(1)   Phẩm 23: Thọ Ký Thành Phật

(2)   Bấy giờ đức Thế tôn ở trong đại hội thuyết pháp phong phú rồi, muốn thọ ký cho bồ tát Diệu tràng và hai người con, Ngân tràng và Ngân quang, sẽ được vô thượng bồ đề. Lúc ấy có mười ngàn thiên tử, do thiên tử Tối thắng quang minh cầm đầu, từ Đao lợi thiên đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài rồi ngồi qua một phía, lắng nghe Ngài thuyết pháp.

(3)   Đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, trong vị lai, quá vô lượng vô số kiếp, tại thế giới hệ Kim quang minh, ông sẽ thành vô thượng giác, với danh hiệu Kim bảo sơn vương như lai, đủ mười đức hiệu. Sau khi đức Kim bảo sơn vương như lai nhập niết bàn, giáo pháp cũng hết, thì trưởng tử là Ngân tràng sẽ ở chính nơi thế giới hệ ấy mà kế tiếp chỗ Ngài, được thành Phật đà danh hiệu Kim tràng quang như lai, đủ mười đức hiệu, và thế giới hệ ấy bấy giờ chuyển danh là Tịnh tràng. Sau khi đức Kim tràng quang như lai nhập niết bàn, giáo pháp cũng hết, thì thứ tử là Ngân quang cũng ở chính nơi thế giới hệ ấy mà kế tiếp chỗ Ngài, được thành Phật đà, danh hiệu Kim quang minh như lai, đủ mười đức hiệu.

(4)   Mười ngàn thiên tử nghe ba vị đại sĩ được thọ ký, trước đó lại nghe kinh vua tối thượng, nên tâm hoan hỷ, sạch như hư không. Đức Thế tôn biết mười ngàn thiên tử ấy thiện căn thuần thục, nên cũng thọ ký cho sẽ được đại bồ đề. Rằng các thiên tử, trong vị lai, quá vô lượng vô số kiếp, các người sẽ ở nơi thế giới hệ Tối thắng nhân đà ra cao tràng mà thành tựu vô thượng bồ đề, cùng một dòng họ, cùng một danh hiệu. Danh hiệu ấy là Diệm mục thanh tịnh ưu bát la hương sơn như lai, đủ mười đức hiệu. Mười ngàn đức Như lai như vậy tuần tự tiếp nhau mà xuất hiện.

(5)   Bấy giờ Bồ đề thọ thần thưa, bạch đức Thế tôn, mười ngàn thiên tử này mới từ Đao lợi đến chỗ đức Thế tôn để nghe pháp, tại sao đức Thế tôn thọ ký liền cho sẽ thành Phật đà? Bạch đức Thế tôn, con chưa nghe những thiên tử này tu tập đầy đủ sáu ba la mật và những khổ hạnh khó làm như vô lượng bồ tát khác, xả bỏ tay chân, đầu mắt, tủy não, thân quyến, vợ con, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, bộc tùng, cung điện, vườn rừng, bạc vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, bích ngọc, bạch ngọc, đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm, dược phẩm, đem cúng phẩm hiến cúng vô số chư vị Thế tôn. Mà bồ tát thì phải làm như vậy, và ai cũng phải trải qua vô số kiếp, sau đó mới được thọ ký thành tựu vô thượng bồ đề. Bạch đức Thế tôn, các thiên tử này vì lý do nào, tu thắng hạnh gì, trồng thiện căn chi, mà từ Đao lợi đến đây, mới nghe pháp lại được thọ ký liền? Xin đức Thế tôn giải thích cho con khỏi hoài nghi.

