả (an-trụ), tức là y vào pháp-nghĩa của Như-Lai nói ra, nhẫn-khả nơi tâm được an-lạc. “Nhẫn-nhục tam-muội” là do sức định an-trụ nơi đạo-lý, tâm không rung-động mà được yên-vui.
Theo các kinh nói thì : Đẳng-giác Bồ-tát được Kim-cương-nhẫn (an-trụ kiên-cố như kim-cương). Bát-địa Bồ-tát được Vô-sinh-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh, diệt bất động). Địa-tiền Bồ-tát được Nhu-thuận-nhẫn (tâm nhu, trí thuận, không trái với thực-tướng). Sơ-địa Bồ-tát được Bất-khởi-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh, không khởi).
66 Bất thoái: Tiếng Phạm là A-tỳ-bát-chí (Aviniv-artan hay Avaivartika), có nghĩa là công-đức, thiện-căn càng tăng-tiến mà không lui mất, lui chuyển vậy. Bất-thoái có 3 bậc: Vị-bất-thoái, hành-bất-thoái, niệm-bất-thoái.
67 Hội Long-hoa: Đức Di-Lặc sau đây thành Phật ở dưới cây Long-hoa trong vườn Hoa-Lâm, Ngài mở 3 pháp-hội độ hết chúng-sinh thượng, trung, hạ căn. Cây này cành hoa như đầu rồng nên gọi là “Long-Hoa”.
68 Chính-định-tụ: Có nghĩa là tu tập chính-định, quyết định chứng-ngộ.
69 Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-gỉa…” đến chỗ “Như-Lai”. Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả muốn báo tứ-ân cần tu 3 bậc của 10 Ba-la-mật. Đại chúng nghe pháp chứng-ngộ. Và , ngài khuyên: Ai thụ-trì, tuyên-bá phẩm báo-ân này thời đời này, đời sau được nhiều lợi-ích.
Đến đây hết quyển thứ hai.
70 Do-tuần:(Yojma): Theo Thánh-giáo chép thời mỗi Do-tuần là 16 dậm, mỗi dậm 576 thước tây. Như thế mỗi Do-tuần chừng 9216 thước tây.
71 Tập-khí: Hơi-hướng cuả sự huân-tập (vọng-hoặc), trong Đại-thừa chia ra làm 3 phần: Hiện-hành, chủng-tử và tập-khí. Dẹp hiện-hành, dứt chủng-tử nhưng còn phần hơi-hướng của vọng-hoặc mà hiện ra tướng-trạng của vọng-hoặc, phần ấy là “tập-khí”.
72 140 đức bất cộng: Là: 32 tướng, 80 thứ tốt, 4 tịnh, 10 lực, 4 vô-úy, 3 niệm-xứ, 3 bất-hộ, cùng đại-bi, thường bất-vong-thất (thường không quên mất chính-niệm), đoạn phiền-não-tập và nhất-thiết-trí. Đây là những đức-trí theo nơi Phật được đầy-đủ hoàn toàn mà các bậc khác không có đủ nên gọi là “bất cộng”.
73 Bát tự-tại: Tám nghĩa tự-tại… Còn gọi là “Bát đại tự-tại-ngã”: Niết-bàn có bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Đức “ngã” lấy tự-nhiên tự-tại làm nghĩa; tự-tại có 8 nghĩa nên gọi là “bát đại tự-tại-ngã”: 1.- Thị-hiện một thân làm nhiều thân. 2.- Thị-hiện thân như một hạt bụi, đầy khắp cõi Đại-thiên. 3.- Thân lớn nhưng cử-động nhẹ một cái cũng đến được nơi xa. 4.- Hiện thành nhiều loại mà thường thường ở trong một cõi. 5.- Các căn đều có tác dụng hỗ-tương. 6.- Được hết thảy các pháp nhưng tưởng như không có pháp nào. 7.- Nói nghĩa một bài kệ trải vô-lượng kiếp. 8.- Thân biến khắp mọi nơi cũng như hư-không.
Đoạn trên, từ chỗ “tối-thắng…” tới chữ “cung” là những câu kệ tán-thán về thực-đức tự-chứng của Phật.
74 Năng nan: Có nghĩa là hay làm những việc khó làm.
75 Đại-hải-triều: Nước bể lớn lên, xuống đúng thời.
76 Thiên-cổ: Trống cõi trời.
77 Kiếp-hải: Kiếp số nhiều ví như nước bể.
78 Đại-tịch-thất: Nhà rất yên-lặng. Là chỉ cho nơi nhập-định. “Đại-tịch” có nghĩa là xa-lìa hết thảy sự tán-động, được tịch-tĩnh rốt-ráo.
79 Tam không: 3 lý không, tức là 3 môn giải-thoát: Không, vô-tướng, vô-nguyện (Xem chú-giải của Phẩm-tựa, phần chú-giải số 53).
80 Đoạn trên, từ chỗ “Nhân, Thiên…” đến chỗ “phần nhỏ”, nói về quyền-đức hóa-tha của Phật.
81 Năm ác-trọc: Tức là ngũ-trọc ác-thế “Thế-gian có 5 thứ vẩn-đục, tệ-ác”: 1.- Kiếp-trọc: Thời-gian có 4 thứ ác-trọc sau. 2.- Kiến-trọc: Những tư-tưởng chấp trước, tà-vạy (như 5 lợi-sử). 3.- Phiền-não-trọc: Nhiều tham, sân, si, v.v… 4.- Chúng-sinh-trọc: Chúng-sinh nhiều khổ, ít vui. 5.- Mệnh-trọc: Thọ-mệnh ngắn-ngủi (chết non).
82 Đoạn trên, từ chỗ “thế-gian” đến chỗ “Bồ-đề-đạo” là nêu chung về bốn ân cần trả.
83 Lục thân: Sáu bậc thân-tình: Cha, mẹ, vợ, con, anh, em.
84 Đoạn trên, từ chỗ “từ phụ” tới chỗ “tu-học” đức Phật nhắc lại ân-đức phụ-mẫu cần phải trả.
85 Sáu thời: Sáng, trưa, chiều, chập tối, nửa đêm, gần sáng.
86 Túc-trụ-trí: Tức là Túc-mệnh-thông.
87 Bốn loại sinh: Loại sinh trứng, loại sinh con, loại sinh nơi ẩm-thấp và loại hóa-sinh.
88 Đoạn trên, từ chỗ “Chúng-sinh” đến chỗ “vô-thượng-đạo”, đức Phật nhắc lại ơn chúng-sinh cần phải trả.
89 Đoạn trên, từ chỗ “Mười phương” đến chỗ “vinh-lộc” là nhắc ân-đức của Quốc-vương đối với quốc-dân.
90 Ba tịnh-giới: 1.- Nhiếp luật-nghi-giới: giữ giới-luật. 2.- Nhiếp thiện-pháp-giới: tu hết thảy pháp lành. 3.- Nhiếp chúng-sinh giới hay Nhiêu-ích hữu-tình-giới: làm lợi-ích chúng-sinh.
91 Đoạn trên, từ chỗ “Trưởng-giả” tới chỗ “thân vua”, nói về nhân-quả của Quốc-vương.
92 Đoạn trên, từ chỗ “Nếu người” đến chỗ “làm vua” là biện-biệt về giới-phẩm.
93 Phủ-dục: Vỗ-về, nuôi-nấng.
94 Tam-tụ-giới: Tức là “Ba tịnh-giới” đã chú-thích trong phẩm này số 90.
Đoạn trên, từ chỗ “Bởi vì” đến chỗ “tam-tụ-giới” là nêu rõ nhân, chỉ rõ quả.
95 Sám: Tức là “Sám-hối”. Sám tiếng Phạm gọi đủ là “sám-ma” (Ksamayati). Tàu dịch là “Hối-quá”, có nghĩa là tự mình bày-tỏ những lỗi-lầm trước, ăn-năn từ nay sửa-đổi và không dám phạm nữa. Sám-hối là hai chữ ghép chung của tiếng Phạm (Ấn-độ) và tiếng Hán mà thành.
96 Mười duyên: Tức là mười nghiệp thiện hay ác do thân, khẩu, ý tạo ra.
97 Hiện-hành, chủng-tử: A-lại-gia thức có công-năng sinh hết thảy pháp gọi là “chủng-tử (hạt giống). Từ đây sinh ra các pháp của sắc, tâm gọi là “hiện-hành”: những hành-động hiển-hiện.
98 Tạng-thức: Tức là thức A-lại-gia thứ 8. “Tạng” có 3 nghĩa: năng-tạng, sở-tạng và ngã-ái-chấp-tạng. Tạng-thức gìn-giữ và liên-lạc với hết thảy hạt giống.
99 Tứ-thiền: 4 cõi thiền-định là Sơ, Nhị, Tam, Tứ-thiền. Tứ-thiền bao gồm 18 cõi trời thuộc Sắc-giới.
100 Đại-viên-kính Phật: Tức Đại-viên-kính-trí của Phật.
