Các thiện nam-tử! Bồ-tát xuất-gia cũng như thế, thân-cận chư Phật, bạn lành tri-thức, như những người lái buôn kia được gặp Bồ-tát; khỏi hẳn sinh-tử đến được bờ kia, cũng như thương-chủ được đại-phú-quý. Nhà cửa hữu-vi sở-hữu của thế-gian như cửa bể Tẫn-mã đốt cháy mọi dòng sông. Bố-tát xuất-gia cũng thế, quán-sát kỹ-lưỡng lỗi trái của tại-gia. Các ông, thiện-nam-tử! Không nhiễm năm dục-lạc thế-gian, chán, bỏ sinh-tử khổ-nạn trong ba cõi, được vào đại-thành an-vui mát-mẻ!

 

Khi ấy đức Như-Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:

 

Bồ-tát xuất-gia quán nhà cửa,

Như bể Tẫn-mã đốt mọi dòng.

Ví như xưa kia nước La-đà,

Có một Bồ-tát tên Đắc-Ngạn.

Đủ trí, đại-phú, phương-tiện khéo,

Vô-duyên từ-bi nhiếp hữu-tình.

Được Bồ-tát ấy đi trên thuyền,

Lái buôn được ngọc lên bờ kia.

Song, Bồ-tát ấy tuổi già yếu,

Không ưa lợi-tha, ham thiền-tịch.

Có một thương-chủ thỉnh Bồ-tát,

Muốn vào bể cả cầu trân-bảo.

Kính xin Bồ-tát nhận lời thỉnh,

Cho tôi giàu-có không thiếu-thốn.

Khi ấy Bồ-tát vận đại-bi,

Liền nhận lời thỉnh đi trên thuyền.

Khi trương buồm lớn gặp gió thuận,

Thẳng hướng Đông-nam tới bảo-sở;

Bỗng gặp gió dữ thổi thuyền buồm,

Giạt vào Nam-hải lầm chỗ đến.

Trải qua bảy ngày nước bể cả,

Thảy đều biến thành sắc vàng ròng,

Vàng ròng tía bóng đầy trong bể,

Ánh ngọc-báu hiện sắc chân-kim.

Lại qua vài ngày nước bể cả,

Biến thành sắc trắng như kha-tuyết;

Trân-châu trân-bảo đầy trong bể,

Cho nên nước bể thành sắc trắng.

Lại qua vài ngày nước bể cả,

Biến thành xanh-biếc như lưu-ly;

Ngọc pha-lê xanh đầy bể cả,

Cho nên nước thành sắc xanh biếc.

Lại qua vài ngày nước bể cả,

Thảy đều biến thành sắc đỏ hồng;

Ngọc pha-lê đỏ đầy trong bể,

Nên biến sắc nước đồng như nó.

Lại qua vài ngày nước bể cả,

Biến thành sắc đen như nước mực;

Như thế lửa trời đốt cháy hết,

Nước bể tất cả như sắc mực.

Bể ấy gọi là cửa Tẫn-mã,

Thu-hút bốn bể và mọi dòng;

Hết thảy thuyền buồm nếu đi qua,

Có người đến đấy, nhiều đều chết.

Lửa trời bừng-bừng như núi chất,

Tiếng nổ rền vang như sấm động;

Mọi người xa thấy tâm kinh sợ,

Kêu gào, đấm ngực bạch đại-sư.

Khi ấy Bồ-tát khởi từ-bi,

Không tiếc thân-mệnh, rủ cứu-hộ.

Gió dữ liền ngừng, gió thuận khởi,

Qua nơi hiểm-nạn, đến bảo sở.

Đều được ngọc quý, tới bỉ-ngạn,

Khỏi hẳn bần-cùng hưởng an-lạc.

Bồ-tát xuất-gia cũng như thế,

Thân-cận chư Phật như thương-chủ.

Thoát hẳn nhà lửa lên chân-giác,

Cũng như thương-nhân về bản-xứ.

Nhà cửa sở-hữu của thế-gian,

Như cửa bể lớn: Tẫn-mã kia.

Xuất-gia thường chán về tại-gia,

Không nhiễm thế-gian, rời năm dục;

Ưa chốn không-nhàn tâm bất-động,

Khéo suốt lý chân-diệu rộng sâu.

Hoặc ở trong làng xóm nhân gian,

Như ong hái hoa không chút tổn;

Trong bốn uy-nghi[40] thường lợi-vật,

Không tham thế-lạc và tiếng khen.

Trong miệng thường thốt giọng dịu-dàng,

Ác-ngôn thô-bỉ dứt tương-tục;

Biết ơn, trả ơn tu nghiệp thiện,

Mình, người đều được nhập “chân-thường”.[41]

 

Bấy giờ, Trưởng-giả Trí-Quang và các Trưởng-giả khác tất cả một vạn người, tuy khác miệng nhưng cùng một giọng bạch Phật rằng: “Lành thay, đức Thế-Tôn! Hiếm có thay, đấng Thiện-thệ! Đúng như thế! Đúng như thế! Thế-Tôn nói ra chính-pháp vi-diệu đệ nhất, phương-tiện khéo-léo, làm lợi-ích cho chúng-sinh. Như Phật nói, chúng tôi nay đều biết: Nhà cửa thế-gian cũng như lao-ngục, hết thảy ác-pháp từ nhà cửa ấy sinh ra; người xuất-gia thực có vô-lượng vô-biên thắng-lợi, bởi thế chúng tôi rất thích xuất-gia, cho hiện-tại, đương-lai thường được hưởng những pháp-lạc”.

 

Đức Thế-Tôn bảo các Trưởng-giả: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông phát tâm muốn xuất-gia! Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, xuất-gia tu đạo một ngày một đêm, hai trăm vạn kiếp không phải sa-đọa vào ác-thú, thường được sinh vào chốn lành, được hưởng sự vui thắng-diệu, gặp được thiện-tri-thức vĩnh-viễn tâm không thoái-chuyển, được gặp chư Phật thụ Bồ-đề-ký, ngồi tòa Kim-cương, thành đạo chính-giác. Song, người xuất-gia trì-giới rất khó, người trì-giới là “chân xuất-gia”.

 

Lúc đó, các Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi giữ giới, tu các phạm-hạnh, nguyện, chúng tôi chóng ra khỏi bể khổ sinh-tử, nguyện, chúng tôi chóng vào được bảo-cung thường-lạc, nguyện, chúng tôi rộng độ hết thảy chúng-sinh, nguyện, chúng tôi chóng chứng vô-sinh-trí!”.[42]

 

Khi ấy, đức Thế-Tôn bảo Bồ-tát Di-Lặc và Văn-Thù-Sư-Lỵ: “Các Trưởng-giả này Tôi phó-chúc cho các ông, các ông khuyến họ xuất-gia và thụ-trì tịnh-giới!”

 

Liền đó, chín nghìn người đối trước Bồ-tát Di-Lặc xin xuất-gia tu đạo, thụ-trì giới-luật của Phật; bảy nghìn người đối trước Bồ-tát Văn-Thù xuất-gia tu đạo, thụ giới cấm của Phật. Những người ấy được xuất-gia rồi, thành-tựu pháp-nhẫn, vào cảnh-giới bí-mật của Như-Lai, không còn bị thoái-chuyển. Vô-lượng vạn người phát tâm Bồ-đề đến ngôi Bất-thoái-chuyển. Vô số Nhân, Thiên xa-lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.[43]

 

TOÁT-YẾU

III.- PHẨM YẾM XẢ

 

Sau khi Trưởng-giả Trí-Quang nghe, ngộ sự tri-ân, báo-ân, liền xin Phật xuất-gia, tu-đạo. Song, ông còn hoài nghi về sự hơn kém của Bồ-tát xuất-gia, Bồ-tát tại-gia ! Ông dẫn chứng: “Có một thời ở thành Tỳ-da-ly đức Phật nói: Phật-pháp lấy “tâm” làm chủ và khen ông Vô-cấu-xưng là người tuy ở tại gia nhưng cũng như là Chân-sa-môn, Chân-tỷ-khưu. Lại có một thời ở trúc lâm tịnh-xá Ca-lan-đà, đức Phật bảo lục-quần Tỷ-khưu là: “vào bể Phật-pháp lấy “tín” làm căn-bản, qua sông sinh-tử lấy “giới” làm thuyền bè. Người xuất-gia mà thân tâm không thực-hành hạnh viễn-ly, không gọi là xuất-gia. Trái lại, người tại-gia phát-tâm vô-thượng có tâm đại-từ-bi là “Chân-viễn-ly”.

 

Do đó, ông nghĩ: “Bồ-tát xuất-gia không bằng Bồ-tát tại-gia. Như Luân-vương bỏ ngôi báu đi tu, làm cho Cung phi, Vương-tử, Đại-thần quyến-thuộc đau khổ. Như tịnh-tín-nam, nữ xuất-gia nhập đạo làm cho cha mẹ thân thuộc đau khổ. Như thế, là không làm lợi-ích chúng-sinh, lại làm nhiễu-hại chúng-sinh! Ông xin Phật chỉ-giáo”.

 

Đức Phật bảo ông Trí-Quang: “Ông nghĩ lầm, Bồ-tát xuất-gia hơn Bồ-tát tại-gia rất nhiều; Bồ-tát xuất-gia dùng trí-tuệ quán-sát tại-gia thấy có nhiều lỗi-lầm. Thân 5 uẩn của chúng-sinh trong thế-gian như căn nhà, bản-thức của chúng-sinh là chủ nhà. Nhà thế-gian ví như bể cả dung-nhận mọi dòng sông, vẫn không đầy-đủ; tâm tham cầu, tích-tụ của chúng-sinh cũng thế. Nhà thế-gian cũng như đá lửa, chỉ một chút lửa đốt cháy hết thảy; tâm tham cầu, không tri-túc của chúng-sinh, sinh lửa phiền-não, đốt cháy thiện-công-đức. Nhà thế-gian như kho báu hang sâu, người ham của thiệt mạng; chúng-sinh ở đời không gắng tu thiện-căn, vô-thường vụt đến, tùy nghiệp chịu báo, chôn mất hết cả. Nhà thế-gian như món ngon lẫn độc, cấp thời cứu chữa; chúng-sinh nhận thấy thân-quyến đắm chìm trong sinh-tử, vội phát-tâm đồng-thể đại-từ-bi, cầu bồ-đề để cứu-độ. Nhà thế-gian như gió lớn, thổi mãi không ngừng; vọng-tưởng điên-đảo của chúng-sinh, gây nhân cảm-quả trong năm đường không dứt, chỉ có tu-tập “vô-tướng chính-quán” mới diệt trừ được. Nhà thế-gian là chỗ sinh ra phiền-não, chúng-sinh do chấp “ngã, ngã-sở” sinh ra phiền-não đau khổ – “Thân là gốc khổ”. Nhà thế-gian như ông Trưởng-giả trong một nước lớn, có nhiều của báu, lửa cháy tiêu tan, chúng-sinh mê-muội không theo làm thiện, tạo nhiều nghiệp ác, phải sa-đọa chịu nhiều khổ-não. Nhà thế-gian ví như đại mộng; chúng-sinh trong sinh-tử hữu-vi, chưa được phận-vị chân-giác, chỉ là ở trong chiêm-bao hư-vọng của sinh, lão, bệnh, tử. Nhà thế-gian như qua bể Tẫn-mã cầu mong khỏi cháy, chúng-sinh ở trong nhà lửa thân-cận chư Phật, bạn lành sẽ được tới chốn thanh-lương.

 

Sau khi nghe đức Phật nói về ý-nghĩa yếm-xả trên, các ông Trưởng-giả cùng 10.000 người khác vui-vẻ xin Phật xuất-gia. Đức Phật tán-thán và nói: “nếu ai phát-tâm xuất-gia một ngày một đêm, trong hai trăm kiếp không phải sa-đọa ác-thú, được sinh chốn lành, được vui-vẻ, gặp Phật thụ-ký và sau sẽ thành Phật!”.

 

Tiếp đó các ông Trưởng-giả phát-nguyện: “Nguyện chóng ra khỏi sinh-tử, chóng vào bảo-cung thường-lạc, độ hết chúng-sinh và chứng vô-sinh-trí”.

 

Đức Phật liền giao cho Bồ-tát Di-Lặc và Văn-Thù tế-độ cho các ông ấy xuất-gia và khuyên trì tịnh-giới. Được xuất-gia, thụ-giới các ông ấy thành-tựu pháp-nhẫn vào nơi cảnh giới bí-mật của Như-Lai không thoái-chuyển. Vô-lượng vạn người khác phát-tâm Bồ-đề bất-thoái và vô số Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu được pháp-nhãn-tịnh.

 


[1] Yếm-xả: Chán-ngán và giũ bỏ hết thảy ái-ân, dục-lạc thế-gian, xu-hướng giác-đạo, thành vô-thượng-giác.

[2] Lục-quần Tỷ-khưu ác-tính: Khi Phật tại thế có sáu vị Tỷ-khưu có tính tệ-ác, kết bè đảng với nhau làm nhiều việc trái uy-nghi, nên gọi là “Lục-quần Tỷ-khưu”. Tên 6 vị này nhiều kinh, luật, luận nói không giống nhau. Nay y vào bộ luật Tỳ-Nại-Gia thì là: 1/ Nan-đà (Nanda). 2/ Ô-ba-nan-đà (Upananda). 3/ A-thuyết-ca (Asvaka). 4/ Bổ-nại-bà-tố-ca (Punarvasu). 5/ Xiển-đà (Shanda). 6/ Ô-đà-di (Udàyin).

[3] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ, Trưởng-giả Trí-Quang” đến chỗ “lợi-ích hết thảy!” là nói về ông Trí-Quang xin Phật xuất-gia. Nhưng, ông còn nghi-ngờ, cho Bồ-tát tại-gia hơn Bồ-tát xuất-gia. Ông viện dẫn chứng cớ và xin Phật chỉ giáo.

[4] A-nốc: Chính gọi là A-nốc-đạt-trì hay A-na-bà đạt-đà (Anavatapta) Tàu dịch là “Vô-nhiệt-não” (không có sự nhiệt-não). Đây là tên một cái hồ (ao) tại dãy Hy-mã-lạp-sơn, rộng chừng 800 dậm.

[5] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó” đến chỗ “đại pháp-luân” đức Phật chỉ dẫn sự lầm-lỗi của tại-gia là không biết chán, biết đủ cho ông Trí-Quang nghe. Và Ngài khuyên nên xuất-gia học đạo, để báo-ân và độ-sinh.

[6] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “viên-mãn”, đức Phật ví lòng tham của báu ở đời như chút lửa, làm cháy tất cả.

[7] Phật-tử: Có nghĩa là: 1/ Chúng-sinh thụ-giới của Phật nên gọi là Phật-tử, vì sẽ thành Phật. 2/ Tên thông-thường của các vị Bồ-tát, vì các vị y vào Thánh-giáo của Phật, mà sinh Thánh-đạo và bởi nối-dõi Phật-chủng không dứt. 3/ Gọi chung cho tất cả chúng-sinh, vì chúng-sinh đều đủ Phật-tính. Phật-tử lại chia làm ba hạng: 1/ Ngoại-tử: Phàm-phu chưa nối-dõi sự-nghiệp của Phật. 2/ Thứ-tử: Thanh-văn, Duyên-giác không sinh từ đại-pháp của Phật. 3/ Chân-tử: Các Bồ-tát chính sinh từ đại-pháp của Phật.

[8] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “mọi loài”, đức Phật ví kẻ ngu-si ham đắm sự vui sướng ở đời, chết đi phải khổ, cũng như của báu trong hang do tham của mà mất mệnh.

[9] Ca-Lâu-La bí-mật quán-môn: “Ca-lâu-la” là tên một loài chim mà Tàu dịch là “Kim-sí”. Loài chim này ăn rồng, rắn độc hay thất-bảo đều tiêu hết. Vì vậy, lấy tên chim đặt cho một môn quán-tưởng bí-mật, dụng ý làm tiêu-tan những thứ thuốc độc.

[10] A-già-đà (Agada): Tên một thứ thuốc, Tàu dịch là “Vô giá, Bất-tử…”.

[11] Đồng-thể đại-từ-bi: Quán hết thảy thân chúng-sinh cùng với thân mình đồng một bản-thể, đồng một thân-thể, mà khởi ra tâm gỡ khổ, cho vui.

[12] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “Phật Bồ-đề”, đức Phật nhận thấy chúng-sinh ở thế-gian như ăn phải thuốc mà không biết. Muốn độ sinh, cần phải mạnh-mẽ phát tâm đại-bi, cầu đạo Bồ-đề, rồi trở lại cứu-độ.

[13] Ác-giác: Tư-tưởng ác. Đại-thừa nghĩa chương viết: “Tư-tưởng theo tâm tà là “giác”, trái với chính-lý là “ác”.

[14] Ba thiện-căn: Không tham, không sân và không si. Trái lại là ba căn bất thiện

[15] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “không còn” đức Phật thấy tâm chúng-sinh vô-thường, hay chấp trước, tưởng càn, gây nghiệp mà sinh ra phiền-não. Chỉ có thấy biết chân-chính, tu 3 thiện-căn, và tín v.v… sẽ dẹp được phiền-não, sẽ chứng Thánh-quả lần lần và đến thành Phật.

[16] Vô-tướng chính-quán: “Vô-tướng” là nói chân-lý dứt hẳn sắc-tướng không còn hình bóng gì. “Vô-tướng chính-quán” là một môn quán-tưởng chân-chính, quán tính các pháp không có thể, tướng, tức không-tướng. Thấy có tướng, đó là do vọng-tình của phàm-phu. Bỏ vọng-pháp, không có tướng, cũng như mắt sáng không thấy hoa đốm trên không vậy.

[17] Bốn đức: Thường, lạc, ngã, tịnh.

[18] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “Phật đạo”, ông Trí-Quang hỏi về môn tu, đức Phật dạy cần tu về môn quán “vô-tướng” là dẹp được vọng-tưởng.

[19] Bốn quỉ điên-đảo: Tức là 4 thứ vọng-kiến điên-đảo. 4 thứ này chia làm hai hạng: 1/ Đối với phàm-phu trong sinh-tử là vô-thường (không thường), vô-lạc (không vui), vô-ngã (không ta), vô-tịnh (không sạch) lại chấp là thường, lạc, ngã, tịnh. 2/ Đối với Nhị-thừa, trong Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh lại chấp là vô-thường, vô-lạc, vô-ngã, vô-tịnh.

[20] Năm thứ nhân vô-gián: Tức là 5 tội nghịch (ngũ-nghịch)

[21] Hoặc, nghiệp, khổ-quả: Tức là phiền-não (hoặc), nghiệp-nhân và khổ-quả.

[22] Năng, sở: Trong kinh, luận hay dùng chữ “Năng” và “Sở” là chỉ cho khi pháp (sự vật) đối-đãi nhau. Bất cứ nó (năng, sở) liên-hệ với một chữ gì và ở trường-hợp nào, chữ “Năng” đều có ý-nghĩa là chủ-động, chủ quan, chủ thể v.v…, chữ “Sở” đều có ý-nghĩa là bị động, khách-quan, đối-tượng v.v…

[23] Tính, tướng: Tính” là chỉ cho tự-thể của các pháp (sự-vật) ở bên trong và không thay đổi được; “tướng” là tướng-mạo hiện ra ở bên ngoài, có thể nhận thức, phân-biệt được

[24] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy” đến chỗ “Bồ-đề-quả” là Phật dùng lời kệ nói lại ý-nghĩa “nhà đời như gió dữ” và “vô-tướng” ở trên. Đại ý đức Phật thương chúng-sinh không hiểu biết mà chấp càn trăng trong nước, chấp có năng, sở, tính, tướng, nam, nữ để rồi tạo nghiệp, chịu quả khổ, nhưng thực ra nó chỉ là chân-tính mà thôi. Ở nơi thanh-vắng chóng chứng Bồ-đề.

[25] Ngã, ngã-sở: “Ngã” (ta) tức là tự thân mình; “Ngã-sở” tức là những sự vật sở-hữu ngoài thân mình.

[26] 84.000 cửa trần-lao: 84.000 là con số tượng trưng mà Ấn-độ hay dùng để chỉ cho những vật có số nhiều. “Trần-lao” là tên riêng của phiền-não. Đây là chỉ cho số nhiều của phiền-não.

[27] Vô-ngã (Anàtman): Cũng gọi là “phi-ngã”. “Ngã” là cái chủ-thể thường hằng, duy nhất và có tác-dụng chủ-tể. Đối với thân người chấp có cái ấy gọi là “nhân-ngã”, đối với các pháp chấp có cái ấy, gọi là “pháp-ngã”, đối với tự mình chấp có cái ấy, gọi là “tự-ngã”, đối với người khác chấp có cái ấy, gọi là “tha-ngã”. Song, thân người do năm uẩn giả-hợp, là ngã-thể không thường hằng và không duy-nhất; “pháp” do nhân-duyên sinh, cũng không có ngã-thể thường hằng, duy-nhất. Đã không có nhân-ngã, không có pháp-ngã, thời không có tự-ngã, tha-ngã. Như thế rốt-ráo không có “ngã”, là chân-lý cứu-cánh vậy.

[28] Vô-thường (Anitya): Hết thảy pháp (sự vật) trong thế-gian, sinh, diệt, đổi dời từng sát-na không ngừng, gọi đó là “vô-thường”. Vô-thường có hai: 1/ Sát-na vô-thường: Từng sát-na, sát-na (thời-gian rất ngắn) có sự biến-hóa: sinh, trụ (ở), dị (khác), diệt (chết, mất). 2/ Tương-tục vô-thường: thời-gian nối-tiếp, mà trong đó vẫn sinh, trụ, dị, diệt.

[29] Nhất niệm: Có 2 thuyết: 1/ Chỉ cho thời-gian rất ngắn. Thời-gian rất ngắn này các kinh, luận nói khác nhau, nay y vào kinh Nhân-vương bát-nhã quyển thượng nói thì: “90 sát-na là một niệm, một sát-na trong một niệm ấy trải qua 900 lần sinh diệt”. 2/ Sự tư-niệm (nhớ nghĩ) phút đầu tiên đối với cảnh-vật.

[30] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “ba cõi” là quán thế-gian nhiều phiền-não, do phiền-não mà sinh ra nhiều khổ, nhiều khổ do tham-cầu, chấp-ngã, ngã-sở mà ra. Xuất-gia tu đạo, được giải-thoát và chứng vô-thượng-giác.

[31] Là bạn không mời: Bồ-tát coi chúng-sinh là bạn chí-thân, chúng-sinh không cần phải thỉnh-cầu, Bồ-tát vẫn đem đức đại-bi làm lợi-ích cho chúng-sinh.

[32] Bờ kia: Tiếng Phạm gọi là Ba-la (Pàra) Tàu dịch là “bỉ-ngạn” (bờ bên kia). Tức là chỉ cho “Niết-bàn”. Cảnh-giới sinh-tử ví cho thử ngạn (bờ bên này). Nghiệp phiền-não ví cho trung-lưu (giữa dòng). Niết-bàn ví cho bỉ-ngạn (bờ bên kia).

[33] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “thanh-tịnh” đức Phật thương thế-gian ham-mê năm dục, tạo mọi nghiệp, không nghe lời dạy, phải chịu sự đau khổ, ví như con ông Trưởng-giả xưa kia chẳng hạn. Cần tu tịnh-hạnh, sẽ chứng Bồ-đề.

[34] Phận-vị chân-giác: Quả-vị giác-ngộ cứu-cánh của Phật, đặc-biệt hơn Tương-tự-giác, Tùy-phận-giác của Bồ-tát.

[35] Tứ-trí đại-viên-minh: 4 thứ trí-tuệ rất sáng-sủa và viên-mãn: Thành-sở-tác-trí, Diệu-quán-sát-trí, Bình-đẳng-tính-trí và Đại-viên-kính-trí.

[36] Chân-diệu-giác: Tức là quả-vị vô thượng chính giác của Phật. Quả-vị này đầy-đủ tự-giác, giác-tha, giác-hành viên-mãn, chứng nhập giác-thể chân-như không thể nghĩ, bàn được.

[37] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, đến chỗ “tu học”, đức Phật ví thế-gian như đại-mộng, có đó rồi không đó, chỉ là một màn giả-dối, thế mà chúng-sinh ham-đắm để phải luân-hồi mãi. Hiểu lẽ vô-thường, phát tâm Bồ-đề, tu đạo giải-thoát, sẽ chứng diệu-quả.

[38] Bể Tẫn-mã: Tên một cửa bể xưa. Theo Ngài Thái-Hư thời cửa bể này có lẽ thuộc Hồng-hải, là hải-đạo từ Viễn-đông qua Phi-châu sang Âu-châu.

[39] Tứ-quả, Tứ-hướng: Tứ-quả: 4 Thánh-quả của Thanh-văn: 1/ Tu-đà-hoàn-quả (Srotàpanna-phala): Tàu dịch là “Nhập-lưu, Nghịch-lưu, Dự-lưu”: Đều có nghĩa là vị tu-hành đi ngược dòng sinh-tử, phàm-phu, mà đã dự vào dòng Thánh-đạo. 2/ Tư-đà-hàm (Sakrdàgami): Tàu dịch là “Nhất-lai”: Nghĩa là, vị tu-hành đoạn cửu-địa tư-hoặc, được 6 phẩm trước, còn 3 phẩm sau, còn phải thụ-sinh trong Dục-giới một lần nữa, nên gọi là “Nhất-lai”. 3/ A-na-hàm (Angàmi) Tàu dịch là “Bất-lai, Bất-hoàn”. Nghĩa là vị tu-hành đã diệt hết hoặc-nghiệp cõi Dục không phải trở lại lần nữa. Và, sau chỉ phải sinh lên cõi Sắc, cõi Vô-sắc mà thôi. 4/ A-la-hán (Arahat) Tàu dịch là “Bất-sinh” cũng có chỗ gọi là “Vô-sinh”. Nghĩa là, quả-báo trong một đời diệt hết, được vào Niết-bàn mãi mãi, không phải tái sinh trong 3 cõi.

Tứ-hướng: “Hướng” có nghĩa là hướng-tiến. Đây là 4 địa-vị y-cứ từ chỗ nguyên-nhân tu-hành, hướng-tiến tới địa-vị kết-quả: 1/ Tu-đà-hoàn-hướng. 2/ Tư-đà-hàm-hướng. 3/ A-na-hàm-hướng. 4/ A-la-hán-hướng.

[40] Bốn uy-nghi: Đi, đứng, ngồi, nằm.

[41] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, thiện-nam-tử!” đến chỗ “chân-thường”, đức Phật ví thế-gian như cửa bể bốc lửa dữ, ai qua đấy đều chết, duy chỉ có gặp bạn lành, thân-cận Phật-pháp, thực-hành nghiệp thiện, biết ơn, trả ơn không nhiễm thế-gian, như ong hái hoa không làm tổn sắc hương… mới thoát khỏi được và sẽ tới chốn an-vui.

[42] Vô-sinh-trí: Một trong mười trí. Trí này thuộc bậc La-hán lợi-căn, bậc này đã biết sự đoạn-hoặc, chứng quả, tu nhân rồi, lại không cần biết đến sự đoạn, chứng, tu ấy nữa, nên gọi là “vô-sinh”. Là trí-tuệ tự-giác lẽ vô-sinh ấy, mà biết ta không cần lại phải biết về sự đoạn, chứng, tu nữa.

[43] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “pháp-nhãn-tịnh” nói về các Trưởng-giả hiểu pháp vi-diệu, xin Phật xuất-gia; đức Phật giao cho 2 Bồ-tát: Di-Lặc, Văn-Thù tế-độ và do chỗ tế-độ ấy, họ được chứng-quả.

V.- PHẨM A-LAN-NHÃ

 

Bấy giờ, trong pháp-hội có một vị Đại-bồ-tát tên là THƯỜNG-TINH-TIẾN nhờ uy-thần của Phật, liền từ tòa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất, chắp tay cung-kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói nơi A-lan-nhã là Bồ-đề đạo-tràng, nếu có người nào phát tâm cầu Bồ-đề, không nên lìa bỏ nơi A-lan-nhã ấy. Trong nơi A-lan-nhã ấy có nhiều chúng-sinh như: hổ, báo, sài-lang, trùng-độc, thú-dữ cho đến chim bay, thợ săn, không biết đến Như-Lai, không nghe chính-pháp, lại không kính Tăng, các chúng-sinh ấy không tu lại thiện-căn, xa lìa sự giải-thoát, thế mà, làm sao Như-Lai lại khiến người tu-học ở nơi A-lan-nhã ấy để chóng được thành Phật? Kính xin Thế-Tôn vì các chúng-sinh phân-biệt, giải-thuyết, giải-quyết cho sự ngờ vực ấy, làm cho chúng-sinh được vui-vẻ phát tâm Bồ-đề, khiến họ không bị thoái-chuyển!”

 

Đức Phật bảo Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện-nam-tử! Ông đem lòng đại-từ hỏi Như-Lai về sự thanh-tịnh giải-thoát, lợi-ích cho những người tu-hành mai sau, công-đức ấy vô lượng. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ nghĩ khéo! Nay Tôi vì ông phân-biệt diễn nói về các công-đức của nơi A-lan-nhã!” Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch: “Dạ, bạch Thế-Tôn! Con nguyện muốn được nghe!”

 

Đức Phật bảo Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến: “Như ông nói nơi A-lan-nhã được thành bậc Thánh nhưng, trong rừng núi nhiều chúng-sinh bởi nhân-duyên gì, không được thành Phật. Nghĩa ấy không phải. Sở-dĩ thế là sao? – Các chúng-sinh kia không biết Tam-bảo, không biết chán, đủ, không biết thiện, ác; ở trong rừng núi tuy có nhiều trân-bảo của thế-gian, mà họ vẫn không biết được chỗ ẩn-náu của nó. Đại-bồ-tát không như thế, Thiện-nam-tử! Bồ-tát biết Phật, Pháp, Tăng-bảo là của báu xuất-thế-gian, bảy ngọc báu ẩn-náu là của báu thế-gian, các vị đều phân-biệt được mọi sắc-tướng của nó, biết chỗ ở của nó nhưng, không tham-cầu, cũng không thích thấy, huống là còn nhặt lấy?

 

Bồ-tát xuất-gia phát tâm kiên-cố không tiếc thân-mệnh, lìa bỏ cha mẹ, lục-thân quyến-thuộc, thích ở nơi rừng núi, thường nghĩ: “Giả-sử khi hết kiếp, cõi tam-thiên đại-thiên này bảy mặt trời mọc ra, hỏa-tai bừng cháy, thiêu-đốt muôn vật, mặt trời, trăng, sao, núi Tu-di, bảy núi Kim-sơn, núi Thiết-vi…, lúc thời đến đều bị tiêu-tan; ngay đến cõi cao nhất ba cõi là cõi trời Phi-phi-tưởng, khi hết tám vạn kiếp lại sinh xuống cõi đất; Chuyển-luân Thánh-vương có nghìn con vây quanh, thất-bảo quyến-thuộc và bốn châu đều phục, mà khi quả-báo của thọ-mệnh hết cũng không dừng được chốc lát. Nay ta cũng thế, giả-sử tuổi thọ đủ trăm năm, bảy báu đầy-đủ, hưởng-thụ mọi sự khoái-lạc nhưng, sứ-giả Diễm-ma đến là không khỏi được vô-thường. Thấy thế nên suy-nghĩ rằng: “Nay ta không gì bằng thay thế cha mẹ ta cùng các chúng-sinh tu hạnh Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại trong ba cõi độ cho cha mẹ”. Phát-nguyện ấy rồi ở nơi Lan-nhã vì các chúng-sinh phát ra những thệ-nguyện rộng lớn. [1]

 

Bồ-tát thượng-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ở nơi đất trống, luôn luôn ngồi không nằm”. Bồ-tát trung-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ngồi ở dưới cây có lá che rợp, không nằm”. Bồ-tát hạ-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ngồi trong nhà đá, không nằm”.

 

Ba căn trong Bồ-tát xuất-gia như thế, ngồi trong ba tòa [2] vừa nói, đều nghĩ: “Bồ-tát thuở quá-khứ ngồi trên tòa này, chứng được Đà-ra-ni-môn công-đức tự-tại; các Bồ-tát trong đời đã qua, hiện nay và mai sau, đều ở trên tòa này được Đà-ra-ni tu chứng tự-tại; ta cũng như thế, nay ta ngồi nơi này quyết sẽ thành-tựu Đà-ra-ni, được tự-tại. Nếu chưa thành-tựu và được tự-tại, ta quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã!”

 

Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được bốn tâm vô-lượng (từ, bi, hỷ, xả) quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được năm sức thần-thông, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được sáu pháp Ba-la-mật, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được phương-tiện thiện-sảo, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa điều-phục được hết thảy hữu-tình, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được bốn nhiếp-pháp, [3] quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được pháp lục-niệm [4] quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được “trí-tuệ, đa-văn”, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được sức tin bền-vững, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt trừ được sáu mươi hai kiến, [5] quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được tám chính-đạo, [6] quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt hẳn được tập-khí của phiền-não-chướng, sở-tri-chướng, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được trí-tuệ vi-diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được tâm Đại-bồ-đề, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã, Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được hằng-sa Tam-muội, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được vô-lượng thần-thông, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát dùng sức thần-thông nơi đại-định (định-thông-lực) thấy mười tám “không” [7] mà tâm không kinh, đại-sự như thế nếu chưa thành-tựu, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được Nhất-thiết-trí, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được Nhất thiết-chủng-trí, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được ba mươi bảy Bồ-đề phận-pháp, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được muôn hạnh trong Thập-địa, [8] quyết không lìa-bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát ở trong trăm kiếp chưa tu-hành được về nghiệp-quả của tướng tốt, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được bốn trí của Như-Lai, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được sự chứng Đại-niết-bàn, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát ngồi tòa Kim-cương mà chưa chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, quyết ngồi luôn không đứng dậy. Thế là Bồ-tát thực-hành hạnh A-lan-nhã.

 

Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia phát tâm Bồ-đề, vào trong rừng núi, ngồi trên ba tòa vừa nói, mài luyện thân tâm, trải bao đại-kiếp, tu muôn hạnh, chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.

 

Lúc đó, đức Thế-Tôn nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:

 

Thời xưa nhân-địa các Như-Lai,

Ở A-lan-nhã, lìa trần-tục;

Đoạn, dẹp phiền-não, sở-tri-chướng,

Vượt qua ba cõi chứng Bồ-đề.

Bồ-tát quá-khứ tu hành-nguyện,

Lấy A-lan-nhã làm nhà cửa;

Trong vô-số kiếp tu phúc-trí,

Cứu-cánh Thập-địa chứng tam thân.