(6)   Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ thần, theo thiện nữ nói thì phải từ thiện căn thắng diệu là siêng khổ tu tập mới được thọ ký. Nhưng các thiên tử này từ bỏ lạc thú ở thiên cung mà cố đến đây lắng nghe kinh Ánh sáng hoàng kim. Nghe rồi thiết tha tôn trọng kinh ấy. Tâm họ như lưu ly, không gợn dơ bẩn. Họ lại nghe sự thọ ký của ba vị đại sĩ. Họ còn có yếu tố thệ nguyện và chánh hạnh mà quá khứ đã tu tập lâu xa. Do vậy mà Như lai thọ ký cho trong vị lại sẽ thành tựu vô thượng bồ đề. Bồ đề thọ thần nghe đức Thế tôn giải thích như vậy thì hoan hỷ tín thọ.

 

 

(7)   Phẩm 24: Chữa Trị Bịnh Khổ

(8)   Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần, hãy nghe cho kyլ hãy khéo nghĩ nhớ. Như lai nay nói cho thiện nữ nghe về bản nguyện của mười ngàn thiên tử.

(9)   Thiện nữ, quá khứ vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật đà xuất hiện thế giới, danh hiệu Bảo kế như lai, đủ mười đức hiệu. Sau khi đức Như lai ấy nhập niết bàn, giáo pháp nguyên chất hết rồi, trong giáo pháp tương tự có một quốc vương tên Thiên tự tại quang, luôn luôn áp dụng chánh pháp mà hóa cải quốc dân, tựa như cha mẹ đối với con cái. Trong vương quốc có một trưởng giả tên Trì thủy, hiểu rành y học, thông suốt tám thuật. Ai bịnh khổ, tứ đại bất ổn, ông cứu chữa được cả.

(10)Thiện nữ, Trì thủy trưởng giả có người con trai duy nhất, tên là Lưu thủy. Người đẹp, nghiêm chỉnh, ai cũng thích nhìn. Bẩm tính thông minh, quán triệt mọi luận thuyết và kyՠthuật. Bấy giờ trong vương quốc nhiều người bị bịnh truyền nhiễm, khổ sở đến nỗi không thích sống nữa. Thiện nữ, trưởng giả tử Lưu thủy thấy vậy thì sinh đại bi tâm, nghĩ như vầy. Bao nhiêu là người bịnh khổ! Cha ta rành y học, khéo tám thuật, chữa được mọi bịnh do tứ đại hoặc thêm hoặc bớt. Nhưng cha ta già yếu rồi. Đi đâu cũng phải đỡ, làm sao đến được những nơi làng xóm thành thị mà chữa bịnh. Thế thì bao người bịnh nặng mà không ai cứu chữa. Vậy ta hãy đến chỗ cha ta, vị đại lương y, hỏi bí quyết chữa bịnh. Biết được bí quyết ấy, ta sẽ đi đến thành thị làng xóm mà cứu chữa cho người, làm cho họ an lạc. Trưởng giả tử nghĩ rồi tức tốc đến chỗ cha, lạy ngang chân ông, chắp tay cung kính, đứng qua một bên, dùng lời chỉnh cú mà thỉnh cầu.

(11)(1) Xin cha thương tưởng con.  
Con muốn cứu mọi người.  
Nay con hỏi y thuật,  
mong cha nói cho con.  
(2) Tại sao thân suy hỏng,  
tứ đại có thêm bớt?  
Và ở vào lúc nào  
thì bịnh tật sinh ra?  
(3) Ăn uống như thế nào  
để hưởng được yên vui?  
Làm sao trong cơ thể  
nhiệt lực không suy tổn?  
(4) Bịnh con người có bốn,  
có bịnh phong, nhiệt, đàm,  
lại có bịnh hỗn hợp,  
làm sao trị liệu được?  
(5) Lúc nào nổi bịnh phong?  
lúc nào phát bịnh nhiệt?  
lúc nào động bịnh đàm?  
lúc nào bịnh hỗn hợp?  
Trì thủy trưởng gia nghe con hỏi rồi, cũng nói lại bằng chỉnh cú.