101 Đây nói về sự, lý sám-hối. Sự sám có hai: 1.- Tác-pháp-sám: Y-pháp, hướng Phật-tiền sám-hối. 2.- Thủ-tướng-sám: Định-tâm vận-tưởng sám-hối, thấy Phật xoa đầu hoặc thấy hào-quang. Lý-sám thuộc về “vô-sinh-sám”: Chính tâm, quán lý vô-sinh (không sinh diệt).
102 Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
103 Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
104 Hòa-thượng: Chính tiếng Phạm gọi là Ô-xã hay Hòa-xã, Hòa-xà (Khosha), Ngài La-Thập phiên nghĩa là “Lực-sinh”, có nghĩa là người đệ-tử y vào đấy mà đạo-lực được sinh-trưởng. Hòa-thượng là một chức-vị thứ nhất trong đàn truyền giới cho các đệ-tử.
105 A-xà-lê: (Àcàtya): Tàu dịch là “Quỹ phạm chính-hạnh” có nghĩa là bậc thầy uốn-nắn ngay thẳng những hành-vi của đệ-tử, là bậc sư-phạm làm khuôn-mẫu cho người. A-xà-lê là 1 chức-vị thứ hai trong giới đàn.
106 Giáo-thụ-sư: Thầy dạy bảo và trao-truyền giới-pháp cho các đệ-tử. Giáo-thụ-sư là chức-vị thứ 3 trong giới-đàn.
107 Lưỡng-túc-tôn: Các Thế-Tôn (Phật) đầy-đủ hai bề: phúc-đức và trí-tuệ.
108 Chứng-giới-sư: Các vị tôn-đức ngồi chứng-minh đàn truyền giới. Chứng-giới-sư có chỗ gọi là “Tôn-chứng-sư” là chức-vị thứ tư trong giới-đàn.
109 Ba chướng: Ba thứ làm chướng-ngại chính-đạo, tổn-hại thiện-tâm: 1.- Phiền-não-chướng: tham, sân, si, v.v… 2.- Nghiệp-chướng: tạo nghiệp ngũ-nghịch, thập-ác v.v… 3.- Báo-chướng: chịu khổ-báo trong ba đường dữ.
110 Tam (3) thân: Pháp-thân, báo-thân và hóa thân.
111 Đoạn trên, từ chỗ “Nếu muốn như pháp” đến chỗ “xuất-thế”, do trước Phật đã nói về nhân-quả của Quốc-vương, nên đây Ngài khuyên nên sám tội, dạy pháp sám-hối được ích, bảo cho nghi-thức thụ-giới, nói rõ về giới-đức và Ngài khuyên nên thụ-trì giới.
112 Phật-nhật: Trí-tuệ của Phật soi thấu sự tăm-tối của thế-gian chúng-sinh cũng ví như mặt trời.
113 Như-lai-tạng: Có nghĩa là kho-tàng của tự-tính, vì hết thảy các pháp không ra ngoài tự-tính Như-Lai. Chân-như ở trong phiền-não là “Như-lai-tạng”; chân-như ra ngoài là “Pháp-thân”. Y vào phẩm Như-lai-tạng Phật tính luận thời Tạng có 3 nghĩa: 1.- Sở-nhiếp-nghĩa: Chân-như trong chúng-sinh hàm-tàng: hòa-hợp, bất hòa-hợp, nhiễm-pháp, tịnh-pháp tất cả đều nhiếp-thuộc tính Như-Lai nên gọi là Như-Lai-tạng. 2.- Ẩn-phú-nghĩa: Chân-như khi ở trong phiền-não, bị phiền-não che-lấp, tính-đức Như-Lai không hiển-hiện được, nên gọi là “Như-Lai-tạng”. 3.- Năng-nhiếp-nghĩa: Chân-như trong phiền-não hàm-nhiếp hết thảy công-đức quả-địa của Như-Lai, nên gọi là “Như-lai-tạng”.
114 Ba thứ rèn, mài: (luyện-ma): 1/ Dẫn người đã chứng Đại-bồ-đề rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về đạo Bồ-đề rộng lớn. 2/ Xét kỹ ý muốn nơi mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về muôn hạnh khó tu. 3/ Chỉ dẫn chỗ thô-thiện của người đem so-sánh với diệu-nhân của mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về sự khó chứng được 2 diệu-quả chuyển-y (Bồ-đề, Niết-bàn).
115 Đoạn trên, từ chỗ “Tam-bảo thường-trụ” đến chỗ “Phật-đạo” là nói về tướng chung của Tam-bảo.
116 Tâm-hành-xứ diệt: Nói đủ là “tâm-hành-xứ diệt, ngôn-ngữ-đạo đoạn”. Là chân-lý cứu-cánh. Đường ngôn-ngữ dứt (ngôn-ngữ-đạo đoạn). Không thể ngôn-thuyết được; chỗ tâm-niệm diệt (tâm-hành-xứ-diệt), không thể nhớ nghĩ được. Đó là cảnh-giới bất-khả tư-nghị.
117 Đoạn trên, từ chỗ “Các thiện-nam-tử” đến chỗ “bảo” là nhắc lại 3 thân của Phật-bảo.
118 Đoạn trên, từ chỗ “Ứng-hóa hai thân” đến chỗ “khó trả” là tán-dương công-đức của Pháp-bảo.
119 Nước tám công-đức: 1/ Trừng-tịnh: lặng, sạch. 2/ Thanh-lãnh: trong mát. 3/ Cam-mỹ: ngon-ngọt. 4/ Khinh-nhuyến: dịu-dàng 5/ Nhuận-trạch: Thấm-nhuần. 6/ An-hòa. 7/ Khi uống khỏi đói-khát và khỏi vô-lượng tội-lỗi, tai-hoạn. 8/ Uống rồi quyết-định nuôi lớn các căn và thân tứ-đại thêm ích-lợi.
120 Mạt-pháp: Một trong 3 thời truyền pháp của Phật, sau khi Phật nhập-diệt: 1/ Phật nhập-diệt nhưng chính-pháp của Ngài không thay-đổi, có giáo-lý, có thực-hành, có người chứng chính-quả, là “chính-pháp-thời”. 2/ Chính-pháp dần sai, pháp-nghi, pháp-hành chân-chính không thực-hành, chỉ còn tương-tự, theo mà không chứng quả được là “Tượng-pháp-thời”. 3/ Chính-pháp bị suy-vi, chuyển-biến; có giáo-lý nhưng không thực-hành không chứng quả, là “Mạt-pháp-thời”.
121 Uất-kim-hoa: Tên một thứ cây chính tiếng Phạm gọi là Cung-củ-ma (Kunkumam). Cây này hoa vàng mà thơm, khả-dĩ dùng làm huân-hương.
122 Đoạn trên, từ chỗ “Trưởng-giả Trí-Quang” đến chỗ “ân-đức lớn” là nói về ân-đức Thánh, phàm Tăng
123 Bốn đại: Đất (chất dắn), nước (chất lỏng), gió (chất hơi), lửa (chất nóng).
124 Tám câu trên là tổng-kết về 4 ơn.
125 Tam-luân thể-không: Cũng như Tam-luân-không.
126 Trần-cấu: Tiếng gọi chung cho phiền-não.
127 Pháp-nhãn-tịnh: Nghĩa là thấy chân-lý bằng cách rõ-ràng.
Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy” đến chỗ “pháp-nhãn-tịnh”, đức Phật nói về cách báo-ân và sự chứng-ngộ của đại-chúng nghe pháp.
Đến đây hết quyển ba.
III.- PHẨM YẾM-XẢ[1]
Bấy giờ, Trưởng-giả Trí-Quang nhờ uy-thần của Phật liền từ tòa đứng dậy đỉnh-lễ xuống chân Phật, cung-kính chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tôi nay theo Phật, nghe được diệu-pháp báo ân rất sâu ấy, trong lòng hớn-hở, cho rằng được sự chưa từng có bao giờ, như người đang đói khát gặp được món ăn Cam-lộ. Tôi nay mong muốn đền trả bốn ân, theo Phật, Pháp, Tăng xuất-gia tu đạo, thường siêng tinh-tiến mong chứng Bồ-đề!”.
“Phật đại-từ-bi, trong một thời tại thành Tỳ-xá-ly (Vaisàli) vì ông Vô-cấu-xưng (Duy-ma-cật) nói pháp rất sâu rằng: “Ông Vô-cấu-xưng! Lấy tâm thanh-tịnh làm gốc thiện-nghiệp, lấy tâm bất-thiện làm gốc ác-nghiệp. Tâm thanh-tịnh thế-giới thanh-tịnh, tâm tạp-uế, thế-giới tạp-uế. Trong Phật-pháp của Tôi lấy tâm làm chủ. Hết thảy mọi pháp đều do tâm. Nay ông là người tại-gia có phúc-đức lớn, mọi thứ châu báu chuỗi ngọc không gì không đầy đủ; họ hàng trai, gái an-ổn khoái-lạc, lại thành-tựu chính-kiến, không báng Tam-bảo, biết đem tâm hiếu-dưỡng cung-kính tôn-thân, khởi tâm đại-từ-bi cấp cho kẻ cô-độc và cho đến sâu-kiến ông cũng không làm hại. Ông lấy nhẫn-nhục làm áo mặc, từ-bi làm nhà ở, tôn-kính bậc có đức, tâm không kiêu-mạn. Ông thương xót hết thảy cũng như con đỏ. Ông không tham tài-lợi, thường tu thiện-xả, cúng-dàng Tam-bảo tâm không biết chán, đủ vì pháp bỏ mình, ông không sẻn-tiếc. Người bạch-y (tại-gia) như thế tuy không xuất-gia nhưng, đã đầy-đủ vô-lượng, vô-biên công-đức. Đời sau ông đầy-đủ muôn hạnh, vượt trên ba cõi chứng Đại-bồ-đề. Tâm sở-tu của ông tức là Chân-sa-môn, cũng là Bà-la-môn, là Chân-Tỷ-khưu, là chân xuất-gia. Người như thế, là “tại-gia xuất-gia”.