Bồ-tát vị-lai cầu Phật-quả,

Vào trong núi sâu tu diệu-hạnh;

Dứt trừ hai chướng, nhân sinh-tử,

Sẽ chứng tam-không chân giải-thoát.

Mười phương hiện-tại các Bồ-tát,

Tu-trì muôn hạnh ở “không-nhàn”;

Không tiếc thân-mệnh cầu Bồ-đề,

Niệm niệm chứng được vô-sinh-trí.

Nếu muốn chóng chứng Tam-muội sâu,

Nhân tu diệu-định, siêu-thần-thông;

Nơi A-lan-nhã tâm không rộn,

Biến được đại-địa thành thất-bảo.

Nếu muốn dạo chơi khắp mười phương,

Đi lại tự-tại vận thần-thông;

Cúng-dàng chư Phật lợi quần-sinh,

Ở nơi Lan-nhã không sợ-hãi.

Muốn chứng trí như-huyễn hữu, vô, [9]

Hiểu thấu các pháp bản-lai-không;

Ở A-lan-nhã, Bồ-đề-tràng,

Khiến chúng, cũng vào chân-giải-thoát. [10]

Nếu muốn chóng được như-như-trí,

Chứng-hội các pháp như-như-tính;

Hết đại-kiếp-hải lợi quần-sinh

Thường ở Lan-nhã nơi không-tịch.

Nếu người muốn được nan-tư-trí,

Tu-di thu vào trong hạt cải;

Tu-di, hạt cải tướng bất-hoại,

Vào nhà thần-thông trong Lan-nhã. [11]

Nếu người muốn được vô-ngại-trí,

Một tiếng diệu-âm dùng thuyết-pháp;

Tùy loại chúng-sinh đều được thoát,

Nên ở Lan-nhã tu diệu-quán.

Nếu muốn không sinh và không diệt,

Ứng-hiện quốc-độ khắp mười phương;

Phóng quang thuyết-pháp lợi quần-sinh,

Chớ lìa Lan-nhã nhà không-tịch.

Nếu lấy ngón chân ấn đại-địa,

Khiến cõi mười phương đều chấn-động;

Thấy tướng, phát tâm trừ tà-kiến,

Nên ở Lan-nhã quán tự-tâm. [12]

Nếu muốn trong khi Phật xuất-hiện,

Tối-sơ kính dâng vi-diệu-cúng;

Thí-ba-la-mật đều viên-mãn,

Ở A-lan-nhã tu diệu-hạnh.

Nếu người, khi Phật nhập Niết-bàn,

Tối-hậu cúng-dàng thành nghĩa “Thí”;

Dứt hẳn nghèo-cùng và tám nạn,

Thệ-nguyện ở trong A-lan-nhã.

Nếu muốn phúc-trí đều viên-mãn,

Chư Phật mai sau sắp Niết-bàn;

Nhận nguyện rộng lớn, Phật giao cho,

Ở A-lan-nhã tu lục niệm.

Sau khi chư Phật nhập Niết-bàn,

Kết tập di-pháp độ chúnh-sinh;

Trợ-tán chân-thừa của chư Phật,

Ở nhà “không-tịch” trong Lan-nhã.

Đại-sư Nhân, Thiên: Đấng Thế-Tôn,

Khó thấy, khó gặp hơn Ưu đàm;

Nếu muốn yết-kiến, sửa cúng-dàng,

Nên ở Lan-nhã, bi-nguyện rộng.

Mọi báu tuy tôn, PHÁP tôn hơn,

Thành Phật, hóa lợi do đây cả;

Như người muốn được thường nghe pháp,

Ở A-lan-nhã tu phạm-hạnh.

Đầu, từ thân này đến thân Phật,

Thường nguyện phát tâm hoằng chính-giáo;

Cho đến khi chưa được Bồ-đề,

Niệm niệm không bỏ A-lan-nhã.

Nếu người muốn báo ơn cha mẹ,

Thay thế cha mẹ phát thệ-nguyện;

Vào Bồ-đề-tràng trong Lan-nhã,

Ngày đêm thường tu về diệu-đạo.

Nếu muốn đời nay thêm phúc-trí,

Mai sau không đọa trong tám nạn;

Như thế, chúng-sinh phát thiện tâm,

Ở A-lan-nhã tu bi-nguyện.

Bồ-tát ba đời cầu chân-giác,

Được đạo Niết-bàn trong Lan-nhã;

Thế nên gọi là đại-đạo-tràng,

Thánh-chúng Tam-thừa đồng ở đó.

Bồ-tát chán khổ vào rừng núi,

Vì độ quần-sinh cầu Thánh-đạo;

Tự chưa thành Phật độ người trước,

Sáu đạo, bốn loài đều thương-xót.

Bồ-tát thượng-căn ở đất trống,

Bồ-tát trung-căn trong bóng lá;

Bồ-tát hạ-căn ở nhà đá,

Chưa thành Phật-đạo thường không nằm.

Bồ-tát ba đời ở Lan-nhã,

Được sức tự-tại Đà-ra-ni;

Nay ta thề cùng tâm Bồ-đề,

Chửa được Tổng-trì, ở đây mãi.

Được Đại-bồ-đề ở Lan-nhã,

Vào đại-viên-tịch do đây được;

Bồ-tát khởi phát trí kim-cương,

Đoạn hoặc, chứng chân [13] thành Diệu-giác.

Hóa rộng chúng-sinh qua làng xóm,

Vì cầu tịch-diệt ưa rừng núi;

Nhân muôn hạnh đầy, quả cũng trọn,

Hết thời vị-lai độ mọi loài.

 

Khi đức Thế-Tôn nói về hạnh A-lan-nhã của Bồ-tát xuất-gia như thế, vô lượng Bồ-tát chứng Cực-hỷ-địa; Hằng-hà-sa vô số Bồ-tát lìa hẳn tướng, dụng vi-tế phiền-não, chứng Bất-động-địa; bất-khả-thuyết, bất-khả-thuyết Đại-bồ-tát dứt hết thảy hoặc-chướng vào Diệu-giác-địa; vô-biên chúng-sinh phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác; chín vạn bảy nghìn chúng-sinh xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh. [14]

 

TOÁT-YẾU

V.- PHẨM A-LAN-NHÃ

 

Bấy giờ trong pháp-hội, Đại-bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Phật nói nơi A-lan-nhã là đạo-tràng Bồ-đề, ai phát tâm Bồ-đề không nên rời nơi ấy, sao các thú dữ, trùng-độc, chim bay, thợ săn ở ngay nơi ấy lại không nghe, biết Tam-bảo, tu lại thiện-căn, mà Phật cứ bảo người tu-học ở nơi ấy để chóng thành Phật?”

 

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Thường-Tinh-Tiến: “Ông nói thế không phải. Chính vì các chúng-sinh kia không biết chi cả. Ngay đến những thứ quý báu ở trong rừng, họ cũng không biết ở chỗ nào. Bồ-tát không thế. Bồ-tát biết Tam-bảo là của quý, nên của báu của đời Bồ-tát biết rõ-ràng nhưng không tham-cầu. Bồ-tát phát tâm kiên-cố, không tiếc thân-mệnh, bỏ tình thân-quyến, ở nơi rừng núi, thường nghĩ: “Ba cõi này có lúc cũng sẽ tiêu-tan, dù người ở ngôi tôn như Chuyển-luân-vương hay như thân ta sống đến trăm tuổi cũng không tránh khỏi vô-thường. Chi bằng ta thay cha mẹ cùng chúng-sinh tu hạnh Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại ba cõi độ cho hết-thảy”. Do đó, Bồ-tát thượng-căn ở nơi A-lan-nhã nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi luôn, ở nơi đất trống không nằm!” Bồ-tát trung-căn nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi dưới gốc cây không nằm!” Bồ-tát hạ-căn nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi trong hang đá không nằm!” Và, các Bồ-tát đều nghĩ: “Các Bồ-tát trong ba đời đều ngồi trên tòa này tu chứng Đà-ra-ni tự-tại, ta đây cũng quyết thành-tựu như vậy, nếu không, ta không lìa bỏ nơi này!”

 

Hoặc có các Bồ-tát nguyện không lìa bỏ nơi A-lan-nhã nếu chưa dứt trừ được 62 kiến, chưa dứt trừ được tập-khí của hai chướng. Hoặc có các Bồ-tát nguyện không lìa bỏ nơi A-lan-nhã nếu chưa viên-mãn được: 4 tâm vô-lượng, 5 sức thần-thông, 6 Ba-la-mật, 4 nhiếp-pháp, 8 chính-đạo, 6 niệm. Và, nếu chưa được thiện-sảo phương-tiện, chưa điều-phục được hết thảy hữu-tình, chưa được trí-tuệ đa văn, chưa được sức tin vững-chắc, chưa được trí-tuệ vi-diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, chưa được đại-bồ-đề-tâm, chưa được hằng-sa tam-muội, chưa được vô-lượng thần-thông, chưa thành-tựu định-thông-lực, thấy 18 không, chưa được Nhất-thiết-trí, Nhất-thiết-chủng-trí, chưa chứng được 37 bồ-đề-phận-pháp, chưa được hạnh-môn trong Thập-địa, chưa tu được nghiệp-quả về tướng tốt, chưa được 4 trí, chưa chứng Đại-niết-bàn và chưa thành vô-thượng-giác…quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.

 

Bồ-tát xuất-gia phát tâm bồ-đề ở trong rừng núi, mài luyện thân tâm, tu muôn hạnh trong nhiều đại-kiếp, để chứng vô-thượng chính-đẳng bồ-đề!

 

Khi đức Phật nói về hạnh A-lan-nhã, rất nhiều Bồ-tát hoặc chứng được Cực-hỷ-địa, hoặc chứng được Bất-động-địa, hoặc vào Diệu-giác-đạo và nhiều chúng-sinh hoặc phát tâm vô-thượng bồ-đề, hoặc xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.

 


[1] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “rộng lớn”, Bồ-tát Tinh-Tiến ngờ hỏi về việc nơi A-lan-nhã. Đức Phật nói rõ nghiệp-duyên chúng-sinh ở nơi ấy, để phá tan sự ngờ vực. Và, Ngài còn nói rộng về các Bồ-tát thích ở rừng núi, vì quán thấy lẽ khổ trong vô-thường, nên nguyện tu-hành để báo ân.

[2] Ba tòa: Ngồi nơi đất trống, dưới cây và nhà đá.

[3] Bốn nhiếp-pháp: Bốn phương-pháp thực-hành để dắt dẫn chúng-sinh, tin theo chính-đạo: 1/ Bố-thí. 2/ Ái-ngữ. 3/ Lợi-hành. 4/ Đồng-sự.

[4] Lục-niệm: Sáu phương-pháp nhớ nghĩ: 1/ Niệm-Phật: nghĩ đến Phật đủ mười hiệu, phúc-trí viên-mãn, mong muốn bằng Phật. 2/ Niệm-Pháp: nghĩ đến Pháp là lời nói của Phật có nhiều công-đức, mong muốn chứng được. 3/ Niệm-Tăng: nghĩ đến các vị Tăng, được vô-lậu-pháp, đầy-đủ ba học, làm ruộng phúc cho đời, mong tu hạnh ấy. 4/ Niệm-giới: nghĩ đến giới-hạnh có nhiều thế-lực ngăn trừ ác-pháp, mong gắng hộ-trì. 5/ Niệm-thí: nghĩ đến hạnh bố-thí có công-đức lớn, trừ bệnh sẻn tham, muốn đem thiện-pháp bố-thí cho chúng-sinh. 6/ Niệm-thiên: nghĩ đến các cõi trời, do tu thiện-căn, giới, thí, được sự khoái lạc tự nhiên, mong đủ công-đức ấy, sinh lên những nơi ấy.

[5] 62 Kiến: Sáu mươi hai thứ tà-kiến (tư-tưởng sai lầm) này, kinh, luận giải-thích không đồng, nay y vào phẩm Phật-mẫu trong kinh Bát-nhã phân-tích sự thiên chấp về: sắc, thụ, tưởng, hành, thức và thân, thần như sau:

A.- Chấp 5 uẩn thuộc quá-khứ : 1/ Sắc là thường. 2/ Sắc là vô-thường. 3/ Sắc là thường, vô-thường. 4/ Sắc là phi thường, phi vô-thường. Thụ, Tưởng, Hành, Thức 4 uẩn đều chấp 4 thứ như vậy nên thành 20 kiến.

B.- Chấp 5 uẩn thuộc hiện-tại: 1/ Chấp sắc (không-gian) là hữu biên (có bờ cõi, nghĩa là có chỗ cùng cực). 2/ Chấp sắc là vô-biên. 3/ Chấp sắc là hữu-biên, vô-biên, 4/ Chấp sắc là phi-hữu-biên, phi-vô-biên. Thụ, Tưởng, Hành, Thức 4 uẩn đều chấp 4 thứ như vậy, nên thành 20 kiến.

C.- Chấp 5 uẩn thuộc vị-lai: 1/ Chấp sắc là như khứ: chấp sắc thân sinh lại thế-gian này thế nào, khi chết đi, đến đời sau vẫn như thế. 2/ Chấp sắc là bất-như-khứ: quá-khứ không có chỗ lại, thời vị-lai cũng không có chỗ đi. 3/ Chấp sắc là như-khứ, bất-như-khứ: sắc thân, thức-thần hòa-hợp thành người, sau khi chết thức-thần đi, sắc thân không đi. 4/ Chấp sắc là phi như khứ, phi bất như khứ (câu này có nghĩa là đả phá câu thứ ba). Thụ, Tưởng, Hành, Thức bốn uẩn đều chấp bốn thứ như vậy, nên thành 20 kiến.

Chấp 5 uẩn trong 3 đời thành 60 kiến và thêm chấp về “thân”, “thần” là “nhất” (một) hay là “dị” (khác), mà thành 62 kiến.

[6] 8 chính-đạo: chính-kiến, chính-tư-duy, chính-ngữ, chính-nghiệp, chính-mệnh, chính-tinh-tiến, chính-niệm và chính-định.

[7] 18 không: “Không”: Các pháp do nhân-duyên sinh, rốt-ráo không có thực-thể, gọi là “không”. Lại là sự không-tịch của lý-thể. 18 Không: 1/ Nội không. 2/ Ngoại-không. 3/ Nội ngoại không. 4/ Không-không. 5/ Đại không. 6/ Đệ nhất nghĩa không. 7/ Hữu-vi không. 8/ Vô-vi không. 9/ Tất-cánh (rốt-ráo) không. 10/ Vô-thủy không. 11/ Tán không. 12/ Tính không. 13/ Tự-tính không. 14/ Chư pháp-không. 15/ Bất khả đắc không. 16/ Vô pháp không. 17/ Hữu pháp không. 18/ Vô pháp, hữu pháp không.

[8] Thập-địa: 1/ Hoan-hỷ-địa. 2/ Ly-khổ-địa. 3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/ Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa. 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là “địa”, vì thâu tóm các công-đức hữu-vi và vô-vi dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương-tựa chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi là “Địa”.

[9] Trí như-huyễn hữu, vô: “Như-huyễn” có nghĩa là vẫn giả mà giống như thực. Như những người làm trò, xuất hiện vai này, vai khác trên sân khấu, làm cho người ta trông thấy, nghe thấy như thực, gọi đó là “huyễn”. Sự huyễn tuy thấy, nghe như thực, mà chẳng phải thực. Vì vậy, đem ví-dụ cho hết thảy pháp (sự vật) là không thực. Nơi đây nói được trí-tuệ, quán-chiếu hữu (có), vô (không) là như-huyễn, nên gọi là “trí như-huyễn hữu, vô”.

[10] Đoạn trên, từ chữ “Muốn” đến chữ “thoát”, 4 câu kệ này nói: ở nơi Lan-nhã chứng được trí như-huyễn hiểu rõ các vật bản-lai là không và làm cho chúng-sinh cùng hiểu, để vào được nơi giải-thoát chân-thực.

[11] Đoạn trên từ chỗ “Nếu muốn chóng được như-như-trí”, đến chỗ “trong Lan-nhã”, 8 câu kệ này nói: ở nơi Lan-nhã sẽ chứng được chính-trí trong lý-thể của pháp-tính bình-đẳng không hai, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh mãi mãi. Chứng được chính-trí ấy, đầy-đủ sức thần-diệu không thể nghĩ bàn, quán-chiếu rõ thực-tính, thực-tướng của mọi pháp, như hạt cải là vật cực nhỏ, núi Tu-di là vật rất lớn, mà thực-tướng lý-thể của chúng vẫn bình-đẳng không hai. Do bình-đẳng không hai và do trí-lực vi-diệu, sự chuyển-biến qua nhau, không chi chướng-ngại nên nói “Tu-di thu vào trong hạt cải”.

[12] Đoạn trên từ chỗ “Nếu người” đến chỗ “tự tâm”, 12 câu kệ ấy cũng nói về: ở nơi Lan-nhã sẽ được trí-tuệ vô-ngại, cất tiếng vi-diệu nói pháp, chúng-sinh nghe được đều giải-thoát. Và, tùy duyên ứng-hiện độ-sinh, dùng thần-thông, tới đâu chỉ ấn ngón chân xuống đất là khắp nơi rung-chuyển, đất nước trang-nghiêm, chúng-sinh phát tâm theo chính-đạo.

[13] Đoạn hoặc chứng chân: Dứt trừ vọng-hoặc (phiền-não) chứng-nhập chân-trí.

[14] Đoạn trên, từ chỗ “Bồ-tát thượng căn phát-nguyện” (thuộc chính-văn), đến chỗ “được pháp nhãn-tịnh” này, đức Phật nói về các Bồ-tát ở nơi Lan-nhã, tùy theo trình-độ, tự lập những lời thệ-nguyện kiên-cố, nếu không chứng-quả không bỏ A-lan-nhã. Tiếp sang bài kệ cũng nhắc lại nghĩa trên và nói nhiều về trí-lực và lợi-ích vi diệu. Sau cùng, nói về chúng-hội nghe pháp được lợi.

Đến đây hết quyển thứ năm.

VI.- PHẨM LY THẾ-GIAN

 

Bấy giờ, Trong pháp-hội có một vị Đại-bồ-tát tên là NHẠO-VIỄN-LY-HẠNH nhờ uy-lực Phật, từ tòa đứng dậy, ở trong đại-chúng vì các Bồ-tát nói về A-lan-nhã-hạnh, phổ-cáo hết thảy các Bồ-tát rằng: “Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã nên nghĩ: Bởi nhân-duyên gì ta xa lìa thế-gian, tu diệu-hạnh thanh-tịnh ở A-lan-nhã? Các Phật-tử nhất tâm nghe kỹ! Tôi thừa Phật-lực, nay vì các vị phân-biệt diễn-thuyết về A-lan-nhã-hạnh!” Các Bồ-tát nói: “Quý hóa thay! Đại-sĩ đã vì bọn chúng tôi, cùng các vị cầu Bồ-tát-đạo đời mai sau, kính xin Đại-sĩ cứ nói cho, chúng tôi muốn nghe!”

 

Khi ấy, Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh bảo đại-chúng: “Hết thảy thế-gian có nhiều sự sợ-hãi, Bồ-tát xuất-gia vì chán những sợ-hãi nơi thế-gian ấy nên lìa bỏ cha mẹ cùng các quyến-thuộc, mà đến ở nơi A-lan-nhã, tu hạnh viễn-ly.

 

Thế nào là những sự sợ-hãi? – Hoặc có Bồ-tát nghĩ: “ “Ngã” (ta) là sợ-hãi, vì hết thảy phiền-não từ “ngã” sinh ra”. Hoặc có Bồ-tát nói: “Ngã-sở” (chỗ của ta) là sợ-hãi, vì hết thảy phiền-não từ “ngã-sở” sinh ra”. Hoặc có Bồ-tát nói: “Bảy thứ mạn” là sợ-hãi, vì các thứ mạn ấy đều không biết kính người thiện. Hoặc có Bồ-tát lấy “ba độc” kia làm sợ-hãi, vì do nó tạo ra vô lượng tội, phải sa-đọa vào các đường ác. [1]

 

Hoặc có Bồ-tát lấy “năm dục” kia làm sợ-hãi, vì đam-trước sự vui thế-gian, sẽ phải sa vào tám nạn. Ví như ở đời có con rắn gọi là “thất-bộ-xà”, đương khi nó hại người, sức độc của nó rất mạnh, người ta đi ra qua bảy bước (thất bộ) bị trúng độc, thân-mệnh chết ngay. Sức của một con rắn độc còn làm tổn-hại người như thế, huống là năm con rắn cùng làm sự thương-sát, thời sức độc mạnh thêm, thân-mệnh khó toàn được! Năm dục của đời cũng thế, mỗi một thứ dục-lạc đều có thể dẫn khởi ra tám vạn bốn nghìn vi-tế trần-lao, mê-hoặc kẻ ngu-phu, làm cho họ sa-đọa vào địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, cùng các tai-nạn khác, chịu đại-khổ-não, huống là tham-đắm đầy-đủ các món “trần” khác? Vô số chư Phật như số cát sông Hằng ra đời, thuyết-pháp giáo-hóa, thời-gian vun-vút như ánh-sáng qua chỗ hở nhanh-chóng, mà kẻ ngu-phu hoàn-toàn không được trông thấy, vì thường ở trong các đường ác như ở nhà mình, ở trong nơi không được thong-thả như xem trong vườn hí-lạc. Thời quá-khứ có đức Phật muốn khiến chúng-sinh chán bỏ năm dục mà nói bài kệ rằng:

 

Ví như phi-nga thấy ánh lửa,

Bởi yêu lửa quá, đua nhau vào;

Không biết tính lửa có sức cháy,

Bỏ mệnh trong lửa đành tự đốt.

Phàm-phu trên đời cũng như thế,

Ham-thích sắc đẹp đi tìm-tòi;

Không biết sắc đẹp nhiễm vào người,

Lại bị lửa đốt, mọi khổ tới.

Ví như đàn hươu trong rừng-rú,

Ham được cỏ ngon nuôi sống mình;

Thợ săn giả tiếng con hươu mẹ,

Đàn hươu trúng tên đều chết cả.

Phàm-phu trên đời cũng như thế,

Tham đắm mọi tiếng nghe vừa ý;

Không biết tiếng kia nhiễm vào người,

Khổ báo ba đường trở lại chịu.

Ví như ong mật bay đi xa.

Dạo tới rừng xuân hút mọi hoa;

Vì thích mùi thơm nơi má voi,

Tai voi nhân đó trập lại chết.

Phàm-phu trên đời cũng như thế,

Ham thích mọi mùi hương thụ-dụng;

Không biết hương kia nhiễm vào tâm,

Sinh-tử luân-hồi nhiều kiếp khổ.

Ví như cá, rồng ở trong nước,

Bơi, lội, lặn, nổi tự vui-vẻ;

Vì tham mồi thơm bèn cắn câu,

Ham mùi, quên sống đều đến chết.

Phàm-phu trên đời cũng như thế,

Lưỡi ham mùi ngon giúp thân-thể.

Giết người, sống mình tâm thiên-lệch,

Cảm-báo tam-đồ khổ cực trọng.

Ví như voi trắng ở núi rừng,

Tự-tại cũng như sư-tử chúa;

Lòng dục loạn say thành mờ-tối,

Tìm-tòi voi cái sinh tham-nhiễm.

Hết thảy phàm-phu cũng như thế,

Tới chỗ ái-ân như voi cuồng;

Ân-ái ràng-buộc không ngừng thôi,

Chết vào địa-ngục khổ khôn lường.

Trai, gái trên đời tham-cầu nhau,

Đều bởi ham-đắm các sắc-dục;

Nhân, Thiên bởi thế nên ràng-buộc,

Sa-đọa ba đường trong tăm-tối.

Nếu lìa bỏ được tâm tham-dục,

Ở A-lan-nhã tu phạm-hạnh;

Quyết được vượt qua sinh-tử-khổ,

Chóng vào cung “vô-vi, thường-lạc”. [2]

 

Hoặc có Bồ-tát lấy sự tham nhiều của làm sợ-hãi. Của báu nơi mình thường tìm, tích góp lại, mà không dám thụ-dụng, huống là đem bố-thí cho chúng-sinh nghèo thiếu? Đối với của báu của mình sinh tâm tham-trước lắm, còn đối với của báu của người lại muốn cho tổn-giảm. Bởi nhân-duyên ấy, sau khi mệnh mất phải sa-đọa vào đại-địa-ngục chịu vô-lượng khổ. Khổ-báo như thế gọi là quả-báo chính-cảm thứ nhất. Từ địa-ngục ra chịu thân súc-sinh, thân thường khổ nhọc, nước cỏ không đủ và phải qua trong nhiều thời đền trả sự tổn-hại của người trước. Mọi khổ như thế gọi là quả-báo chính-cảm thứ hai. Chịu tội ấy xong, sinh vào trong ngã-quỷ, nhân khổ đói khát vô-lượng, nghìn kiếp không nghe thấy tên thức ăn, nước uống; cổ nhỏ như kim, bụng to như núi, ví dù được thức ăn uống, theo nghiệp liền biến thành lửa. Thân khổ như thế gọi là quả-báo chính-cảm thứ ba. Hết tội ấy rồi, lại sinh về nhân-gian, nghèo cùng hèn-hạ, bị người sai khiến; đối với các của báu cầu gì khó được và đối với hết thảy thời, không được tự-tại. Dư-báo như thế gọi là “tương-tự-quả”. Hết thảy Bồ-tát thấy biết nhân quả phân-minh như thế, nên thường sinh tâm sợ-hãi muốn cầu giải-thoát. Bởi chỗ sợ-hãi ấy, nên xa-lìa quyến-thuộc và ở nơi A-lan-nhã. [3]

 

Hoặc có Bồ-tát lấy tâm khát-ái làm sợ-hãi, vì đối với những khi chưa được hết thảy của báu, ngày đêm tìm-tòi, sinh tâm khát-ái. Hoặc có Bồ-tát lấy “ngã, ngã-sở-kiến” (chấp ngã) làm sợ-hãi, vì nó là chỗ nương-tựa của các phiền-não. Hoặc có Bồ-tát lấy các “pháp-kiến” (chấp-pháp) làm sợ-hãi, vì nó là chỗ nương-tựa cho sở-tri-chướng. Hoặc có Bồ-tát lấy sáu mươi hai kiến làm sợ-hãi, vì vào rừng tà-kiến thì khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ-tát lấy “nghi” làm sợ-hãi, vì đối với pháp chân-chính sinh tâm nghi-hoặc. Hoặc có Bồ-tát lấy “đoạn kiến” (chấp dứt hẳn) kia làm sợ-hãi, vì chấp không có đời sau, gạt đi, cho là không có nhân-quả, sinh đại-tà-kiến phải đọa vào địa-ngục. Hoặc có Bồ-tát lấy “thường-kiến” (chấp thường còn) kia làm sợ-hãi, vì chấp thân của chúng-sinh trong năm thú, thường hằng quyết-định, theo nghiệp thiện, ác không biến-đổi. Hoặc có Bồ-tát lấy “tật-đố” (ghen-ghét) kia làm sợ-hãi, vì không chịu sự vẻ-vang của người, mang tâm-niệm ác. Hoặc có Bồ-tát thường lấy “điệu-cử” (xao-động) làm sợ-hãi, vì tâm không tịch-tĩnh, sinh tán-loạn. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “bất-tín” (không tin) làm sợ-hãi, ví như người không tay, tuy đến núi báu, nhưng hoàn-toàn không lấy được gì; người không có bàn tay tin-tưởng, tuy gặp Tam-bảo nhưng không được gì. Hoặc có Bồ-tát lấy “vô-tàm” (không thẹn) kia làm sợ-hãi, vì trong không thẹn-hổ, nên thường tạo các nghiệp ác, nghiệp-chướng vô-minh khó thấy được Phật. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “vô-quí” (không hổ) làm sợ-hãi, vì ngoài không thẹn-hổ, bỏ ân bội đức, phải sinh-tử luân-hồi và sa-đọa vào ba đường. Hoặc có Bồ-tát lấy “phẫn-hận” (giận-tức, oán-hận) làm sợ-hãi, vì nó hay làm tổn-hại mình và người, thành ra sự oán-kết lẫn nhau, trong nhiều kiếp, làm chướng-ngại đạo Phật. Hoặc có Bồ-tát lấy sự “vong thất” (quên mất) nhãng quên không nhớ kia làm sợ-hãi, vì đối với sự nghe pháp không ghi nhớ được, quên mất văn-nghĩa, thêm sự ngu-si. [4]

 

Hoặc có Bồ-tát cho hết thảy những nghiệp đen tối bất thiện là sợ-hãi. Sao vậy? – Vì hết thảy nghiệp bất thiện là nhân sinh-tử, xoay chuyển trong ba cõi không thoát khỏi được, đối với vô-lượng vô-biên sợ-hãi ấy đều làm chướng-ngại thắng-pháp xuất-thế. Hoặc có Bồ-tát lấy “ngũ cái” [5] làm sợ-hãi, vì năm thứ phiền-não ấy che-lấp tâm Bồ-đề của Bồ-tát. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm ghen-ghét (tăng-ố) làm sợ-hãi, đối với các chúng-sinh không có tâm thương-xót, thành tu hạnh Bồ-đề hay thoái-chuyển. Hoặc có Bồ-tát lấy “phá-giới-cấu” làm sợ-hãi, làm nhơ-nhớp Thánh-pháp, khó được quả-báo chân-chính. Hoặc có Bồ-tát lấy “ưu-não” (lo-lắng phiền-não) làm sợ-hãi, vì vọng-tưởng mạnh làm mất nghiệp thiện. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “ác-tác” [6] làm sợ-hãi, vì đối với chỗ tu thiện sinh tâm hối-tiếc. Hoặc có Bồ-tát nói sự “cuồng túy” (say cuồng) là sợ-hãi, vì không biết thiện, ác, không có tôn-ty. Hoặc có Bồ-tát lấy sự chết không đúng thời làm sợ-hãi, vì không an-trụ chính-niệm, quay về vô-thường. Hoặc có Bồ-tát lấy nghiệp vọng-ngữ làm sợ-hãi, vì kiếp kiếp đời đời có nói-năng gì, hết thảy chúng-sinh đều không tin, nhận. Hoặc có Bồ-tát lấy bốn món điên-đảo [7] làm sợ-hãi, vì do bốn món điên-đảo ấy phải luân-hồi sinh-tử, khởi nghiệp phiền-não không cầu Phật. Hoặc có Bồ-tát nói “bạn ác” là sợ-hãi, vì theo bạn bất-thiện ấy mà tạo ra nghiệp ác. Hoặc có Bồ-tát lấy “ngũ-uẩn-ma” làm sợ-hãi, vì thân ngũ uẩn này từ phiền-não sinh ra, sinh rồi liền dấy lên vô-lượng phiền-não; nhân các phiền-não tạo nghiệp bất thiện, do các hoặc-nghiệp sa xuống hầm sâu lớn (các đường ác), bởi nhân-duyên ấy sinh ra sợ-hãi. Hoặc có Bồ-tát lấy “phiền-não-ma” làm sợ-hãi, vì đại, tiểu-phiền-não nối-tiếp sinh-tử, làm thoái tâm Bồ-đề, bị sa-đọa vào đường ác. Hoặc có Bồ-tát chán-ngán và lo-lắng về “tử-ma” (chết) làm sợ-hãi, vì phát tâm Bồ-đề chưa được tới chỗ bất-thoái, thân nát, mệnh mất, sinh tâm thoái-chuyển. Hoặc có Bồ-tát cho các Thiên-ma là sợ-hãi, vì họ-hàng Thiên-ma đầy-dẫy trong cõi Dục, làm chướng-ngại người tu đạo, thoái tâm Bồ-đề. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “vô-ký” [8] làm sợ-hãi, vì đối với thiện-pháp không tiến tu được, luống qua thời-gian dài, lui mất thiện-nghiệp. Hoặc có Bồ-tát lấy tám nạn kia làm sợ-hãi, vì sa-đọa vào tám nạn ấy thời như từ chỗ tối lại vào chỗ tối; đêm dài sinh-tử khó gặp được ánh sáng. Hoặc có Bồ-tát quán địa-ngục kia làm sợ-hãi, vì một khi sa vào địa-ngục, thời trải vô-lượng kiếp chịu đại-khổ-não, khó được giải-thoát. Hoặc có Bồ-tát cho sự sa-đọa vào súc-sinh-đạo là sợ-hãi, vì trong giới bàng-sinh chịu báo ngu-si, trải vô-lượng kiếp khó thoát khỏi được. Hoặc có Bồ-tát thấy ngã-quỷ-đạo là sợ-hãi, vì trong hằng-sa kiếp chịu khổ đói khát, khó gặp được Phật, Pháp, Tăng. Hoặc có Bồ-tát tưởng sự sinh vào cõi Dục làm sợ-hãi, vì phiền-não tạp-khởi, tạo các nghiệp ác, bị sa-đọa vào ba đường. Hoặc có Bồ-tát cho cõi Sắc kia là sợ-hãi, vì “hữu-phú phiền-não” [9] hay chướng-ngại tu Định. Hoặc có Bồ-tát cho cõi Vô-sắc là sợ-hãi, vì trong ba cõi, cõi ấy tịch-tĩnh quá, cũng như Niết-bàn, nên chúng-sinh vọng-chấp làm cứu-cánh, đến khi kiếp hết mệnh mất phải sa vào địa-ngục. Hoặc có Bồ-tát cho sự thường thường sinh-tử làm sợ-hãi, vì sinh vào nhà tà-kiến, khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ-tát cho sự chán bỏ sinh-tử làm sợ-hãi, vì chết đây, sinh kia, thường chịu khổ-não, như thế làm chướng-ngại hạnh Bồ-tát cầu Niết-bàn. Hoặc có Bồ-tát cho giọng tiếng thế-gian là sợ-hãi, vì nó làm cho tâm thường tán-loạn, phương-ngại thiện-nghiệp. Hoặc có Bồ-tát lấy “tâm, ý, thức” [10] làm sợ-hãi, vì những hành-tướng sở-duyên [11] của nó không biết được. [12]

 

Nếu ở nhà thế-tục, do những sự sợ-hãi ấy, ngày đêm nối-tiếp nhau nhiễu-loạn thiện-tâm, không thể chứng được pháp “không sợ-hãi”. Bồ-tát đời quá-khứ ở nơi A-lan-nhã đều chứng được pháp không sợ-hãi, tức là vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Bồ-tát đời vị-lai ở nơi A-lan-nhã, đều sẽ được pháp không sợ-hãi, tức là vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Các Đại-bồ-tát trong mười phương hiện-tại, ở nơi A-lan-nhã, dứt bỏ hết thảy chướng-ngại, được pháp không sợ-hãi, tức là vô-thượng chính-đẳng chính-giác.