 

(12)(6) Y theo phép chữa bịnh  
của tiên nhân đời xưa,  
cha tuần tự nói cho,  
khéo nghe để cứu người.  
(7) Ba tháng là mùa xuân,  
ba tháng là mùa hè,  
ba tháng là mùa thu,  
ba tháng là mùa đông.  
(8) Ấy là theo một năm  
ba tháng một mà nói.  
Hai tháng một một tiết  
một năm thành sáu tiết:  
(9) giêng hai là tiết hoa,  
ba tư là tiết nóng,  
năm sáu là tiết mưa,  
bảy tám là tiết thu,  
(10) chín mười là tiết lạnh  
một chạp là tiết tuyết.  
Phải phân biệt như vậy,  
cho thuốc đừng sai chậy  
(11) Tùy theo mùa tiết ấy  
mà điều hòa ăn uống,  
vào bụng tiêu hóa được,  
mọi bịnh mới không sinh.  
(12) Khí hậu nếu thay đổi  
thì tứ đại biến động,  
bấy giờ mà không thuốc  
thì tất sinh bịnh khổ.  
(13) Thầy thuốc biết bốn mùa,  
lại biết về sáu tiết,  
biết bảy phần cơ thể  
thì cho thuốc không sai.  
(14) Bảy phần là vị (97) , máu,  
thịt, mỡ, xương, tủy, não.  
Biết bịnh nhập bảy phần  
lại biết chữa được không.  
(15) Bịnh thì có bốn loại:  
các loại phong, nhiệt, đàm,  
và loại bịnh hỗn hợp,  
nên biết lúc chúng phát:  
(16) mùa xuân phát bịnh đàm  
mùa hè phát bịnh phong,  
mùa thu phát bịnh nhiệt,  
mùa đông biểnh hỗn hợp.  
(17) Xuân ăn chất nóng cay,  
hè béo nóng mặn dấm,  
thu ăn lạnh ngọt béo,  
đông ăn chát béo ngọt.  
(18) Trong bốn mùa như vậy,  
dùng thuốc và ăn uống  
theo như mùi vị ấy,  
bịnh không lý do sinh.  
(19) Sau ăn bịnh do đàm,  
ăn tiêu bịnh do nhiệt,  
sau tiêu bịnh do phong,  
cứ thế nhận thức bịnh.  
(20) Nhận thức gốc bịnh rồi,  
tùy bịnh mà cho thuốc.  
Nếu bịnh trạng khác đi,  
cũng chữa cái gốc trước.  
(21) Phong thì dùng dầu, kem,  
nhiệt thì lợi đại tiểu,  
đàm thì hóa, thông, thổ,  
hỗn hợp thì cả ba.  
(22) Phong nhiệt đàm cùng có,  
thế gọi là hỗn hợp.  
Tuy biết lúc bịnh phát,  
cũng phải xét gốc bịnh.  
(23) Xét biết như vậy rồi,  
tùy lúc mà cho thuốc.  
Ăn, uống, thuốc, không sai,  
mới gọi thầy thuốc giỏi.  
(24) Lại nữa biết tám thuật  
bao quát mọi cách chữa.  
Nếu hiểu rõ tám thuật  
hãy chữa bịnh cho người.  
(25) Tám thuật là châm chích,  
giải phẫu, chữa thân bịnh,  
chữa tâm bịnh, trúng độc,  
khoa nhi với khoa lão,  
sau hết là dưỡng sinh,  
[đó, tám thuật chữa bịnh].  
(26) Trước xem xét hình sắc,  
nói năng và tánh tình,  