Hoặc có một thời, Thế-Tôn ở nơi Ca-lan-đà trúc-lâm (Kàranda-venùvana) tinh-xá, vì lục-quần Tỷ-khưu ác-tính[2] nói pháp giáo-giới mà bảo họ rằng:
“Các ông Tỷ-khưu! Các ông nghe cho kỹ! nghe cho kỹ! vào bể Phật-pháp “tín” là căn-bản, qua sông sinh-tử “giới” là thuyền-bè. Nếu người xuất-gia không giữ giới cấm, tham-trước khoái-lạc ở đời, hủy giới quý báu của Phật, hoặc mất chính-kiến vào rừng tà-kiến, dẫn vô-lượng người rơi xuống hố sâu lớn. Tỷ-khưu như thế không gọi là xuất-gia, chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Bà-la-môn, hình tựa Sa-môn, tâm thường tại-gia, Sa-môn như thế không có hạnh viễn-ly (xa-lìa). Hạnh viễn-ly có hai thứ: Một là, thân viễn-ly. Hai là, tâm viễn-ly. Thân viễn-ly, như người xuất-gia thân ở nơi không-nhàn (thanh vắng) không nhiễm dục-cảnh là “thân viễn-ly”. Thân tuy xa lìa thế-tục nhưng, tâm tham dục-cảnh, người như thế không gọi là viễn-ly được. Như tịnh-tín-nam và tịnh-tín-nữ, thân ở nơi làng xóm, phát tâm vô-thượng lấy tâm đại-từ-bi đem lại lợi-ích cho hết thảy, tu hành như thế là “chân-viễn-ly’. Lúc đó, lục-quần Tỷ-khưu ác-tính nghe pháp-âm ấy được “Nhu-thuận-nhẫn”.
Nay chúng tôi tuy tin lời Phật nói nhưng, đều còn có tâm hoài-nghi, ý chưa quyết-định. Lành thay Thế-Tôn! Ngài hay cắt đứt hết thảy sự ngờ-vực của thế-gian! Ngài là bậc ở nơi hết thảy pháp được tự-tại! Ngài là bậc có lời nói chân-thực, lời nói duy nhất không hai! Ngài là bậc biết đạo, là bậc mở đạo! Vậy, kính xin Như-Lai vì bọn chúng tôi cùng hết thảy chúng-sinh đời mai sau Ngài bỏ phương-tiện mà nói pháp chân-thực, làm cho chúng tôi bỏ hẳn được sự ngờ-vực, hối-hận, mà vào được Phật-đạo.
Nay trong hội này có hai hàng Bồ-tát: Một là, Bồ-tát xuất-gia. Hai là, Bồ-tát tại-gia. Hai hàng Bồ-tát ấy đều khéo đem lại sự lợi-lạc cho hết thảy chúng-sinh, không dừng nghỉ. Như tôi suy nghĩ: Bồ-tát xuất-gia không bằng người tại-gia tu hành Bồ-tát. Sở-dĩ thế là sao? Xưa có Kim-luân thánh-vương phát tâm vô-thượng chính-đẳng, chính-giác, chán ngán sự vô-thường, khổ, không của thế-gian, bỏ ngôi Luân-vương như nhổ bỏ nước mũi, nước bọt, thanh-tịnh xuất-gia vào trong đạo Phật. Khi ấy, tám vạn bốn nghìn phu-nhân, thể-nữ nơi hậu-cung thấy nhà vua xuất-gia đều mang lòng luyến-mộ, tâm sinh rạo-rực bức-não quá, khởi ra sự đau khổ trong tình ái-biệt-ly, như là bị khổ nơi địa-ngục. Kim-luân Thánh-vương từ khi bắt đầu nhận ngôi vua cảm mến được các bảo-nữ cùng nghìn vương-tử và đại-thần quyến-thuộc. Nay nhà vua bỏ ngôi đi xuất-gia họ cùng đau lòng giữa tình ly-biệt, tiếng gào khóc của họ vang dậy bốn thiên-hạ. Những người quyến-thuộc ấy đều nói lên rằng: “Vua chúng tôi phúc-trí vô-lượng vô-biên, như thế nào mà nỡ bỏ chúng tôi đi xuất-gia! Thương thay! Khổ thay! Thế-giới rỗng không! Từ nay trở đi chúng tôi không còn nơi nương-cậy!”
Nếu có tịnh-tín thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào quy Phật, Pháp, Tăng phát tâm Bồ-đề, lìa bỏ cha mẹ xuất-gia nhập đạo, cha mẹ thương-xót, ân-niệm tình thâm, sự bi-ai trong ly-biệt, cảm-động cả trời đất. Như cá vượt lên chỗ dấu xe khô, lăn-lóc trên mặt đất, thời khổ ái-biệt-ly cũng như thế và như tâm họ-hàng của Kim-luân-vương kia không khác. Bồ tát xuất-gia đem lại lợi-ích cho chúng-sinh, sao lại làm nhiễu-hại cha mẹ, vợ con, khiến nhiều người chịu khổ-não quá như vậy? Bởi nhân-duyên ấy Bồ-tát xuất-gia không có từ-bi, không đem lại lợi-ích cho chúng-sinh, thế nên không bằng Bồ-tát tại-gia đủ tâm đại-từ-bi, thương xót chúng-sinh làm lợi-ích hết thảy!”[3]
Lúc đó, đức Phật bảo Trưởng-giả Trí-Quang: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Ông có tâm đại-từ-bi khuyến-thỉnh Tôi nói về sự hơn, kém của hai hàng Bồ-tát xuất-gia và tại-gia. Nay ông hỏi và cho rằng Bồ-tát xuất-gia không bằng tại-gia, nghĩa ấy không phải. Sở dĩ thế là sao? Bồ-tát xuất-gia hơn tại-gia vô-lượng vô-biên không thể lấy gì sánh ví được. Sao vậy? Bồ-tát xuất-gia dùng sức trí-tuệ chân-chính quán-sát tỷ-mỷ tại-gia có nhiều lỗi-lầm về sự không biết chán, đủ: Hết thảy nhà cửa thế-gian, trong đó tích góp nhiều bảo-vật mà vẫn chưa biết là đầy-đủ, cũng như bể cả dung-nhận hết thảy nước sông lớn, nhỏ nhưng, cũng chưa từng cho là đầy-đủ. Thiện-nam-tử! Phía Nam Hương-sơn, phía Bắc Tuyết-sơn có ao A-nốc,[4] bốn Đại-long-vương đều ở trong ấy và mỗi vị ở một góc: Long-vương ở góc Đông-nam là Bạch-tượng-đầu, Long-vương ở góc Tây-nam là Thủy-ngưu-đầu, Long-vương ở góc Tây-bắc là Sư-tử-đầu, Long-vương ở góc Đông-bắc là Đại-mã-đầu. Nước đều từ bốn góc ấy chảy ra bốn sông lớn: Một là, sông Căng-già (Gangà) nước sông này chảy đến chỗ nào loài bạch-tượng (voi trắng) theo đó sản-xuất. Hai là, sông Tín-độ (Sindhu) nước sông này chảy đến chỗ nào loài Thủy-ngưu (trâu nước) theo đó sản-xuất. Ba là, sông Phạ-sô (Vaksu) nước sông này chảy đến chỗ nào loài sư-tử theo đó sản-xuất. Bốn là, sông Tư-đà (Sità) nước sông này chảy đến chỗ nào loài đại-mã (ngựa lớn) theo đó sản-xuất. Những sông lớn ấy trong mỗi một sông lại có năm trăm sông vừa vừa, trong mỗi sông vừa vừa ấy lại có vô-lượng sông nhỏ. Hết thảy những nước trong những sông lớn, vừa vừa, nhỏ ấy đều chảy vào bể cả. Song, bể cả ấy vẫn chưa từng cho là đầy-đủ. Chúng-sinh trong thế-gian có hết thảy nơi ở, nhà cửa cũng như thế. Họ gom góp các ngọc báu từ bốn phương đem lại đều để vào trong nhà ấy song, họ chưa từng cho là đầy-đủ. Cầu nhiều, tích góp nhiều tạo ra nhiều tội; vô-thường (chết) vụt đến, vứt bỏ nhà cũ đi, khi ấy chủ nhà tùy nghiệp chịu báo, trải vô lượng kiếp hoàn-toàn không có chỗ nào về cả !