 

Các vị nên biết! Tùy theo căn-khí, nên tu học về sự nhiếp-niệm thân-tâm ở nơi A-lan-nhã của các Bồ-tát trong ba đời, để điều-phục vọng-tưởng vĩnh-viễn không sợ-hãi, đạt tới cứu-cánh vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [13]

 

Lại nữa, Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã nên làm nghiệp gì? Nên làm những niệm gì? – Ngày đêm thường suy-nghĩ như thế này: “Hết thảy sợ-hãi sở-hữu của thế-gian đều từ “ngã” sinh , vì hết thảy sợ-hãi, chấp trước vào “ngã” mà sinh ra hết thảy sợ-hãi, “ngã” là căn-bản, hết thảy sợ-hãi “ngã-ái” sinh ra, hết thảy sợ-hãi “ngã-tưởng” sinh ra, hết thảy sợ-hãi “ngã-kiến” sinh ra, hết thảy sợ-hãi “ngã” là trụ-xứ, hết thảy sợ-hãi nhân “ngã” mà sinh, hết thảy sợ-hãi phân-biệt sinh ra, hết thảy sợ-hãi phiền-não sinh ra, hết thảy phiền-não “ngã-ái” sinh ra”. [14]

 

Nếu ta ở nơi A-lan-nhã không lìa bỏ được sự chấp-trước về “ngã, ngã-sở”, không nên ở trong A-lan-nhã ấy và không bằng trở về ở nhà bạch-y (tại-gia) còn hơn. Sao vậy? – Nếu người có “ngã-tướng” (ta), không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có “nhân-tướng” (người) không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có đủ cả hai chấp: “ngã, ngã-sở”, không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có “pháp-kiến” không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có đủ bốn thứ điên-đảo chấp ấy, không nên ở nơi A-lan-nhã. Các vị nghe kỹ! Nếu có người tu-hành y vào Niết-bàn-tướng, cũng không nên ở nơi A-lan-nhã, huống là còn khởi ra các tướng phiền-não. [15]

 

Các vị nghe kỹ! Nếu có người không chấp-trước vào hết thảy tướng, nên an-trụ nơi A-lan-nhã, thế là đương ngồi trong “Vô-trước đạo-tràng” (nơi không chấp-trước), hết thảy các pháp đều “bất-khả-đắc”. [16] Nếu người tâm điều-nhu được, không có tranh-luận, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Đối với nhân-duyên ở đời đều không chấp-trước, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc mọi pháp, không còn nương-tựa vào nó, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Đối với hết thảy pháp có sự thấy biết bình-đẳng, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Đối với bốn uy-nghi điều-phục được tâm mình, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Bỏ được hết thảy các sợ-hãi, nên an-trụ nơi A-lan-nhã.

 

Các Phật-tử! Dùng lẽ yếu-ước mà nói thì những người đối với các phiền-não giải-thoát được, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Nếu người thành-tựu được nhân Niết-bàn, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người khéo tu-hành bốn vô-cấu-tính, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Nếu người có tư-tưởng ít muốn, tri-túc, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người có trí-tuệ, đầy-đủ đa-văn, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Nếu người tu-hành được ba môn giải-thoát, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người dứt hẳn được phiền-não ràng-buộc, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người quán-sát kỹ-lưỡng được mười hai nhân-duyên, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người mà chỗ tạo-tác đã biện-giải xong, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người đã bỏ được gánh nặng, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người chứng-ngộ diệu-lý sâu-xa của chân-như, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. [17]

 

Các vị nên biết! Nơi A-lan-nhã các cây làm thuốc và gỗ lớn, nhỏ đều sinh nơi A-lan-nhã, mà từng không sợ-hãi gì, cũng không phân-biệt gì. Đại-bồ-tát ở nơi A-lan-nhã cũng thế, quán-sát thân-tâm mình như cây khô, tường vách, ngói sỏi…không khác, đối với hết thảy pháp, không có phân-biệt. Ta quán-sát thân tâm ta cũng như huyễn-mộng không thực, từng niệm từng niệm già-suy, hơi thở của ta ra rồi không vào được nữa; khi đó, do nhân thiện, ác, theo nghiệp mà chịu báo. Thân này vô-thường, chóng khởi, chóng diệt, thân này hư-giả, quyết không tồn-tại lâu được. Như thế, trong thân không có “ngã, ngã-sở” (ta, của ta), không có “hữu-tình” (chúng-sinh), không có “mệnh” (thân-mệnh), không có “dưỡng-dục” (nuôi-nấng), không có “sĩ-phu” (người sang, giỏi), không có “nhân” (người), không có “tác-nghiệp” (gây nghiệp), không có “hữu-kiến” (chấp có), mọi tướng như thế bản-lai không-tịch, cũng như hư-không, cũng như bọt nước. Niệm niệm thường nên thực-hành pháp quán như thế, thời hết thảy sợ-hãi đều được giải-thoát, như cây gỗ kia không có sự sợ-hãi. Khi ấy, các Bồ-tát được ở nơi đại-an-lạc không còn có sự sợ-hãi sinh ra, thế gọi là Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [18]

 

Lại nữa, Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, suốt ngày đêm nên quán như thế này: “Nơi A-lan-nhã này là nơi an-vui tu-tập rành bốn vô-cấu-tính. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập rành hạnh tri-túc. Nơi A-lan-nhã này là nơi giải-thoát các phiền-não. Nơi A-lan-nhã này là nơi đầy đủ trí-tuệ, đa-văn. Nơi A-lan-nhã này là nơi điều-phục và đoạn-diệt phiền-não-chướng, sở-tri-chướng. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng-nhập ba môn giải-thoát. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng trọn tám pháp giải-thoát. Nơi A-lan-nhã này là nơi quán-sát rành mười hai nhân-duyên. Nơi A-lan-nhã này là nơi dứt-trừ được các nghiệp-chướng. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng quả Dự-lưu đầu tiên. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng quả Nhất lai thứ hai. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng quả Bất-hoàn thứ ba. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng quả A-la-hán thứ tư. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng quả Bích-chi-phật. Nơi A-lan-nhã này là nơi đã biện-giải xong được chỗ tạo-tác, được tự-tại. Nơi A-lan-nhã này là nơi bỏ được các gánh nặng, được nhẹ-nhàng an-vui. Nơi A-lan-nhã này là nơi được “nhị không chân-như”.

 

Nơi A-lan-nhã này là nơi tu vô-lượng đại-từ-tâm. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu chứng vô-lượng đại-bi-tâm. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập rành “hỷ-vô-lượng”. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập rành “xả-vô-lượng”. Nơi A-lan-nhã này là nơi phát tâm Bồ-đề. Nơi A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu-trì đến Thập-tín. [19] Nơi A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu-tiến tuần-tự đến Thập-trụ. [20] Nơi A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu thêm dần-dà đến Thập-hạnh. [21] Nơi A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu-hành dần-dà đến Thập-hồi-hướng, [22] Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập rành bốn thiện-căn. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-hành sáu pháp Ba-la-mật. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-hành từ Sơ-địa đến Thập-địa. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng được sáu căn [23] thanh-tịnh. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng được Thiên-nhãn-thông. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng được Thiên-nhĩ-thông và Túc-trụ-trí (túc-mệnh), Sinh-tử trí-minh (lậu-tận), Thần-cảnh (thần-túc), Tha-tâm-thông.

 

Nơi A-lan-nhã này là nơi có tàm-quý (thẹn-hổ). Nơi A-lan-nhã này là nơi không phóng-dật (buông-lung). Nơi A-lan-nhã này là nơi tu năm căn. [24] Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng được vô-lượng, vô-biên Tam-muội. Nơi A-lan-nhã này là nơi được Hằng-sa Đà-ra-ni-môn, chứng tự-tại. Nơi A-lan-nhã này là nơi ngộ vô-sinh-nhẫn. [25] Nơi A-lan-nhã này là nơi dứt sinh-tử, ra hẳn ba cõi. Nơi A-lan-nhã này là nơi được Bất-thoái-chuyển. Nơi A-lan-nhã này là nơi hàng-phục hết thảy mọi ma oán-địch, tiêu-trừ nghiệp-chướng, thấy Phật, nghe Pháp. Nơi A-lan-nhã này là nơi được “Bất-cộng tối-thượng pháp-môn” [26] của Phật. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập “giới-uẩn” thanh-tịnh. Nơi A-lan-nhã này là nơi xuất-sinh “vô-lậu tam-ma-địa” (Định). Nơi A-lan-nhã này là nơi sinh Bát-nhã (trí-tuệ), chứng giải-thoát. Nơi A-lan-nhã này là nơi sinh “giải-thoát tri-kiến”. [27] Nơi A-lan-nhã này là nơi được ba mươi bảy “Bồ-đề-phận-pháp”. Nơi A-lan-nhã này là nơi được giải-thoát mười hai “nhập”. [28] Nơi A-lan-nhã này là nơi lìa hẳn mười tám “giới” [29] hữu-lậu. Nơi A-lan-nhã này là nơi quán-sát mười tám “không” vi-diệu. Nơi A-lan-nhã này là nơi dung-thụ hết thảy các “pháp-không”. Nơi A-lan-nhã này là nơi sinh và tăng-trưởng mười thiện-pháp. Nơi A-lan-nhã này là nơi tăng-trưởng, kiên-cố tâm Bồ-đề. Nơi A-lan-nhã này là nơi chư Phật ba đời khen-ngợi. Nơi A-lan-nhã này là nơi hết thảy Bồ-tát cung-kính, tán-thán.

 

Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassin) thành đạo ở dưới gốc cây Ni-câu-đà. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Thi-Khí (Sikhin) thành đạo ở dưới gốc cây Thi-lỵ-sa. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Tỳ-Xá-Phù (Vessabhù) thành đạo ở dưới gốc cây A-thi-bà-đa. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Câu-Lưu-Tôn (Kakusandha) thành đẳng-chính-giác ở dưới gốc cây Vô-ưu. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Câu-Na-Hàm-Mưu-Ni (Konàgamana) thành đẳng-chính-giác ở dưới gốc cây Ưu-đàm. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Ca-Diếp (Kassapa) thành đẳng-chính-giác ở dưới gốc cây Sa-đà. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Thích-Ca (Sàkya-muni) thành đạo ở dưới gốc cây Tất-bát-la. Các ông nên biết! Nơi A-lan-nhã có vô-lượng vô-biên công-đức thắng-lợi như thế! [30]

 

Lúc đó, Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh vì đại-chúng nói bài kệ rằng:

 

Bồ-tát xuất-gia ở Lan-nhã,

Cần nên nghĩ gì, làm nghiệp gì?

Mọi sự sợ-hãi, thế-gian có,

Đều từ “ngã-kiến, ngã-sở” sinh.

Nếu đoạn-trừ được “ngã, ngã-sở”,

Hết thảy sợ-hãi không nơi dựa.

Nếu còn có tâm chấp “ngã-kiến”,

Rốt-ráo không thành Bồ-đề-đạo:

Niết-bàn thường-trụ đều vô-tướng,

Huống là phiền-não phi-pháp-tướng?

Không chấp các pháp và chúng-sinh,

Tâm không tranh-luận, tu chính-niệm;

Trong bốn uy-nghi điều-phục tâm,

Nên ở Lan-nhã thường tịch-tĩnh.

Dứt được phiền-não, tâm tri-túc,

Ở trong Lan-nhã nhà “không-tịch”;

Vào ba môn giải-thoát vô-tướng,

Ở nơi Lan-nhã lìa trần-cấu.

Hay quán mười hai nhân-duyên-pháp,

Tứ-đế, [31] nhị-không: chân diệu-lý;

Tám pháp thế-gian [32] không rung-động,

Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.

Hay quán thân mình như gỗ khô,

Cũng như bọt nước, như huyễn-mộng;

Không chấp hai bên, [33] tướng bình-đẳng,

Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.

Tội-nghiệp ràng-buộc thân vô-thường,

Bản-lai giả-dối vốn không thực;

Chấp pháp, chấp ngã, chấp tội-tướng,

Ở trong ba đời “bất-khả-đắc”.

Thân mình, thân người không có hai,

Hết thảy các pháp cũng như thế;

Xem kỹ: pháp-tính không đi, lại,

Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.

Chiên-đàn thoa mình và tán-thán,

Lấy dao cắt xẻo và mạ-nhục;

Đối hai người ấy không yêu, ghét,

Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.

Xuất-gia thích ở A-lan-nhã,

Ngày đêm nên quán-sát như vầy:

Nơi Lan-nhã là chân-đạo-tràng,

Hết thảy Như-Lai thành chính-giác;

Nơi Lan-nhã là diệu-pháp-không,

Chính-pháp xuất-thế từ đấy sinh.

Nơi A-lan-nhã, Thánh tôn-kính,

Sinh ra Tam-thừa Thánh-đạo vậy.

Nơi Lan-nhã là nhà các Thánh,

Hết-thảy Thánh-Hiền thường ở đó;

Nơi Lan-nhã là cung Như-Lai,

Là chỗ mười phương Phật y-chỉ.

Nơi Lan-nhã là tòa Kim-cương,

Chư Phật ba đời đắc-đạo vậy.

Nơi Lan-nhã là cung Niết-Bàn,

Như-Lai ba đời viên-tịch đấy.

Nơi Lan-nhã là nhà “đại-từ”,

Bồ-tát ở đó tu từ-tâm.

Nơi A-lan-nhã là “bi-điền”,

Chư Phật ba đời tu tâm “bi”.

Nơi Lan-nhã là nhà “lục-thông”,

Bồ-tát ở đó dạo chơi khắp.

Nơi Lan-nhã là đại-vô-úy,

Dứt trừ hết thảy sự sợ-hãi.

Nơi Lan-nhã là Tam-ma-địa,

Các người cầu đạo được Định vậy.

Nơi Lan-nhã được Đà-ra-ni,

Những người trì chú được thần-lực.

Nơi Lan-nhã là nhà thiện-pháp,

Tăng-trưởng hết thảy các thiện-pháp.

Nơi Lan-nhã là nhà Bồ-đề,

Bồ-tát tu đạo được nhẫn-pháp.

Nếu muốn vượt hẳn tam-giới-khổ,

Bồ-đề Niết-bàn nên tu chứng;

Quanh khắp pháp-giới lợi quần-sinh,

Nên ở nhà Bồ-đề Lan-nhã.

Tu về lục-độ, tứ-nhiếp-pháp,

Hồi-thí ba cõi và bốn ơn,

Mình, người đều vào thành Cam-lộ,

Đồng chứng “Nhất-như chân-pháp-giới”. [34]

 

Khi Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh Bồ-tát ma-ha-tát vì đại chúng nói pháp ấy rồi, đức Phật bảo: “Quý-hóa thay! Quý-hóa thay! Thiện-nam-tử! Ông vì đại-chúng và người cầu Phật-đạo đời mai sau, phân-biệt diễn nói về công-đức thù-thắng nơi A-lan-nhã, đem lại lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh trong hiện-tại và vị-lai xu-hướng Bồ-đề chính-chân giác-đạo, ông sẽ thành-tựu vô-lượng công-đức, mà nghìn đức Phật cùng nói cũng không cùng-tận được.

 

Lúc ấy, trong pháp-hội, Bồ-tát Trí-Quang, vô-lượng a-tăng-kỳ đại-chúng Bồ-tát, nghe công-đức tối-thắng nơi A-lan-nhã, liền được “Văn-trì Đà-ra-ni-môn”. [35] Vô-lượng chúng-sinh phát-tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác, được Bất-thoái-chuyển. Nghìn ức chúng-sinh xa-lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh. [36]

 

TOÁT-YẾU

VI.- PHẨM LY THẾ-GIAN

 

Khi ấy, trong pháp-hội Đại-bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh, thay Phật đứng lên phân-biệt về hạnh A-lan-nhã. Bồ-tát nói: “Thế gian có nhiều sự sợ-hãi. Vì chán sự sợ-hãi ấy, Bồ-tát xa thân-thuộc, đến ở nơi A-lan-nhã, để tu hạnh viễn-ly!”

 

“Các Bồ-tát cho những sự và những nơi sau đây là đáng sợ: ngã, ngã-sở, 7 mạn, 3 độc, 5 dục, tham-lam nhiều của, tâm khát-ái, ngã, ngã-sở-kiến, pháp-kiến, 62 kiến, nghi-hoặc, đoạn-kiến, thường-kiến, tật-đố, điệu-cử (xao-động) chẳng tin, không thẹn, không hổ, phẫn-hận (giận-bực, ân-hận), nhãng quên, hết thảy nghiệp bất thiện, ngũ-cái (5 thứ che lấp), ghen-ghét, phá-giới, ưu-não (lo buồn) ác-tác (làm ác), say cuồng, chết không đúng thời, nói dối, 4 món điên-đảo, bạn ác, ngũ-uẩn-ma, phiền-não-ma, tử-ma, thiên-ma, tâm vô-ký, 8 nạn, địa-ngục, súc-sinh, ngã-quỉ, Dục-giới, Sắc-giới, Vô-sắc-giới, thường sinh-tử, chán sinh-tử, tiếng thế-gian, tâm, ý, thức…Ở nơi thế-tục, do những sự sợ-hãi ấy ngày đêm nhiễu-loạn thiện-tâm, nên không thể chứng được pháp “vô-úy”. Các Bồ-tát trong ba đời dứt được chướng-ngại, chứng vô-thượng-giác đều là ở nơi A-lan-nhã!”

 

“Các Bồ-tát ở Lan-nhã thường nghĩ: “Hết thảy sợ-hãi đều từ “ngã, ngã-ái, ngã-tưởng, ngã-kiến” sinh ra. Nếu ai không bỏ được sự chấp-trước về “ngã, ngã-sở, ngã-tướng, nhân-tướng, pháp-kiến” không nên ở nơi Lan-nhã. Cho đến người tu-hành còn y vào Niết-bàn-tướng cũng không nên ở nơi Lan-nhã. Và, chỉ có những người không chấp mọi tướng, tâm điều-nhu được, không chấp nhân-duyên, không chấp 6 trần, thấy, biết bình-đẳng, điều-phục được tâm và bỏ được hết thảy sợ-hãi nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Nghĩa là những người giải-thoát phiền-não, có nhân Niết-bàn, tu 4 vô-cấu-tính, ít muốn, tri-túc, có trí-tuệ, đa văn, được 3 giải-thoát, dứt phiền-não, quán 12 nhân-duyên, chỗ tạo-tác biện-giải xong, bỏ được gánh nặng, chứng-ngộ diệu-lý chân-như…nên an-trụ nơi A-lan-nhã!”

 

Dược-thảo, cỏ cây nơi Lan-nhã không sợ-hãi, không phân-biệt, Đại-bồ-tát ở đấy cũng thế. Đại-bồ-tát quán thân tâm mình như cây khô, như huyễn-mộng…, là vô-thường, nên trong thân không có “ngã, ngã-sở, hữu-tình, mệnh, dưỡng-dục, sĩ-phu, nhân (chúng-sinh), tác-nghiệp, hữu-kiến”; vì mọi tướng ấy bản-lai như hư-không, bọt nước! Quán-niệm được thế là không sợ-hãi, được an-lạc. Là Bồ-tát ở nơi Lan-nhã, cầu vô-thượng-giác!”

 

Nơi A-lan-nhã là nơi tu: 4 vô-cấu-tính, hạnh tri-túc, giải phiền-não, đủ trí-tuệ, đa văn, diệt 2 chướng, chứng 3 giải-thoát, 8 giải-thoát, quán 12 nhân-duyên, dứt nghiệp-chướng, chứng quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-Phật, được tự-tại, được khinh-an, được nhị không chân-như. Nơi A-lan-nhã là nơi tu 4 vô-lượng-tâm, thập-tín, thập-trụ, thập-hạnh, thập hồi-hướng, 4 thiện-căn, 6 ba-la-mật, thập-địa, chứng được 6 căn thanh-tịnh, chứng được sáu thần-thông.

 

Nơi A-lan-nhã là nơi có tàm-quý, không phóng-dật. Là nơi: tu 5 căn, chứng được vô-lượng vô-biên tam-muội, được Hằng-sa Đà-ra-ni-môn, ngộ vô-sinh-nhẫn, dứt sinh-tử, ra ba cõi, được bất-thoái-chuyển, hàng-phục mọi ma oán, tiêu-trừ nghiệp-chướng, thấy Phật, nghe Pháp, được pháp-môn bất cộng tối thượng, tu giới-uẩn thanh-tịnh, xuất-sinh vô-lậu tam-ma-địa, sinh Bát-nhã, chứng giải-thoát, sinh giải-thoát tri-kiến, được 37 bồ-đề-phận-pháp, thoát 12 nhập, lìa 18 giới, quán 18 không, dung-thụ các pháp-không, sinh 10 thiện-pháp, tăng-trưởng kiên-cố tâm bồ-đề, chư Phật ba đời khen ngợi, hết thảy Bồ-tát cung-kính, tán-thán.

 

Và, nơi A-lan-nhã là nơi đức Phật Tỳ-Bà-Thi, đức Phật Thi-Khí, đức Phật Tỳ-Xá, đức Phật Câu-Lưu-Tôn, đức Phật Câu-Na-Hàm-Mưu-Ni, đức Phật Ca-Diếp và đức Phật Thích-Ca thành đạo.

 

Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh nói xong, đức Phật khen Bồ-tát đã đem lại lợi-ích cho chúng-sinh và Bồ-tát sẽ thành-tựu vô-lượng công-đức, mà đến nghìn đức Phật cùng tán-thán cũng không cùng-tận.

 

Lúc đó, nhiều Bồ-tát được “Văn-trì đà-ra-ni-môn” và nhiều chúng-sinh hoặc phát tâm vô-thượng được bất-thoái-chuyển, hoặc xa lìa trần cấu được pháp-nhãn-tịnh.

 


[1] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “các đường ác”, Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh thay Phật nói về sự lìa bỏ thế-gian, tu hạnh A-lan-nhã. Thoạt tiên, Bồ-tát nói với đại-chúng hoan-hỷ cho Bồ-tát nói về hạnh ấy. Bồ-tát nói: sở-dĩ các vị tới ở nơi A-lan-nhã là do chán ngán những phiền-não đáng sợ ở thế-gian.

[2] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát lấy 5 dục”, đến chỗ “thường lạc”, quán-sát riêng biệt về 5 dục ở đời. 5 dục này ví như 5 con rắn “thất-bộ-xà”, làm hại chúng-sinh rất nhiều. Chúng-sinh vì ham-đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc mà phải luân-hồi sinh-tử.

[3] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát lấy sự tham…”, đến chỗ “A-lan-nhã”, quán-sát riêng biệt về sự tham của. Người tham của bỏn-sẻn ngay nơi mình, còn đâu là có tâm bố-thí. Tham-lam phải chịu quả-báo chính-thức trong địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh và cả khi trở lại làm người cũng phải chịu những quả-báo tương-tự như khi gây nhân (tương-tự-quả). Vì vậy phải xa-tránh.

[4] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát lấy tâm khát-ái”, đến chỗ “ngu-si” là quán-sát rộng về các phiền-não.

[5] Ngũ-cái: 5 thứ làm che-lấp tâm, tính không sinh được thiện-pháp: 1/ Tham-dục: tham-muốn. 2/ Sân-khuể: giận-bực 3/ Thụy-miên: ngủ-nghỉ. 4/ Điệu-hối: xao-động, phàn-nàn. 5/ Nghi-pháp: đối với pháp còn ngờ-vực, do-dự không quyết.

[6] Ác-tác: Có nghĩa là trước làm, sau hối.

[7] Bốn món điên-đảo: Tức 4 quỉ điên-đảo đã chú-thích ở số 19 Phẩm Yếm-Xả.

[8] Vô-ký: Một trong 3 tính. Vô-ký là sự trung-dung của thể-tính trong sự-vật, không thể ghi nhận là tính thiện, cũng không thể ghi nhận là tính ác. Lại, cảm thiện-quả không thể ghi-nhận được, cảm ác-quả cũng không thể ghi-nhận được, đó là “vô-ký”. Thể-tính của vô-ký có 2: 1/ Hữu-phú vô-ký: thể-tính vọng-hoặc rất yếu-ớt, nên gọi là “vô-ký”. Song tự-tính vọng-hoặc ấy có thể che-lấp Thánh-đạo, nên gọi là “Hữu-phú vô-ký”. 2/ Vô-phú vô-ký: Yếu-ớt, mà chẳng phải tự-tính vọng-hoặc, không phải thiện, không phải ác, là “vô-phú vô-ký”.

[9] Hữu-phú phiền-não: Ám-chỉ vào “Hữu-phú vô-ký”.

[10] Tâm, ý, thức: “Tâm” có nghĩa là tập-hợp lại và phát-hiện ra, chỉ cho thức A-lại-gia thứ 8. “Ý” có nghĩa là suy-nghĩ, so lường, chỉ cho thức Mạt-na thứ 7. “Thức” có nghĩa là phân-biệt, chỉ cho Ý-thức thứ 6.

[11] Hành-tướng sở-duyên: Hành-tướng: Tâm-thức đều có tính-năng cố-hữu của nó, tính-năng ấy du-hành trong tất cả tướng-trạng của cảnh-giới (tức là tướng-trạng do hành-động, tạo-tác mà có) nên gọi là “hành-tướng”. Sở-duyên: “Duyên” là dính-líu, là liên-lạc. Tâm-thức là “năng-duyên”, chỗ đối-tượng của tâm-thức là “sở-duyên”. “Hành-tướng sở-duyên” tức là những sự-vật do hành-động tạo-tác, là chỗ bị liên-lạc của tâm, ý, thức.

[12] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát cho hết thảy những nghiệp đen-tối”, đến chỗ “không biết được” là quán khắp tất cả những tạp-nhiễm làm chướng-ngại chính-đạo.

[13] Đoạn trên, từ chữ “Nếu”, đến chỗ “chính-giác”, chỉ bảo nơi Lan-nhã là nơi tránh xa sợ-hãi của Bồ-tát trong 3 đời.

[14] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “sinh ra” là nói rõ nguyên-nhân phát-sinh ra sợ-hãi.

[15] Đoạn trên, từ chỗ “Nếu ta”, đến chỗ “phiền-não” là nói muốn ở nơi Lan-nhã cần bỏ tất cả mọi chấp, ngay đến chấp là chứng được Niết-bàn cũng phải bỏ.

[16] Bất-khả-đắc: Tựa như “vô-sở-đắc” (xem trên đã giải).

[17] Đoạn trên, từ chỗ “Các vị nghe kỹ!” đến chỗ “A-lan-nhã” là nói những người có những công-đức, nên ở nơi A-lan-nhã.

[18] Đoạn trên, từ chỗ “Các vị nên biết!” đến chỗ “chính-giác” là nên quán lý bình-đẳng làm cho tâm không sinh ra sự phân-biệt.

[19] Thập-tín: 1/ Tín-tâm. 2/ Tịnh-tiến-tâm. 3/ Niệm-tâm. 4/ Định-tâm. 5/ Tuệ-tâm. 6/ Thí-tâm. 7/ Giới-tâm. 8/ Hộ-tâm. 9/ Nguyện-tâm. 10/ Hồi-hướng-tâm. Mười bậc này đều lấy đức “Tín” làm gốc, nên gọi là “Thập-tín”.

[20] Thập-trụ: 1/ Phát-tâm-trụ. 2/ Trị-địa-trụ. 3/ Tu-hành-trụ. 4/ Sinh-quý-trụ. 5/ Phương-tiện-trụ. 6/ Chính-tâm-trụ. 7/ Bất-thoái-trụ. 8/ Đồng-chân-trụ. 9/ Pháp-vương-tử-trụ. 10/ Quán-đỉnh-trụ. Mười bậc này đều gọi là “Trụ”, nghĩa là chỗ ở của các vị Bồ-tát an-trụ tâm, đối với sự tu-hành về lục-độ chưa được rốt-ráo mầu-nhiệm, cho nên chỉ gọi là “Trụ”.

[21] Thập-hạnh: 1/ Hoan-hỷ-hạnh. 2/ Nhiêu-ích-hạnh. 3/ Vô-khuể-hạnh. 4/ Vô-tận-hạnh. 5/ Ly-si-loạn-hạnh. 6/ Thiện-hiện-hạnh. 7/ Vô-trước-hạnh. 8/ Tôn-trọng-hạnh. 9/ Thiện-pháp-hạnh. 10/ Chân-thực-hạnh. Mười bậc này chú-trọng tu-hành về pháp lục-độ hơn các hạnh tu khác, nên gọi là “Hạnh”.

[22] Thập Hồi-hướng: 1/ Cứu-hộ chúng-sinh, ly chúng-sinh tướng hồi-hướng (cứu-giúp chúng-sinh mà không chấp-trước về sự cứu-giúp). 2/ Bất-hoại hồi-hướng (không bao giờ thoái lui lòng cứu-giúp chúng-sinh). 3/ Đẳng chư Phật hồi-hướng (lòng từ-bi cứu-giúp chúng-sinh đã bằng chư Phật). 4/ Chí nhất-thiết-xứ hồi-hướng (lòng cứu-giúp chúng-sinh mọi việc đều chu-đáo). 5/ Vô-tận công-đức tạng hồi-hướng (tích chứa công-đức vô-tận). 6/ Tùy-thuận nhất-thiết kiên-cố thiện-căn hồi-hướng (thuận theo hết thảy căn lành bền-chắc). 7/ Đẳng tâm tùy-thuận nhất-thiết chúng-sinh hồi-hướng (đem tâm bình-đẳng tùy-thuận hết thảy chúng-sinh). 8/ Như-tướng hồi-hướng (làm các công-đức đều hồi-hướng về tự-tính chân-như). 9/ Vô-trước vô-phược giải-thoát hồi-hướng (không chấp-trước, không ràng-buộc, một lòng giải-thoát). 10/ Pháp-giới vô-lượng hồi-hướng (hồi-hướng về vô-lượng pháp-giới). Mười bậc này đều gọi là “Hồi-hướng”, vì những sự tu-hành của các vị Bồ-tát ấy, đều đem công-đức mà hồi-hướng cho hết thảy.

[23] Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. “Căn” có nghĩa là căn-bản, chủ-động phát-sinh ra ngành-ngọn khác, như do mắt mà sinh ra sự nhận-thức của mắt (nhãn-thức) v.v…

[24] Năm căn: 5 pháp căn-bản sinh ra các thiện-pháp khác: 1/ Tín-căn. 2/ Tinh-tiến-căn. 3/ Niệm-căn. 4/ Định-căn. 5/ Tuệ-căn.

[25] Vô-sinh-nhẫn: An-trụ nơi lý không sinh-diệt bất động.

[26] Bất cộng tối-thượng pháp-môn: Pháp-môn của Phật cao-siêu hơn hết không cộng-đồng với các hàng Nhị-thừa, như : 18 pháp bất cộng v.v…

[27] Giải-thoát tri-kiến: Một trong 5 phần pháp-thân. Năm phần pháp-thân là: 1/ Giới: 3 nghiệp của Như-Lai lìa hết thảy lỗi trái. 2/ Định: chân-tâm tịch-tĩnh của Như-Lai lìa hết thảy vọng-niệm. 3/ Tuệ: chân-trí viên-minh của Như-Lai quán suốt pháp-tính, tức là căn-bản-trí. 4/ Giải-thoát: thân-tâm Như-Lai giải-thoát hết thảy sự ràng-buộc, tức là Niết-bàn-đức. 5/ Giải-thoát-tri-kiến: biết đã thực giải-thoát, tức là Hậu-đắc-trí. Bởi 5 pháp này mà thành thân Phật nên gọi là “Năm (ngũ) phần pháp-thân”.

[28] 12 nhập: 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thiệp-nhập với 6 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sinh ra “thức”.

[29] 18 giới: 6 căn, 6 trần và 6 thức. 18 thứ này, mỗi mỗi thứ đều có giới-hạn, địa-vị riêng-biệt của nó, không bị lẫn-lộn nên gọi là “giới”.

[30] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, suốt ngày đêm…”, đến chỗ “như thế”, quán-sát nơi A-lan-nhã đầy-đủ hết thảy công-đức, chư Phật cũng do nơi đây mà thành vô-thượng-giác.

[31] Tứ-đế: 4 lẽ chân-thực: khổ, tập, diệt, đạo

[32] 8 pháp thế-gian: Tức 8 gió (bát phong) đã chú-thích ở trên.

[33] Hai bên: Là đoạn và thường. Là hữu và vô. Là tăng-ích và tổn-giảm v.v…

[34] Nhất-như chân-pháp-giới: Tức là “Nhất-chân-pháp-giới” hoặc “Chân-như pháp-giới”.

Toàn bài kệ trên nói lại ý-nghĩa nên quán-tưởng vô-thường, phá chấp-trước, tu muôn hạnh, thành chính-quả tại nơi A-lan-nhã.

[35] Văn-trì Đà-ra-ni-môn: Tức là một trong 4 thứ Đà-ra-ni. 4 thứ ấy là: 1/ Pháp-đà-ra-ni (tức Văn-trì đà-ra-ni): đối với giáo-pháp của Phật, nghe, giữ (văn-trì) không quên. 2/ Nghĩa đà-ra-ni: đối với nghĩa của các pháp tóm giữ không quên. 3/ Chú-đà-ra-ni: y vào thiền-định phát ra lời bí-mật, có sự thần-nghiệm không lường, là “chú”. Đối với lời chú ấy tóm giữ không quên, là “Chú-đà-ra-ni”. 4/ Nhẫn-đà-ra-ni: đối với sự an-trụ trong thực-tướng của các pháp là “Nhẫn”, duy-trì sự an-trụ ấy (nhẫn) là “Nhẫn-đà-ra-ni”.

[36] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chữ “tịnh”, đức Phật khen Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh và nói về sự đại-chúng nghe pháp được lợi-ích.

VII.- PHẨM YẾM-THÂN [1]

Bấy giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc liền từ tòa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất, chắp tay cung-kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi đã ngộ được việc Đại-bồ-tát xuất-gia, chán bỏ thế-gian, ở nơi A-lan-nhã, điều-phục tâm mình, tu hạnh vô-cấu. Song, Bồ-tát ấy ở nơi không-nhàn, tự thân mình nên làm pháp quán gì?