sau hỏi đến chiêm bao,  
thì biết phong nhiệt đàm.  
(27) Khô ốm đầu ít tóc,  
tâm tính không ổn định,  
nói nhiều mộng bay đi,  
đó là thuộc loại phong.  
(28) Tuổi trẻ mọc tóc trắng,  
nhiều mồ hôi, hay giận,  
thông minh, mộng thấy lửa,  
đó là thuộc loại nhiệt.  
(29) Tâm ổn, thân ngay thẳng,  
nghĩ ky
լ đầu nhờn, cáu,  
mộng thấy nước, vật trắng,  
đó là thuộc loại đàm.  
(30) Hỗn hợp thì có chung,  
chung hai hay chung ba,  
và hễ loại nào nhiều  
là tính bịnh hỗn hợp.  
(31) Biết gốc, đặc tính bịnh,  
chuẩn bịnh mà cho thuốc.  
Nhưng thấy không tướng chết  
mới rõ bịnh cứu được.  
(32) Giác quan thì thác loạn,  
khinh khi thầy thuốc giỏi,  
thấy bạn thân cũng giận,  
đó là hiện tượng chết.  
(33) Mắt trái biến màu trắng  
lưỡi đen, sống mũi lệch,  
vành tai không như cũ,  
môi dưới thì xệ xuống (98)  
(34) Ha lê lặc một thứ  
có đủ cả sáu vị,  
trừ được tất cả bịnh,  
là thuốc vua, không kị.  
(35) Lại ba trái ba cay (99)  
là thuốc dễ có được,  
đường cát, mật ong, sữa,  
cũng chữa được nhiều bịnh.  
(36) Ngoài ra, dược liệu khác,  
tùy bịnh mà thêm vào.  
Nhưng trước phải từ tâm,  
đừng mưu tính tài lợi.  
(37) Cha đã nói những việc  
cần cho sự chữa bịnh.  
Con đem ra cứu người  
thì phước sẽ vô biên.  
Thiện nữ, bấy giờ trưởng giả tử Lưu thủy đích thân hỏi và nghe cha nói về tám thuật, về tứ đại thêm bớt, về thời tiết bất đồng, về cách cho thuốc. Hiểu biết rành rẽ rồi, trưởng giả tử tự xét kyՠmình đủ sức cứu chữa mọi bịnh. Bèn đi đến thành thị thôn xóm, chỗ nào có bịnh nhân cũng đến, dịu ngọt an ủi, và rằng tôi là thầy thuốc, tôi là thầy thuốc, tôi rành thuốc chữa bịnh. Tôi sẽ chữa cho các người lành mạnh. Thiện nữ, bấy giờ người ta nghe trưởng giả tử an ủi, hứa chữa bịnh cho, thì bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng nghe lời ấy cũng phấn chấn thân tâm, vui mừng hiếm có. Do vậy mà bịnh khổ tiêu tan, khí lực sung mãn, bình phục như cũ. Thiện nữ, bấy giờ lại có bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng mà khó cứu chữa, tức thì đến chỗ trưởng giả tử xin chữa thêm. Trưởng giả tử tức thì cho thuốc, bảo dùng, và ai cũng lành cả. Thiện nữ, cứ như thế, trưởng giả tử Lưu thủy chữa lành cho bao nhiêu bịnh nhân ở trong vương quốc.