Thiện-nam-tử! Đây nói về “nhà” tức là nói về cái thân năm UẨN, mà chủ căn nhà ấy là BẢN-THỨC của ông. Ai là người có trí-tuệ lại ưa căn nhà “hữu-vi” ấy! Chỉ có Bảo-cung Bồ-đề an-lạc, xa lìa lão, bệnh, tử, ưu-bi khổ-não mà thôi! Nếu những thiện-nam-tử… có căn-khí linh-lợi, tịnh-tín sâu dày, muốn độ cha mẹ, vợ con, họ-hàng để họ vào được nhà “vô-vi cam lộ”, thì nên quy Tam-bảo xuất-gia học đạo!”
Bấy giờ, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Bồ-tát xuất-gia hơn tại-gia,
Tính-toán, thí-dụ không sánh kịp.
Tại-gia bức-bách như lao-ngục,
Muốn cầu giải-thoát rất là khó.
Xuất-gia thư-thái như hư-không,
Tự-tại, vô-vi khỏi ràng-buộc.
Xét kỹ tại-gia nhiều lỗi-lầm,
Tạo các tội-nghiệp không bờ bến.
Mưu sống, cầu nhiều thường chẳng đủ,
Cũng như bể cả khó đầy được.
Long-vương ở trong ao A-nốc,
Bốn góc chảy ra bốn bể lớn;
Bao nước sông lớn, vừa vừa, nhỏ,
Ngày đêm tuôn chảy không ngừng tạm.
Song, bể cả kia chưa từng đủ,
Tham cầu nhà cửa cũng như thế!
Tại-gia khởi nhiều các nghiệp ác,
Chưa từng sám-tẩy cho trừ-diệt.
Không biết ái-niệm nguy-ngập thân,
Không biết mệnh theo móc sớm tan.
Sứ-giả Diễm-ma cùng giục gắt,
Vợ con, nhà cửa không theo được.
U-minh tăm-tối trong đêm dài,
Riêng đến cửa chết tùy nghiệp chịu.
Chư Phật xuất-hiện khởi thương-xót,
Muốn cho chúng-sinh chán thế-gian.
Ông nay đã được thân khó được,
Nên siêng tinh-tiến chớ phóng-dật!
Nhà cửa tại-gia rất đáng chán,
Nhà báu “không-tịch” khó nghĩ, bàn;
Rời hẳn bệnh-khổ và ưu-não,
Các người có trí quán-sát kỹ!
Tịnh-tín thiện-nam, nữ mai sau,
Muốn độ cha mẹ và quyến-thuộc;
Để vào thành “vô-vi cam-lộ”,
Mong cầu xuất-gia tu diệu-đạo.
Tu-hành dần dần thành Chính-giác.
Sẽ quay vô-thượng đại-pháp-luân.[5]
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia xem nhà cửa thế-giancũng như đá lửa sinh lo, chán lắm. Sao vậy? – Ví như chút lửa có thể đốt cháy hết thảy cỏ cây…, nhà cửa thế-gian cũng như thế. Tâm tham muốn tìm cầu, giong-ruổi chạy khắp bốn phương, nếu có được gì thụ-dụng không đủ; trong hết thảy thời truy-cầu không chán và nếu không được gì tâm sinh nhiệt-não, ngày đêm càng truy-cầu thêm. Thế nên hết thảy nhà cửa thế-gian hay sinh ra vô-lượng lửa phiền-não, vì khởi tâm tham, thường không tri-túc (biết đủ). Của báu thế-gian cũng như cỏ cây, tâm tham-dục như nhà cửa thế-gian. Bởi nhân-duyên ấy, hết thảy chư Phật thường nói: “Ba cõi là nhà lửa”. Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia hay quán như thế, chán lìa thế-gian là “Chân-xuất-gia”!
Khi ấy, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Bồ-tát xuất-gia xem nhà đời,
Cũng như chút lửa của thế-gian;
Hết thảy cỏ cây dần cháy hết,
Nhà đời, nên biết cũng như thế.
Chúng-sinh có nhiều những của báu,
Lại còn truy-cầu, thường không đủ.
Cầu không được khổ thường tại tâm,
Lửa lão, bệnh, tử không thời diệt.
Bởi nhân-duyên ấy các Thế-Tôn,
Nói rằng “ba cõi là nhà lửa”.
Nếu muốn vượt qua khổ ba cõi,
Nên tu phạm-hạnh làm Sa-môn.
Tam-muội thần-thông được hiện-tiền,
Tự-lợi, lợi-tha đều viên-mãn.[6]
Lại nữa, Thiện-nam-tử! Ưa muốn xuất-gia nên quán nhà cửa, như trong hang đá núi sâu có kho báu lớn. Ví như ông Trưởng-giả chỉ có một con, nhà ông rất giàu, của báu vô lượng, tôi trai tớ gái, người hầu, voi, ngựa vô số. Trong thời sau này người cha chợt bị bệnh nặng, thầy hay thuốc tốt không sao cứu chữa được, ông Trưởng-giả tự biết mình không lâu nữa sẽ chết, liền gọi con lại bảo: “Phàm hết thảy của báu sở-hữu của ta, ta giao phó cho con, con cố-gắng giữ-gìn đừng để mất mát!” Người cha giao-phó rồi liền mất.
Sau đó, con ông Trưởng-giả không thuận mệnh cha, tha hồ làm sự phóng-dật, gia-nghiệp hao tốn, của cải tan mất, tôi tớ lại lẩn trốn không nương-tựa nữa. Khi ấy, tâm bà mẹ già mang sự lo buồn, sầu-não bị bệnh nặng rồi mất. Người con ấy bị nghèo cùng, không còn có chỗ nhờ cậy, liền vào nơi hang núi nhặt củi, hái quả bán đi mua cháo tự-cấp. Một thời kia, gặp mưa tuyết, người con ấy tạm thời vào trong hang đá nghỉ-ngơi. Trong hang ấy là chỗ Quốc vương xưa cất đồ thất-bảo, không ai biết cả, nay đã trải qua vài trăm nghìn năm, nơi đây vắng bặt bóng người lui tới.
Bấy giờ, người nghèo kia do nghiệp nhân-duyên, tình-cờ vào trong hang, thấy rất nhiều vàng, tâm vui-mừng quá cho rằng được sự chưa từng có bao giờ. Nhân đó, người ấy mới chia ra: Ngần này phần vàng để dựng cất nhà cửa, ngần này phần vàng là của để cưới vợ, phần này thuê tôi-tớ, phần này mua voi, ngựa, tùy tâm muốn gì đều được như ý. Đang khi trù-tính như thế, có bọn giặc vì chạy đuổi con hươu đến trước hang, thấy người nghèo ấy đem vàng phân-phối ra từng phần, liền bỏ không đuổi hươu nữa, mà giết người lấy vàng. Phàm-phu ngu-si cũng như thế, quá ham sự vui-sướng ở đời không thích xuất-ly. Hang đá núi sâu như nhà cửa của đời, vàng ngọc chôn dấu cũng như thiện-căn, Sứ-giả của Diễm-Ma-vương tức là bọn giặc. Theo nghiệp chịu báo sa-đọa trong ba đường ác, không nghe thấy tên hiệu cha mẹ, Tam-bảo và chôn mất cả thiện-căn. Bởi nhân-duyên ấy, người đời cần nên chán rời, phát tâm vô-thượng Đại-bồ-đề, xuất-gia tu đạo mong thành Diệu-giác.
Khi ấy, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Ưa thích tại-gia, các Bồ-tát,
Xem-xét nhà cửa như kho báu.
Ví như Trưởng-giả có một con,
Nhà ông rất giàu nhiều của báu.
Tôi-tớ người hầu cùng xe ngựa,
Hết thảy cần dùng đều phong-túc.
Thời sau Trưởng-giả thân bị bệnh,
Thầy giỏi khắp đời đều khoanh tay.
Sắp mất, kêu gọi người thân-tộc,
Giao-phó gia-tài cho người con.
Dạy răn con giữ tâm hiếu-dưỡng,
Siêng việc hưởng-tự đừng đoạn-tuyệt.
Khi ấy người con trái mệnh cha,
Thả lỏng ngu-si, phóng-dật nhiều.
Mẹ già lo buồn thân đau-yếu,
Lại nhân ác-tử liền chết mất.
Quyến-thuộc lìa xa không chỗ nương,
Nhặt củi đổi cháo làm thường-dụng.
Đến trong núi kia gặp phong-tuyết,
Vào trong hang đá tạm an-nghỉ.
Trong hang xưa dấu của quý-báu,
Đã trải lâu xa không người biết;
Tiều-phu gặp được kho vàng thực,
Mang lòng hớn-hở sinh hiếm có.
Tức thời phân-phối kim-bảo ấy,
Tùy ý muốn gì đều dùng nó:
Hoặc để dựng nhà, hoặc cưới vợ,
Tôi-tớ, voi, ngựa và xe-cộ.
So tính mai sau không bỏ được,
Bọn giặc đuổi hươu chạy đến trước;
Là oán-gia kia khi hội-ngộ,
Liền giết người nghèo lấy vàng đi.