Khi ấy, đức Phật bảo Bồ-tát Di-Lặc: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện-nam-tử! Ông vì chúng-sinh khởi ra tâm đại-bi, thỉnh-vấn Như-Lai về “nhập Thánh-trí-quán diệu-hạnh pháp-môn”. [2] Ông nên nghe khéo, nay Tôi vì ông nói về vấn-đề ấy!” Bồ-tát Di-Lặc bạch: “Dạ, bạch Thế-Tôn! Chúng tôi nguyện muốn được nghe!” [3]

Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, khi cầu vô-thượng chính-đẳng chính-giác, thời trong lúc đi, đứng, ngồi, nằm nên quán-sát tỷ-mỷ: “Thân hữu-lậu này có ba mươi bảy thứ bất-tịnh uế-ác, [4] là thứ không đáng yêu và là thứ không bền-chắc.

Nên quán thân này cũng như đồ gốm, bên ngoài dùng màu sắc sặc-sỡ như vàng bạc bảy báu tô-điểm khéo đẹp nhưng, bên trong lấy phẩn-uế mọi thứ bất-tịnh lấp nhét đầy-ních, rồi hai vai mang gánh đồ ấy đi, ai trông thấy cũng đều sinh lòng ưa-thích, mà không biết trong đồ ấy đựng đầy thứ bất-tịnh. Có sáu con rắn đen ở luôn bên trong đồ ấy, một con cựa-cậy thì đồ liền vỡ nát, sự độc hại, hôi nhơ tóe ra, không ai chịu nổi được. Người thế-gian trang-nghiêm thân mình, như đồ vẽ màu, đựng những thứ bất-tịnh kia. Ba món: Tham, sân, si là tâm-bệnh, ba bệnh: bệnh phong-hàn (cảm lạnh), bệnh hoàng-nhiệt (nóng, sốt, da vàng), bệnh đàm-ấm (ho đờm) là thân bệnh. Trong ngoài sáu bệnh hay làm hại thân-tâm, như sáu con rắn ở trong đồ nhơ; mỗi một con rắn cựa-cậy, đồ liền vỡ nát, thời mỗi một bệnh phát ra, thân tức vô-thường. Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở chốn không-nhàn, quán-sát thân này gọi là “bất-tịnh-quán-tướng” thứ nhất.

Trong ngày đêm, Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình nhơ-nhớp chẳng sạch, cũng như chó chết. Sao vậy? – Thân kia cũng là thứ bất-tịnh nơi cha mẹ làm sinh-duyên.

Bồ-tát xuất-gia lại quán-sát thân mình như tổ-kiến là nơi yên ở của nhiều kiến trong đó, một hôm có con voi trắng đi đến bên tổ, cho mình cọ vào tổ, tổ liền vỡ rớt. Thiện-nam-tử! Tổ ấy là thân ngũ-uẩn, voi trắng là sứ-giả Diễm-ma-la, thân hướng về đời sau khi voi trắng phá tổ kiến.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình mà nghĩ rằng: “Nay thân ta này từ đầu đến chân, da, thịt, xương, tủy cùng hòa-hợp nhau làm thành thân mình cũng như cây chuối, ở trong không có thực.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình không có sức mạnh, da thịt mỏng che-phủ, như vữa tô-trát tường, ức vạn lông tóc như cỏ mọc trên đất, chút gió nhỏ nhẹ ra vào lỗ chân lông. Như thế, ai là người có trí-tuệ lại ưa thích thân này? Vì, từng sát-na, sát-na, sự suy-bại luôn luôn luân-chuyển!

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như nuôi rắn độc mà vời lấy hại. Nay ta tuy đem thức ăn uống quần áo giúp-đỡ nuôi lớn thân này mà nó không biết ơn, rốt-ráo lại làm cho mình phải sa-đọa vào đường ác.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình ví như kẻ thù-oán giả làm bạn thân, rình lúc thuận-tiện, đem thuốc độc làm cho mệnh-căn kia chết. Thân ta như thế, vốn không phải chân-thực, quyết đi đến chỗ vô-thường, nên bậc Thánh không yêu quý lắm.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như bọt nước, tuy coi đẹp-đẽ như sắc ngọc lưu-ly, nhưng trong sát-na, nhân-duyên khởi, diệt không thường, vì nó là hữu-vi, nên từng niệm niệm không ở lâu được.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như Càn-thát-bà-thành, [5] tuy rằng hiện ra tướng-trạng mà không thực có. Nay thân ta cũng như thế.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình cũng như ảnh-tượng. Thân ta cũng thế, tuy có nhưng chẳng phải thực.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình ví như giặc oán cường-thịnh của nước ngoài. Nay thân ta cũng như thế, giặc oán phiền-não xâm-lược thiện-căn của ta.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như nhà nát, tuy cố-gắng sửa-sang lại nhưng, quyết sẽ hỏng nát. Thân ta cũng như thế, tuy gắng yêu-mến nó, nhớ-nghĩ đến nó nhưng, nó quyết sẽ vô-thường.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như ở gần nước oán-địch, nhân-dân thành ấp, thường mang lòng sợ-hãi. Nay thân ta cũng như thế, trong từng niệm niệm sợ giặc oán vô-thường.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như rất nhiều củi bị lửa đốt cháy, mà lửa dữ ấy vẫn không chán, đủ. Thân ta cũng thế, lấy lửa tham-ái, đốt củi ngũ (năm) dục, tâm càng tăng-trưởng thêm cũng như thế.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như con mới đẻ, từ-mẫu thương-xót luôn luôn gắng công săn-sóc, gìn-giữ. Thân ta cũng thế. nếu không gìn-giữ, thân-tâm bị bệnh, tức không thể tu chứng được.

Bồ-tát xuất-gia lại quán “bản-tính tự thân bất-tịnh”. Ví như có người chán-ngán và lo sợ màu than (đen), mới đặt mọi phương-tiện, lấy nước gột tẩy. Qua nhiều thời-gian màu đen vẫn như cũ và cho đến khi màu than (đen) hết, hoàn-toàn cũng không được ích gì. Thân ta cũng thế, là thân hữu-lậu bất-tịnh, giả-sử lấy nước bể cho đến hết đời vị-lai mà tẩy cũng vô-ích và cũng lại như thế thôi.

Bồ-tát xuất-gia lại quán thân mình như dầu tưới củi, lấy lửa đốt cháy, lại gặp gió lớn, thế mạnh không thể dập tắt được. Thân này cũng thế, là đống củi năm uẩn tưới dầu tham-ái, phóng lửa sân-khuể, sức gió ngu-si không thể ngừng được.

Bồ-tát xuất-gia quán nơi thân mình cũng như ác-tật, vì nó là chỗ ở của bốn trăm bốn bệnh [6] . Cũng như ruột già, là chỗ ở của tám vạn bốn nghìn con trùng. Là chỗ vô-thường, vì hơi thở ra không trở lại được, tức là vô-thường. Cũng như phi-tình thần-thức [7] dễ thoát, vì đồng như ngói đá. Cũng như nước sông, trước sau mỗi sát-na, không tạm ngừng nghỉ. Cũng như ép dầu, đối với hết thảy mọi sự, đều phải chịu-đựng khổ-nhọc. Thân này như không có chỗ nương-tựa, cũng như con trẻ mất cha mẹ. Thân này như không có người cứu-hộ, cũng như con ễnh-ương bị rắn nuốt. Thân này như huyệt không đáy, vì tâm, tâm-sở-pháp [8] không thể biết được. Thân này thường không tri-túc, vì đối với năm món dục-lạc, tâm không biết chán. Thân này thường không được tự-tại, vì bị đoạn-kiến, thường-kiến ràng-buộc. Thân này không biết sinh sự thẹn-hổ, vì tuy nhờ họ-hàng nuôi-nấng nhưng, vẫn vứt bỏ sự sống của mình. Thân này như thây chết, vì đối với ngày đêm tiếp nối đi gần đến diệt-hoại. Thân này chỉ để chịu mọi khổ, vì đối với hết thảy mọi chỗ không có gì là sự vui chân-thực. Thân này là chỗ nương-tựa của khổ, vì hết thảy mọi khổ y vào thân mà có. Thân này như làng trống, vì trong thân này không có chủ-tể. Thân này rốt-ráo không-tịch, vì do tính “biến-kế sở-chấp” [9] dựng, vẽ càn ra vậy. Thân này như vang trong hang, đều là hư-vọng hiển-hiện. Thân này cũng như thuyền buồm, nếu không có thuyền-sư tức bị trôi-giạt. Và thân này cũng như xe lớn vận-tải của báu. Sao vậy? Vì nhờ ngồi trên xe Đại-thừa đến được Bồ-đề vậy. [10]

Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ngày đêm quán-sát, cần mến tiếc thân này, vì còn muốn làm cho chúng sinh ra khỏi bể sinh-tử, đến bờ Niết-bàn.

Khi đức Thế-Tôn nói pháp ấy rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Tu hạnh như thế, là chỗ quán-pháp yếu-ước của người Phật-tử xuất-gia . Nếu có Phật-tử nào phát tâm Bồ-đề vì cầu vô-thượng chính-đẳng chính-giác, ở nơi A-lan-nhã, tu-tập ba mươi bảy quán như thế, lại dạy người ta tu tập pháp-yếu như thế, cùng giải-thuyết, viết chép, thụ-trì, đọc tập, xa lìa hết thảy sự chấp “ngã, ngã-sở”, dứt hẳn sự tham-đắm năm dục-lạc ở đời, sẽ chóng thành-thục được tín-tâm bất hoại, cầu Đại-bồ-đề, không tiếc thân mệnh, huống là các ngọc báu sở-hữu của thế-gian, thời hiện-thân quyết thành-tựu cứu-cánh hết thảy Kim-cương-trí-ấn của Như-Lai và đối với đạo vô-thượng quyết không thoái-chuyển; lục-độ, vạn-hạnh chóng được viên-mãn, chóng thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác.

Lúc đó, trong pháp-hội, tám vạn bốn nghìn Bồ-tát mới phát tâm, quá chán thế-gian, được đại-nhẫn-lực, đối với đạo vô-thượng không còn thoái-chuyển. Trăm nghìn Bà-la- môn phát tâm Bồ-đề, thành-thục tín-căn, được bất-thoái-chuyển. Ba vạn sáu nghìn thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh. [11]

TOÁT-YẾU

VII.- PHẨM YẾM-THÂN

Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, tự thân mình nên thực-hành pháp quán gì?”

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, cầu vô-thượng-giác, trong khi đi, đứng, nằm, ngồi nên quán thân này có 37 thứ bất-tịnh, không bền và không đáng quý. Quán thân này như cái lọ, bên ngoài màu sắc sặc-sỡ, bên trong đựng đồ nhơ, có 6 con rắn độc. Thân này cũng vậy, tuy trang-điểm nhưng, tâm bệnh: tham, sân, si, thân-bệnh: phong, hoàng, đàm-ấm luôn luôn nhiễu-hại thân tâm. Đó là “bất-tịnh quán-tướng” thứ nhất.

Lại quán thân này nhơ-nhớp như chó chết, như tổ kiến sẽ vỡ, như cây chuối rỗng không không thực, như vữa tô-trát tường, như cỏ mọc trên đất, như nuôi rắn độc, như kẻ oán giả làm thân, như bọt nước, như thành Càn-thát-bà, như bóng dáng, như giặc oán, như nhà nát, như gần nước oán-địch, như củi bị lửa cháy, như con mới đẻ. Thân này là bản-tính bất-tịnh, như dầu tưới củi, lửa cháy gặp gió, như ác tật, như ruột già chứa vi-trùng, như hơi thở, như phi-tình thần-thức, như nước sông, như ép dầu, như ễnh-ương bị rắn nuốt, như huyệt không đáy. Thân này như không chỗ nương-tựa, không biết đủ, không được tự-tại, không biết thẹn-hổ. Thân này như thây chết, là gốc khổ, dễ chịu khổ, rốt-ráo không-tịch. Thân này như làng trống, như vang trong hang, như thuyền buồm không người lái. Nhưng, thân này lại là xe lớn vận-tải của báu. Cần phải mến tiếc thân này, vì còn muốn làm cho chúng-sinh ra khỏi sinh-tử, đến Niết-bàn!”

Đức Phật dạy tiếp: “Tu-hành như thế là pháp-yếu sở-quán của Phật-tử xuất-gia. Phật-tử nào phát tâm bồ-đề, cầu vô-thượng-giác, ở nơi Lan-nhã tu 37 quán như thế, lại dạy người tu và giải-thuyết, viết chép, thụ-trì, đọc tập, bỏ chấp-trước, dứt dục-lạc, chóng được tín-tâm bất-hoại; hiện-thân thành-tựu kim-cương trí-ấn, lục độ, vạn hạnh chóng viên-mãn và chóng thành Phật.

Được nghe phẩm Yếm-thân rồi, 84.000 Bồ-tát mới phát tâm được đại-nhẫn-lực bất-thoái-chuyển; trăm nghìn Bà-la-môn phát tâm bồ-đề và 36.000 thiện-nam, nữ xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.

 


[1] Yếm-thân: Quán-sát thân-thể bất-tịnh sinh tâm chán-ngán.

[2] Nhập Thánh-trí-quán diệu-hạnh pháp- môn: Môn quán có hạnh vi-diệu, nhiếp-dẫn hàng Đại-thừa Bồ-tát chứng-nhập Phật-trí.

[3] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chữ “nghe”, Bồ-tát Di-Lặc ngờ hỏi, đức Phật ưng-thuận giải-đáp về vấn-đề Bồ-tát ở nơi Lan-nhã cần tu về pháp quán gì.

[4] 37 thứ bất-tịnh uế-ác: Đây là nói về 37 pháp quán về thân-thể bất-tịnh. Theo các kinh nơi thân có 36 vật chia làm 3 loại, nay ghi thêm dưới đây để tiện sự quán-sát:

A.- Ngoại-tướng: Những tướng thuộc bề ngoài của thân có 12 vật: tóc, lông, móng, răng, dử mắt, nước mắt, nước dãi, nước bọt, đại-tiện, tiểu-tiện, ghét và mồ-hôi.

B.- Thân-khí: Những khí-cụ giữ thân-thể, có 12 vật: da-dầy, da mỏng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ lá, mỡ nước, óc và màng.

C.- Nội-hàm: Những vật hàm-tàng trong thân, có 12 thứ: gan, mật, ruột, dạ-dầy, lá-lách, bồ-dục (quả cật), tim, phổi, sinh-tạng, thục-tạng, đờm đỏ và đờm trắng.

[5] Càn-thát bà-thành: Càn-thát-bà (Gandharva) Tàu dịch là “Hương-ấm”, là tên một người coi về kỹ-nhạc. Càn-thát-bà-thành, là cái thành do nhà huyễn-thuật (nhà kỹ-nhạc) hóa-hiện ra, coi như thực mà là giả. Còn gọi là “Thận-khí-lâu” hay là “Thận-lâu hải-thị” có nghĩa là ánh sáng mặt trời soi xuống bể, sắc bể giọi lên trên không, biến thành lầu gác, thành-quách, thiên hình, vạn-trạng, mà ngày xưa cho là vì con sò (thận) thần nó hóa-hiện ra như vậy, nên có tên ấy. Nói chung, đây chỉ về sự-vật có thực nhưng giả.

[6] 404 bệnh: Theo luận Trí-độ quyển 65 viết: “Thân này do 4 đại (đất, nước, gió, lửa) họp thành, nhưng chúng nó thường xâm-hại lẫn nhau. Trong mỗi một Đại có 101 thứ bệnh phát khởi. Có 202 thứ thuộc về bệnh lạnh (lãnh) do thủy-đại (nước) và phong-đại (gió) phát khởi. Có 202 thứ thuộc về bệnh nóng (nhiệt), do địa-đại và hỏa-đại phát-khởi”. Tổng cộng thành 404 bệnh.

[7] Phi-tình thần-thức: “Phi-tình” chỉ cho những vật không tình-thức như đất, đá v.v… “Thần-thức” là chỉ cho những tâm-thức của hữu-tình, linh-diệu không thể nghĩ, bàn được. Thần-thức hệ-thuộc cho hữu-tình, mà đây nói thần-thức của phi-tình (phi-tình thần-thức) là ám-chỉ lý vô-ngã (không có cái ta).

[8] Tâm, tâm-sở-pháp: Theo Duy-thức-học thời tâm gọi đúng là Tâm-vương hay Tâm-pháp, nó có 8 pháp tức là 8 thức: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý-thức, Mạt-na-thức và A-lại-gia-thức. Và, có 51 pháp sở-hữu, tùy thuộc Tâm-vương gọi là tâm-sở-hữu-pháp, gọi tắt là Tâm-sở.

[9] Biến-kế sở-chấp: Một trong 3 tính trong Duy-thức-học. Do vọng-tình của phàm-phu tính-toán, so lường hết thảy pháp (sự-vật), rồi chấp đó là thực, gọi là tính “Biến-kế sở-chấp”. Tỷ như người ta tìm thấy xương khỉ giống như xương người, người ta cho loài người là do loài khỉ tiến-hóa vượt bực mà thành.

[10] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử” đến chỗ “Bồ-đề vậy” là nói rõ về quán-sát thân hữu-lậu này là bất tịnh. Trong sự quán-sát này gồm có 37 pháp. Đặc-biệt pháp quán thứ 37, mặc dù thân này là bất-tịnh nhưng, phải có nó để tu tiến đến chỗ giác-ngộ.

[11] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử” đến chỗ “pháp-nhãn-tính”, đức Phật dạy thêm về sự quán thân của Đại-thừa là phải mến tiếc thân, vì còn phải độ-sinh. Tiếp đó, đức Phật kết-thành sự tu 37 quán sẽ chóng thành vô-thượng-giác. Đại-chúng nghe Phật nói về pháp môn này đều được lợi-ích.

Đến đây hết quyển thứ 6 .

VIII.- PHẨM BA-LA-MẬT-ĐA

Bấy giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Bởi nhân-duyên gì đức Thế-Tôn ân-cần khen-ngợi sự tu-hành của Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, mà không khen-ngợi sự tu-hành của Bồ-tát ở nơi khác? Có một thời đức Thế-Tôn ở núi Linh-Thứu vì các Bồ-tát nói rộng pháp-yếu mà Ngài nói lời này: “Bồ-tát, hoặc có khi ở nhà dâm-nữ, thân gần với người đồ-tể, để chỉ dạy sự lợi-ích vui-vẻ cho họ, dùng vô-số phương-tiện nhiêu-ích chúng-sinh mà vì họ nói diệu-pháp cho họ nghe, khiến họ nhập Phật-đạo”. Ngày nay đức Thế-Tôn vì các vị mới phát tâm nói diệu-pháp, Ngài lại không nói như thế. Song, bọn chúng tôi luôn luôn thân-dự trước Phật, được nghe pháp sâu-xa, không có gì ngờ-vực nhưng, kính xin đức Như-Lai vì những người cầu Phật-đạo đời mai sau, mà diễn nói cho những chân-lý sâu-xa mầu-nhiệm, khiến hạnh Bồ-tát của họ không bị thoái-chuyển”.

Khi ấy, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác cầu đạo Bồ-đề có hai hạng Bồ-tát: Một là tại-gia. Hai là xuất-gia. Bồ-tát tại-gia vì muốn hóa-đạo, phòng dâm, hàng thịt đều được thân-cận. Bồ-tát xuất-gia không như thế.

Song, Bồ-tát ấy đều có chín bậc: Ba bậc thượng-căn đều ở nơi A-lan-nhã, không gián-đoạn sự tinh-tiến làm lợi-ích chúng-sinh. Các Bồ-tát trung-căn và hạ-căn tùy chỗ nào hợp thì ở, nơi chốn không nhất định, hoặc ở nơi A-lan-nhã, hoặc ở nơi làng xóm, tùy duyên làm lợi-ích, an-ổn chúng-sinh đều được hạnh-môn như thế. Ông nên quán-sát!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia tu-tập Phật-đạo, đã được pháp vô-lậu chân-thực, thời tùy duyên làm lợi lạc hết thảy chúng-sinh. Nếu có Phật-tử chưa được chân-trí, ở nơi Lan-nhã, cần nên thân-cận chư Phật, Bồ-tát và nếu gặp được bậc chân-thiện-tri-thức, thời đối với hạnh Bồ-tát quyết không thoái-chuyển. Bởi nhân-duyên ấy, các Phật-tử cần nên dốc lòng cầu thấy một đức Phật và một vị Bồ-tát.

Thiện nam-tử! Như thế gọi là pháp-yếu xuất-thế, các ông đều nên nhất tâm tu-học!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia chán bỏ thế-gian, ở nơi A-lan-nhã biết dùng công-lực được viên-mãn tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-hạnh và chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Sở-dĩ thế là sao? – Nếu người bỏ danh-lợi vào ở trong rừng núi, đối với thân-mệnh mình cũng như của-cải của mình không sẻn-tiếc gì nữa, vĩnh-viễn không hệ-thuộc vào nó, thời tự-nhiên được đầy-đủ dễ-dàng ba thứ Ba-la-mật-đa. [1]

Bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất-gia không chứa cất của báu, vậy bởi nhân-duyên gì mà Bồ-tát ấy viên-mãn được Bố-thí Ba-la-mật?”

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Thiện-nam-tử! Ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất-gia vào trong xóm làng khất-thực, những món ăn xin được, trước tiên nên đem phần nhỏ cho chúng-sinh, sau nữa lại đem phần còn thừa cho những chúng-sinh nào muốn, tức được tên gọi là “Bố-thí Ba-la-mật”. Đem thân-mệnh mình cúng-dàng Tam-bảo, đem đầu mắt, tủy, óc bố-thí cho người lại xin, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì người cầu pháp, nói pháp xuất-thế, khiến họ phát tâm vô-thượng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Bố-thí Ba-la-mật-đa.”

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, tu mười hai hạnh Đầu-đà, nếu khi đi bộ nên coi xuống đất cách chừng hai khuỷu tay, để không làm tổn-hại chúng-sinh, tức được tên gọi là “Trì-giới Ba-la-mật”. Kiên-trì giới cấm, không tiếc thân-mệnh, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì người cầu đạo xuất-thế, thuyết-pháp giáo-hóa, khiến họ phát tâm vô-thượng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Trì-giới Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, diệt sự giận-bực, được “Từ-tâm tam-muội” và cũng không hủy-nhục hết thảy chúng-sinh, tức được tên gọi là “Nhẫn-nhục Ba-la-mật” (Xưa, nay vẫn thiếu một đoạn “Thận-cận Ba-la-mật” này). Nếu vì một người nói một câu pháp, khiến họ phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Nhẫn-nhục Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia vì muốn khiến chúng-sinh được thành Phật nên tu hạnh “tinh-tiến”. Chưa được thành Phật, phúc-đức, trí-tuệ kém-cỏi, không tham yên-vui, không tạo mọi tội, đối với trong những hạnh khổ-hạnh của những Bồ-tát xưa, sinh tâm rất mừng, cung-kính, tôn-ngưỡng, luôn luôn không lúc nào thôi, bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Tinh-tiến Ba-la-mật”. Bỏ thân-mệnh như nhổ nước bọt, dãi, trong hết thảy thời chưa từng biếng nhác, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Gặp người có duyên, nói đạo tối-thượng, khiến họ đi tới vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Do tâm tinh-tiến, mười hạnh [2] như thế, đời quá-khứ không bị thoái-chuyển, đời hiện-tại được vững-bền và đời vị-lai chóng được viên-mãn. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Đại-bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Tinh-tiến Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, tu-tập chính-định, vì giữ cho các pháp không tan mất, thể-nhập các môn giải-thoát, dứt hẳn biên-kiến, [3] hiển-hiện thần-thông, hóa-độ chúng-sinh, khiến họ được chính-trí, dứt được gốc phiền-não, chứng-nhập chân-pháp-giới, ngộ đạo như-thực và sẽ tới Bồ-đề; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Thiền-định Ba-la-mật”. Muốn làm cho chúng-sinh như ta không khác, nghĩa là đều được đầy đủ phép điều-trị chúng-sinh, không bỏ chính-định, không tiếc thân-mệnh; tu chính-định ấy, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì các chúng-sinh nói pháp sâu-nhiệm, đều khiến họ xu-hướng đạo vô-thượng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Thiền-định Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi không-nhàn, thân-cận cúng-dàng chư Phật, Bồ-tát. Là những bậc trí-giả các Bồ-tát thường thích nghe những pháp sâu-nhiệm, tâm sinh khát-ngưỡng, luôn luôn không biết chán, đủ; lại hay phân-biệt rành chân-lý Nhị-đế, [4] dứt trừ hai chướng, thông-suốt ngũ-minh, [5] nói các pháp-yếu, giải-quyết mọi sự ngờ-vực; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Bát-nhã ba-la-mật”. Vì cầu nửa bài kệ mà hủy bỏ thân-mệnh, không sợ mọi khổ, để đến chỗ Đại-bồ-đề, tức được thành-tựu “Thân-cận Ba-la-mật”. Ở trong đại-hội vì người nói pháp, đối với những nghĩa sâu-nhiệm không sẻn tiếc, bí-mật, khiến họ phát-khởi tâm Đại-bồ-đề và đối với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Thường hay quán-sát thân ta, Lan-nhã, tâm Bồ-đề và Pháp-thân chân-thực: bốn thứ ấy không sai khác; vì quán diệu-lý như thế, như thế tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Bát-nhã ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi không nhàn, thường hay tu-tập “Phương-tiện thắng-trí Ba-la-mật-đa”. [6] Dùng “Tha-tâm-trí” [7] hiểu rõ ý muốn, phiền-não, tâm-hành sai-biệt của chúng-sinh, hợp bệnh cho thuốc, đều làm cho họ khỏi được, được thần-thông tam-muội du-hí tự-tại, phát bi-nguyện lớn, thành-thục chúng-sinh, các pháp của chư Phật đều thông-suốt cả, [8] bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Phương-tiện thiện-sảo Ba-la-mật-đa”. Vì muốn làm lợi-ích cho các chúng-sinh, đối với thân-mệnh và của-cải đều không có tiếc, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật-đa”. Vì các chúng-sinh oán, thân bình-đẳng, nói pháp vi-diệu, làm cho họ chứng-nhập Phật-trí, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật-đa”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Phương-tiện thiện-sảo Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia vào trong rừng núi, vì các chúng-sinh nên thường tu-tập “Nguyện Ba-la-mật”. Tâm các vị ấy luôn luôn quán-sát chân-tính của các pháp, chẳng phải “có”, chẳng phải “không”, mà là diệu-lý trung-đạo; đối với việc thế-tục đều phân-biện rõ được và cũng vì hóa-độ chúng-sinh nên luôn luôn tu về từ-bi; bởi nhân-duyên ấy tức được tên gọi là “Nguyện Ba-la-mật”. Đem bốn lời thệ-nguyện rộng lớn [9] nhiếp-thụ chúng-sinh, cho đến dù bỏ thân-mệnh vẫn không làm hoại mất bi-nguyện ấy, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Nói pháp vi-diệu, biện-tài vô-ngại, nếu có người nào lắng nghe được diệu-pháp ấy rốt-ráo không bị thoái-chuyển, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Nguyện Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, dùng năng-lực chính-trí, hiểu rành tâm-hạnh đen, trắng (thiện, ác, thanh-tịnh, không thanh-tịnh) của chúng-sinh, vì chúng-sinh nói pháp tương-ứng, khiến họ chứng-nhập nghĩa sâu nhiệm của Đại-thừa, an-trụ nơi cứu-cánh Niết-bàn; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Lực Ba-la-mật”. Dùng mắt chính-trí soi thấy lý “ngũ uẩn không-tịch”, (5 uẩn không, vẳng), có thể bỏ thân-mệnh làm lợi-ích cho chúng-sinh, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Dùng năng-lực diệu-trí hóa-độ bọn tà-kiến, khiến họ dứt bỏ nghiệp ác sinh-tử luân-hồi, xu-hướng Niết-bàn cứu-cánh thường lạc, tức được gọi là “Chân thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Lực Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, đối với hết thảy pháp biết rõ thiện hay ác, xa lìa tà-kiến, nhiếp-thụ chính-pháp, không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn, tức được tên gọi là “Trí Ba-la-mật”. Không yêu thân mình, luôn luôn thương xót chúng-sinh; đối với thân-mệnh và của cải thường tu hạnh đại-xả (bỏ hết) tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Dùng trí-tuệ vi-diệu vì các chúng-sinh nói pháp Nhất-thừa, khiến họ chứng-nhập đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác; bởi nhân-duyên ấy, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Trí Ba-la-mật-đa”. [10]

Thiện-nam-tử! Những Ba-la-mật-đa ấy, bởi nghĩa gì mà Tôi lại nói là nó phát-sinh ra tám vạn bốn nghìn sự sai khác? Các ông nên biết! Vì những người nhiều “tham” mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người nhiều “sân” mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người nhiều “si” mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người “đẳng phận” [11] mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa. Thiện-nam-tử! Đối với những số hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa ấy làm căn-bản, rồi chuyển gấp hơn lên, thành tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-đa. Những pháp như thế, đều là hạnh lợi-tha.

Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sinh, tính-khí khó điều-phục, nghe pháp ấy rồi mà tâm chưa điều-phục được, liền vì họ tuyên-thuyết tám vạn bốn nghìn Tam-muội-môn. Diệu-pháp như thế đều là hạnh tự-lợi! Nếu có chúng-sinh tính-khí khó điều-phục, nghe pháp ấy rồi, mà tâm chưa điều-phục được, liền vì họ tuyên-thuyết tám vạn bốn nghìn Đà-ra-ni-môn. Diệu-pháp như thế đều là hạnh lợi-tha! Thiện-nam-tử! Tôi vì điều-phục hết thảy chúng-sinh nên nói ra pháp như thế và đem vô số phương-tiện thiện sảo, thị-hiện mọi tướng, giáo-hóa chúng-sinh. Thiện-nam-tử! Vì nghĩa ấy nên hết thảy Nhân, Thiên đều gọi Như-Lai là Đạo-sư.

Thiện-nam-tử! Chư Phật Thế-Tôn trong hiện-tại và vị-lai đều tu-tập tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-môn, tám vạn bốn nghìn Tam-muội-môn, tám vạn bốn nghìn Đà-ra-ni-môn, dứt hẳn tám vạn bốn nghìn phiền-não-chướng vi-tế, tám vạn bốn nghìn sở-tri-chướng vi-tế và đều tới dưới gốc cây Bồ-đề nơi Lan-nhã, ngồi tòa Kim-cương, nhập-định Kim-cương, hàng-phục được hết thảy thiên-ma oán-thù rồi, chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [12]

Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy Ngài nói lời kệ sau này:

Đại-pháp-vương vượt qua ba cõi,

Xuất-hiện thế-gian hóa mọi loài.

Các Bồ-tát nhiều như Hằng-sa,

Nhập Phật Cam-lộ trí-tuệ-môn.

Di-Lặc đắc-đạo trong nhiều kiếp,

Đem tâm Đại-bi mà khải-vấn.

Lành thay, vô-cấu Pháp-vương-tử!

Trí-tuệ mở tỏ Chân-phật-thừa.

Tôi đem biện-tài vô-úy nói,

Nói trong Đại-thừa, hướng đường giác.

Các ông nhất tâm lắng nghe kỹ!

Trao chuyển đời sau điều nên trao.

Mười phương thế-giới có thể không,

Chớ để dứt hết đạo xuất-thế!

Muốn cầu đạo xuất-thế giải-thoát,

Chẳng qua ba căn, chín phẩm loại. [13]

Ba phẩm Thượng-căn ở Lan-nhã,

Trung, Hạ tùy duyên hóa thế-gian.

Chỗ cầu đạo-quả không sai khác,

Cùng nói chân-như, Phật-tính-hải.

Đại-sĩ chứng được vô-lậu rồi,

Tùy nghi ứng-hiện cứu quần-sinh,

Mở tỏ “hữu, không” bất nhị-môn. [14]

Lợi mình, lợi người không gián-đoạn.

Phật-tử chưa chứng được vô-lậu,

Nên chính, chăm tu ba môn học. [15]

Thiện-căn hồi-hướng cho chúng-sinh,

Một lòng chuyên niệm Phật, Bồ-tát:

Nguyện, con thường thấy Phật, Bồ-tát,

Tấm thân công-đức rất trang-nghiêm.

Nếu thường được nghe tiếng pháp-vũ,

Tất cả thấm-nhuần, tâm chẳng thoái.

Đem thân thường ở trong địa-ngục,

Cũng vẫn thân-cận Đại-từ-tôn.

Đem thân thường ở trong luân-hồi,

Cũng vẫn thân nghe pháp vi-diệu.

Bởi nhân-duyên ấy, các Phật-tử,

Buộc tâm thường niệm: “Thiên-nhân-sư”.

Nếu có Phật-tử tu Thánh-đạo,

Phát khởi Vô-thượng Bồ-đề-tâm;

Chán đời ở trong A-lan-nhã,

Cũng được là tu ba thứ “Độ”. [16]

Bố-thí trước khi ăn mỗi ngày,

Và, đem pháp báu cho chúng-sinh;

Ba vòng thanh-tịnh [17] là “Bố-thí”,

Bởi nhân tu ấy, đức viên-mãn.

Nên biết chứng được Ba-la-mật,

Chỉ do tâm tịnh, không do của;

Nếu có nhiễm tâm, cho ngọc quý,

Không bằng tâm tịnh cho chút ít.

Cho của tức được Bố-thí-độ,

Ba-la-mật ấy chẳng hai, ba.

Hay cho thân-mệnh và vợ con,

Như thế được là “Thân-cận-độ”.

Nếu thiện-nam, nữ đến cầu pháp,

Vì nói hết thảy Đại-thừa-kinh;

Khiến phát vô-thượng Bồ-đề-tâm,

Mới gọi “Chân-thực Ba-la-mật”.

Từ-bi, tịnh-tín đủ thẹn-hổ,

Nhiếp-thụ chúng-sinh lìa tham-trước;

Nguyện thành Như-Lai vô-thượng-trí,

Cho của, cho pháp là Sơ-độ.

Giữ bền tam-tụ-giới Bồ-tát,

Khai-phát Bồ-đề, lìa sinh-tử;

Ủng-hộ Phật-pháp ở thế-gian,

Hối sự lầm phạm: “Chân-trì-giới”.

Dẹp tâm giận-bực, quán từ-bi,

Nên nghĩ nhân xưa đối-oán hại; [18]

Không tiếc thân-mệnh cứu chúng-sinh,

Thế là “Nhẫn-nhục Ba-la-mật”.

Làm hạnh khó làm không tạm bỏ,

Ba Tăng-kỳ-kiếp thường tăng-tiến;

Không cùng nhơ nhiễm, thường luyện tâm,

Vì độ chúng-sinh cầu giải-thoát.

Ra, vào chính-định được tự-tại,

Biến-hóa thần-thông dạo mười phương;

Dứt nhân phiền-não cho chúng-sinh,

Cửa Tam-ma-địa cầu giải-thoát.