 

Phẩm 25: Truyện Của Lưu Thủy 

Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ thần, thiện nữ, xưa kia, trưởng giả tử Lưu thủy chữa cho bao nhiêu bịnh nhân trong vương quốc của quốc vương Thiên tự tại quang, làm cho ai cũng bình phục, yên vui. Bấy giờ vì hết bịnh nên con người làm nhiều phước nghiệp, làm rộng huệ thí, và tự lấy thế làm vui. Họ cùng đến chỗ trưởng giả tử. Ai cũng tôn kính mà thưa, lành thay đại trưởng giả tử! Ngài khéo làm tươi tốt và lớn lên những sự phước đức. Ngài đem thêm sự yên ổn và sống lâu cho chúng tôi. Ngài thật là thầy thuốc vĩ đại, là bồ tát từ bi, giỏi y học và chữa bịnh. Khen như vậy khắp cả thành thị thôn xóm.

Thiện nữ, trưởng giả tử có vợ tên Thủy kiên tạng, có hai người con, một tên Thủy mãn, một tên Thủy tạng. Trưởng giả tử đem hai con du hành, qua khu chằm trống, chỗ sâu hiểm, thấy những cầm thú ăn thịt đều bay và chạy theo một hướng. Ông nghĩ tại sao những cầm thú này bay chạy về một phía? Ta nên đi theo coi. Ông tức khắc đi theo, thấy nơi hồ lớn, hồ Dã sinh, nước sắp cạn hết. Trong hồ có nhiều cá. Thấy vậy nên ông sinh tâm đại bi. Bấy giờ có một thọ thần hiện ra nửa mình, nói lành thay thiện nam tử. Ông có phải là người thật tên Lưu thủy thì hãy thương hồ cá này mà cho chúng nước. Lưu thủy là cái tên có hai lý do, một là làm nước chảy, hai là đem cho nước. Ông nên làm theo tên mình. Trưởng giả tử Lưu thủy hỏi thọ thần, hồ cá này có mấy con? Thọ thần nói, đúng mười ngàn. Thiện nữ, Ông nghe con số ấy thì càng thương. Hồ lại bị phơi nắng, nước còn không bao nhiêu. Mười ngàn cá sắp chết, xoay trở lội chậm, thấy trưởng giả tử thì như có hy vọng, nhìn theo không rời. Ông thấy vậy, chạy khắp bốn phía kiếm nước mà không có. Trông qua một bên thấy có đại thọ, tức thì trèo lên bẻ nhánh lá mà làm bóng mát. Rồi đi tìm xuất xứ của nước hồ này. Thì thấy đó là con sông lớn tên Thủy sinh. Bấy giờ bờ sông có những ngư dân, vì bắt cá nên tìm chỗ hiểm của thượng lưu sông ấy, xoi nước [cho chảy qua chỗ khác] mà không cho chảy xuống. Chỗ họ xoi thật khó đắp lại cho chóng. Ông nghĩ, chỗ này sâu hiểm, cả trăm cả ngàn người, mất vài ba tháng, cũng chưa lấp được, huống chi mình ta. Trưởng giả tử tức tốc trở về hoàng thành mình ở, đến chỗ quốc vương, đem cả đầu mặt lạy ngang chân, rồi đứng qua một bên, chắp tay cung kính mà tâu, hạ dân đã chữa bịnh cho cả quốc dân, làm cho ai cũng lành mạnh. Vừa rồi hạ dân du hành đến khu chằm trống, thấy hồ Dã sinh sắp khô nước. Mười ngàn cá trong đó bị phơi nắng, sắp chết. Kính xin đại vương thương mà cho hai mươi con voi lớn, tạm chở nước tới cứu mạng chúng -- như hạ dân đã đem sự sống lại cho bao bịnh nhân. Quốc vương nghe vậy, tức tốc hạ lịnh cho đại thần, rằng đem ngay voi lớn cấp cho ông vua thầy thuốc này. Đại thần tuân lịnh, thưa trưởng giả tử, lành thay đại sĩ, ngài nên tự theo đến chuồng voi mà tùy ý chọn lấy hai mươi con lớn để lợi ích chúng sinh. Trưởng giả tử, với hai người con, dẫn hai mươi con voi lớn, với bao da đã mượn, đến ngay chỗ nước bị xoi, đem bao da chứa nước cho voi mang về hồ Dã sinh mà đổ. Và nước lại đầy như cũ.

Thiện nữ, trưởng giả tử lúc ấy đi ven theo bốn phía bờ hồ mà nhìn, thấy đám cá cũng theo bờ hồ mà lội. Ông nghĩ, đám cá tại sao cứ lội theo ta? Tất chúng đói nên theo ta kiếm ăn đây. Ta nên cho chúng. Ông bảo hai con, hãy đem con voi mạnh nhất, chạy mau về nhà, thưa với ông nội, trong nhà có gì ăn được, kể cả phần ăn của ông bà, của mẹ con các con, của tôi tớ, đều gom lại chở đến đây. Theo lời cha bảo, hai người con cỡi voi mạnh nhất, chạy về thưa chuyện với ông nội, thu gom những gì ăn được đặt trên lưng voi, đi mau trở lại chỗ cha đang chờ bên hồ. Ông thấy con trở lại thì cả thân ông và tâm ông đều mừng rỡ, đem đồ ăn vãi khắp trong hồ.