Chúng-sinh ngu-si cũng như thế,
Hang đá cũng như nhà cửa đời;
Chôn-dấu chân-kim ví thiện-căn,
Quỷ-sứ Diễm-ma như giặc cướp.
Bởi nhân-duyên ấy, các Phật-tử,[7]
Sớm đi xuất-gia tu thiện-phẩm.
Nên xem thân-mệnh như bọt nổi,
Cần tu Giới, Nhẫn Ba-la-mật.
Nên tới cây Bồ-đề thất-bảo,
Trên tòa Kim-cương chứng như-như.
Thường-trụ bất-diệt khó nghĩ, bàn,
Quay xe chính-pháp hóa mọi loài.[8]
Lại nữa, thiện-nam-tử! Hết thảy nhà cửa sở-hữu của thế-gian, cũng như món ăn uống cam-lộ, lẫn-lộn thuốc độc. Ví như ông Trưởng-giả chỉ có một người con, căn-khí linh-lợi, thông-minh, trí-tuệ, thấu-suốt được Ca-lâu-la bí-mật quán-môn,[9] biết phương-tiện khéo-léo phân-biệt những thuốc độc, vì thế cha mẹ thương yêu, nhớ mến không gì sánh ví được. Bấy giờ, con ông Trưởng-giả vì có sự-duyên ra ngoài chợ chưa kịp về nhà, ở nhà cha mẹ cùng thân-tộc có việc vui-mừng đặt yến-tiệc, sắm-sửa đầy-đủ các món ăn uống cao-quý. Nhưng, lúc đó có kẻ thù-oán nào ngấm-ngầm đem thuốc độc bỏ vào trong thức ăn uống, không người nào hay biết. Khi ấy cha mẹ cũng không biết trong món ăn có thuốc độc lẫn-lộn, làm cho lớn, bé đều ăn phải món ăn lẫn thuốc độc ấy. Sau người con về tới, cha mẹ vui-mừng đưa cho con những món ăn-uống còn để phần. Con ông Trưởng-giả khi chưa dùng đến món ăn uống ấy, liền niệm Ca-lâu-la bí-mật quán-môn, biết ngay là trong món ăn có lẫn thuốc độc. Người con tuy biết là cha mẹ ăn lầm phải thuốc độc nhưng, không dám nói với cha mẹ là cha mẹ ăn lầm phải thuốc độc. Sở-dĩ thế là sao? – Vì, nếu cha mẹ biết là mình ăn phải thuốc độc, càng thêm phiền-muộn, não-loạn, độc-khí chóng phát, thời quyết làm cho người ta chóng chết. Người con mới đặt ra phương-tiện thưa cha mẹ rằng: “Con sở-dĩ chưa ăn món ăn uống này vì con phải đi ra chợ một chút, khi về con sẽ ăn. Sao vậy? – Vừa rồi con có mua được viên ngọc báu vô giá, con bỏ trong két quên chưa khóa”. Cha mẹ nghe con nói đến tên ngọc báu sinh tâm hoan-hỷ, mặc cho con đi. Người con bèn chạy vội đến nhà thầy thuốc giỏi, cầu thuốc hay là thuốc A-già-đà[10] giải độc. Được thuốc ấy rồi, người con chạy vội về nhà, lấy nhũ (sữa), tô (sữa tốt) sao và đường, ba vị sắc chung rồi hòa với thuốc A-già-đà. Làm thuốc xong, người con mới thưa cha mẹ rằng: “Kính xin cha, mẹ uống nước cam-lộ này, đây là thuốc A-già-đà ở núi Tuyết. Sở-dĩ thế là sao? – Lúc nãy cha mẹ ăn lầm phải thuốc độc, con tạm đi ra ngoài một chút, bản-ý con chỉ vì cha mẹ cùng mọi người cầu được thuốc hay bất-tử này mà thôi”. Khi ấy tâm cha mẹ và mọi người rất vui-mừng, cho như là được sự chưa từng có bao giờ, liền uống ngay thuốc hay ấy, thổ hết các độc-khí, không bị chết và thân-mệnh được sống lâu.
Bồ-tát xuất-gia cũng thế, cha mẹ quá-khứ bị chìm-đắm trong sinh-tử, cha mẹ hiện-tại không thoát-ly được, thời sự sinh-tử trong mai sau khó dứt hết được và phiền-não hiện-tại khó dẹp trừ được. Bởi nhân-duyên ấy, vì muốn độ cho cha mẹ và các chúng-sinh mạnh mẽ phát ra tâm đồng-thể đại-từ-bi[11] cầu đại-bồ-đề xuất-gia nhập đạo. Thiện-nam-tử! Thế gọi là nhà cửa thế-gian như thuốc độc lẫn-lộn trong món ăn ngon tốt”.
Khi ấy, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Nhà cửa sở hữu của thế-gian,
Nói là thuốc độc lẫn mỹ-thực.
Ví như Trưởng-giả có một con,
Thông-minh, lợi-trí lại nhiều tài.
Khéo môn bí-mật: Ca-lâu-la,
Có phương-tiện khéo biết thuốc độc.
Con có sự-duyên ra ngoài chợ,
Tạm thời buôn bán chưa về nhà.
Cha mẹ yên vui họp thân-thuộc,
Cỗ quý trăm mùi đều đầy-đủ.
Có một người ác mang thuốc độc,
Ngầm lại, bỏ vào món ăn uống.
Người con khi ấy không ở nhà,
Cha mẹ vì con lưu một phần.
Cả nhà ăn lầm thuốc tạp-độc,
Con niệm quán-môn biết có độc.
Liền chạy vội đến chỗ thầy thuốc,
Cầu được thuốc Già-đà bất-tử.
Ba vị hòa sắc, thuốc thành rồi,
Liền thưa thân-thuộc uống nhanh đi.
Uống thuốc như thế như cam-lộ,
Khỏi mọi tạp-độc đều an-lạc.
Hết thảy thiện-nam có lòng tin,
Xuất-gia tu đạo cũng như thế.
Vì cứu cha mẹ và chúng-sinh,
Uống phải thuốc độc của phiền-não.
Tâm cuồng điên đảo tạo mọi tội,
Chìm mãi trong bể sinh-tử buồn.
Cắt ái, từ thân vào đạo Phật,
Được gần Điều-ngự đại-y-vương;
Tu về vô-lậu A-già-đà,
Sinh lại nhà cha mẹ ba cõi.
Khiến uống thuốc pháp dứt ba chướng,
Sẽ chứng vô thượng Bồ-đề-quả!
Hết thuở vị-lai thường chẳng diệt,
Làm chỗ quy-y độ chúng-sinh.
Rốt-ráo ở nơi Đại-Niết-bàn,
Và, viên-kính-trí Phật Bồ-đề.[12]
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia thường quán hết thảy nhà cửa của thế-gian cũng như gió lớn không tạm dừng. Sao vậy? Thiện-nam-tử! Tâm tại-gia thường khởi vọng-tưởng chấp-trước ngoại-cảnh, không hiểu thực được sự mê mờ say đắm trong vô-minh và ngay đến xúc-cảnh điên-đảo cũng thường không trụ được. Ác-giác[13] dễ khởi, thiện-tâm khó sinh. Do vọng-tưởng duyên-khởi ra các phiền-não. Nhân các phiền-não tạo ra nghiệp thiện, ác. Và, y vào nghiệp thiện, ác ấy mà chiêu-cảm của báu trong năm thú. Cứ như thế, như thế sinh-tử không dứt. Chỉ có chính-kiến, tâm không điên-đảo, làm mọi nghiệp thiện, nhân ba thiện-căn[14] và lấy “tín”. tăng-trưởng cho hạt giống vô-lậu của các pháp ấy, phát khởi thần-thông vô-lậu tam-muội, thần-thông như thế, như thế là chứng Thánh-quả tương-tục. Nếu dẹp được vọng tưởng, tu-tập chính-quán thời hết thảy phiền-não hết hẳn không còn.[15]
Bấy giờ, Trưởng-giả Trí-Quang bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tu-tập chính-quán có vô lượng môn, vậy tu những quán-môn nào mới dẹp được vọng-tưởng?”
Đức Thế-Tôn bảo ông Trưởng-giả: “Thiện-nam-tử! Cần nên tu-tập “Vô tướng chính-quán”[16] Quán “vô tướng” là dẹp được vọng-tưởng. Song, chỉ quán thực-tính chứ không cần thấy thực-tướng, vì thể của hết thảy pháp vốn không-tịch, không thấy, không biết thế gọi là “chính-quán”. Nếu có Phật-tử nào an-trụ nơi chính-niệm, quán-sát như thế, tu-tập “vô-vi” trong thời-gian dài, gió dữ của vọng-tưởng vẳng-bặt không còn rung-động nữa, thời Thánh-trí do nơi quán-sát hiện-tiền mà chứng lý viên-thành. Thiện-nam-tử! Thế là Hiền-Thánh, thế là Bồ-tát, thế là Như-Lai vô thượng chính-đẳng chính-giác. Bởi nhân-duyên ấy, hết thảy Bồ-tát vì muốn dẹp vọng-tưởng mãi mãi không khởi lên nữa, vì muốn trả bốn ơn, thành-tựu bốn đức,[17] xuất-gia tu học, ngừng tâm vọng-tưởng, trải vô lượng kiếp thành-tựu Phật-đạo.[18]
Khi ấy, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Bồ-tát xuất-gia quán tại-gia,
Cũng như gió dữ không tạm dừng.