Nếu muốn thành-tựu chân-trí-tuệ,

Thân-cận Bồ-tát và Như-Lai;

Thích nghe diệu-lý-môn [19] xuất-thế,

Tu đạt ba minh, dứt hai chướng.

Biết tâm chúng-sinh thường sai-biệt,

Tùy bệnh cho thuốc khiến họ uống;

Từ-bi thiện-sảo hợp căn-cơ,

Phương-tiện lợi-sinh độ mọi cõi.

Quán chân-cú-nghĩa [20] hết thảy pháp,

Không chấp giữa, bên, lìa “có, không”.

Tịnh-trí liên-tiếp ngộ chân-như,

Lợi mình, lợi người khắp pháp-giới.

Trí-lực hiểu rõ tính chúng-sinh,

Vì nói “tương-ứng” của mọi pháp.

Trí-lực thể-nhập tâm chúng-sinh,

Khiến dứt gốc luân-hồi sinh-tử.

Trí-lực phân-biệt pháp trắng, đen,

Tùy nên lấy, bỏ đều hiểu thấu.

Sinh-tử, Niết-bàn vốn bình-đẳng,

Thành-tựu chúng-sinh lìa phân-biệt.

Mười hạnh thù-thắng trên như thế,

Nhiếp vào tám vạn bốn nghìn số;

Tùy theo phẩm-loại thắng pháp-môn,

Mới là Bồ-tát Ba-la-mật.

Tám vạn bốn nghìn Tam-ma-địa,

Diệt-tâm tán-loạn cho chúng-sinh.

Tám vạn bốn nghìn Tổng-trì-môn,

Trừ-diệt hoặc-chướng, tan ma-chúng.

Năng-lực phương-tiện đấng Pháp-vương,

Ba thứ pháp-yếu hóa [21] chúng-sinh;

Lưới “giáo” bủa chăng bể sinh-tử,

Đặt Nhân, Thiên lên chốn an-lạc. [22]

Khi đức Thế-Tôn nói pháp ấy, tám vạn bốn nghìn Thiên-tử cõi Đao-lỵ, dứt được các giới-chướng, [23] chứng Hoan-hỷ-địa. Vô số trăm nghìn Thiên-tử trong sáu cõi trời Dục ngộ Vô-sinh-nhẫn, được Đà-ra-ni. Mười sáu Đại-quốc-vương được nghe Đà-ra-ni, vô-lượng tứ chúng nghe hạnh Bồ-tát hoặc được Bất-thoái-địa, hoặc được Tam-muội-môn, hoặc được Đà-ra-ni, hoặc được đại-thần-thông, hoặc có Bồ-tát chứng được Tam-địa cho đến Thập-địa, vui mừng hớn-hở. Vô-lượng trăm nghìn các Nhân, Thiên…, phát tâm vô thượng chính-đẳng chính-giác, không bị thoái-chuyển. Tám nghìn Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh. [24]

TOÁT-YẾU

VIII.- PHẨM BA-LA-MẬT

Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Sao chỉ thấy Thế-Tôn khen ngợi sự tu-hành của Bồ-tát tại A-lan-nhã mà không thấy Ngài khen-ngợi sự tu-hành của các Bồ-tát ở nơi khác? Có một thời trên núi Linh-thứu Ngài nói: “Bồ-tát có khi ở nhà dâm-nữ, ở gần người đồ-tể để chỉ dạy họ, khiến họ vào đạo”. Nay lại không thể. Vậy xin Thế-Tôn nói cho lý thâm-diệu ấy, để cho những người cầu Phật-đạo mai sau, không có sự ngờ-vực và không bị thoái-chuyển”.

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Phát tâm vô-thượng cầu đạo bồ-đề có hai hạng Bồ-tát: 1/ Tại-gia. 2/ Xuất-gia. Bồ-tát tại-gia vì sự hóa-đạo được thân-cận nơi phòng dâm, hàng thịt. Bồ-tát xuất-gia không thế. Song, Bồ-tát ấy còn có 9 bậc: 3 bậc thượng-căn ở A-lan-nhã, 3 bậc Trung-căn và 3 bậc Hạ-căn tùy ở chỗ nào hợp với sự làm lợi-ích cho chúng-sinh thì ở. Hơn nữa, Bồ-tát xuất-gia tu Phật-đạo đã được vô-lậu-pháp thời tùy duyên làm lợi-lạc chúng-sinh. Nếu chưa, ở nơi A-lan-nhã nên thân-cận chư Phật, Bồ-tát hay gặp các bậc Chân-thiện-tri-thức. Đó là pháp-yếu xuất-thế!”

Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, dùng công-lực sẽ viên-mãn 84.000 hạnh Ba-la-mật và chóng chứng vô-thượng-giác. Nếu người bỏ danh-lợi, không tiếc thân-mệnh của cải, tu nơi rừng núi dễ được ba thứ: Danh-tự, thân-cận và chân-thực trong mười Ba-la-mật.

- BỐ-THÍ: Bồ-tát không có của, lấy đâu bố-thí mà viên-mãn được Bố-thí ba-la-mật?

Đem ít món ăn xin được và những món ăn còn thừa cho người muốn, là “Bố-thí”. Đem thân-mệnh cúng-dàng Tam-bảo, xả thân cho người, là “Thân-cận”. Nói pháp xuất-thế, khiến người cầu pháp phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.

- TRÌ-GIỚI: Không làm tổn-hại chúng-sinh là “Trì-giới”. Kiên-trì giới cấm, không tiếc thân-mệnh là “Thân-cận”. Và, thuyết-pháp khiến người cầu đạo xuất-thế phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.

- NHẪN-NHỤC: Diệt giận-bực, không hủy-nhục chúng-sinh là “Nhẫn-nhục”. Và, vì người thuyết-pháp khiến họ phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.

- TINH-TIẾN: Chưa thành Phật, phúc-trí kém, không ham vui, không tạo tội, kính ngưỡng khổ-hạnh của các Bồ-tát là “Tinh-tiến”. Hy-sinh thân-mệnh dễ-dàng là “Thân-cận”. Nói đạo tối-thượng, khiến người cầu đạo tới vô-thượng-giác là “Chân-thực”.

- THIỀN-ĐỊNH: Tu-tập chính-định, thể-nhập các môn giải-thoát, dứt biên-kiến, hiện thần-thông, hóa-độ chúng-sinh, khiến họ được chính-trí, dứt phiền-não, ngộ chân-pháp-giới, ngộ đạo như-thực và sẽ tới bồ-đề là “Thiền-định”. Làm cho chúng-sinh tu tam-muội, không tiếc thân-mệnh là “Thân-cận”. Nói pháp thâm-diệu khiến chúng-sinh xu hướng đạo vô-thượng là “Chân-thực”

- BÁT-NHÃ: Thân-cận cúng-dàng chư Phật, Bồ-tát, các bậc trí-giả, thích nghe diệu-pháp không chán, lại hiểu rõ lý Nhị-đế, trừ 2 chướng, suốt ngũ minh, nói các pháp-yếu, giải-quyết ngờ-vực là “Bát-nhã”. Cầu nửa bài kệ mà hủy thân không sợ khổ, đạt tới Đại-bồ-đề là “Thân-cận”. Nói pháp sâu-nhiệm không sẻn tiếc, bí-mật khiến người nghe, phát tâm đại-bồ-đề, bất-thoái-chuyển. Và, quán thân ta, Lan-nhã, bồ-đề-tâm và pháp-thân không khác là “Chân-thực”.

- PHƯƠNG-TIỆN THIỆN-SẢO: Dùng “tha-tâm-trí” hiểu rõ ý muốn, phiền-não, tâm-hành sai khác của chúng-sinh mà tùy bệnh cho thuốc, khiến họ thoát khỏi, được thần-thông, phát tâm bi-nguyện thành-thục chúng-sinh và thông suốt các pháp là “Phương-tiện thiện-sảo”. Vì việc lợi-ích không tiếc thân-mệnh, của cải là “Thân-cận”. Nói pháp không phân-biệt oán, thân, khiến chúng-sinh chứng-nhập Phật-trí là “Chân-thực”.

- NGUYỆN: Tâm luôn luôn quán pháp-tính là “Trung-đạo” chẳng phải “có”, chẳng phải “không”; hiểu rõ thế-tục, tu đức từ-bi để độ-sinh là “Nguyện”. Đem 4 nguyện lớn độ-sinh, dù phải xả thân cũng không bỏ, là “Thân-cận”. Nói pháp vi-diệu, biện-tài vô-ngại, người nghe được bất-thoái-chuyển là “Chân-thực”.

- LỰC: Dùng sức chính-trí, hiểu tâm-hạnh, nói pháp tương-ứng, khiến chúng-sinh chứng-nhập nghĩa sâu-nhiệm của Đại-thừa và an-trụ cứu-cánh Niết-bàn là “LỰC”. Dùng mắt chính-trí soi thấy “5 uẩn không-tịch”, xả thân làm việc lợi-ích cho chúng-sinh là “Thân-cận”. Dùng sức diệu-trí độ bọn tà-kiến, khiến họ bỏ nghiệp sinh-tử luân-hồi, xu-hướng về Niết-bàn thường lạc là “Chân-thực”.

- TRÍ: Biết rõ thiện, ác, xa lìa tà-kiến, nhiếp-thụ chính-pháp, không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn là “TRÍ”. Thương chúng-sinh, thường xả thân-mệnh, của cải là “Thân-cận”. Dùng vi-diệu-trí nói pháp Nhất-thừa khiến chúng-sinh chứng-nhập đạo vô-thượng-giác là “Chân-thực”.

Lại nữa, vì những chúng-sinh nhiều “tham, sân, si và đẳng-phận” mà phân-biệt, diễn nói ra mỗi thứ đến 2.100 Ba-la-mật và nhân gấp 10 lần thành 84.000 Ba-la-mật. Đó đều là hạnh lợi-tha. Những chúng-sinh nghe pháp mà tâm chưa điều-phục, nên nói 84.000 Tam-muội-môn đó là hạnh tự-lợi. Những chúng-sinh nghe pháp mà tâm chưa điều-phục nên nói 84.000 Đà-ra-ni-môn, đó là hạnh lợi-tha.

Chư Phật hiện-tại và vị-lai đều tu về 84.000 Ba-la-mật-môn, Tam-muội-môn, Đà-ra-ni-môn, mà dứt được 84.000 phiền-não-chướng, sở-tri-chướng vi-tế, thành vô-thượng-giác.

Khi đức Phật nói pháp ấy rồi, 84.000 Thiên-tử Đạo-lỵ chứng Hoan-hỷ-địa; vô số Thiên-tử trong Lục-dục-thiên ngộ Vô-sinh-nhẫn được Đà-ra-ni; 16 Quốc-vương được Đà-ra-ni; vô-lượng tứ-chúng được Bất-thoái-địa, hoặc được Tam-muội-môn, Đà-ra-ni-môn, đại-thần-thông. Hoặc có Bồ-tát chứng Tam-địa đến Thập-địa, vô-lượng Nhân, Thiên phát-tâm vô-thượng, 84.000 Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.

 


[1] Ba thứ Ba-la-mật-đa: Tức là “danh-tự (tên gọi), thân-cận và chân-thực Ba-la-mật”.

Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “Ba-la-mật”, Bồ-tát Di-Lặc ngờ việc thực-hành hạnh Bồ-tát mới hỏi Phật, đức Phật giải rõ việc làm của hai hạng Bồ-tát: tại-gia và xuất-gia.

[2] Mười hạnh: Tức 10 Ba-la-mật: Trong 1 Ba-la-mật nào cũng cần phải tinh-tiến mới thành-tựu được, nên “Tinh-tiến Ba-la-mật” nằm trong tất cả.

[3] Biên-kiến: Tư-tưởng thiên về một bên.

[4] Nhị-đế: Chân-đế và tục-đế (xin xem chú-giải trong quyển Bước đầu học Phật)

[5] Ngũ minh: “Minh” là xiển-minh, nghĩa là làm cho nghĩa-lý, tư-tưởng rõ-rệt ra bằng cách có chứng-cứ. Lại, “Minh” là tên riêng của trí-tuệ, có nghĩa là y vào môn học nào đó mà trí-tuệ phát-minh. Đây là 5 môn học xưa của Ấn-độ: 1/ Thanh-minh (Sabdavidya): xiển-minh về ngôn-ngữ, văn-tự. 2/ Công-sảo-minh (Silpakar-masthànavidyà): xiển-minh về hết thảy công-ngệ, kỹ-thuật, toán-số, lịch-số v.v…3/ Y-phương-minh (Cikitsàvidà): xiển-minh về phương thuốc. 4/ Nhân-minh(Hetuvidyà): xiển-minh luận-lý-học, bàn-định về lẽ chính, tà, chân, ngụy. 5/ Nội-minh (Adhỳatmavidyà): xiển-minh tôn-chỉ của học-phái mình, tức là nội-điển từng học-phái, như Phật-giáo lấy Tam-tạng: kinh, luật, luận làm Nội-minh. Bốn minh trên là môn học chung cho tất cả, còn minh thứ năm là riêng biệt của từng phái.

[6] Phương-tiện thắng-trí….: Trong 10 Ba-la-mật, có thể chia 5 Ba-la-mật trước thuộc về tu phúc, 5 Ba-la-mật sau thuộc về tu tuệ. Về tu tuệ coi Bát-nhã ba-la-mật như là căn-bản-trí, 4 Ba-la-mật sau như là Hậu-đắc-trí. Y nơi Bát-nhã, tu-tập những phương-pháp tiện-dụng độ-sinh làm cho trí-tuệ thù-thắng hơn lên là “Phương-tiện thắng-trí Ba-la-mật”.

[7] Tha-tâm-trí: Trí-tuệ hiểu biết tâm người khác.

[8] Đoạn trên, từ chữ “Dùng” tới chữ “cả” nói Bồ-tát được trí-tuệ, thần-thông, hiểu rõ nghiệp-tính chúng-sinh, Bồ-tát phát bi-nguyện lớn đi khắp mọi nơi, chữa bệnh cho chúng-sinh, làm cho chúng-sinh được thanh-tịnh và hiểu thấu đạo vô-thượng.

[9] 4 lời thệ-nguyện rộng lớn: 1/ Chúng-sinh vô-biên thệ-nguyện độ. 2/ Phiền-não vô-tận thệ-nguyện đoạn. 3/ Pháp-môn vô-lượng thệ-nguyện học. 4/ Phật-đạo vô-thượng thệ-nguyện thành.

[10] Đoạn trên, từ chỗ “Bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng:” cho đến chỗ “Trí-ba-la-mật-đa” là nói rõ về 3 thứ của 10 Ba-la-mật:

1/ Bố-thí ba-la-mật-đa (Dànapàramità): cho của cải, thân-mệnh và nói pháp xuất-thế. 2/ Trì-giới ba-la-mật-đa (Silapàramità): giữ giới cấm, không hại sinh, không tiếc mình vì giữ giới và khuyên người phát tâm vô-thượng. 3/ Nhẫn-nhục ba-la-mật-đa (Ksàntipàramità): không hủy-nhục chúng-sinh…, khuyên người phát tâm vô-thượng. 4/ Tinh-tiến ba-la-mật-đa (Viryapàramità): luôn luôn tu-tiến, không tiếc thân-mệnh và nói đạo tối-thắng, khiến người nghe, tới vô-thượng-giác. 5/ Thiền-định ba-la-mật-đa (Dhyànapàramità): giữ chính-định, hóa chúng-sinh, nhập chân-pháp-giới; không tiếc thân-mệnh dạy chúng-sinh tu và nói pháp vi-diệu khiến chúng-sinh tới vô-thượng-giác. 6/ Bát-nhã ba-la-mật-đa (Prjnãpà-ramità) “Bát-nhã” Tàu dịch là “Tuệ”: Hiểu rõ chân-lý không tiếc thân-mệnh để cầu pháp; nói pháp không sẻn và, quán thấu diệu-lý bình-đẳng. 7/ Phương-tiện thiện-sảo ba-la-mật-đa (Upàyapàramità): Hiểu, giúp chúng-sinh; giúp chúng-sinh không tiếc mình và coi chúng-sinh bình-đẳng, nói pháp vi-diệu, khiến họ chứng-nhập Phật-trí. 8/ Nguyện ba-la-mật-đa (Pranidanapàrajat): Quán sự-vật là trung-đạo, không “có”, không “không”, tu tâm từ-bi, hiểu thấu việc đời và sự chúng-sinh đau khổ; dù bỏ thân mệnh để thực-hành đại-nguyện cũng không từ và nói pháp vi-diệu, làm chúng-sinh được bất-thoái-chuyển. 9/ Lực ba-la-mật-đa (Balapàramità) Dùng sức trí-tuệ làm chúng-sinh chứng-nhập Đại-thừa-pháp; dù bỏ thân-mệnh làm lợi-ích chúng-sinh cũng được và dùng diệu-lực làm cho bọn tà-kiến xu-hướng Niết-bàn. 10/ Trí ba-la-mật-đa (Jnànapàramità): Hiểu rõ các pháp, giữ vững trung-đạo: không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn, có tâm đại-xả, thương xót chúng-sinh và dùng diệu-trí nói pháp Nhất-thừa, khiến chúng-sinh chứng-nhập đạo vô-thượng.

[11] Đẳng-phận: Các phần bằng nhau. Trên kia đức Phật nói hoặc nhiều tham, nhiều sân, nhiều si nhưng, đây trong 3 phần tham, sân, si đều bằng nhau, không hơn kém, nên gọi là “Đẳng-phận”.

[12] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói: do tham, sân, si, đẳng-phận mà thành 84.000 Ba-la-mật-môn, Tam-muội-môn và Đà-ra-ni-môn. Chư Phật do tu các môn ấy mà thành chính-giác.

[13] Ba căn, chín phẩm loại: Tức thượng, trung, hạ-căn. Và, trong mỗi căn lại chia làm thượng, trung, hạ nữa thành ra 9 phẩm.

[14] Hữu, không bất-nhị-môn: Đây nói: “có, không” (hữu, không) đều là một cửa trung-đạo, chẳng phải hai

[15] Ba môn học: Giới, định và tuệ.

[16] Ba thứ “Độ”: Tức là danh-tự, thân-cận và chân-thực Ba-la-mật.

[17] Ba vòng thanh-tịnh: Tức “Tam-luân-không” đã chú thích ở trên.

[18] Đây nói: Nghiệp-nhân xưa kia hoặc gây ra sự thù-oán hãm-hại lẫn nhau, nay dùng tâm từ-bi quán-sát, không nên đem sự đối-đáp báo-thù lại.

[19] Diệu-lý-môn: Pháp-môn đầy-đủ chân-lý nhiệm-mầu.

[20] Chân-cú-nghĩa: Nghĩa và câu chân-chính, chân-thực.

[21] Ba thứ pháp-yếu: Tức chỉ cho Ba-la-mật, Tam-ma-địa và Đà-ra-ni (Tổng-trì).

[22] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó”, đến chỗ “an-lạc”, là đức Phật nói lại ý-nghĩa 10 Ba-la-mật của các Bồ-tát cần thực-hành trong việc độ-sinh. Trong việc độ-sinh phải tùy bệnh cho thuốc, vì vậy cần hiểu 3 thứ pháp-yếu. Pháp-yếu ấy như lưới, chăng vít bể sinh-tử, đem chúng-sinh đến chỗ an-lạc.

[23] Giới-chướng: Các sự chướng-ngại trong tam-giới (ba cõi). Nơi đây các Thiên-tử dứt được các sự chướng-ngại trong ba cõi, để chứng nhập Sơ-địa.

[24] Đoạn trên, từ chữ “Khi”, tới chữ “tịnh” là nói về sự nghe pháp được lợi-ích.

 

IX.- PHẨM CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM [1]

Bấy giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói ở nơi A-lan-nhã, công-đức thành-tựu sẽ được thành Phật, vậy Bồ-tát làm sao và tu các công-đức gì mà có thể ở trong nơi A-lan-nhã này được? Kính xin đức Thế-Tôn vì tôi mà giải-thuyết cho”.

Lúc đó, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Các ông, thiện-nam-tử! Cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở nơi A-lan-nhã, cầu vô-thượng-đạo được. Một đức ấy là gì? Là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não, tức là tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi theo người. Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhã, người mới phát tâm cũng như thế. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tâm người ấy nhiễm-trước, là người ấy không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của năm cảnh [2] từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể ở nơi A-lan-nhã được bằng cách toàn-thiện. Bởi nhân-duyên ấy, hết thảy Đại-bồ-tát thích ở nơi tịch-tĩnh, cầu vô thượng-đạo. Nếu khi cảnh ngũ-dục hiện ra trước mắt, nên quán-sát tự tâm và nên nghĩ thế này: “Ta từ đời vô-thủy đến ngày nay, luân-hồi trong sáu thú, không có kỳ nào ra được là đều tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo, đối với cảnh ngũ-dục, tham-ái nhiễm-trước”. Bồ-tát như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã. Nếu có người hỏi: “Chúng-sinh nào ở đời mai sau sẽ được thành Phật? Nên chỉ người ấy trong đời mai sau, thoát khỏi khổ trong ba cõi, phá bốn ma-quân [3] chóng thành Bồ-đề, chứng-nhập trí-tuệ Phật, hết thảy thế-gian: Thiên, long tám bộ…, đều nên cúng-dàng! Nếu thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhân nào lấy tâm thanh-tịnh cúng-dàng vị chân-Phật-tử ở nơi A-lan-nhã như thế, được vô-lượng vô-biên phúc-đức. Như có người đem mọi thứ trân bảo cúng-dàng bi-mẫu được công-đức thế nào, thời công-đức kia cũng như thế không khác. Sao vậy? Người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, quay xe chính-pháp, độ Nhân, Thiên-chúng, nối Tam-bảo-chủng khiến không đoạn-tuyệt và sẽ là chỗ quy-y cho chúng-sinh. [4]

Lại nữa, thiện-nam-tử! Có hai pháp ràng-buộc người tu hành, làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một là, yêu thích đoạn-kiến tà-pháp. Hai là, yêu thích của báu, đồ vui.

Lại, thiện-nam-tử! Có hai hạng người không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một là, hạng người đầy dẫy sự kiêu mạn. Hai là, hạng người ghét giáo-pháp Đại-thừa.

Lại, thiện-nam-tử! Có hai hạng người không nên ở nơi A-lan-nhã: Một là, hạng người tà-kiến, không tin lời Phật. Hai là, hạng người tự thân phá-giới, sách-dịch trì-giới. Những người như thế, không nên ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. [5]

Lại nữa, thiện-nam-tử! Người đủ bốn đức cần nên an trụ nơi A-lan-nhã. Những gì là bốn? Một là, danh-văn (nghe giỏi): tóm giữ điều nghe được không quên. Hai là, phân-minh: hiểu biết rành-rẽ nghĩa vi-diệu. Ba là, chính-niệm: luôn luôn không phóng-dật. Bốn là, tùy-thuận: như giáo-lý mà thực-hành. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn thắng-đức như thế, cần nên an-trụ nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát, cầu đạo vô-thượng.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, trang-nghiêm tự-thân, ở A-lan-nhã, cầu trí tuệ Phật. Những gì là bốn? Một là, đại-từ. Hai là, đại-bi. Ba là, đại-hỷ. Bốn là, đại-xả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, sinh ra hết thảy phúc-đức, trí-tuệ, đem lại lợi-ích an-vui cho vô-lượng chúng-sinh, chóng chứng pháp Đại-bồ-đề vô-thượng.

Lại nữa, bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, giữ giới thanh-tịnh, đạt đến Bồ-đề. Những gì là bốn? Một là, thường trụ trong bốn vô-cấu-tính. Hai là, thường làm mười hai hạnh Đầu-đà. Ba là, xa lìa tại-gia xuất-gia. Bốn là, bỏ hẳn lừa, nịnh, ghen-ghét. Thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát y vào bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh-tử, được Đại-bồ-đề. [6]

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp tóm thâu hết thảy thiện. Những gì là bốn? Một là, giữ giới cấm thanh-tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là, nhập các chính-định, đầy-đủ các trí-tuệ. Ba là, được sáu phép thần-thông, tu cả chủng-trí. Bốn là, phương-tiện thiện-sảo, lại không phóng-dật. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, các Bồ-tát trong ba đời cùng tu học, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ chóng chứng được đạo Bồ-đề rộng lớn vô-thượng.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia đủ bốn pháp, đối với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Những gì là bốn? Một là, bố thí. Hai là, ái-ngữ. Ba là, lợi-hành. Bốn là, đồng sự. Thiện-nam-tử! Bốn hạnh như thế, là con đường đi tới Bồ-đề, là căn-bản lợi-sinh, hết thảy Bồ-tát đều nên tu học.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại đủ bốn đức ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân. Những gì là bốn? Một là, quán-sát tự-thân không có bản-tính, để dẹp dứt hai chấp (ngã, pháp) chứng lý vô-ngã. Hai là, quán-sát tha-thân cũng không có bản-tính, để đối với kẻ oán, thân, lìa bỏ được sự yêu, ghét. Ba là, thân tâm khoái-lạc, để tâm và tâm sở-pháp không còn phân-biệt. Bốn là, được bình-đẳng-trí, để sinh-tử và Niết-bàn không có sự sai khác. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát nên tu-tập, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ đi tới đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát lại có bốn nguyện làm cho chúng-sinh được thành-thục và giữ-gìn ngôi Tam-bảo trải qua đại-kiếp-hải quyết không thoái-chuyển. Những gì là bốn? – Một là, thề độ hết thảy chúng-sinh. Hai là, thề đoạn hết thảy phiền-não. Ba là, thề học hết thảy pháp-môn. Bốn là, thề chứng hết thảy Phật-quả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, Bồ-tát lớn, nhỏ đều nên học tập, vì nó là chỗ học của Bồ-tát trong ba đời!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh. Những gì là bốn? – Một là, yêu-thích “không-tính”, vì “không-lý” hiển-lộ. Hai là, được sự không sợ hãi, vì chứng được chính-định. Ba là, đối với các chúng-sinh khởi ra bi-nguyện lớn. Bốn là, đối với hai thứ vô-ngã [7] , không có tâm chán-ngán. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế là cửa quan-yếu của hết thảy Bồ-tát chứng-nhập Thánh-quả, vì y vào bốn pháp ấy dứt bỏ được hai chướng!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp, ở nơi A-lan-nhã, khéo giữ giới cấm, trang-nghiêm tự thân. Những gì là bốn? – Một là, bỏ hẳn ngã-kiến. Hai là, bỏ ngã-sở-kiến. Ba là, lìa đoạn, thường-kiến. Bốn là, hiểu-biết sâu rộng về mười hai nhân-duyên. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, trừ được sự hủy-phạm giới cấm, giữ-gìn tịnh-giới, trang-nghiêm tự thân.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại quán bốn pháp, giữ được giới cấm, tu thêm diệu-hạnh, cầu đạt Phật-trí. Những gì là bốn? – Một là, quán-sát năm uẩn sinh-diệt. Hai là, quán-sát mười hai nhân-duyên như làng xóm trống. Ba là, quán-sát mười tám giới tính đồng pháp-giới. Bốn là, đối với pháp tục-đế [8] không bỏ, không ham. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát nên tu học và vì thế Phật-tử ở nơi A-lan-nhã nên một lòng tu-tập, cầu đạo vô-thượng!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ bốn pháp trì-giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân. Những gì là bốn? – Một là, thành-tựu quán “bất kiến-thân”. Hai là, thành-tựu quán “bất kiến-ngữ”. Ba là, thành-tựu quán “bất kiến-ý”. Bốn là, xa-lìa sáu mươi hai kiến, thành-tựu quán “nhất-thiết-trí” [9] . Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn pháp thanh-tịnh như thế, hiện-thân chứng được “chính-tính ly-sinh” [10] , cho đến chóng chứng được vô-thượng Bồ-đề. Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử các ông quán bốn pháp-môn như thế, dứt bốn ác-đạo, chứng bốn bậc Niết-bàn, hết thuở vị-lai, độ các chúng-sinh, khiến chứng được đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác! [11]

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ tám pháp Tam-muội thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì là tám? – Một là, ngồi một mình ở nơi A-lan-nhã, Tam-muội thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa lời nói thêu-dệt, Tam-muội thanh-tịnh. Ba là, xa-lìa năm dục, Tam-muội thanh-tịnh. Bốn là, điều-phục thân-tâm, Tam-muội thanh-tịnh. Năm là, ăn uống tri-túc, Tam-muội thanh-tịnh. Sáu là, xa-lìa ác-cầu, Tam-muội thanh-tịnh. Bảy là, xa-lìa sự nhân nghe giọng tiếng khởi ra tham-ái, Tam-muội thanh-tịnh. Tám là, vì chúng nói pháp không cầu lợi-dưỡng, Tam-muội thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Cần nên tu-tập sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại có tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh. Những gì là tám? – Một là, năm uẩn thiện-sảo [12] , trí-tuệ thanh-tịnh. Hai là, mười hai xứ thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Ba là, mười tám giới thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Bốn là, hai mươi hai căn [13] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Năm là, ba giải-thoát-môn thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Sáu là, hay diệt hết thảy phiền-não thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Bảy là, hay diệt tùy phiền-não [14] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Tám là, hay diệt sáu mươi hai kiến thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông nên cần tu-tập, sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại có tám thứ thần-thông thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì là tám? – Một là, đối với mọi sắc-pháp [15] không bị chướng-ngại, được Thiên-nhãn thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhãn-thông). Hai là, đối với cảnh thanh-trần (tiếng), không bị chướng-ngại, được Thiên-nhĩ thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhĩ-thông). Ba là, đối với các tâm, tâm-sở-pháp của chúng-sinh không bị chướng-ngại, được Tha-tâm-trí thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Tha-tâm-thông). Bốn là, ghi nhớ nơi sinh, nơi chết trong quá-khứ không bị chướng-ngại, được Túc-trụ-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh (Túc-mệnh-thông). Năm là, đi khắp vô-số cõi Phật trong mười phương không bị chướng-ngại, được Thần-cảnh-trí thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thần-túc-thông). Sáu là, biết được lậu-nghiệp của chúng-sinh hết hay chưa hết không bị chướng-ngại, được Lậu-tận-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh (Lậu-tận-thông). Bảy là, diệt được hết thảy phiền-não không bị chướng-ngại, được Vô-lậu-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Tám là, hiện thấy hết thảy thiện-căn nơi tự-thân hồi-hướng chúng-sinh thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ thần-thông thanh-tịnh như thế, các Bồ-tát trong mười phương đồng tu học, Bồ-tát các ông cũng nên tu-tập, sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, hiện thân được tám thứ thanh-tịnh. Những gì là tám? Một là, thân-nghiệp thanh-tịnh. Hai là, ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Ba là, ý-nghiệp thanh-tịnh. Bốn là, chính-tính [16] thanh-tịnh. Năm là, chính-niệm thanh-tịnh. Sáu là, Đầu-đà thanh-tịnh. Bảy là, lìa xiểm-nịnh thanh-tịnh. Tám là, một niệm không quên tâm Bồ-đề thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ tám thứ thanh-tịnh như thế, hiện-thân thành-tựu vô-biên thiện-căn, không bị thoái-chuyển đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có tám thứ: Đa-văn (nghe, học nhiều) thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì là tám? – Một là, tôn-kính Hòa-thượng, A-xà-lê, đa-văn thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa kiêu-mạn, sinh tâm nhún-nhường, đa-văn thanh-tịnh. Ba là, tinh-tiến dũng-mãnh, đa-văn thanh-tịnh. Bốn là, an-trụ chính-niệm, đa-văn thanh-tịnh. Năm là, vì người cầu pháp, nói nghĩa sâu rộng, đa-văn thanh-tịnh. Sáu là, không ưa bảo-hộ mình, chê người, đa-văn thanh-tịnh. Bảy là, thường hay quán-sát hết thảy thiện-pháp, đa-văn thanh-tịnh. Tám là, lắng nghe chính-pháp, y như chỗ nói mà tu-hành, đa-văn thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ đa-văn thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông đều nên tu-tập, sẽ chóng chứng được Vô-thượng chính đẳng Bồ-đề! [17]

Khi đức Thế-Tôn nói những hạnh Bồ-tát như thế rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Sau khi Tôi nhập Niết-bàn chừng năm trăm năm lúc chính-pháp sắp diệt, vô-lượng chúng-sinh chán, bỏ thế-gian, khát-ngưỡng Như-Lai, phát-tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác vào nơi A-lan-nhã, vì đạo vô-thượng, tu-tập những hạnh-nguyện Bồ-tát như thế, đối với đạo Đại-bồ-đề được bất-thoái-chuyển. Vô-lượng chúng-sinh phát tâm như thế, khi mệnh-chung được sinh lên cung trời Đâu-suất, được thấy thân ông (Di-Lặc Bồ-tát) vô-biên phúc-trí trang-nghiêm, siêu-việt sinh-tử, chứng Bất-thoái-chuyển. Và, ở đời mai sau ngồi dưới cây Bồ-đề Đại-bảo long-hoa được vô-thượng chính-đẳng chính-giác.

Trong lúc đức Thế-Tôn nói pháp ấy, hai vạn năm nghìn vị Bồ-tát mới phát tâm, đối với hạnh Bồ-đề sắp bị thoái-chuyển, nghe được pháp như thế, phát tâm kiên-cố, qua ngôi Thập-tín đến ngôi thứ sáu trong Thập-trụ. Ba vạn tám nghìn Bà-la-môn tịnh-hạnh dứt hẳn tà-kiến, được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni. Bảy vạn sáu nghìn người đều phát tâm vô đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [18]

TOÁT-YẾU

IX.- PHẨM CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM

Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-tát tu công-đức gì mới có thể ở trong A-lan-nhã được?”

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Chỉ cần tu một pháp là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự-tâm”, là ở được nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. Nếu ai không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của 5 cảnh từ tự-tâm sinh, còn nhiễm-trước vào 6 trần, chưa thể ở A-lan-nhã được. Đại-bồ-tát ở nơi tịch-tĩnh thấy cảnh ngũ-dục nên quán tự-tâm và nghĩ: “Từ trước tới nay bị luân-hồi lục-đạo đều do tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo, tham-nhiễm ngũ-dục”. Bồ-tát như thế là người ở được nơi A-lan-nhã, sau sẽ thành Phật và ai cúng-dàng vị ấy được phúc-đức vô-lượng”.

Có những hạng người không ở nơi A-lan-nhã được: hạng người thích đoạn-kiến, thích của báu, đồ vui, kiêu-mạn, ghét giáo-pháp Đại-thừa, ưa tà-kiến, không tin Phật, tự phá giới sai trì giới.