Thiện nữ, đám cá ăn no rồi, ông lại nghĩ, ngày nay ta cho đám cá này thực phẩm, nguyện đời sau ta cho đám cá này pháp thực. Lại nghĩ, ngày trước, nơi khu rừng trống vắng, ta đã thấy một vị Bí sô đọc tụng kinh đại thừa, nói về cái pháp sâu xa là mười hai duyên khởi. Kinh ấy lại nói, chúng sinh sắp chết mà nghe danh hiêểu đức Bảo kế như lai thì được sinh chư thiên. Ta nay nên vì mười ngàn cá này mà nói mười hai duyên khởi sâu xa, lại niệm cho chúng hồng danh đức Bảo kế như lai. Nhưng người đại lục Thiệm bộ có hai loại, có loại thâm tín đại thừa, có loại phỉ báng không tin. Ta cũng nên phát sinh và tăng trưởng tín tâm cho loại này. Ông nghĩ ta nên vào trong hồ nói diệu pháp cho đám cá. Nghĩ rồi, ông bước xuống nước, xướng lớn: Kính lạy đức Bảo kế như lai đã nhập niết bàn, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Đức Bảo kế như lai, xưa kia, khi làm việc làm bồ tát, có lời nguyện như vầy: mười phương quốc độ, bao nhiêu chúng sinh có ai sắp chết mà nghe được danh hiệu của Như lai, thì chết rồi được sinh Đao lợi. Trưởng giả tử lại nói diệu pháp cho đám cá. Diệu pháp ấy là sự thể này có thì có sự thể kia, sự thể này sinh thì sinh sự thể kia, đó là vô minh sinh nên sinh hành, cho đến sinh sinh nên sinh già bịnh chết; sự thể này không thì không sự thể kia, sự thể này diệt thì diệt sự thể kia, đó là vô minh diệt nên diệt hành, cho đến sinh diệt nên diệt già bịnh chết. Và thế là cái khối đau khổ thuần túy và cùng cực hủy diệt tất cả. Trưởng giả tử nói diệu pháp này rồi, lại nói minh chú thích ứng với mười hai duyên khởi: Tát da tha, vi cha ni, vi cha ni, vi cha ni, săm sơ cha ni, săm sơ cha ni, săm sơ cha ni, bi si ni, bi si ni, bi si ni, soa ha; tát da tha, na mi ni, na mi ni, na mi ni, soa ha; sa ti ni, sa ti ni, sa ti ni, soa ha; si pri sa ni, si pri sa ni, si pri sa ni, soa ha; tát da tha, vê đa ni, vê đa ni, vê đa ni, soa ha; tri si ni, tri si ni, tri si ni, u pa đi ni, u pa đi ni, u pa đi ni, soa ha; tát da tha, ba vi ni, ba vi ni, ba vi ni, soa ha; tát da tha, ja ti ni, ja ti ni, ja ti ni, soa ha; jăm ma ni ni, jăm ma ni ni, jăm ma ni ni, soa ha. (Tadyatha vicani vicani vicani samscani samscani samscani bhisini bhisini bhisini svaha, tadyatha namini namini namini svaha, satini satini satini svaha, sprsani sprsani sprsani svaha, tadyatha vedani vedani vedani svaha, trsni trsni trsni upadhini upadhini upadhini svaha, tadyatha bhavini bhavini bhavini svaha, tadyatha jatini jatini jatini svaha, jammanini jammanini jammanini svaha).