Cũng như chấp càn trăng trong nước,
So tính phân-biệt lấy làm thực.
Trong nước bản-lai không bóng trăng,
Nước tịnh là duyên thấy trăng thực.
Các pháp duyên-sinh đều là giả,
Phàm-ngu chấp càn cho là “ta”.
Cái ấy theo “duyên”, “pháp” không thực,
Vọng-tưởng phân-biệt chấp là có.
Nếu hay dứt trừ được hai chấp,
Sẽ chứng vô-thượng đại-bồ-đề.
Vọng-tưởng tình-phàm như hắc-phong,
Thổi rừng sinh-tử niệm niệm khởi,
Bốn quỷ điên-đảo[19] thường theo đuổi,
Khiến tạo năm thứ nhân vô-gián.[20]
Ba căn bất thiện hiện ràng-buộc,
Sinh-tử luân-hồi luôn nối nhau.
Nếu người nghe kinh tin, hiểu sâu,
Chính-kiến hay trừ tâm điên-đảo;
Hạt giống Bồ-đề niệm niệm sinh,
Đại-trí thần-thông tam-muội khởi.
Nếu tu-tập được diệu-quán sâu,
Hoặc, nghiệp, khổ-quả[21] đâu khởi được?
Chỉ quán thực-tướng chân-tính như,
Năng, sở[22] đều mất, bỏ mọi kiến.
Tính, tướng[23] nam, nữ bản-lai không,
Vọng chấp theo duyên sinh hai tướng.
Như-Lai dứt hẳn nhân vọng tưởng
Chân-tính vốn không nam, nữ-tướng.
Diệu-quả Bồ-đề chứng đều đồng,
Phàm-phu chấp càn sinh tướng khác.
Ba mươi hai tướng vốn phi-tướng,
Liễu-tướng, phi-tướng là thực-tướng.
Nếu người xuất-gia tu phạm-hạnh,
Nhiếp tâm tịch-tĩnh chốn không-nhàn;
Thế là Bồ-tát chân-tịnh-tâm,
Không lâu sẽ chứng Bồ-đề-quả.[24]
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ngày đêm thường quán nhà cửa của thế-gian hết thảy đều là chỗ sinh ra phiền-não. Sao vậy? Như có một người xây nhà cửa, đem các bảo-vật mà tự trang-nghiêm cho căn nhà ấy. Dựng nhà xong, người ấy nghĩ rằng: “Nay nhà cửa này là vật sở-hữu của ta, không hệ-thuộc vào người khác, chỉ có nhà cửa của ta là tốt đẹp hơn, nhà cửa người khác không sánh kịp được”. Do chấp trước như thế, sinh ra phiền-não; do phiền-não chấp “ngã, ngã-sở”[25] làm căn-bản, tám vạn bốn nghìn cửa trần-lao[26] cùng nhau đua khởi, đầy ních trong nhà. Sở dĩ thế là sao? Phàm-phu tại-gia tham-trước nhiều về năm dục, vợ con, họ hàng, tôi trai, tớ gái, người hầu đều đầy-đủ; bởi nhân-duyên ấy, sinh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ, não, oán ghét hợp-hội, ân-ái biệt-ly, nghèo cùng và mọi sự suy-vi cầu không được khổ. Các khổ như thế như bóng theo hình, như vang ứng tiếng, đời đời nối tiếp nhau luôn luôn không đoạn-tuyệt. Các khổ như thế đều có chỗ nguyên-nhân mà phiền-não lớn, nhỏ là căn-bản. Hết thảy của báu đều do sự tìm tòi mà được, nếu không có nhân trước thời không thể tìm tòi được và giả-sử có tìm tòi đi chăng nữa cũng không được.
Thiện-nam-tử! Bởi vì nghĩa ấy, nên hết thảy phiền-não, tâm tìm tòi (truy-cầu) là gốc, nếu diệt được tâm tìm tòi ấy đi thời vô-lượng phiền-não đều dứt hết. Song, nay thân này là chỗ nương-tựa cho các khổ, những người có trí nên sinh tâm chán bỏ! Do đó, đức Phật Ca-Diếp đời quá-khứ vì các cầm-thú mà nói bài kệ rằng:
Thân này là gốc khổ,
Khổ khác là cành, lá;
Nếu đoạn được gốc khổ,
Các khổ đều trừ diệt.
Nghiệp xưa của các ngươi,
Tạo tội tâm chẳng hối;
Cảm thân bất-khả-ái,
Chịu khổ-thân tạp-loại.
Nếu khởi tâm ân-trọng,
Một niệm cầu sám-hối;
Như lửa đốt núi chằm,
Các tội đều tiêu-diệt.
Thân này khổ, bất-tịnh.
Vô ngã[27] và vô thường;[28]
Các ngươi đều phải nên,
Thực-tâm sinh chán, bỏ!
Lúc đó, vô-lượng cầm-thú nghe bài kệ ấy rồi, trong nhất niệm,[29] tâm chí-thành sám-hối, liền bỏ được ác-đạo sinh lên cõi trời thứ tư trong Dục-giới (Đâu-suất-thiên), phụng-sự vị Nhất-sinh bổ-xứ Bồ-tát (Đức Di-Lặc), nghe pháp bất-thoái cứu-cánh Niết-bàn. Thiện-nam-tử! Bởi nhân-duyên ấy, nay khổ-thân này cũng như nhà cửa, hết thảy phiền-não tức là chủ nhà. Thế nên, các tịnh-tín thiện-nam tử…phát tâm Bồ-đề, xuất-gia nhập đạo, quyết được giải-thoát hết thảy mọi khổ và đều sẽ thành-tựu vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Khi ấy, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Bồ-tát xuất-gia thường quán-sát,
Nhà cửa đời sinh các phiền-não.
Như có một người dựng nhà cửa,
Trang-hoàng bằng mọi thứ ngọc báu.
Tự nghĩ tráng-lệ không đâu bằng,
Không thuộc người khác, duy ta có;
Thợ khéo sửa-sang đẹp lạ-lùng,
Nhà cửa trên đời không đâu kịp.
Phân-biệt như thế sinh chấp-trước,
Lấy “ngã, ngã-sở” làm căn-bản;
Tám vạn bốn nghìn các phiền-não,
Làm ra tai-biến khắp nhà cửa.
Hết thảy nam, nữ ở trên đời,
Lục thân quyến-thuộc đều đầy-đủ;
Bởi nhân-duyên ấy sinh mọi khổ,
Tức là: sinh, lão và bệnh, tử.
Lo buồn, khổ, não thường theo đuổi,
Như bóng theo hình không tạm rời.
Sở-nhân các khổ: tham-dục sinh,
Nếu dứt tìm-tòi hết mọi khổ.
Thân này thường là gốc mọi khổ,
Cần tu chán, bỏ tới Bồ-đề.
Thân-tâm ba cõi như nhà cửa,
Chủ nhà: phiền-não ở tại trong;
Các ông nên phát Bồ-đề-tâm,
Lìa bỏ phàm-phu ra ba cõi.[30]
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia thường quán tại-gia cũng như nước lớn, có một ông Trưởng-giả gia-tư hào-phú, của báu vô-lượng, trong nhiều kiếp, nhân-duyên cha con nối tiếp nhau không dứt và chuyên tu các hạnh lành, nên được tiếng khen đồn xa. Những của báu sở-hữu của ông đại-trưởng-giả ấy đều chia làm bốn phần: Một phần của báu thường sinh lợi-tức để cung-cấp cho gia-nghiệp, một phần của báu để cung-cấp vào sự cần-dùng đầy-đủ hàng ngày, một phần của báu huệ-thí cho những người cô-độc để tu vào việc phúc-đức mai sau, một phần của báu để cứu-giúp trong tôn-thân và khách-sá lui tới. Bốn phần như thế từng không có lúc nào đoạn-tuyệt, cha con cứ tiếp nối nhau làm gia-nghiệp trên đời. Nhưng, sau có một người con ngu-si, tệ-ác, quá ham năm dục-lạc, làm những sự phóng-dật bừa-bãi, trái lời dạy của cha mẹ và không y theo bốn sự-nghiệp trên. Nào dựng các nhà cửa, lầu quán bảy từng bội hơn thường-chế, trang-hoàng bằng mọi thứ châu-báu, đất lát lưu-ly, cửa sổ bằng ngọc báu, ánh sáng lồng nhau, nào đầu rồng, hình cá đều đầy-đủ cả, ngày đêm tiếng nhạc vi-diệu liên-miên không dứt. Người ấy hưởng-thụ năm dục-lạc như cõi Đao-lỵ, bị quỷ-thần hiềm-ghét, người, trời tránh xa.