Những người ở nơi A-lan-nhã có những đức sau đây: Đầy đủ danh-văn (nghe giỏi), hiểu biết phân-minh, chính-niệm, tùy thuận. Có từ, bi, hỷ, xả. Thường trụ trong 4 vô-cấu-tính, thường làm 12 hạnh Đầu-đà, xa lìa tại-gia xuất-gia, bỏ hẳn lừa, nịnh, ghen ghét. Giữ giới nghe nhiều, nhập chính-định, đủ trí-tuệ, được lục thông, tu chủng-trí, đủ phương-tiện, không phóng-dật. Đủ bố-thí, ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự. Quán tự thân không bản-tính, quán tha-thân không bản-tính, thân-tâm khoái-lạc, được bình-đẳng-trí. Đoạn phiền-não, độ chúng-sinh, học pháp-môn, chứng Phật-quả. Thích không-tính, được vô-úy, khởi bi-nguyện, không chán hai thứ vô-ngã. Bỏ ngã-kiến, biết rộng 12 nhân-duyên. Quán 5 uẩn sinh diệt, quán 12 nhân-duyên như làng trống, quán 18 giới tính đồng pháp-giới, tục-đế-pháp không bỏ không ham. Thành-tựu: quán bất-kiến-thân, bất-kiến-ngữ, bất-kiến-ý và nhất-thiết-trí. (Phật-tử thành-tựu 4 pháp thanh-tịnh ấy, hiện-thân chứng được “chính-tính ly sinh”. Chóng thành vô-thượng-giác).

Đầy đủ 8 pháp tam-muội thanh-tịnh, 8 pháp trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh; hiện-thân được 8 thứ thanh-tịnh. Và, Bồ-tát lại có 8 thứ đa-văn thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.

Đức Phật lại bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Sau khi Tôi nhập-diệt chừng 500 năm có nhiều chúng-sinh phát tâm vô-thượng vào nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát được bất-thoái-chuyển. Nhiều chúng-sinh như thế, mệnh-chung sinh lên Đâu-suất, được gặp ông (Di-Lặc) chứng bất-thoái-chuyển và sau sẽ thành Phật”.

Khi nghe đức Phật nói Pháp ấy xong, 15.000 Bồ-tát phát tâm kiên-cố, qua Thập-tín đến ngôi thứ 6 trong Thập-trụ, 38.000 Bà-la-môn được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni, 76.000 người phát tâm vô-thượng-giác.

 


[1] Công-đức trang-nghiêm: “Công” là công-năng trong việc lợi-ích, phúc-đức; công-năng ấy là đức của thiện-hạnh, nên gọi là “công-đức”. “Đức” còn có nghĩa là được, do công tu mà được, gọi là “Công-đức”. “Trang-nghiêm” có nghĩa là đem những cái hay, cái đẹp, tô-điểm cho đất nước huy-hoàng, hoặc đem những công-đức tô-điểm cho thân-thể nghiêm-trang, đẹp-đẽ. Nơi đây, các Bồ-tát đem công-đức tu được, tô-điểm cho tự-thân, quốc-giới, chúng-sinh được tốt đẹp.

[2] Năm cảnh: Tức sắc, thanh, hương, vị và xúc.

[3] Bốn ma-quân: 1/ Phiền-não-ma: tham, sân, si…, làm não-hại thân-tâm nên gọi là ma. 2/ Ngũ-ấm-ma: 5 thứ: sắc, thụ, tưởng, hành, thức hay sinh ra mọi khổ-não nên gọi là ma. 3/ Tử-ma: sự chết hay dứt thân-mệnh người ta, nên gọi là ma. 4/ Thiên-ma: cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên hay làm hại việc thiện của người nên gọi là thiên-ma (ma nơi cõi trời).

[4] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “chúng-sinh”, Bồ-tát Di-Lặc hỏi về công-đức tu của Bồ-tát, đức Phật thuyết-minh về một đức mà các Bồ-tát cần tu, đó là đức “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự tâm”. Nghĩa là, tâm thanh-tịnh không nhiễm. Người được thế là chân-Phật-tử, nên cúng-dàng.

[5] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “vô-thượng”, đức Phật thuyết-minh về hai lỗi mà người ở Lan-nhã cần xa tránh, như những người cho không có nhân-quả, chỉ một đời là hết v.v…

[6] Chỗ này còn một đoạn: “Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có 4 pháp khỏi hẳn sinh-tử được đại-bồ-đề”.- Vì không có những câu sau nữa, sợ lầm, nên không để trên chính-văn, mà ghi đây để tồn cổ (lời dịch-giả)

[7] Hai thứ vô-ngã: 1/ Nhân-vô-ngã: Cái ta tự-thể, tự-chủ là “ngã”. Người ta không hiểu thấu nghĩa 5 uẩn giả-hợp, cố chấp thân-thể con người là thực, có tự-chủ, tự-tại gọi là “nhân-ngã”. Nay hiểu rõ nghĩa 5 uẩn giả-hợp, thấu suốt đến chỗ thực không có thực-thể của con người là “Nhân-vô-ngã”. Đó là sự quán đạo của Tiểu-thừa để dứt phiền-não-chướng, chứng Niết-bàn vậy. 2/ Pháp vô-ngã: Cố chấp các pháp (sự vật) có thực-thể, thực-dụng là “pháp-ngã”. Nay hiểu rõ các pháp do nhân-duyên-sinh, thấu suốt đến chỗ thực không có tự-tính là “Pháp-vô-ngã”. Đó là quán-đạo của Đại-thừa Bồ-tát, để dứt sở-tri-chướng, mà được Bồ-đề vậy. Tiểu-thừa chỉ ngộ có “nhân-vô-ngã”, nhưng Bồ-tát ngộ cả 2 thứ vô-ngã.

[8] Tục-đế: Thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn gọi là “Thế-đế”. Trái với Tục-đế là “Chân-đế”. Chân-đế là thực-nghĩa của chân-lý. Là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhân thấy. Còn gọi là “Thắng-nghĩa-đế”.

[9] 4 pháp trên là quán về thân, khẩu, ý và 62 kiến. Quán thân như-huyễn, không khởi ra sự chấp-trước về thân-kiến. Quán ngôn-ngữ tính không, không khởi ra 4 sự bất thiện về nghiệp khẩu. Quán ý, tức tâm, tâm sở đều do duyên-khởi, không có tự-tính, tức không khởi ra sự phân-biệt. Quán 62 kiến, bỏ hết thảy tà-kiến.

[10] Chính-tính ly-sinh: Còn gọi là “Thánh-tính ly-sinh”. Sinh vô-lậu-trí dứt trừ phiền-não, nên gọi là “Thánh-tính”. Thanh-văn, Duyên-giác vào ngôi Kiến-đạo, sinh được một phần trí-tuệ vô-lậu, dứt phiền-não-chướng; Bồ-tát sinh một phần trí-tuệ vô-lậu, dứt trừ cả hai chướng: phiền-não và sở-tri, nhân đó mà được một phần Thánh-tính, xa lìa hẳn sự sinh-khởi của dị-tính (phàm-phu), nên gọi là “Thánh-tính ly-sinh”. Chữ “Thánh” có nghĩa là “chính”, nên “Thánh-tính ly-sinh” tức là “chính-tính ly-sinh”.

[11] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa thiện-nam-tử! Người đủ 4 đức…”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật thuyết-minh về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã cần có 11 loại thuộc về 4 đức.

[12] Thiện-sảo: Có nghĩa là tốt lành, hay đẹp, khéo-léo, nhiệm-mầu.

[13] 22 căn: 1/ Nhãn-căn (Caksurindriya): mắt. 2/ Nhĩ-căn (Srotrendriya): tai. 3/ Tỵ-căn (Ghrànend-riya): mũi. 4/ Thiệt-căn (Jihvendriya): lưỡi. 5/ Thân-căn (Kày-endriya): thân-thể. 6/ Ý-căn (Manendriya). (Trở lên thường gọi là 6 căn). 7/ Nữ-căn (Strindriya): bộ sinh-dục của đàn bà. 8/ Nam-căn (Purusendriya): bộ sinh-dục của đàn ông. 9/ Mệnh-căn (Jivitendriya): thọ-mệnh của chúng-sinh. 10/ Khổ-căn (Duhkhendriya): đau khổ. 11/ Lạc-căn (Suk-hendriya): vui sướng. 12/ Ưu-căn (Daumanasyendriya): lo-lắng. 13/ Hỷ-căn (Saumanasyendriya): vui mừng. 14/ Xả-căn (Upekendriya): không vui không buồn. (Trở lên 5 căn thuộc về sự hưởng-thụ, thường gọi là 5 thụ). 15/ Tín-căn (Sraddhendriya): tin thực. 16/ Tinh-tiến-căn (Viryen-driya): gắng tiến. 17/ Niệm-căn (Smrrtindriya): nhớ nghĩ. 18/ Định-căn (Samàdhindriya): an-định. 19/ Tuệ-căn (Pra-jnedriya): hiểu biết. (Trở lên là ngũ-căn). 20/ Vị-tri-đương-tri-căn (Anàjnàtamàsyàmindriya): người tu 9 căn: ý, lạc, hỷ, xả, tín, tiến, niệm, định, tuệ trong Kiến-đạo, muốn biết lý Tứ-đế chưa từng biết, mà phát-khởi ra hành-động. 21/ Dĩ-tri-căn (Àjnendriya): người tu 9 căn kia trong Tu-đạo tuy đã biết rõ lý Tứ-đế rồi nhưng, lại vì dứt các phiền-não khác, nên đối với cảnh Tứ-đế thường thường phải hiểu biết. 22/ Cụ-tri-căn (Àjnàtàvindriya): người tu 9 căn kia ở trong vô-học-đạo đã biết trong sự biết rõ lý Tứ-đế, tức là đã có đầy-đủ về sự biết ấy. (Trở lên là 3 căn vô-lậu-căn).

[14] Tùy-phiền-não: Những phiền-não tùy thuộc vào căn-bản phiền-não. Căn-bản phiền-não có 6 là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, (ác-kiến có 5: thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ). Tùy phiền-não có 20: 10 tiểu-tùy: phẫn, hận, phú, não, tật, khan, cuống, xiểm, hại, kiêu; 2 trung tùy: vô tàm, vô quý và 8 đại-tùy: điệu-cử, hôn-trầm, bất-tín, giải-đãi, phóng-dật, thất-niệm, tán-loạn, bất-chính-tri.

[15] Sắc-pháp: Chỉ cho những pháp (sự-vật) thuộc ảnh-tướng, có đối-đãi, có hình-chất chướng-ngại. Duy-thức-học cho: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc và một phần pháp-trần thuộc về sắc-pháp.

[16] Chính-tính: Cũng gọi là Thánh-tính. Chủng-tử của vô-lậu-trí là “Thánh-tính”; xa lìa phiền-não là “Chính-tính”.

[17] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, thiện-nam-tử…đầy-đủ 8 pháp”, đến chỗ “chính-đẳng Bồ-đề”, đức Phật thuyết-minh về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã có 8 pháp Tam-muội thanh-tịnh, 8 thứ trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh, 8 thứ thanh-tịnh nơi hiện thân và 8 thứ đa-văn thanh-tịnh. Được những 8 đức ấy sẽ chóng chứng vô-thượng-giác.

[18] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói sau này ai thực-hành hạnh Lan-nhã sẽ được nhiều lợi-ích. Và đương thời, do nghe pháp, chúng-nhân cũng hưởng được nhiều lợi-ích.

Đến đây hết quyển thứ 7.

X.- PHẨM QUÁN TÂM

Bấy giờ, Đại-bồ-tát: Văn-Thù Sư-Lỵ liền từ tòa đứng dậy chỉnh y-phục, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất, khom mình chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật đã nói cho bọn ông Trưởng-giả Diệu-Đức năm trăm người rằng: “Tôi vì các ông diễn bày pháp-môn tâm-địa vi-diệu”. Nay vô-lượng vô-biên đại-chúng Nhân, Thiên trong đạo-tràng nay đều sinh tâm khát-ngưỡng, tôi vì tất cả những người ấy xin khải-vấn Như-Lai: Thế nào là “tâm”? Thế nào là “địa”? Kính xin đức Thế-Tôn đem tâm vô-duyên đại-từ, vô-ngại đại-bi, vì các chúng-sinh phân-biệt diễn nói cho những người chưa khỏi khổ, được khỏi khổ, những người chưa an-vui, được an-vui, những người chưa phát tâm, được phát tâm, những người chưa chứng quả, được chứng quả, đồng nơi Nhất-đạo mà được Niết-bàn”. [1]

Khi ấy, đức Thế-Tôn đem đại-diệu-trí-ấn [2] thanh-tịnh quyết-định thắng-nghĩa mà Ngài đã được trong sự tu các phúc-đức, trí-tuệ ở vô-lượng kiếp, ấn-khả cho Bồ-tát Văn-thù sư-lỵ và nói rằng: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Nay ông thực là Phật-mẫu trong ba đời! Hết thảy Như-Lai ở nơi tu-hành, ông đều từng dẫn-đạo các Ngài khi mới phát tín tâm; bởi nhân-duyên ấy, các bậc thành chính-giác trong mười phương quốc-độ, đều lấy Văn-thù làm mẹ. Song, nay thân ông bởi nguyện-lực xưa mà hiện ra hình-tướng Bồ-tát, thỉnh-vấn Như-Lai về pháp cao siêu không thể nghĩ, bàn được. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ nghĩ khéo! Tôi vì khắp tất cả mà phân-biệt, giải-thuyết về vấn-đề ấy!” Bồ-tát Văn-thù bạch: “Dạ, bạch Thế-Tôn! Chúng tôi thích được nghe!” [3]

Lúc đó, đức Thế-Tôn thành-tựu tốt đẹp “tối thắng trụ-trì bình-đẳng-tính-trí” của hết thảy Như-Lai cùng mọi thứ công-đức vi-diệu hiếm có; Ngài đã khéo thu-hoạch được “quyết-định thắng-pháp Đại-thừa trí-ấn” của hết thảy chư Phật; Ngài đã khéo viên-chứng được “Kim-cương bí-mật thù-thắng diệu-trí” của hết thảy Như-Lai; Ngài đã khéo an-trụ nơi “vô-ngại đại-bi”, tự-nhiên cứu-nhiếp chúng-sinh trong mười phương; Ngài đã khéo viên-mãn “diệu-quán-sát-trí”, không quán mà như quán, không nói mà như nói. [4]

Khi ấy, đức Thế-Tôn bảo Vô-cấu đại-thánh Văn-thù sư-lỵ Đại-bồ-tát là từ-mẫu của chư Phật rằng: “Đại-thiện-nam-tử! Pháp ấy là “tối thắng bí-mật tâm-địa pháp-môn” [5] của Như-Lai trong mười phương. Pháp ấy là pháp-môn “đốn-ngộ” [6] của hết thảy phàm-phu vào Như-Lai-địa. Pháp ấy là “đường chính chân-thực” của hết thảy Bồ-tát đi tới đại-bồ-đề. Pháp ấy là “bảo cung (cung báu) vi-diệu” của chư Phật trong ba đời, tự hưởng-thụ pháp-lạc. Pháp ấy là “bảo-tạng (kho báu) vô-tận” trong hết thảy sự lợi-ích chúng-sinh. Pháp ấy hay dẫn các Bồ-tát-chúng đến nơi “Sắc-cứu-cánh tự-tại-trí”. [7] Pháp ấy là chân-thực đạo-sư, hay dẫn hậu-thân Bồ-tát [8] tới cây Bồ-đề. Pháp ấy như ngọc Ma-ni, hóa những của cải cho thế-gian, xuất thế-gian làm cho chúng-sinh mãn-nguyện. Pháp ấy sinh ra nguồn-gốc công-đức của hết thảy chư Phật trong mười phương ba đời. Pháp ấy hay làm tiêu-tan các nghiệp-quả ác của hết thảy chúng-sinh. Pháp ấy hay cho hết thảy chúng-sinh sự ấn-chứng về việc nguyện cầu. Pháp ấy hay độ hết thảy chúng-sinh bị sinh-tử hiểm-nạn. Pháp ấy hay ngừng sóng cồn bể khổ cho hết thảy chúng-sinh. Pháp ấy hay cứu chúng-sinh khổ não trong hết thảy cấp-nạn. Pháp ấy hay làm khô-kiệt bể lão, bệnh, tử cho hết thảy chúng-sinh. Pháp ấy hay xuất-sinh nhân-duyên chủng-tử của chư Phật. Pháp ấy là đuốc trí-tuệ lớn soi sáng cho chúng-sinh trong đêm dài sinh-tử. Pháp ấy là giáp-trụ để phá binh-chúng bốn ma. Pháp ấy tức là cờ-sí chiến-thắng của đạo quân dũng-mãnh. Pháp ấy tức là xe pháp vô-thượng của hết thảy chư Phật. Pháp ấy tức là cờ pháp tối thắng. Pháp ấy tức là đánh trống đại-pháp. Pháp ấy tức là thổi loa đại-pháp. Pháp ấy tức là đại-sư-tử-vương. Pháp ấy tức là tiếng gầm của đại-sư-tử. Pháp ấy cũng như đại-thánh-vương trong nước khéo làm việc cai-trị chân-chính, nếu thuận vương-hóa thời được đại-an-lạc, nếu trái vương-hóa liền bị chu-diệt. [9]

Thiện-nam-tử! Trong ba cõi lấy “tâm” làm chủ. Người quán được tâm, được giải-thoát cứu-cánh; người không quán được tâm, ở mãi trong triền-phược. Ví như muôn vật đều từ đất sinh, tâm-pháp sinh ra thiện-ác, năm thú (trời, người, ngục, quỷ, súc), bậc hữu-học, bậc vô-học, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, cùng Như-Lai trong thế-gian và xuất-thế-gian. Bởi nhân-duyên ấy, ba cõi duy tâm, “tâm” là “địa” (đất). Hết thảy phàm-phu thân-cận bạn lành, nghe pháp tâm-địa, như lý quán-sát, như nói tu-hành, mình làm, dạy người, khen-ngợi khuyên gắng, đón mừng, an-ủi, những người như thế, sẽ dứt được hai chướng, mau trọn muôn hạnh và chóng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [10]

Đến đây, Đại-thánh Văn-thù-sư-lỵ Bồ-tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói: chỉ đem tâm-pháp làm chủ ba cõi, bản-nguyên tâm-pháp không nhiễm bụi nhơ, tại sao tâm-pháp lại nhiễm tham, sân, si? Đối với pháp trong ba đời, gì cho là tâm? Tâm quá-khứ dã diệt, tâm vị-lai chưa đến, tâm hiện-tại không trụ (ở yên), nội-tính các pháp tìm không thể được, ngoại-tướng các pháp tìm không thể được và trung-gian của các pháp đều tìm không thể được; bản-lai tâm-pháp không có hình-tướng, bản-lai tâm-pháp không có trụ-xứ, hết thảy Như-Lai còn không thấy tâm, huống là người khác được thấy tâm-pháp? Hết thảy các pháp từ vọng-tưởng sinh, bởi nhân-duyên gì, ngày nay Thế-Tôn vì đại-chúng nói “ba cõi duy tâm”? Vậy, xin Phật thương-xót, như-thực giải-thuyết cho!” [11]

Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù rằng: “Đúng như thế, đúng như thế! Thiện-nam-tử! Như ông hỏi Tôi về “bản-tính không-tịch của tâm, tâm-sở-pháp”, nay Tôi nói các thí-dụ để chứng-minh nghĩa ấy”.

Thiện-nam-tử! Tâm như huyễn-pháp, do biến-kế-chấp sinh, nên mọi món tưởng, thụ (nhận, chịu) vui, khổ, nơi tâm sinh ra. Tâm như dòng nước chảy, niệm niệm sinh-diệt, đối với đời trước, sau không tạm dừng. Tâm như gió lớn, trong khoảng sát-na qua mọi phương-sở. Tâm như đèn lửa, mọi duyên hòa-hợp sinh ra. Tâm như chớp sáng, chỉ khoảng chốc-lát, chứ không dừng lâu. Tâm như hư-không, nhưng bị khách-trần phiền-não [12] ngăn-che. Tâm như con hầu, con vượn, nhảy-nhót trên cây ngũ-dục không tạm dừng. Tâm như thợ vẽ, vẽ ra mọi hình-sắc thế-gian. Tâm như kẻ tôi-tớ, bị các phiền-não sai-khiến. Tâm như người đi một mình, không có người thứ hai. Tâm như quốc-vương, khởi ra mọi sự, được tự-tại. Tâm như oán-gia, khiến tự thân chịu khổ-não quá. Tâm như bụi trần, bám nhơ tự thân, sinh ra tạp-uế. Tâm như ảnh-tượng (bóng dáng), đối với pháp vô-thường chấp là thường. Tâm như huyễn-mộng, đối với tướng ngã, pháp chấp làm ta. Tâm như Dạ-xoa, ăn mất mọi pháp công-đức. Tâm như con nhặng (ruồi) xanh, ham đồ uế-ác. Tâm như kẻ sát-nhân, hay hại thân-mệnh. Tâm như kẻ đối-địch, thường rình lầm-lỗi. Tâm như trộm giặc, trộm mất công-đức. Tâm như trống lớn, khởi sự chiến-đấu. Tâm như con phi-nga, thích sắc đèn sáng. Tâm như con hươu đồng, chạy theo tiếng giả. Tâm như đàn lợn, thích đồ tạp-uế. Tâm như đàn ong, gom-góp mùi mật ngọt. Tâm như voi say, mê chơi voi cái. [13]

Thiện-nam-tử! Như thế, nói về tâm, tâm-sở-pháp không trong, không ngoài, cũng không trung-gian; đối với trong mọi pháp tìm không thể được, quá-khứ, vị-lai, hiện-tại cũng không thể tìm được, siêu-việt ba đời, chẳng phải có, chẳng phải không. Chúng-sinh thường ôm-ấp sự nhiễm-trước, nhiễm-trước từ vọng-duyên hiện-khởi; duyên không có tự-tính, vì tâm tính không. Như thế, không-tính không sinh, không diệt, không lại, không đi, không một, không khác, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, vốn không có nơi sinh, cũng không có nơi diệt, cũng chẳng phải viễn-ly và chẳng phải chẳng viễn-ly. [14]

Những tâm như thế không khác với vô-vi và thể vô-vi không khác với những tâm ấy. Thể của tâm-pháp vốn không thể nói được, thời cái phi-tâm-pháp cũng không thể nói được. Sao vậy? – Nếu vô-vi là tâm, tức là đoạn-kiến; nếu lìa tâm-pháp tức là thường-kiến: Lìa hẳn hai tướng, không chấp-trước hai bên, ngộ được như thế gọi là “chân-đế” và người ngộ được chân-đế ấy là Hiền-thánh. Hết thảy Hiền-thánh tính vốn không-tịch, trong pháp vô-vi, giới không có trì (giữ), phạm, cũng không có lớn, nhỏ, không có tâm-vương, tâm-sở-pháp và, không có khổ, không có vui. Như thế, tự-tính pháp-giới vô-cấu (không nhơ), không có tướng sai-biệt thượng, trung, hạ. Sao vậy? Vì, vô-vi pháp-tính ấy bình-đẳng, như nước mọi dòng sông chảy vào trong bể đều đồng một vị, không có tướng sai-biệt. Tính vô-cấu ấy chẳng phải thực, chẳng phải hư. Tính vô-cấu ấy là đệ-nhất-nghĩa, vì nó không có tướng hết và diệt, thể nó vốn không sinh. Tính vô-cấu ấy, thường-trụ bất biến, vì là tối-thắng Niết-bàn ngã-sở thanh-tịnh. Tính vô-cấu ấy, xa-lìa hết thảy, vì bình-đẳng và bất-bình-đẳng, thể nó vẫn không khác.

Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn cầu vô-thượng chính-đẳng chính-giác, cần nên một lòng tu-tập quán-pháp tâm-địa như thế! [15]

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy, Ngài nói bài kệ rằng:

Diệu-cát-tường: giác-mẫu ba đời,

Thỉnh-vấn Như-Lai: “tâm-địa-pháp”;

Tôi nay trong đại-hội-chúng này,

Mở diễn quán-hạnh-môn thành Phật.

Pháp này khó gặp hơn Ưu-đàm,

Hết thảy thế-gian nên khát-ngưỡng.

Chư Phật mười phương chứng đại-giác,

Đều từ pháp này mà tu-hành.

Tôi là Vô-thượng điều-ngự-sư,

Quay xe chính-pháp khắp thế-giới;

Hóa-độ vô lượng các chúng-sinh,

Nên biết, bởi ngộ tâm-địa-quán.

Hết thảy chúng-sinh nghe pháp này,

Mừng tới Bồ-đề được thụ-ký;

Những người hữu-duyên được thụ-ký,

Tu quán-môn này sẽ thành Phật.

Chư Phật tự hưởng đại-pháp-lạc,

Ở diệu-bảo-cung tâm-địa-quán;

Nhận chức Bồ-tát, ngộ Vô-sinh,

Quán tâm-địa-môn khắp pháp-giới.

Hậu-thân Bồ-tát ngồi cây “giác”,

Nhập quán-hạnh này chứng Bồ-đề.

Pháp ấy hay mưa “thất thánh tài”,

Như Ma-ni, mãn-nguyện chúng-sinh.

Pháp ấy gọi là Phật-mẫu xưa,

Xuất sinh ba thân Phật ba đời.

Pháp ấy gọi là giáp Kim-cương,

Chống với bốn chúng các ma-quân.

Pháp ấy hay làm thuyền bè lớn,

Khiến qua giữa dòng đến bảo-sở.

Pháp ấy là trống pháp tối-thắng,

Pháp ấy là cờ pháp nêu cao.

Pháp ấy là loa pháp kim-cương,

Pháp ấy là đuốc pháp soi đời.

Pháp ấy cũng như đại-thánh-chúa,

Thưởng công, phạt tội thuận nhân-tâm.

Pháp ấy cũng như nước ngấm ruộng,

Sinh-thành, trưởng-dưỡng nương thời-tiết.

Tôi đem mọi dụ tỏ nghĩa “không”,

Thế biết ba cõi duy một tâm.

Tâm có đại-lực, thế-giới sinh,

Tự-tại hay làm chủ biến-hóa.

Ác-tưởng, thiện-tâm lại tạo-tập,

Quá, hiện, vị-lai, nhân sinh-tử.

Nương-tựa vọng-nghiệp có thế-gian,

Ái, phi-ái-quả thường tương-tục. [16]

Tâm như nước chảy chẳng tạm dừng,

Tâm như gió bay qua đất nước.

Cũng như hầu, vượn bám cây đùa,

Cũng như sự giả, nương giả thành,

Như không, chim bay không chướng-ngại,

Như làng xóm trống người chạy nhảy.

Tâm-pháp như thế vốn chẳng có,

Phàm-phu mê-chấp cho là có;

Nếu hay quán “tâm thể-tính không”,

Hoặc-chướng không sinh, được giải-thoát. [17]

Khi ấy, đức Như-Lai đối với các chúng-sinh khởi ra tâm đại-bi, cũng như cha mẹ nhớ mến con một, vì muốn diệt đại-lực tà-kiến của thế-gian, đem lại lợi-ích an-vui cho hết thảy chúng-sinh, Ngài tuyên-thuyết thần-chú quán-tâm rằng: “Úm, thất tha, ba-la-để, phệ đạn, ca lư nhị”.

Đức Như-Lai nói chân-ngôn ấy rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ: “Thần-chú ấy đủ uy-lực lớn, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào khi trì chú ấy, giơ tay trong sạch lên, mười ngón tay tả và hữu bắt tréo lại với nhau, rồi lấy tay tả áp lên tay hữu, nắm chặt lấy nhau như hình dây buộc, gọi là “Kim-cương phọc-ấn” [18] . Thành ấn ấy rồi, đọc-tập chân-ngôn [19] trước trọn đủ một lượt, hơn đọc tập mười hai bộ kinh [20] và được công-đức không thể hạn-lượng cho đến tâm Bồ-đề không bị thoái-chuyển. [21]

TOÁT-YẾU

X.- PHẨM QUÁN-TÂM

Đại-bồ-tát Văn-thù sư-lỵ bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Vừa rồi Thế-Tôn nói với 500 ông Trưởng-giả là Ngài diễn nói về pháp-môn “tâm-địa”, vậy thế nào là “tâm”? Thế nào là “địa”? Kính xin Thế-Tôn dạy cho”.

Khi ấy, đức Phật thành-tựu “tối thắng trụ-trì bình-đẳng tính-trí”, thu được “quyết-định thắng-pháp đại-thừa trí-ấn”, chứng được “kim-cương bí-mật thù-thắng diệu-trí”, an-trụ “vô-ngại đại-bi”, viên-mãn “diệu-quán-sát-trí”, Ngài đem “đại-diệu-trí-ấn” ấn-khả, tán-thán Bồ-tát Văn-thù và nói: “Pháp ấy là “tối thắng bí-mật tâm-địa pháp-môn”, là “đốn-ngộ pháp-môn”, là đường chính chân-thực, là bảo-cung vi-diệu, là bảo-tạng vô-tận, là đạo-sư, là ngọc Ma-ni, là nguồn công-đức, là đuốc trí-tuệ, là giáp-trụ, là cơ-khí chiến-thắng, là xe pháp vô-thượng, là đại-sư-tử-vương, là đại-thánh-vương. Pháp ấy hay làm tan các ác-nghiệp-quả, hay độ chúng-sinh bị hiểm-nạn, hay ngừng sóng bể khổ, hay cứu chúng-sinh bị cấp-nạn, hay làm khô kiệt sinh, lão, bệnh, tử, hay xuất sinh nhân-duyên chủng-tử của chư Phật v.v.

“Ba cõi lấy “tâm” làm chủ. Ba cõi duy tâm, “tâm” là “địa” (đất). Tâm-pháp sinh ra thiện, ác, ngũ thú cùng các bậc: hữu-học, vô-học, Độc-giác, Bồ-tát và Như-Lai. Ai gần bạn lành, nghe pháp tâm-địa, như lý quán-sát, như nói tu-hành, mình làm, dạy người…,sẽ dứt được 2 chướng, mau trọn muôn hạnh và thành vô-thượng-giác!”.

Bồ-tát Văn-thù lại bạch: “Bạch đức Thế-Tôn! Thế-Tôn nói tâm-pháp làm chủ 3 cõi, bản-nguyên thanh-tịnh, tại sao tâm-pháp lại nhiễm 3 độc? Gì là tâm trong các pháp thuộc 3 đời? Tâm quá-khứ đã diệt, tâm vị-lai chưa đến, tâm hiện-tại không trụ, nội-tính, ngoại-tướng và trung-gian của các pháp tìm không thể được; bản-lai tâm-pháp không có hình-tướng, trụ-xứ, ngay như chư Phật còn không thấy được tâm, huống là người khác? Các pháp từ vọng-tưởng sinh, sao nay Thế-Tôn lại nói “ba cõi duy tâm”? Xin Phật thương xót chúng-sinh mà giải-thuyết cho!”.

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Văn-Thù: “Nay ông hỏi về “bản-tính không-tịch của tâm, tâm-sở-pháp”, Tôi sẽ đem các thí-dụ sau đây để chứng-minh cho nghĩa ấy: Tâm như huyễn-pháp, như nước chảy, như gió lớn, như đèn lửa, như chớp sáng, như hư-không, như con vượn, như thợ vẽ, như tôi-tớ, như người đi một mình, như quốc-vương, như oán-gia, như bụi trần, như ảnh-tượng, như huyễn-mộng, như Dạ-xoa, như nhặng xanh, như kẻ sát-nhân, như kẻ đối-địch, như trộm giặc, như trống lớn, như phi-nga, như hươu đồng, như đàn lợn, như đàn ong, như voi say… Tâm, tâm-sở-pháp như thế, không trong, ngoài, trung-gian; trong mọi pháp, trong 3 đời không thể tìm được. Nó siêu-việt 3 cõi, chẳng phải có, chẳng phải không. Chúng-sinh nhiễm-trước, từ vọng-duyên khởi; vọng-duyên không có tự-tính vì tâm-tính không. Tâm như thế không khác vô-vi, vô-vi không khác tâm. Trong vô-vi-pháp không có lớn, nhỏ, không có tâm-vương, tâm-sở, không có khổ, vui. Vô-vi pháp-tính bình-đẳng. Tính ấy thường-trụ bất-biến, là tối thắng Niết-bàn, ngã-sở thanh-tịnh. Nếu ai muốn cầu vô-thượng-giác nên nhất-tâm tu-tập pháp quán tâm-địa ấy!”.

Tiếp đó đức Phật thuyết chú Quán-tâm, dạy kết “Kim-cương phọc-ấn”, giúp chúng-sinh diệt tà-kiến. Nếu ai y pháp thực-hành được công-đức vô-lượng.

 


[1] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “Niết-bàn” Bồ-tát Văn-thù thay đại-chúng hỏi đức Phật về ý-nghĩa chữ “Tâm-địa”, mong cho chúng-sinh khỏi khổ, an-vui, phát-tâm, chứng-quả, cùng vào được đạo Nhất-thực (Nhất-đạo) để được viên-tịch.

[2] Đại-diệu-trí-ấn: Là trí-tuệ rất rộng lớn, vi-diệu không nghĩ, bàn được của Phật, do tu 3 vô số kiếp, đến khi nhân trọn quả đủ mà được.

[3] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy” tới chữ “nghe”, đức Phật ấn-khả lời thỉnh của Bồ-tát Văn-thù. Đức Phật còn khen ngợi Bồ-tát Văn-thù là Phật-mẫu trong 3 đời, vì Bồ-tát Văn-thù biểu-hiện cho trí-tuệ và vì dẫn đạo cho các vị mới phát tâm.

[4] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó” đến chữ “nói”, hiển-thị 5 đức thù-thắng vi-diệu của Phật: 1/ Hiển-thị trí-tuệ tối-thắng trong lý-trí bình-đẳng, thị-hiện Thắng-ứng-thân và Tha-thụ-dụng-thân, giáo-hóa hàng Gia-hạnh Bồ-tát cùng Sơ-địa Bồ-tát. 2/ Hiển-thị trí-tuệ vô phân-biệt của Đại-thừa, ấn-chứng các pháp không sinh, không diệt, quyết-định là “Thắng-nghĩa-đế-pháp”. 3/ Hiển-thị trí-tuệ kiên-cố, cao-siêu, vi-diệu mà chỉ Phật với Phật mới chứng được bằng cách rốt-ráo. 4/ Hiển-thị lòng thương rộng lớn, độ tận chúng-sinh, không chút phân-biệt, chướng-ngại. 5/ Hiển-thị trí-tuệ viên-dung, nhậm-vận tự-tại, thấu suốt căn-cơ chúng-sinh, dùng viên-âm thuyết-pháp hóa-độ.