Một hôm, bỗng dưng nhà hàng xóm bốc lửa, lửa dữ bừng-bừng, theo gió lan-tràn, đốt cháy hết cả kho-tàng và các lâu-đài. Lúc đó, con ông Trưởng-giả trông thấy lửa dữ như thế, khởi tâm giận-bực, vội bắt vợ con, tôi trai, tớ gái và họ-hàng vào cả nhà hai từng, đóng kín cửa lầu gác lại; không ngờ do sự ngu-si ấy, nhất thời chết cả.
Phàm-phu tại-gia cũng thế. Người ngu ở đời như con ông Trưởng-giả; chư Phật, Như-Lai như ông Trưởng-giả. Không thuận theo lời Phật dạy, tạo các nghiệp ác, phải sa-đọa vào ba đường ác, chịu đại-khổ-não. Bởi nhân-duyên ấy, Bồ-tát xuất-gia thường quán tại-gia như con ông Trưởng-giả không thuận cha mẹ, bị lửa đốt cháy, vợ con đều chết. Thiện-nam-tử! Nên sinh tâm chán, bỏ những sự vui nơi thế-gian, Nhân,Thiên, tu hạnh thanh-tịnh, sẽ chứng Bồ-đề.
Khi ấy, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Bồ-tát xuất-gia quán tại-gia,
Cũng như Trưởng-giả sinh con ngu.
Nhà ông giàu có các của báu,
Nối tiếp lâu đời không thiếu thốn.
Gia-nghiệp đời trước truyền con cháu,
Hết thảy tư-sản chia bốn phần:
Thường tu thắng-hạnh không lỗi ác,
Tiếng khen lan khắp các quốc-độ.
Vàng, bạc, ngọc báu số vô-biên,
Lợi-tức xuất nhập khắp nước ngoài.
Từ-bi, hỷ-xả tâm không chán,
Huệ thí cô-bần thường chẳng dứt.
Rốt sau Trưởng-giả sinh một con,
Ngu-si, bất hiếu, không trí-tuệ;
Tuổi tác đã già gân, sức suy,
Gia tài trong, ngoài đều giao con.
Con trái mệnh cha làm bừa-bãi,
Không nối bốn nghiệp nhà sa-sút.
Cất lầu bảy từng bằng trân-bảo,
Dùng lưu-ly biếc làm cửa sổ;
Đàn địch hát xướng luôn không dứt,
Thường lấy bất-thiện làm thầy tâm.
Hưởng năm dục-lạc như thiên-cung,
Hết thảy Long-thần đều xa tránh.
Nhà bên bỗng dưng hỏa-tai dấy,
Lửa dữ theo gió khó cấm được.
Kho-tàng, của báu và vợ con,
Nhà cửa, từng lầu đều cháy hết.
Tích ác, tai-ương đến diệt thân,
Vợ con, họ-hàng đồng chết cả.
Tam thế chư Phật như Trưởng-giả,
Hết thảy phàm-phu là ngu-tử;
Không tu chính-đạo dấy tâm tà,
Mệnh mất sa vào các ác-thú.
Nhiều kiếp riêng chịu khổ đốt cháy,
Lần-lữa như thế không kỳ hết.
Phật-tử tại-gia, ông nên biết!
Không tham vui đời, siêng tu chứng.
Chán đời, xuất-gia tu phạm-hạnh,
Núi rừng vẳng-lặng bỏ mọi duyên.
Vì trả bốn ơn tu thắng-đức,
Làm ngôi Pháp-vương trong ba cõi;
Độ sinh đến hết thuở vị-lai,
Là bạn không mời,[31] thường thuyết-pháp.
Ngăn hẳn dòng “ái”, lên bờ kia,[32]
Ở trong thành Niết-bàn thanh-tịnh.[33]
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia quán hết thảy nhà cửa của thế-gian cũng như mộng lớn. Ví như ông Trưởng-giả có một đồng-nữ mới mười lăm tuổi, dung-nhan đoan-chính, xinh đẹp lạ-lùng. Một hôm cha mẹ ở trên lầu ba từng, đem con gái yêu của mình lên, cùng hưởng coi những sự vui-vẻ. Đêm, mẹ con cùng ngủ chung trên một giường quý và cùng nhau ngủ yên cả. Trong khi ngủ, đồng-nữ chiêm-bao thấy cha mẹ cho về nhà chồng; vợ chồng lấy nhau trải qua nhiều năm, sinh được một người con dung-nhan đoan-chính, xinh đẹp lạ lùng và có tướng thông-minh trí-tuệ. Hàng ngày nhờ ơn nuôi nấng, dần dần người con ấy biết đi. Một hôm, trên lầu cao không may nó trượt chân từ trên cao rơi xuống, rơi chưa xuống đến đất, bỗng dưng có một con hổ đói đứng đỡ lấy ăn thịt. Đồng-nữ thấy thế, kinh sợ quá, cất tiếng gào khóc, liền tỉnh mộng. Bấy giờ cha mẹ hỏi con rằng: “Bởi nhân-duyên gì, bỗng dưng con kinh sợ vậy?” Người con gái thẹn không chịu nói. Người mẹ ân-cần hỏi gạn mãi, người con gái mới nói thầm với mẹ về việc chiêm-bao như trên.
Thiện-nam-tử! Thế-gian là nhà cửa sinh-tử hữu-vi, nên phải ở mãi trong luân-hồi, nghĩa là chưa được ở vào phận-vị chân-giác[34] mà thường phải ở trong nhà chiêm-bao sinh, lão, bệnh, tử nơi ba cõi, như đồng-nữ kia ở trong chiêm-bao, hư-vọng phân-biệt cũng thế. Quỷ-sứ nơi Diễm-ma bỗng dưng đến, như hổ đói ở trong hư-không đỡ đứa trẻ kia mà ăn. Hết thảy chúng-sinh từng niệm niệm bị vô-thường, lão, bệnh, tử khổ cũng thế. Ai là người có trí-tuệ lại yêu-thích thân này! Bởi nhân-duyên ấy, quán-sát trong sinh-tử như giấc mộng đêm dài, mà phát tâm Bồ-đề, chán bỏ thế-gian, sẽ được diệu-quả thường-trụ của Như-Lai.
Khi ấy, đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Phật-tử dốc cầu đạo vô-thượng,
Nên quán nhà cửa như trong mộng.
Ví như đại-trưởng-giả giàu-sang,
Có một đồng-nữ đoan-nghiêm lạ.
Cô theo cha mẹ lên lầu cao,
Đi theo xem coi rất vui-vẻ.
Cô ngủ trong lầu, cô chiêm-bao:
Rõ-ràng mơ thấy đi lấy chồng.
Sau ở nhà chồng sinh một con,
Tâm mẹ thương-xót nhớ mến con.
Con trên lâu-đài ham vui-chơi,
Từ cao rơi xuống ngay miệng hổ.
Cô khóc thất-thanh liền tỉnh mộng,
Mới biết mộng-tưởng vốn không thực.
Vô-minh ám-chướng như đêm dài,
Chưa thành chính-giác như trong mộng.
Sinh-tử thế-gian thường chẳng thực,
Vọng-tưởng phân-biệt cũng như thế.
Chỉ có “tứ trí đại-viên-minh”,[35]
Phá tối-tăm là “chân-diệu-giác”.[36]
Vô-thường niệm niệm như hổ đói,
Hữu-vi hư-giả khó dừng lâu.
Chim ngủ sớm mai đều bay tản,
Mệnh hết biệt-ly cũng như thế.
Theo nghiệp đi, lại chịu các báo,
Ân-tình cha mẹ không biết nhau.
Thương thay, thân sinh-tử phàm-phu,
Luân-chuyển ba đường chịu khổ mãi!
Nếu biết thiện, ác theo nghiệp cảm,
Cần nên sám-hối cho tiêu-diệt.
Hết thảy quả vui của Nhân, Thiên,
Thẹn-hổ, chính-kiến là sở-nhân.
Nên phát tâm Bồ-đề kiên-cố,
Mặc áo tinh-tiến siêng tu-học![37]
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia quán-sát nhà cửa như cửa bể Tẫn-mã[38] tuôn ra lửa dữ, thu-hút, lan ra cả bốn ngòi ở bốn bên, cho đến trăm sông và mọi dòng đều bị lửa cháy hết.
Ví như xưa kia trong nước La-đà có một vị Bồ-tát tên là DIỆU-ĐẮC-BỈ-NGẠN. Bồ-tát ấy có tâm từ-bi, thường ôm-ấp sự đem lại lợi-ích cho chúng-sinh, nên thường có những lái buôn khi vào bể tìm của báu, họ đều đem Bồ-tát ấy đồng đi trên thuyền buồm, thời đều đi được tới bến có châu-báu, vượt qua mọi hiểm-nạn, không có sự gì trở-ngại và đến được bờ an-vui.