[5] Đây nói: pháp-môn tâm-địa là pháp-môn sao-siêu, hàng Tam-thừa không thể hiểu nổi, mà chỉ khi chứng Phật-quả viên-mãn mới hiểu thấu được.

[6] Đốn-ngộ: Một trong 2 sự chứng-ngộ: Đốn-ngộ là chúng-sinh phát đại-tâm (Bồ-tát), nghe Đại-thừa, làm đại-pháp mà chứng-ngộ ngay được diệu-quả. Trái lại là Tiệm-ngộ. Tiệm-ngộ: là chúng-sinh phải tu lần-lượt từ thấp đến cao, mãi mãi mới chứng-ngộ được.

[7] Sắc-cứu-cánh tự-tại-trí: Trí-tuệ cao-siêu tự-tại như cõi Sắc-cứu-cánh là cõi tận cùng của cõi Sắc. Mà cũng là khi Bồ-tát sắp thành Phật, địa-vị ở nơi Sắc-cứu-cánh-thiên, vượt qua 3 cõi, mà thành Phật-quả Bồ-đề.

[8] Hậu-thân Bồ-tát: Chỉ cho các vị Bồ-tát sau này, tức là sau khi đức Phật nhập-diệt rồi.

[9] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy đức Thế-Tôn bảo Vô-cấu…”, đến chỗ “chu-diệt”, đức Phật nói: “pháp-môn tâm-địa” như 25 thứ đem lại cho các hàng tu-hành và chúng-sinh được nhiều phúc-lợi.

[10] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói rõ tâm là chủ, tâm như đất. Ai tu được tâm, sẽ chóng thành vô-thượng-giác.

[11] Đoạn trên, từ chỗ “Đến đây”, đến chỗ “giải-thuyết cho!”, Bồ-tát Văn-thù hỏi vặn Phật về cái tâm đối với quá-khứ, hiện-tại, vị-lai… sao thấy được?

[12] Khách-trần phiền-não: Đây là hình-dung cho phiền-não vọng-khởi. Phiền-não không phải là vật cố-hữu của tâm-tính, chỉ vì mê lý mà phát-khởi, cũng như lữ-khách, chỉ trú nơi hàng quán trong chốc-lát nghỉ-ngơi, chứ không phải là chủ vĩnh-viễn, nên gọi là “khách”. Mặc dầu phiền-não là khách, nhưng nó cũng làm nhơ-nhớp tâm-tính nên gọi là “trần”.

[13] Đoạn trên từ chỗ “Thiện-nam-tử”, đến chỗ “voi cái”, đức Phật đem 26 vật tỷ-dụ cho “tâm”. Những vật ấy chỉ do sự tính-toán, so-lường, chấp-trước mê lầm mà sinh ra, đâu phải chân-tâm!

[14] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử” đến chỗ “viễn-ly”, tỏ bày về “không-tính”. Tâm, tâm-sở-pháp không có chỗ nhất-định, nên không có những tướng-trạng trong, ngoài, trung-gian, trong 3 đời hay vượt ngoài 3 đời cũng không tìm thấy thể-tính thực-tại của nó được. Vì, thể-tính của tâm là chân-không, hay chân-như, nên hết thảy tự-tính của các pháp cũng đều thế.

[15] Đoạn trên, từ chỗ “Những tâm như thế”, đến chỗ “như thế”, đức Phật chỉ thẳng vào thể-tính của tâm là vô-vi (tức là tự-pháp-giới). Nhưng, vô-vi cũng chỉ là mượn danh-từ, chứ thực ra là không thể nói được. Vô-vi pháp-tính không còn tạo-tác, sai-biệt, nhơ, sạch…, nó xa lìa hết thảy. Ngộ được như thế là hiểu được thực-nghĩa của chân-lý và là Hiền-thánh. Phật-tử nên tu phép quán tâm-địa này, sẽ thành vô-thượng-giác.

[16] 4 câu, từ chỗ “Ác-tưởng” đến chỗ “tương-tục” đại-ý nói: tâm-pháp là chỗ tạo-tác và chứa góp hết thảy thiện và ác. Do có tạo-tác và chứa góp ấy mà thành ra nhân sinh-tử 3 đời, theo với nghiệp-nhân mà cảm quả. Nhân-ái-dục (ác) thời cảm quả-báo ái-dục (ác), nhân phi-ái-dục (không phải ái-dục: thiện), thời cảm quả-báo phi-ái-dục (thiện), cứ nối tiếp nhau mãi.

[17] Toàn thể văn kệ trên, đức Phật nhắc lại sự mê nhận tâm của chúng-sinh và chỉ bày thể-tính chân-không của tâm mà thôi.

[18] Kim-cương phọc-ấn: Biểu-hiệu cho tất cả đều ở trong thể-tính chân-như bất-hoại.

[19] Chân-ngôn (Mantra): Lời nói vi-diệu ngầm hợp với thể-tính chân-như.

[20] 12 bộ kinh: Trong kinh Phật có chia làm 12 phận-giáo: 1/ Tu-đa-la: (Sùtra: khế-kinh: văn suôi). 2/ Kỳ-dạ (Geya: trùng-tụng: bài kệ nói lại nghĩa của văn suôi). 3/ Già-đà (Gàthà: phúng-tụng: bài kệ 4 câu đứng riêng, không liền với văn suôi). 4/ Ni-đà-na (Nidà-na: nhân-duyên). 5/ Y-đế-mục-da (Ytivrtaka: Bản-sự: nói những việc đời trước). 6/ Xà-đa-già (Jàtaka : Bản-sinh: Phật tự nói nhân-duyên mình đời quá-khứ). 7/ A-phù-đạt-ma (Adbhuta-dharma: Vị tằng-hữu: làm những sự hiếm có). 8/ A-ba-đà-na (Avadàna: Thí-dụ). 9/ Ưu-bà-đề-xa (Upadesa: luận nghĩa). 10/ Ưu-đà-na (Uda-na: tự-thuyết: tự Phật nói, không đợi ai hỏi). 11/ Tỳ-phật-lược (Vaipulya: phương-quảng: văn nói về chân-lý phương-chính, quảng-đại, tức là Đại-thừa-giáo). 12/ Hòa-già-la (Vyàkarana: thụ-ký).

[21] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, đến chỗ “thoái-chuyển”, đức Phật quá thương chúng-sinh muốn cho chúng-sinh chóng bỏ tà-kiến chóng ngộ chân-tâm, Ngài liền thuyết thần-chú, dạy kết-ấn, để trợ-duyên cho người tu-hành về môn quán tâm này.

XI.- PHẨM PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM [1]

Bấy giờ, đức Thế-Tôn đã được “quán-đỉnh bảo-quan” của hết thảy Như-Lai, vượt qua ba cõi; đã viên-mãn được Đà-ra-ni tự-tại, đã chứng viên-mãn được Tam-ma-địa tự-tại, thành-thục tốt-đẹp Nhất-thiết-trí-trí, Nhất-thiết-chủng-trí và hay làm được mọi sự sai biệt đối với hữu-tình. [2]

Khi đức Thế-Tôn vì các chúng-sinh tuyên-thuyết về diệu-môn “Quán tâm” rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Đại-thiện-nam-tử! Tôi đã vì chúng-sinh nói về “tâm-địa” rồi, nay Tôi lại sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm đại-đà-ra-ni”, để cho các chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, mau viên-mãn được diệu-quả”. [3]

Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói “Quá-khứ đã diệt, vị-lai chưa đến, hiện-tại không trụ, hết thảy tâm-pháp có trong ba đời, bản-tính của nó đều không, vậy tâm bồ-đề kia, nói vào cái gì mà gọi là “phát”? Lành thay, Thế-Tôn! Xin Ngài vì tất cả mà giải-thuyết cho, để cho tất cả dứt bỏ được các màn lưới ngờ-vực, mà đạt tới nơi Bồ-đề!”

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ: “Thiện-nam-tử! Trong các tâm-pháp khởi ra mọi tà-kiến; vì muốn dứt trừ sáu mươi hai kiến, cùng mọi thứ tà-kiến khác, nên Tôi nói tâm, tâm-sở-pháp là “không”; như thế, là các “kiến” kia không còn chỗ nương-tựa nữa. Ví như rừng-rú xanh-tốt kín-mít, sư-tử, voi trắng, hùm, beo, thú dữ… lẩn ở trong ấy nhả độc hại người, làm cho vắng-bặt dấu-vết người đi. Lúc đó, có bậc trí-giả đem lửa đốt rừng; vì rừng trống, các thú dữ không còn sót lại. “Tâm” không, “kiến” diệt, cũng như thế!” [4]

Lại, thiện-nam-tử! Bởi nhân-duyên gì lập ra nghĩa “không” ấy? – Vì muốn diệt phiền-não từ vọng-tâm sinh ra mà nói là “không”. Thiện-nam-tử! Nếu chấp “không-lý” là cái “hữu” (có) cứu-cánh, thời ngay “không-tính” cũng không; chấp “không” thành bệnh, cũng nên trừ bỏ! Sao vậy? – Nếu chấp nghĩa “không” là cứu-cánh, các pháp đều không nhân, không quả, thời có khác gì với ngoại-đạo: Lộ-già-gia-đà (Thuận-thế ngoại-đạo)? Thiện-nam-tử! Như thuốc A-già-đà (bất-tử-dược) chữa khỏi các bệnh, nếu người có bệnh uống thuốc ấy quyết khỏi; bệnh đã khỏi rồi, thuốc cũng theo bệnh mà bỏ và nếu không có bệnh mà uống thuốc, thuốc trở lại thành bệnh. Thiện-nam-tử! Trước đặt ra thuốc “không” là để trừ bệnh “hữu” (có); chấp “hữu” thành bệnh, thời chấp “không” cũng thế. Ai là bậc trí-giả lại uống thuốc để mang bệnh? Thiện-nam-tử! Nếu khởi ra “hữu-kiến”, còn hơn khởi ra “không-kiến”; có thuốc “không” trị bệnh “hữu”, chứ không có thuốc nào trị bệnh “không” cả. [5]

Thiện-nam-tử! Bởi nhân-duyên ấy, uống thuốc “không” trừ tà-kiến rồi, tâm tự giác-ngộ, phát ra bồ-đề, tâm giác-ngộ ấy tức là tâm bồ-đề, chứ không có hai tướng. Thiện-nam-tử! Tâm tự giác-ngộ có bốn nghĩa. Những gì là bốn? – Các phàm-phu có hai tâm, chư Phật, Bồ-tát có hai tâm. Thiện-nam-tử! Hành-tướng hai tâm của phàm-phu thế nào? – Một là, từ nhãn-thức cho đến ý-thức, nhân-duyên tự-cảnh là “tự-ngộ-tâm”. Hai là, lìa tâm, tâm-sở-pháp của năm căn, hòa-hợp duyên cảnh là “Tự-ngộ-tâm”. Thiện-nam-tử! Hai tâm như thế hay phát bồ-đề! Thiện nam-tử! Hành-tướng hai tâm của Thánh-hiền thế-nào? – Một là, quán chân-thực-lý-trí. Hai là, quán nhất-thiết-cảnh-trí. Thiện-nam-tử! Bốn nghĩa như thế là “tự-ngộ-tâm”. [6]

Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tâm không có hình-tướng cũng không có chỗ ở, người phàm-phu tu-hành khi tối-sơ phát-tâm, phải y vào những chỗ nào và quán những tướng gì?”

Đức Phật bảo: “Thiện-nam-tử! Chỗ quán tâm-tướng bồ-đề của phàm-phu, phải quán như là vành trăng tròn đầy trong sạch sáng-sủa đứng yên trên ngực. Nếu muốn mau được “bất-thoái-chuyển”, khi ở nơi A-lan-nhã và nhà không-tịch cần phải đoan-thân, chính-niệm, kết Kim-cương phọc-ấn của Như-Lai như trước, nhắm mắt quán-sát mặt trăng sáng giữa ngực và suy-nghĩ rằng: “Vành trăng tròn đầy này to lớn năm mươi do-tuần, sáng-sủa thanh-tịnh, trong, ngoài lắng suốt, không chút bụi nhơ và trong mát rất mực”. Mặt trăng tức là tâm, tâm tức là mặt trăng, vết trần không nhiễm thời vọng-tưởng không sinh, khiến cho thân-tâm chúng-sinh thanh-tịnh, tâm đại-bồ-đề bền-vững không thoái. Kết tay ấn ấy và trì-niệm quán-sát chương-cú (thần-chú) vi-diệu đại-bồ-đề-tâm, là “thanh-tịnh chân-ngôn” của hết thảy Bồ-tát khi tối-sơ phát-tâm: “Úm, bồ-địa, thất đa, mưu chí ba, đà gia, nhị”. Đà-ra-ni này đủ uy-đức lớn, khiến cho người tu-hành không bị thoái-chuyển. Hết thảy Bồ-tát trong quá-khứ, vị-lai, hiện-tại khi tại nhân-địa phát sơ-tâm, đều chuyên trì-niệm chân-ngôn này, mà vào được nơi bất-thoái và mau viên-thành chính-giác. [7]

Thiện-nam-tử! Khi người tu-hành kia đoan-tâm chính-niệm, đều không rung-động gì cả, chỉ để tâm vào vành trăng, quán-sát thành-thục, thế gọi là “Bồ-tát quán bồ-đề tâm thành Phật tam-muội”. Nếu có phàm-phu tu được quán ấy, trước kia gây ra năm tội nghịch, bốn tội trọng (sát, đạo, dâm, vọng), thập-ác và bất-tín, các tội ấy đều tiêu-diệt hết và liền được năm thứ Tam-ma-địa-môn. Những gì là năm? – Một là, Sát-na tam-muội. Hai là, Vi-trần tam muội. Ba là, Bạch-lũ tam-muội. Bốn là, Khởi-phục tam-muội. Năm là, An-trụ tam-muội. Thế nào gọi là Sát-na tam-muội? – Nghĩa là chỉ tạm thời an-trụ tưởng-niệm vào mặt trăng tròn đầy mà thôi, ví như con khỉ, thân bị buộc, xa không đi được, gần không dừng được, nhưng chỉ khi đói khát quá, nó mới dừng nghỉ được chốc lát mà thôi. Phàm-phu quán tâm cũng như thế mới được tam-muội (chính-định) trong tạm thời chốc lát, nên gọi là “sát-na”. Thế nào gọi là Vi-trần tam-muội? – Nghĩa là đối với tam-muội đã tương-ứng được ít phần, ví như có người tự mình thường ăn đồ đắng, chưa từng được ăn đồ ngọt bao giờ, trong một thời kia được nếm một chút mật vào lưỡi, người ấy vui-mừng quá, càng sinh hăng-hái mong cầu được nhiều mật. Người tu-hành ấy, qua nhiều kiếp ăn những vị đắng mà nay cho được vị tam-muội (chính-định) ngon-ngọt, đã tương-ứng được ít phần nên gọi là “vi-trần” (bụi nhỏ). Thế nào gọi là Bạch-lũ tam-muội? – Nghĩa là, người phàm-phu từ thời vô-thủy cho đến hết thuở vị-lai, nay được định này, ví như nhuộm vải đen, trong nhiều màu đen thấy được một sợi tơ trắng (bạch-lũ). Người tu-hành ấy, ở trong nhiều đêm sinh-tử tăm tối, nay mới được tam-muội (chính-định) bạch-tịnh (trong-trắng), nên gọi đấy là “bạch-lũ”. Thế nào gọi là Khởi-phục tam-muội? – Nghĩa là, người tu-hành quán tâm chưa thành-thục, hoặc khéo thành-lập hay chưa khéo thành-lập, tam-muội (chính-định) như thế còn là cao, thấp nên gọi là “khởi-phục” (nhô lên, giẹp xuống). Thế nào gọi là An-trụ tam-muội? –Nghĩa là tu bốn định trước, tâm được an-trụ và khéo giữ-gìn được, không nhiễm vào các trần, như người trong mùa hè đi qua cõi sa-mạc xa-xăm, chịu đủ mọi sự tai-độc, tâm khát thiếu quá, hầu như không chịu nổi được nữa, bỗng gặp được dòng nước ngọt của núi Tuyết, như vị tô-đà [8] cõi thiên, mau khỏi được nhiệt-não, thân-tâm được thư-thái, nên định ấy gọi là “an-trụ”. Nhập định ấy rồi, xa-lìa hoặc-chướng, nẩy mầm vô-thượng bồ-đề, chóng lên công-đức Thập-địa của Bồ-tát.

Bấy giờ, trong pháp-hội, vô-lượng Nhân, Thiên được nghe Đại-đà-ra-ni sâu rộng không thể nghĩ bàn này, là mẹ đẻ của Bồ-tát, thời chín vạn tám nghìn Bồ-tát chứng được Hoan-hỷ-địa, vô-lượng chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [9]

TOÁT-YẾU
XI.- PHẨM PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM

Khi đức Thế-Tôn nói về diệu-môn “Quán-tâm” rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Nay tôi sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm đại-đà-ra-ni” để các chúng-sinh phát-tâm vô-thượng, chóng viên-mãn diệu-quả!”.

Đại-bồ-tát Văn-thù bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Thế-Tôn đã nói tâm-pháp trong ba đời, bản-tính đều không, vậy tâm bồ-đề kia, lấy cái gì gọi là “phát”? Kính xin Thế-Tôn giải-thuyết cho?”

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Tâm-pháp khởi ra tà-kiến, vì muốn trừ các tà-kiến nên Tôi nói “tâm, tâm-sở-pháp” là “không”. Vì muốn diệt phiền-não từ vọng-tâm sinh ra, nên Tôi nói là “không”. Rồi đến cái “không” cũng trừ bỏ, vì đặt ra “không” để trừ “hữu” (có), chấp “hữu” thành bệnh thời chấp không cũng thế. Bởi vậy, uống thuốc “không”, trừ tà-kiến rồi, tâm tự giác-ngộ phát ra bồ-đề, tâm giác-ngộ ấy tức là bồ-đề. Tâm tự giác-ngộ có 4: phàm-phu 2 tâm, Phật, Bồ-tát 2 tâm.”

Đại-bồ-tát Văn-thù lại bạch: “Bạch đức Thế-Tôn!

Tâm không có hình-tướng, trụ-xứ, vậy lúc tối-sơ phát tâm người phàm-phu tu-hành phải y vào đâu và quán tướng gì?”

Đức Phật bảo: “Chỗ quán tâm-tướng của phàm-phu phải quán như là vành trăng tròn đầy, trong sạch, sáng sủa đứng yên trên ngực. Mặt trăng là tâm, tâm là mặt trăng; vết trần không nhiễm, thời vọng-tâm không sinh, khiến thân tâm được thanh-tịnh, tâm đại-bồ-đề kiên-cố. Người tu-hành như pháp quán-niệm, diệt được nhiều tội xưa và được 5 hạng Tam-ma-địa-môn: 1/ Sát-na tam-muội. 2/ Vi-trần tam-muội. 3/ Bạch-lũ tam-muội. 4/ Khởi-phục tam-muội. 5/ An-trụ tam-muội.”

Đức Phật nói pháp ấy rồi, trong pháp-hội 98.000 Bồ-tát chứng Hoan-hỷ-địa, vô-lượng chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác.

 


[1] Phát Bồ-đề-tâm: “Bồ-đề” là “giác-đạo”, là đạo chính-chân vô-thượng. Người phát tâm cầu đạo chính-chân vô-thượng ấy là “Phát Bồ-đề-tâm”.

[2] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “hữu-tình”, nói về đức Phật hiển-thị Phật-thân, giáo-hóa hàng Thập-địa Bồ-tát: 1/ Hàng Thập-địa tu tiến đã cao, không lâu sẽ chứng-ngộ Phật-quả, đức Phật đội mũ báu quán-đỉnh (quán-đỉnh bảo-quan), biểu-hiện các Bồ-tát sẽ thành vô-thượng-giác được thân-tướng trang-nghiêm, như Thái-Tử khi lên ngôi vua được làm phép Quán-đỉnh. Và, sau khi chứng-ngộ, được an-trụ tại nơi thanh-tịnh trang-nghiêm, vượt ngoài 3 cõi. 2/ Hàng Thập-địa Bồ-tát do sự tu-tiến sẽ được đầy-đủ các công-đức về Đà-ra-ni-môn, Tam-muội-môn…, để diệt-trừ các ngu-chướng vi-tế, thành sự-nghiệp tự, tha lưỡng lợi rộng lớn. 3/ Phật-thân đầy-đủ phúc-đức, trí-tuệ. Phần trí-tuệ hoàn-toàn cả căn-bản-trí và hậu-đắc-trí (Nhất-thiết trí-trí, Nhất-thiết chủng-trí), soi thấu hết thảy, hiểu biết cùng-tận nghiệp-tính chúng-sinh, tùy căn-cơ chúng-sinh, đem lợi-ích cho họ. Thập-địa Bồ-tát chứng được Phật-trí cũng như vậy.

[3] Đoạn trên, từ chữ “Khi”, tới chữ “quả”, đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù là Ngài sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm”.

[4] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó”, tới chỗ “như thế”, Bồ-tát Văn-thù hỏi Vặn Phật về tâm đã không còn, lấy đâu mà phát? Đức Phật dạy: sở-dĩ cho tâm-pháp là không, là vì muốn diệt-trừ những kiến-chấp, như rừng trống, thú dữ sẽ không còn.

[5] Đoạn trên, từ chữ “Lại”, đến chữ “cả”, đức Phật phá “chấp không”, vì “chấp không” vẫn còn là chấp và, “chấp không” còn nặng hơn “chấp có”, vì không có thuốc nào chữa được bệnh “không” cả.

[6] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử” đến chỗ “tự-ngộ-tâm”, nói: bỏ chấp không, trừ tà-kiến, đạt nghĩa “bất không”, là tâm tự-giác-ngộ, tức là “phát bồ-đề” và tức là “tâm bồ-đề”. Tâm tự giác-ngộ chia làm 2 hạng: phàm và Thánh. A.- Hạng phàm: 1/ Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý-thức khi liên-lạc với tự-cảnh-giới hiện tiền, vẫn giữ y-nguyên thanh-tịnh, không phân-biệt, chấp-trước, đó là tự-giác-ngộ-tâm. 2/ Trong khi nhập-định, Ý-thức xa-lìa cả 5 căn, cảnh, chỉ chuyên liên-lạc với cảnh-giới hiện-tiền trong định, đó là tự-giác-ngộ-tâm. B.- Hiền-thánh: “Hiền” là chỉ vào các hàng Bồ-tát: Thập trụ, Thập-hạnh, Thập-hướng và Gia-hạnh. “Thánh” là chỉ vào các Bồ-tát Thập-địa. Bậc Hiền-thánh tự-giác-ngộ-tâm do: 1/ Dùng trí-tuệ quán chân-thực-lý, tức là quán về “như-lý-trí” (thực-trí), nghĩa là dùng chân-trí quán thấu lý-tính chân-thực của các pháp. 2/ Dùng trí-tuệ quán nhất-thiết-cảnh-trí, tức là quán về “như-lượng-trí”, nghĩa là đem tục-trí, quán thông vào sự-tướng của các pháp.

[7] Đoạn trên, từ chỗ ‘Lúc đó”, đến chỗ “chính-giác”, Bồ-tát Văn-thù hỏi Phật về người mới phát tâm tu-hành nên y vào đâu và quán gì? Đức Phật dạy: nên kết-ấn Kim-cương-phọc, đọc chú Thanh-tịnh và quán mặt trăng ngay giữa ngực. Vì, mặt trăng tức là tâm. Các Bồ-tát trong 3 đời đều quán như thế.

[8] Tô-đà: Một món ăn ngon và có ý-vị khác thường. Bộ Pháp-uyển châu-lâm viết: “Chư thiên cõi Dạ-ma thường dùng chén ngọc uống rượu, ăn món ăn Tô-đà, sắc, xúc, hương, vị đều đầy-đủ.

[9] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử! Khi người tu-hành”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói về người quán được tâm như thế sẽ được năm thứ định, diệt-trừ được hoặc-chướng và nẩy mầm Bồ-đề. Tới đây, đại-chúng nghe Phật nói về pháp-môn này, đều được hưởng phần lợi-ích.

XII.- PHẨM THÀNH PHẬT [1]

Bấy giờ, đức Thế-Tôn an-trụ trong pháp-giới thanh-tịnh, ba đời bình-đẳng, không trước không sau, bất-động ngưng lặng, thường không đoạn hết. Ánh sáng đại-trí soi khắp thế-giới. Phương-tiện thiện-sảo biến-hiện thần-thông, hóa-độ mười phương quốc-độ, đâu cũng cùng khắp. [2]

Khi ấy, đức Thế-Tôn bảo Đại-bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Người tu-hành Du-già [3] quán vành trăng rồi, nên quán ba pháp đại-bí-mật. Những gì là ba? – Một là, tâm-bí-mật. Hai là, ngữ-bí-mật. Ba là, thân-bí-mật. Thế nào gọi là tâm-bí-mật-pháp? – Người tu-hành Du-già, quán trong mặt trăng tròn đầy sinh ra cái chầy Ngũ cổ kim-cương [4] sắc vàng, ánh sáng rực-rỡ như vàng chảy, phóng ra vô-số ánh-sáng trắng lớn; lấy sự ấy mà quán-sát gọi là “tâm-bí-mật”. Thế nào gọi là ngôn-ngữ bí-mật? – “Úm, địa thất-đa bà nhĩ-la”. Đà-ra-ni ấy đủ uy-lực lớn, là chân-ngôn của hết thảy Bồ-tát thành Phật, thế nên gọi là “ngữ-ngôn bí-mật”. Thế nào gọi là “thân-bí-mật-pháp”? – Ở trong đạo-tràng, đoan thân, chính-niệm, tay kết “Dẫn-đạo vô-thượng bồ-đề tối đệ nhất ấn”, [5] đặt giữa tâm-nguyệt-luân nơi ngực.

Thiện-nam-tử! Tôi sẽ vì ông nói về tướng-dáng của ấn ấy: Trước tiên lấy hai ngón tay cái của hai bàn tay tả, hữu, đều đặt nó vào trong bàn tay tả, hữu và đều lấy ngón tay đầu (ngón tay chỏ) ngón tay giữa cùng ngón tay thứ tư (ngón tay đeo nhẫn) của bàn tay tả, tay hữu, rồi nắm chặt lấy ngón tay cái, làm thành nắm tay, tức là “Kiên-lao kim-cương quyền-ấn”. Sau, không đổi nắm tay, chỉ duỗi một ngón tay đầu (ngón tay chỏ) của bàn tay tả, thẳng lên hư-không, rồi đem nắm tay tả ấy đặt trên trái tim; ngón tay út của nắm tay hữu nắm chặt lấy một đốt ngón tay đầu (ngón tay chỏ) của nắm tay tả, sau lại lấy đầu ngón tay đầu (ngón tay chỏ) của nắm tay hữu, chỉ vào một đốt ngón tay cái của nắm tay hữu. Và, cũng để trước trái tim, thế gọi là “Dẫn-đạo vô-thượng bồ-đề đệ nhất trí-ấn”, cũng gọi là “Năng diệt vô-minh hắc-ám đại-quang-minh ấn”. [6] Bởi kết ấn ấy, có sức gia-trì, nên được chư Phật mười phương thoa đầu hành-giả và trao cho “Đại-bồ-đề thắng quyết-định ký”, là “Đại-tỳ-lư-già-na Như-Lai vô-lượng phúc-tụ đại-diệu trí-ấn”. [7]

Khi hành-giả kết ấn ấy rồi, liền làm quán này: “Hết thảy chúng-sinh cùng kết ấn này, trì-niệm chân-ngôn, mười phương thế-giới không bị quả-khổ trong ba đường ác và tám nạn, mà cùng được hưởng pháp-lạc thanh-tịnh thứ nhất. Nay trên đầu ta có mũ đại-bảo, trong mũ thiên-quan ấy năm đức Phật Như-Lai ngồi kết gia-phu, ta là Tỳ-lư-già-na Như-Lai, đầy-đủ viên-mãn ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt, phóng ra hào-quang sáng lớn soi khắp mười phương, đem lại lợi-ích an-vui cho hết thảy chúng-sinh”. Quán-sát như thế gọi là “Nhập Tỳ-lư-già-na Như-Lai tối-thắng tam-muội”. [8]

Ví như có người ngộ được quán-môn “Ca-lư” vi-diệu, tự làm quán này: “Thân ta tức là thân chim Kim-sí đầu đàn, tâm, ý, ngữ-ngôn cũng lại như thế. Dùng sức quán ấy làm tiêu-tan thuốc độc, hết thảy ác-độc không làm hại được”. Người phàm-phu tu-hành cũng như thế, ngồi kiểu ngồi hàng-phục, thân không rung-động, tay kết trí-ấn, mật-niệm chân-ngôn, tâm nhập quán này, diệt được ba độc, tiêu-trừ nghiệp-chướng, tăng-trưởng phúc-trí, và những nguyện ở thế-gian hay xuất-thế-gian mau được viên-mãn; tám vạn bốn nghìn các phiền-não-chướng không hiện-khởi được, Hằng-hà-sa sở-tri-chướng cực-trọng dần dần tiêu-diệt, vô-lậu đại-trí: “năng đoạn kim-cương Bát-nhã ba-la-mật” viên-mãn hiện-tiền, chóng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [9]

Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật rằng: “Đức Thế-Tôn hiếm có! Đấng Thiện-Thệ hiếm có! Đức Như-Lai ra đời còn hiếm có hơn hoa Ưu-đàm, và giả-sử Ngài ra đời mà nói ra pháp này cũng khó. Ba pháp bí-mật vô-thượng pháp-luân của tâm-địa như thế, thực là lợi-lạc cho hết thảy chúng-sinh, là đường chính chân-thực vào Như-Lai-địa và Bồ-tát-địa. Nếu có chúng-sinh nào không tiếc thân-mệnh mà tu-hành pháp ấy sẽ chóng chứng được Bồ-đề. [10]

Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn tu-tập được ba diệu-môn bí-mật thành Phật, sớm được thân công-đức của Như-Lai, nên mặc ba mươi hai thứ áo giáp đại-kim-cương của Bồ-tát mà tu diệu-quán ấy, thời quyết chứng được pháp-thân thanh-tịnh của Như-lai.

Những gì là ba mươi hai thứ áo giáp ấy?- Một là, mặc áo đại-giáp thụ-khổ: ở trong vô-lượng kiếp vì chúng-sinh chịu khổ mà không chán sinh-tử. Hai là, mặc áo đại-giáp bất xả: thề độ vô-lượng hữu-tình cho đến con sâu, con kiến cũng không bỏ. Ba là, mặc áo đại-giáp bí-mật: giác-ngộ chúng-sinh trong giấc mộng dài sinh-tử, an-trí họ vào ba pháp bí-mật. Bốn là, mặc áo đại-giáp hộ-pháp: ủng-hộ Phật-pháp trong hết thảy thời cũng như vang ứng tiếng. Năm là, mặc áo kim-cương đại-giáp: diệt hẳn sự khởi lên hai kiến “hữu, vô” (có, không) và hết thảy phiền-não. Sáu là, mặc áo đại-giáp năng-xả: dù đầu, mắt, tủy, óc, vợ, con, ngọc báu…có người lại xin đều xả cả. Bảy là, mặc áo đại-giáp năng-thí: hết thảy đồ vui mà trong nhà hưởng-thụ, quyết không tham-trước, đem cho tất cả. Tám là, mặc áo đại-giáp năng-trì: hay giữ tam-tụ-tịnh-giới của Bồ-tát và không rời bỏ hạnh Đầu-đà. Chín là, mặc áo đại-giáp nhẫn-nhục: mặc áo nhẫn-nhục, gặp các duyên trái ngược như hủy-mạ, đánh-đập…vẫn không báo-thù lại. Mười là, mặc áo đại-giáp hồi tâm: giáo-hóa những bậc Duyên-giác, Thanh-văn, khiến họ hồi tâm đi về Nhất-thừa. Mười một là, mặc áo đại-giáp tinh-tiến: tinh-tiến độ các hữu-tình, ví như gió lớn ngày đêm không ngừng. Mười hai là, mặc áo đại-giáp tu-hành giải-thoát tam-muội: thân-tâm tịch-tĩnh, miệng không phạm lỗi. Mười ba là, mặc áo đại-giáp bình-đẳng: làm lợi-ích chúng-sinh, coi sinh-tử và Niết-bàn không có hai thiên-kiến. Mười bốn là, mặc áo đại-giáp dữ lạc (cho vui): đem vô-duyên đại-từ, làm lợi-ích mọi loài, luôn luôn không chán bỏ. Mười lăm là, mặc áo đại-giáp bạt-khổ (nhổ khổ): đem vô-ngại đại-bi, cứu-nhiếp hết thảy, không có hạn-lượng. Mười sáu là, mặc áo đại-giáp đại-hỷ (rất vui): đối với các chúng-sinh không oán-kết, luôn luôn làm việc lợi-ích. Mười bảy là, mặc áo đại-giáp đại-xả (bỏ hết): tuy làm hạnh khổ không sợ nhọc-mệt, luôn luôn không thoái-chuyển. Mười tám là, mặc áo đại-giáp bất-yếm (không chán): chúng-sinh có sự đau-khổ lại nơi Bồ-tát, Bồ-tát chịu thay khổ cho chúng-sinh kia mà không chán-ngán. Mười chín là, mặc áo đại-giáp giải-thoát năng-kiến: sự xem trông rõ-ràng như xem quả A-ma-lặc [11] trong bàn tay, như thế là giải-thoát được sự thấy (năng-kiến). Hai mươi là, mặc áo đại-giáp vô-trước (không chấp-trước): thấy thân ngũ-uẩn như bọn Chiên-đà-la (đồ-tể), tổn-hại việc thiện. Hai mươi mốt là, mặc áo đại-giáp yếm-xả (chán bỏ): thấy mười hai nhập (6 căn, 6 trần) như làng xóm trống, thường mang lòng sợ-hãi. Hai mươi hai là, mặc áo đại-giáp đại-trí: thấy mười tám giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) cũng như huyễn-hóa, không có chân-thực. Hai mươi ba là, mặc áo đại-giáp chứng-chân (chứng lý chân-như): thấy hết thảy pháp, đồng trong pháp-giới, không thấy có mọi tướng sai-khác. Hai mươi bốn là, mặc áo đại-giáp xuất-thế: che điều ác của người, không dấu lỗi ác của mình, chán, bỏ ba cõi. Hai mươi lăm là, mặc áo đại-giáp hóa-độ: như đại-y-vương, hợp bệnh cho thuốc, Bồ-tát tùy-nghi mà diễn-hóa. Hai mươi sáu là, mặc áo đại-giáp quy nhất (về một): thấy chân-thể của Tam thừa kia vốn không khác, cứu-cánh đồng tâm quay về nơi một. (một chân-như pháp-giới, hay một Nhất-thừa Phật-quả). Hai mươi bảy là, mặc áo đại-giáp độ nhân (độ người): nối Tam-bảo-chủng, khiến không đoạn-tuyệt, quay xe diệu-pháp độ người. Hai mươi tám là, mặc áo đại-giáp tu-đạo: Phật đối với chúng-sinh có ân-đức lớn, vì muốn báo ơn Phật, cần tu Phật-đạo. Hai mươi chín là, mặc áo đại-giáp vô-cấu (không nhơ): quán bản-tính của hết thảy pháp không-tịch, không sinh, không diệt, không nhơ. Ba mươi là, mặc áo đại-giáp vô-ngại (không ngăn-ngại): ngộ Vô-sinh-nhẫn, được Đà-ra-ni, nhạo-thuyết biện-tài vô-ngại. Ba mươi mốt là, mặc áo đại-giáp, rộng hóa hữu-tình khiến họ được ngồi dưới cây Bồ-đề, chứng Phật-quả nhất-vị. Ba mươi hai là, mặc áo đại-giáp, trong một sát-na tâm tương-ứng với bát-nhã (Phật-trí), chứng-ngộ đại-pháp vô-dư trong ba đời. Thế gọi là ba mươi hai thứ Kim-cương đại-giáp của Đại-bồ-tát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ! Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào thân mặc giáp-trụ kim-cương như thế, nên chăm tu-tập ba pháp bí-mật, trong đời hiện-tại đủ phúc-trí lớn, mau chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề. [12]

Khi ấy, đại-thánh Văn-thù-sư-lỵ Bồ-tát ma-ha-tát cùng đại chúng nghe đức Phật nói về ba môn bí-mật tâm-địa diệu-pháp và ba mươi hai thứ kim-cương giáp-trụ, hết thảy Bồ-tát ở nơi cần học (hữu-học-địa), đều cổi những chuỗi ngọc, áo báu vô-giá, cúng-dàng lên Tỳ-lư-già-na Như-Lai cùng các Thế-Tôn trong mười phương mà tán-thán Phật rằng: “Lành thay, lành thay! Thế-Tôn diễn nói vô-biên hành-nguyện của Bồ-tát, đem lại lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh, bỏ thân phàm-phu, chứng-nhập Phật-địa. Nay chúng tôi ở trong hải-hội đại-chúng này, vì báo ơn Phật không tiếc thân-mệnh và vì các chúng-sinh xin vào khắp các quốc-độ, phân-biệt diễn nói pháp vi-diệu này cùng thụ-trì, đọc tụng, viết chép lưu-bá, khiến diệu-pháp này không đoạn-tuyệt. Kính xin Như-Lai xa xa rủ lòng hộ-niệm!”