Thời sau này, khi Bồ-tát đã trăm tuổi, dần dần già yếu, đứng, ngồi phải có người nâng-dấc, sức-lực không thể đi bể được như trước nữa. Khi ấy, có một thương-chủ tới nơi Bồ-tát lễ-bái cúng-dàng và bạch Bồ-tát rằng: “Tôi muốn vào bể tìm các ngọc báu mong được đại-phú-quý, để thoát khỏi sự bần-cùng mãi mãi. Nay thỉnh Bồ-tát cùng đi với tôi!” Bồ-tát bảo thương-chủ rằng: “Nay tôi già cả suy-kém, gân cốt, sức-lực yếu-ớt, không thể vào bể được”. Thương-chủ lại nói: “Kính xin Đại-sĩ đừng bỏ tâm từ-bi, thương xót và nhận lời thỉnh của tôi. Đại-sĩ chỉ an-tọa trong thuyền buồm tôi, không phải làm gì cả, đó là sở-nguyện của tôi”. Bồ-tát nhận lời thỉnh của người lái buôn. Bồ-tát ở trong thuyền buồm lớn chạy vào bể cả và hướng phía Đông-nam để tới nơi có ngọc báu. Trong khi đi, thuyền gặp phải gió Bắc trôi giạt vào Nam-hải. Gió dữ thổi vun-vút ngày đêm không ngừng, thuyền trôi suốt trong bảy ngày, tới một nơi trông thấy nước bể cả biến thành sắc vàng coi như là vàng chảy. Những người lái buôn thấy thế bạch Bồ-tát rằng: “Bạch Bồ-tát! Bởi nhân-duyên gì ở đây có dáng nước biến ra sắc vàng như thế?” Bồ-tát bảo: “Các ông nên biết ! Chúng ta nay đã vào bể hoàng-kim lớn, vì có vô-lượng, vô-biên những vàng thực tía bóng đầy-dẫy bể cả, ánh sáng kim-bảo giao-hòa lẫn nhau nên có dáng như thế. Các ông đã vượt quá đường thẳng mà giạt vào trong bể này, thời đều phải tự mình cần-cầu, đặt mọi phương-tiện để trở về phương Bắc!”
Qua vài ngày, thấy nước bể cả biến thành sắc trắng như kha-tuyết, Bồ-tát bảo: “Các ông nên biết! Chúng ta nay đã vào bể trân-châu lớn, có bạch-ngọc trân-châu đầy-dẫy trong bể, ánh sáng trân-châu chiếu vào sắc nước, nên có dáng như thế. Các ông nên hết sức đặt mọi phương-tiện để trở về phương Bắc!”
Qua vài ngày, nước bể cả biến thành sắc xanh như ngọc lưu-ly xanh. Bồ-tát bảo: “Tôi và các ông đã vào trong bể pha-lê xanh, vì có vô-lượng vô-biên ngọc-báu pha-lê xanh đầy dẫy bể cả, sắc pha-lê giao-hòa ánh-sáng nên như thế!”
Qua vài ngày, nước bể cả biến thành sắc hồng như huyết hiện. Bồ-tát bảo: “Tôi và các ông đã vào bể pha-lê hồng, vì có vô-lượng vô-biên ngọc-báu pha-lê hồng đầy dẫy bể cả, sắc ngọc báu đỏ hồng, giao-hòa ánh-sáng nên như thế!”
Qua vài ngày nữa nước bể biến thành sắc đen như nước mực và xa nghe thấy tiếng lửa dữ cháy, nổ ran, như lửa lớn cháy rừng trúc khô; lửa cháy bừng-bừng rất đáng sợ hãi, bóng dáng như thế, chưa từng trông thấy, nghe thấy bao giờ. Lại thấy lửa lớn bốc cháy ở phương Nam như chòm núi cao hơn trăm trượng, thế lửa bay bốc lên không, hoặc lúc hợp, hoặc lúc tan, ánh sáng lan như chớp giật những dáng như thế chưa từng trông thấy, nghe thấy bao giờ. Mọi người thấy thế đều bảo nhau: “thân mệnh chúng ta thực khó bảo-đảm được”. Lúc đó, Bồ-tát bảo mọi người rằng: “Các ông! Hôm nay rất đáng sợ-hãi! Sao vậy? Chúng ta đã vào cửa bể Tẫn-mã, thời đều bị chết cháy hết. Sở dĩ thế là sao? Bởi sức nghiệp tăng-thượng của các chúng-sinh tự nhiên lửa trời đốt cháy nước bể. Nếu lửa trời này không đốt cháy nước bể, trong một ngày một đêm hết thảy lục-địa biến thành bể cả, có chúng-sinh nào đều chìm, trôi hết. Song, nay chúng ta gặp gió dữ lớn, trôi giạt vào cửa bể Tẫn-mã này, thân mệnh mọi người chúng ta không được bao lâu nữa!”
Khi ấy, có hơn nghìn người ở trong thuyền buồm, đồng thời cất tiếng thảm thương gào khóc, hoặc tự nhổ tóc, hoặc tự vật mình nói lên lời này: “Nay chúng ta vì cầu ngọc-báu, vào bể cả gặp hiểm-nạn này. Thương thay! khổ thay! biết dùng phương-tiện gì cho khỏi được nạn này!” Lúc đó, cả nghìn người đều chí thành quy-mệnh: hoặc kêu bi-mẫu, hoặc kêu từ-phụ, hoặc kêu Phạm-thiên, hoặc kêu Ma-hê-thủ-la thiên-vương, hoặc kêu Đại-lực Na-la-diên-thiên. Hoặc có người quy-mệnh Bồ-tát Đắc-Ngạn, kính lễ Bồ-tát mà bạch rằng: “Kính xin Bồ-tát cứu vớt bọn chúng tôi!” Bấy giờ, Bồ-tát vì muốn mọi người khỏi sự sợ hãi, Bồ-tát liền nói bài kệ rằng:
Đại-trượng-phu tối thượng trên đời,
Tuy vào cửa chết không sinh sợ;
Người nếu lo buồn mất trí-tuệ,
Cần nên nhất tâm đặt phương-tiện.
Nếu được cửa phương-tiện khéo léo,
Thoát khỏi tám nạn lên bờ kia;
Thế nên yên tâm đừng lo sợ,
Cần nên khẩn-niệm Đại-từ-tôn.
Bồ-tát nói bài kệ ấy rồi, Bồ-tát đốt các hương tốt lễ bái, cúng-dàng chư Phật mười phương rồi phát-nguyện rằng: “Nam-mô thập phương chư Phật! Nam-mô thập phương chư Phật! Chư Đại Bồ-tát ma-ha-tát chúng! Hết thảy Hiền-Thánh Tứ-quả, Tứ hướng.[39] Bậc có Thiên-nhãn, bậc có Thiên-nhĩ, bậc Trí-tha-tâm, bậc Chúng-tự-tại! Tôi vì chúng-sinh vận tâm đại-bi, giũ bỏ thân-mệnh, giúp các khổ-nạn. Nay thân tôi có chút thiện-căn, là thụ-trì giới không nói dối của Như-Lai trong vô-lượng kiếp, tôi chưa từng thiếu-phạm bao giờ. Nếu trong một kiếp nào tôi có nói dối, thời nay ác-phong này chuyển mạnh hơn lên; mà nếu giới-đức nơi tôi như thế, thực sự chẳng phải hư-vọng, thời nguyện đem thiện-nghiệp ấy, hồi-thí cho hết thảy, tôi cùng chúng-sinh sẽ thành Phật-đạo. Và, nếu thực không hư, nguyện ác-phong này tức thời ngừng-bặt, luồng gió như-ý tùy niệm thổi tới. Thân các chúng-sinh tức là thân tôi, chúng-sinh cùng tôi bình-đẳng không sai khác!”
Khi Đại-bồ-tát ấy phát nguyện “Đồng thể đại-bi vô-ngại” rồi, chừng khoảng một niệm, ác-phong liền ngừng, liền gặp được gió thuận, giải-thoát mọi nạn và đến được nơi bảo-sở, kiếm được các ngọc-báu.
Bấy giờ, Bồ-tát bảo các người lái buôn ấy rằng: “Ngọc-báu như thế khó gặp được, đời trước các ông làm nhiều sự bố-thí nên nay gặp được các ngọc-báu quý như thế. Nhưng trước kia khi tu về bố-thí tâm các ông còn có sự sẻn-tiếc, bởi nhân-duyên ấy, nên nay gặp phải ác-phong Thương-nhân các ông! Các ông được ngọc-báu, các ông nên biết hạn-lượng, không nên lấy nhiều, các ông lấy nhiều, phóng-túng tâm tham, sau lại bị nạn lớn. Các ông nên biết: Trong mọi trân-bảo, mệnh-bảo là hơn; nếu mệnh mình còn là vô-giá-bảo!”
Các lái buôn nhờ được Bồ-tát dạy bảo sinh tâm tri-túc không dám lấy nhiều. Mọi người được khỏi tai-nạn, được nhiều ngọc báu, xa-lìa được sự nghèo cùng và đến được bờ kia.
(Xem tiếp Phần 2) http://adidaphat.jimdo.com/kinh-b%E1%BB%95n-sinh-ti%E1%BB%81n-th%C3%A2n-%C4%91%E1%BB%A9c-ph%E1%BA%ADt-p-2/