Đại-hội nghe diệu-pháp ấy được lợi-ích lớn, vô số Bồ-tát không thể kể xiết đều chứng-ngộ được ngôi Bất-thoái và hết thảy Nhân, Thiên đều được thắng-lợi. Cho đến hết thảy hữu-tình trong năm thú, dứt bỏ được các trọng-chướng, được vô-lượng sự an-vui và đều sẽ được vô-thượng chính-đẳng chíng-giác. [13]

TOÁT-YẾU
XII.- PHẨM THÀNH PHẬT

Khi ấy đức Thế-Tôn an-trụ trong pháp giới thanh-tịnh, bình-đẳng, vô-thủy, vô chung. Ánh sáng đại-trí soi khắp, phương-tiện thiện-sảo biến-hiện thần-thông, hóa-độ mười phương, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Người tu-hành quán vành trăng rồi, nên quán 3 pháp đại-bí-mật:

1/ Tâm-bí-mật: quán mặt trăng tròn sinh 5 loại Kim-cương sắc vàng, phóng ra ánh sáng trắng lớn.

2/ Ngữ-bí-mật: miệng tụng thần-chú của Phật, Bồ-tát.

3/ Thân-bí-mật: ngồi ngay nghiêm, niệm chân-chính, tay kết “dẫn-đạo vô-thượng bồ-đề tối đệ nhất ấn”, đặt giữa tâm-nguyệt-luân. Người tu-hành kết-ấn rồi, liền quán: “Trì-niệm chân-ngôn, chúng-sinh trong 10 phương thế-giới không bị quả khổ, tam đồ, bát nạn, mà được hưởng pháp lạc thanh-tịnh. Trên đầu ta có mũ đại-bảo, có 5 đức Phật ngồi kết gia-phu. Ta là Tỳ-lư-già-na Như-Lai đủ 32 tướng, 80 thứ tốt phóng hào-quang soi khắp mười phương đem lại lợi-ích cho chúng-sinh”.

Đức Phật nói tiếp: “Nếu ai muốn tu được 3 diệu-môn bí-mật thành Phật, chóng được thân công-đức của Như-Lai nên mặc 32 thứ áo giáp đại-kim-cương của Bồ-tát mà tu diệu-quán ấy, thời quyết chứng được pháp-thân thanh-tịnh của Như-Lai. Và, nếu ai mặc áo giáp-trụ kim-cương, chăm tu 3 pháp bí-mật, hiện-tại đủ phúc-trí, mau chứng được vô-thượng bồ-đề”.

Đại-bồ-tát Văn-thù, các Đại-bồ-tát khác cùng đại-chúng nghe đức Phật nói pháp ấy, đều cổi các chuỗi ngọc, áo báu cúng-dàng lên đức Phật Tỳ-lư-già-na cùng mười phương chư Phật rồi tán-thán và phát-nguyện: “Nguyện không tiếc thân-mệnh, vì chúng-sinh xin vào khắp quốc-độ nói pháp vi-diệu này và thụ-trì, đọc-tụng, viết chép lưu-bá để pháp này không đoạn-tuyệt”.

Tới đây, vô-lượng Bồ-tát được ngôi Bất-thoái, Nhân, Thiên được thắng-lợi, chúng-sinh trong 5 thú khỏi trọng-chướng, được an-vui và sẽ được vô-thượng-giác.

 


[1] Thành Phật: Nhân-vị Bồ-tát do tu muôn hạnh, rốt-ráo thành-tựu Phật-quả vô-thượng chính-đẳng chính-giác, gọi là “thành Phật”. Thành Phật có 4 bậc: 1/ Tín-mãn thành Phật: Y vào sự quyết-định nơi chủng-tính (hạt giống sẵn có), tin các pháp không sinh-diệt, thanh-tịnh, bình-đẳng, không thể nguyện-cầu, đó là “Tín-mãn thành Phật”. 2/ Giải-mãn thành Phật: Y vào nơi giải-hành (hiểu biết tu-hành), hiểu sâu về pháp-tính là không tạo-tác, không khởi ra tưởng sinh-tử, không khởi ra tưởng Niết-bàn, tâm không sợ-hãi, cũng không vui mừng, đó là “Giải-mãn thành Phật”. 3/ Hành-mãn thành Phật: Y vào nơi cứu-cánh của Bồ-tát, trừ được hết thảy pháp-chướng vô-minh, nguyện-hành Bồ-đề đều đầy-đủ, đó là “Hành-mãn thành Phật”. 4/ Chứng-mãn thành Phật: Y nơi tịnh-tâm, được pháp-trí tịch-tĩnh vô-phân-biệt và những công-đức thắng-diệu không thể nghĩ, bàn được, đó là “Chứng-mãn thành Phật”.

[2] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “cùng khắp” trình bày về 3 thân của Phật: Từ chỗ “an-trụ” đến chữ “hết” nói về thể-dụng của Pháp-thân Phật. Pháp-thân Phật lấy pháp-giới-tính làm thân, pháp-giới-tính trong sạch, thường hằng, không phân-biệt. Câu “Ánh-sáng…” trình-bày về thể-dụng của Tự-thụ-dụng-thân Phật. Ánh-sáng trí-tuệ có được, do tu vô-lượng công-đức thành, thành rồi đem lại sự soi sáng cho tất cả, đó là viên-mãn Báo-thân Phật. Câu “Phương-tiện”…trình-bày về công-dụng của Tha-thụ-dụng-thân và Biến-hóa-thân. Phật vì giáo-hóa hàng Thập-địa, ứng-hiện Thụ-dụng-thân, độ các bậc Thánh khác và độ khắp chúng-sinh nên ứng-hiện ra Biến-hóa-thân.

[3] Du-già (Yoga): Có nghĩa là “tương-ứng” (ứng hợp nhau): nghĩa là người tu (quán) và pháp tu (quán) ứng-hợp nhau. Tương-ứng có 5 nghĩa: 1/ Cảnh tương-ứng: không trái với tự-tính của các pháp (sự-vật). 2/ Hành-tương-ứng: những công-hành về định, tuệ…ứng hợp nhau. 3/ Lý-tương-ứng: hợp với hai lẽ thực (đế-lý) của sự an-lập hay phi-an-lập. 4/ Quả-tương-ứng: chứng được quả vô-thượng bồ-đề. 5/ Cơ-tương-ứng: chứng quả viên-mãn rồi, làm việc lợi-sinh, cứu vật, ứng-hợp căn-cơ chúng-sinh mà cho thuốc. Theo chỗ tu, Duy-thức hay dùng “Lý-tương-ứng”, Mật-tôn thời dùng “Hành-tương-ứng”. Ngay câu “Du-già” trong chính-văn này cũng thuộc về “Hành-tương-ứng”. Hành-tương-ứng lấy tam-mật (3 pháp bí-mật: thân, khẩu, ý-mật) làm phương-châm.

[4] Ngũ cổ kim-cương: Còn gọi là “Ngũ trí kim-cương-chữ” nghĩa là cái chầy kim-cương có đầy-đủ diệu-lực của 5 trí, thành 5 đức Phật: 1/ Pháp-giới thể-tính-trí thành Đại-Nhật Như-Lai. 2/ Đại-viên-kính-trí thành A-xúc Như-Lai. 3/ Bình-đẳng-tính-trí thành Bảo-sinh Như-Lai. 4/ Diệu-quán-sát-trí thành Vô-lượng-thọ Như-Lai. 5/ Thành-sở-tác-trí thành Bất-không thành-tựu Như-Lai. Chữ “cổ” đây có nghĩa là chi, là loại. “Ngũ cổ kim-cương”, tức là 5 loại (hay 5 trí) kim-cương ở trên.

[5] Dẫn đạo…: Biểu-thị phương-pháp dắt-dẫn Bồ-tát tới chỗ thành Phật.

[6] Năng-diệt….Ý nói: dẫn-dắt Bồ-tát tới Bồ-đề, tức là đạt tới trí-tuệ viên-minh, do trí-tuệ này phá-diệt tận cùng những vô-minh si-ám.

[7] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, đến chỗ “trí-ấn”, đức Phật dạy người tu-hành cần phải thực hành tam-mật là tâm-bí-mật, ngữ-bí-mật và thân-bí-mật. Tâm-bí-mật quán-tưởng, ngữ-bí-mật đọc chú, thân-bí-mật kết-ấn. Thực hành được thế, được chư Phật mười phương ghi nhận là quyết-định thành Phật. Thành Phật tức là được đầy đủ phúc-đức và trí-tuệ, thể-nhập tất cả và soi sáng tất cả như Tỳ-lư-già-na Phật (Tỳ-lư-già-na có nghĩa là cùng khắp tất cả).

[8] Đoạn trên, từ chỗ “Khi hành-giả”, đến chỗ “tam-muội”, quán tự-thân là Phật, đem lại lợi-ích cho chúng-sinh.

[9] Đoạn trên, từ chỗ “Ví như”, đến chỗ “chính-giác”, ví-dụ cho diệu-pháp thù-thắng. Quán-môn Ca-lâu-la (chim Kim-sí) của thế-gian làm tiêu-tan thuốc độc, thì diệu-quán này cũng như gươm trí-tuệ kim-cương đoạn diệt hết thảy tội-chướng phiền-não, thành vô-thượng-giác.

[10] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó”, đến chỗ “Bồ-đề”, Bồ-tát Văn-thù tán-thán pháp-môn Phật nói và khuyên chúng-sinh thực-hành.

[11] A-ma-lặc (Amala): Tên một thứ quả của Ấn-độ, Tàu dịch là “Vô-cấu thanh-tịnh”.

[12] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “Bồ-đề”, đức Phật dạy người tu-hành muốn tâm, ngữ, thân chóng thành-tựu, cần thực-hành 32 pháp. 32 pháp ấy coi như mặc 32 áo giáp kim-cương, hy-sinh cương-quyết chiến-đấu với tất cả phiền-não, để mình và chúng-sinh chóng đạt tới chỗ chứng-ngộ trí-tuệ cứu-cánh vô-dư của chư Phật trong ba đời.

[13] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, đến chỗ “chính-giác”, đại-chúng nghe Phật nói xong pháp-môn này, ai nấy đều vui mừng đem những đồ trân-bảo cúng-dàng lên chư Phật mười phương. Và, tán-thán, phát-nguyện: “phân-thân truyền-bá pháp-môn này.” Trong đại-hội được nhiều lợi-ích lớn.

 XIII.- PHẨM CHÚC-LỤY [1]

Bấy giờ, Đức Thích-Ca Mưu-Ni Như-Lai bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ và vô số đại-chúng trong hải-hội rằng: “Tôi ở trong vô-lượng ức trăm nghìn đại-kiếp, không tiếc thân-mệnh, đầu mắt, tay chân, máu thịt, xương-tủy, vợ con, đất nước, thành-quách, hết thảy ngọc báu, có ai lại xin Tôi, Tôi đều đem bố-thí và Tôi tu-tập trăm nghìn hạnh khổ khó làm mà chứng được tâm-địa-quán-môn của Đại-thừa này. Nay Tôi đem pháp này phó-chúc cho các ông, các ông nên biết kinh rất sâu rộng này, các bậc được Thập-lực vô-thượng trong mười phương ba đời [2] đều tuyên thuyết. Kinh báu nhiệm-mầu tối-cực như thế, làm cho hữu-tình được mọi sự lợi-lạc. Trong tam-thiên đại-thiên thế-giới, quốc-độ chư Phật trong mười phương này, có vô-biên các loại hữu-tình, chúng-sinh trong bàng-sinh, ngã-quỷ, địa-ngục, do nhờ sức uy-thần, công-đức thù-thắng của kinh Đại-thừa Tâm-Địa-Quán này, mà làm cho họ khỏi các khổ-não, được hưởng sự an-vui. Năng-lực của kinh và phúc-đức khó nghĩ bàn được như thế, làm cho đất nước sở-tại vui-thịnh, không có oán-địch. Ví như có người được ngọc Như-ý để trong nhà, hay sinh ra hết thảy đồ vui nhiệm-mầu, kỳ-lạ; kinh báu nhiệm-mầu này cũng như thế, hay làm cho quốc-giới được an-vui vô-tận. Cũng như cái trống Mạt-ni trên cõi trời Tam-thập-tam thiên (Đao-lỵ-thiên) hay phát ra trăm nghìn âm-thanh, làm cho thiên-chúng ở đấy hưởng-thụ mọi sự khoái-lạc; trống pháp của kinh này cũng như thế, hay làm cho quốc-giới được an-vui tối-thắng. Bởi nhân-duyên ấy, đại-chúng các ông trụ trong đại-nhẫn-lực mà lưu-thông kinh này!” [3]

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Đức Như-Lai hiếm có! Đấng Thiện-thệ hiếm có! Nên Ngài mới nói ra kinh Đại-thừa Tâm-Địa-Quán nhiệm-mầu sâu-rộng này, đem lại lợi-ích rộng lớn cho người tu-hành Đại-thừa. Dạ, bạch Thế-Tôn! Kinh này thực là sâu-nhiệm! Vậy, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào thụ-trì kinh này, cho đến chỉ một bài bốn câu kệ, thời những người như thế được bao nhiêu phúc?”

Đức Thế-Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào trong Hằng-hà-sa tam-thiên đại-thiên thế-giới đầy-dẫy bảy báu mà họ dùng đem cúng-dàng chư Phật ở mười phương; họ vì mỗi một đức Phật tạo-lập một tinh-xá bằng bảy-báu trang-nghiêm, đặt để đồ cúng-dàng Phật và Bồ-tát đủ Hằng-sa kiếp; các Như-Lai kia còn có vô-lượng đệ-tử Thanh-văn, họ cũng đem cúng-dàng các vị ấy hết thảy những đồ cần-dùng, như cúng Phật không khác. Các đức Phật và các vị Thanh-văn như thế sau khi nhập Niết-bàn, họ lại xây bảo-tháp lớn, cúng-dàng xá-lỵ. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào tạm nghe và tin, hiểu một bài bốn câu kệ trong kinh Tâm-Địa này, phát tâm Bồ-đề, thụ-trì, đọc, niệm, giải-thuyết, viết chép, cho đến hết sức ít là vì một người mà nói cho họ nghe, đem những công-đức cúng-dàng kia, so-sánh với công-đức thu được về thuyết kinh này, thời trong mười sáu phần kia cũng không bằng một phần này và cho đến toán-số, thí-dụ cũng không thể sánh-kịp được, huống là người thụ-trì, đọc tập đầy-đủ và rộng-rãi vì người mà nói, thời chỗ phúc-lợi thu về không thể hạn-lượng được.

Nếu có nữ-nhân phát tâm bồ-đề, thụ-trì, học tập, viết chép, giải-thuyết kinh Tâm-Địa này, nữ-nhân ấy chỉ phải làm thân nữ-nhân lần tối-hậu này thôi, sau đây không phải chịu thân nữ-nhân nữa và không phải sa-đọa vào ác-đạo cùng tám nạn. Và, thân trong đời này cảm được mười phúc thắng-lợi: Một là, thọ-mệnh tăng thêm. Hai là, trừ mọi bệnh não. Ba là, diệt-trừ nghiệp-chướng. Bốn là, phúc-đức trí-tuệ tăng bội. Năm là, không thiếu tiền của. Sáu là, da-dẻ mịn-bóng. Bảy là, được người yêu kính. Tám là, được con hiếu-dưỡng. Chín là, quyến-thuộc hòa-mục. Mười là, thiện-tâm bền-vững. [4]

Ông Văn-thù-sư-lỵ! Ở nơi này, nơi khác, nếu ai hoặc đọc tập, hoặc phúng-tụng, hoặc giải-thuyết, hoặc viết chép kinh này thời chỗ để kinh quyển này tức là tháp Phật, hết thảy Thiên, Nhân, phi-nhân…nên đem những đồ trân-bảo quý nhất trong nhân-gian, thiên-thượng mà cúng-dàng nơi ấy. Sở-dĩ thế là sao?- Vì, nơi để kinh sách này tức là có Phật, Bồ-tát, Duyên-giác, Thanh-văn ở đó. Sao vậy?- Vì, hết thảy Như-Lai tu-hành kinh này, bỏ thân phàm-phu, được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, hết thảy Hiền-thánh cũng đều từ kinh này mà được giải-thoát. [5]

Ông Văn-thù-sư-lỵ! Sau khi Tôi nhập Niết-bàn năm trăm năm, lúc chính-pháp sắp diệt, nếu có Pháp-sư [6] nào thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép kinh Tâm-Địa này, là kinh đứng đầu trong mọi kinh, thời Pháp-sư ấy cùng Tôi không khác. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào cúng-dàng, tôn-trọng vị Pháp-sư ấy, tức là cúng-dàng hết thảy chư Phật trong mười phương ba đời và phúc-đức được hưởng, đều bình-đẳng như một không hai. Thế gọi là “Chân-pháp cúng-dàng Như-Lai” và như thế gọi là “Chính-hạnh cúng-dàng”. Sở-dĩ thế là sao?- Vì, vị Pháp-sư ấy, ở trong thời-gian không có Phật, vì chúng-sinh tà-kiến trong đời ác-trược mà diễn nói ra Tâm-Địa kinh-vương rất sâu rộng này, khiến chúng-sinh bỏ ác-kiến, đi về đạo Bồ-đề và tuyên-truyền, lưu-bá rộng-rãi, làm cho giáo-pháp này lâu bền tại thế-gian. Như thế gọi là “Vô-tướng hảo Phật” (vị Phật không có tướng tốt), hết thảy Nhân, Thiên đều nên cúng-dàng. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào chắp tay cung-kính vị Pháp-sư ấy, Tôi thụ-ký cho Vô-thượng đại-bồ-đề và người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [7]

Nếu người được nghe kinh Tâm-Địa này, vì báo tứ ân, phát tâm bồ-đề, hoặc tự mình viết, hay mượn người viết, hoặc đọc niệm thông-lợi, chỗ được phúc-đức của các người như thế, đem sức trí-tuệ của Phật mà tính lường là nhiều hay ít cũng không thể biết được đến đâu là biên-giới, những người ấy là con thực (chân-tử) của chư Phật. Hết thảy chư Thiên, Phạm-Vương, Đế-Thích, Tứ-đại-thiên-vương, năm trăm quyến thuộc Ha-lỵ-đế-mẫu, [8] Nễ-la-bạt-đa đại-quỷ-thần-vương (Đại-dược-xoa-thần), Long-thần tám bộ, [9] hết thảy các quỷ-thần nghe pháp ngày đêm không rời và thường sẽ ủng-hộ. Phật-tử như thế, tăng-trưởng chính-niệm, trí-tuệ, cùng biện-tài vô-ngại và thường thường giáo-hóa chúng-sinh, khiến họ vun-trồng nhân Phật. [10]

Ông Văn-thù-sư-lỵ! Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân như thế khi sắp mất, hiện-tiền được thấy chư Phật mười phương, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) không loạn. Bắt đầu được mười thứ thân-nghiệp thanh-tịnh. Những gì là mười?- Một là, thân không thụ khổ. Hai là, ngươi mắt không lộ. Ba là, tay không cựa-cậy. Bốn là, chân không co, duỗi. Năm là, đại, tiểu-tiện không rỉ ra. Sáu là, thân-thể không toát bồ-hôi. Bảy là, không sờ mó ngoài. Tám là, nắm tay xòe mở. Chín là, nét mặt không đổi. Mười là, quay nghiêng tự-như. Do năng-lực của kinh mà có những tướng như thế! Thứ nữa được mười thứ ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Những gì là mười?- Một là, nói ra lời nói nhiệm-mầu. Hai là, nói ra lời nói dịu-dàng. Ba là, nói ra lời nói tốt-lành. Bốn là, nói ra lời nói thích nghe. Năm là, nói ra lời nói tùy-thuận. Sáu là, nói ra lời nói lợi-ích. Bảy là, nói ra lời nói uy-đức. Tám là, nói ra lời nói không trái với họ-hàng. Chín là, nói ra lời nói Nhân, Thiên yêu-kính. Mười là, nói ra lời nói khen-ngợi lời Phật nói. Lời nói thiện như thế, đều do nơi kinh này mà được! Sau nữa, được mười thứ ý-nghiệp thanh-tịnh. Những gì là mười?- Một là, không sinh giận-bực. Hai là, không mang lòng kết-hận. Ba là, không sinh tâm bỏn-sẻn. Bốn là, không sinh tâm ghen-ghét. Năm là, không nói lỗi ác. Sáu là, không sinh tâm oán-hận. Bảy là, không sinh tâm điên-đảo. Tám là, không tham mọi vật. Chín là, xa-lìa bảy thứ khinh-mạn. Mười là, mong-muốn chứng được hết thảy Phật-pháp, viên-mãn tam-muội. [11]

Ông Văn-thù-sư-lỵ! Những công-đức như thế, đều do năng-lực khó nghĩ, bàn được trong sự thụ-trì, đọc-tập thông-lợi, giải-thuyết, viết chép kinh sách sâu-nhiệm này. Kinh Tâm-Địa này, trong vô-lượng chỗ, trong vô lượng thời, có những chúng-sinh không được nghe, huống là được thấy và tu-tập đầy-đủ? Đại-hội các ông nên nhất tâm phụng-trì, sẽ chóng xả được thân phàm-phu, thành Phật-đạo.

Bấy giờ, Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, vô-lượng Đại-bồ-tát, Trí-Quang Bồ-tát, nhiều vị Tân-phát-ý Bồ-tát, A-nhã-kiều-trần-như cùng nhiều vị Đại-thanh-văn, thiên, long tám bộ, nhân, phi-nhân-chúng, hết đều nhất tâm thụ-trì lời Phật và đều hoan-hỷ, tín-thụ phụng-hành. [12]

TOÁT-YẾU
XIII.- PHẨM CHÚC-LỤY

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Văn-thù, các Đại-bồ-tát khác cùng đại-chúng: “Trong vô-lượng đại-kiếp Tôi hỷ-xả thân-mệnh, tu nhiều hạnh khó làm, mà chứng được quán-môn tâm-địa của Đại-thừa này. Nay Tôi đem pháp này phó-chúc cho các ông. Các ông nên biết kinh này chư Phật trong mười phương ba đời từng nói. Kinh này rất quý báu, làm cho chúng-sinh trong 6 đạo khỏi khổ, được vui, làm cho đất nước sở-tại giàu-thịnh. Các ông nên trụ trong đại-nhẫn-lực mà lưu-thông kinh này!”.

Đại-bồ-tát Văn-thù bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Nếu có người thụ-trì kinh này, cho đến chỉ trì được bốn câu kệ, người ấy được phúc thế nào?”

Đức Phật bảo: “Nếu có người tạm nghe, tin hiểu 4 câu kệ, phát tâm bồ-đề, thụ-trì, đọc niệm, giải-thuyết, viết chép, cho đến nói cho một người nghe thời công-đức ấy hơn 16 phần công-đức cúng-dàng đầy-đủ chư Phật, Bồ-tát, Thanh-văn trong mười phương trọn Hằng-sa kiếp. Còn người thụ-trì đầy-đủ thời phúc-lợi không thể kể xiết được.

“Nếu nữ-nhân thụ-trì đầy-đủ, đời sau không phải làm thân nữ-nhân, không phải sa-đọa vào 3 đường ác, tám nạn và, đời hiện-tại được 10 thắng-lợi: sống lâu, không bệnh, khỏi nghiệp-chướng, thêm phúc-trí, nhiều của, da đẹp, người yêu, con hiếu, họ hòa và thiện-tâm bền-vững”.

“Nơi nào để kinh này được coi như là tháp Phật, Nhân, Thiên nên tới cúng-dàng vì nơi đó là có Phật, Bồ-tát, Duyên-giác, Thanh-văn. Sau khi Tôi nhập Niết-bàn 500 năm, có Pháp-sư nào thụ-trì, đọc tụng, giải-thuyết, viết chép kinh này, thời Pháp-sư ấy như Tôi không khác. Ai cúng-dàng vị Pháp-sư ấy tức là cúng-dàng chư Phật trong 10 phương ba đời và được công-đức cũng như vậy. Đó là “chân pháp cúng-dàng Như-Lai”, là “chính hạnh cúng-dàng”. Vị Pháp-sư ấy là “Vô tướng hảo Phật”.

“Ai muốn báo đáp tứ-ân, phát tâm Bồ-đề, hoặc mình viết, mượn người viết, hoặc đọc niệm kinh này, được phúc-đức rất nhiều, dù đem trí-tuệ Phật mà suy-tính cũng không biết hết được. Người ấy là con chư Phật, được Thiên, Long, thiện-thần ủng-hộ, chính-niệm, trí-tuệ thêm lên, biện-tài vô-ngại. Khi sắp mất được thấy chư Phật trong mười phương, được 10 nghiệp thân thanh-tịnh, 10 nghiệp khẩu thanh-tịnh và 10 nghiệp ý thanh-tịnh.

“Những công-đức như thế, đều do năng-lực bất-tư-nghị trong việc thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép kinh Tâm-Địa này. Kinh này có nhiều nơi, nhiều thời chúng-sinh không được nghe, huống là được thấy, được tu-tập! Vậy, các ông nên nhất tâm phụng-trì, sẽ chóng xả thân phàm-phu và mau thành Phật-đạo!”

Khi ấy, các Đại-bồ-tát, các vị Bồ-tát mới phát tâm, các vị Đại-thanh-văn cùng vô-lượng Thiên long tám bộ, đều nhất tâm thụ-trì lời Phật và đều hoan-hỷ tín-thụ phụng-hành.

HẾT

 


 

[1] Chúc-lụy: Có nghĩa là giao-phó công việc đang làm cho người sau gánh-vác, duy-trì và phát-triển, mà công việc ấy làm cho người được giao-phó phải quan-tâm, bận-bịu (phiền-lụy) tới.

[2] Thập lực… Mười lực của Như-Lai: 1/ Trí-lực hiểu biết chỗ đúng đạo-lý hay không đúng đạo-lý của sự-vật. 2/ Trí-lực biết nhân-quả nghiệp-báo 3 đời của chúng-sinh. 3/ Trí-lực biết các môn thiền-định, giải-thoát tam-muội. 4/ Trí-lực biết các căn thắng (hơn), liệt (kém) của chúng-sinh. 5/ Trí-lực biết mọi tri-giải (sự hiểu biết) của chúng-sinh. 6/ Trí-lực biết mọi cảnh-giới của chúng-sinh. 7/ Trí-lực biết được chỗ sẽ đến của mọi đường (đạo). 8/ Trí-lực biết dùng Thiên-nhãn không chướng-ngại. 9/ Trí-lực biết túc-mệnh vô-lậu. 10/ Trí-lực biết dứt hẳn tập-khí.

Đây là chỉ về sự hiểu biết của chư Phật trong 10 phương ba đời.

[3] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “kinh này”, đức Phật nói về sự tu-hành của Ngài trong nhiều kiếp Ngài mới chứng được quán-môn Tâm-địa này, nay Ngài giao-phó cho đại-chúng, nên nhẫn-nhục cố-gắng truyền-bá kinh này cho tất cả, trong khắp nơi, đừng để mất, vì kinh này ở đâu, đem lại nhiều sự an-lạc cho nơi ấy.

[4] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, tới chỗ “bền vững”, Bồ-tát Văn-thù hỏi Phật về công-đức duy-trì kinh này, đức Phật dạy: “duy-trì kinh này được nhiều lợi-ích hơn cúng-dàng chư Phật, Bồ-tát, Thanh-Văn. Và, nếu nữ nhân nào duy-trì còn được thêm 10 thắng-lợi.”

[5] Đoạn trên, từ chỗ “Ở nơi này”, đến chỗ “giải-thoát”, đức Phật nói kinh này để ở đâu cũng như tháp Phật ở đó, nên cúng-dàng.

[6] Pháp-sư: Danh-từ tôn-xưng những vị tinh-thông Phật-pháp, khả-dĩ làm khuôn thước cho người.

[7] Đoạn trên, từ chỗ “Sau khi”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói về công-đức của vị Pháp-sư duy-trì kinh này rất lớn, nên cung-kính cúng-dàng, cũng như Phật.

[8] Ha-lỵ-đế-mẫu: Ha-lỵ-đế (Hariti), Tàu dịch là “Hoan-hỷ”. Ha-lỵ-đế-mẫu tức là quỉ tử-mẫu (mẹ con con thần-quỉ). Bộ-tỳ-nại-gia tạp-sự quyển 31 nói: “Xưa kia trong thành Vương-xá có một vị Độc-giác ra đời, mới thiết đại-hội. Trong ngày đại-hội có 500 người nghe biết, cùng nhau tới dự. Khi đi dọc đường họ gặp một người đàn bà chửa chăn bò, bưng thùng nhũ-lạc (sữa), họ rủ bà ấy đi dự hội. Bà kia đi theo. Tới nơi, thấy sự vui-vẻ, bà kia ra múa góp vui, không ngờ bị trụy thai. Thấy sự thể thế, những người kia bỏ đi, để mình bà đau-đớn, buồn rầu ở đó. Bà liền tìm bán thùng nhũ-lạc, mua được 500 quả Am-ma-la. Ngay lúc đó được vị Độc-giác tới thăm hỏi, an-ủi, bà liền đỉnh lễ, đem quả cúng-dàng và bà nguyện: “Tôi nguyện sau đây tôi sinh vào thành Vương-xá này ăn thịt hết những con của những người ở đây”. Do ác-nguyện ấy mà sau này bà ấy sinh làm con gái cả của quỉ Sa-la-dược-xoa, trong thành Vương-xá, kết-hôn với Bán-chi-ca dược-xoa, con trai cả của Bán-xoa-la dược-xoa nước Kiền-đà-la, sinh được 500 con, hàng ngày cứ bắt những con trai, con gái thành Vương-xá ăn thịt. Một hôm, đức Phật dùng phương-tiện giấu một đứa con của quỉ-nữ đó. Quỉ-nữ buồn rầu, thương-xót đi tìm, biết là ở bên Phật, vào xin Phật, đức Phật bảo: “Ngươi có 500 con, còn thương một đứa con, huống là những người khác chỉ một, hai đứa lại không thương ư ? Ngay đó, đức Phật khuyên quỉ-nữ không nên sát sinh và trao-truyền cho ngũ-giới, thành Ưu-bà-di. Thụ-giới rồi, quỉ-nữ bạch: “Vậy, từ nay tôi không có trẻ con để ăn thì chết đói mất!”. Đức Phật bảo: “Ngươi đừng lo, từ nay trở đi nơi nào có Thanh-văn đệ-tử của Ta, mỗi khi ăn cơm, gọi đến tên mẹ con ngươi, mẹ con ngươi sẽ được no đủ, nhưng mẹ con ngươi đối với trong giáo-pháp của Ta phải dốc lòng ủng-hộ nơi Già-lam cùng các Tăng-Ni!” Mẹ con con quỉ đều vui-vẻ”.

[9] Tám bộ: 1/ Thiên. 2/ Long 3/ Dạ-xoa. 4/ Càn-thát-bà. 5/ A-tu-la. 6/ Ca-lâu-la. 7/ Khẩn-na-la. 8/ Ma-hầu-la-già.

[10] Đoạn trên, từ chỗ “Nếu người” đến chỗ “nhân Phật”, đức Phật nói công-đức duy-trì truyền-bá kinh này trong việc báo tứ-ân.

[11] Đoạn trên, từ chỗ “Ông Văn-thù….” đến chỗ “Tam-muội”, đức Phật nói về sự lợi-ích trong việc duy-trì, truyền-bá kinh này khi sắp chết được thấy chư Phật, được 10 thứ thanh-tịnh về thân, khẩu, ý-nghiệp.

[12] Đoạn trên, từ chỗ “Những công-đức như thế”, đến chỗ “phụng-hành”, đức Phật kết-thúc, khuyên đại-chúng nên nhất tâm tu-trì kinh này. Đại-chúng đều nhất tâm hoan-hỷ, phụng-trì.