Bấy giờ, khi đức Thế tôn nói cho đại hội truyện xưa của trưởng giả tử Lưu thủy, thì bộ chúng nhân loại và bộ chúng chư thiên đều than là sự chưa từng có. Bốn vị Thiên vương cùng ở nơi chỗ họ ngồi, khác miệng cùng tiếng mà nói như vầy:

(1) Lành thay đức Thích tôn!  
nói minh chú diệu pháp,  
sinh phước và diệt tội,  
thích ứng mười hai chi.  
(2) Chúng con cũng nói chú  
hộ trì diệu pháp ấy.  
Ai chống đối trái nghịch  
không khéo tùy thuận theo,  
(3) thì đầu vỡ làm bảy  
tựa như ngọn lan hương.  
Đối trước đức Thế tôn  
chúng con nói minh chú:  
Tát da tha, hi ri ni, ga tê, găn đa ri, chăn đa ni, đi ri, jăm va rê, si hi ba rê, pu rê, pu rê, gu gu ma ti, khi ra ma ti, đa đim mu khi, lau ru ba, mu ru ba, ku cha mu ru kăn tê, đu ru, đu ru, đu ru, vi ri da, ai đi si, đa đê vê, đa đa vê, út tri, út tra va ti, ăn sa pra ha ti, pát ma va ti, ku su ma va tê, soa ha. (Tadyatha hirini gate gandhari candari dhiri jamvare sihibhare pure pure gugumati khiramati dadhimukhi laurubha murubha kucamurukante duru duru duru virya aidhisi dadheve dadhave ustri ustravati ansaprahati padmavati kusumavate svaha).

Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ thần, thiện nữ, bấy giờ trưởng giả tử Lưu thủy với hai con cho nước cho ăn bầy cá trong hồ, lại thuyết Pháp niệm Phật cho chúng rồi, cùng nhau về nhà. Sau đó, nhân có cuộc hội họp, ông nghe nhạc, say rượu mà nằm. Còn mười ngàn cá thì cùng lúc chết với nhau, sinh Đao lợi thiên, nghĩ rằng chúng ta vì thiện nghiệp nào mà sinh lên cõi trời này? Họ nói với nhau, trước đây chúng ta đọa vào loài bàng sinh ở đại lục Thiệm bộ, làm thân cá tất cả. Nhờ trưởng giả tử Lưu thủy cho chúng ta nước và cho chúng ta ăn, lại thuyết cho chúng ta diệu pháp mười hai duyên khởi và minh chú tương ứng, niệm cho chúng ta hồng danh của đức Bảo kế như lai. Vì yếu tố này mà chúng ta được sinh lên đây. Bây giờ chúng ta phải đến chỗ trưởng giả tử Lưu thủy mà hiến cúng trả ơn. Mười ngàn thiên tử tức thì ẩn mất khỏi Đao lợi thiên, hiện đến chỗ đại y vương. Bấy giờ ông đang ngủ yên trên lầu cao. Mười ngàn thiên tử cùng nhau đem một xâu chuỗi mười ngàn hạt ngọc chân châu để bên khuôn mặt của ông, đem một xâu nữa đặt chỗ chân ông, đem một xâu nữa đặt bên hông phải, đem một xâu nữa đặt bên hông trái, rồi rải hoa mạn đà la và đại mạn đà la cao đến đầu gối, chiếu ánh sáng khắp cả, tấu thiên nhạc nhiệm mầu, làm cho đại lục Thiệm bộ ai đang ngủ cũng thức. Trưởng giả tử cũng thức. Mười ngàn thiên tử hiến cúng rồi lướt không gian mà bay, khắp cả quốc gia của quốc vương Thiên tự tại quang, chỗ nào họ cũng rải xuống hoa sen đẹp của chư thiên. Họ bay đến chỗ cũ, nơi hồ trong chằm trống, rải xuống các thứ thiên hoa. Rồi ẩn mất, trở về thiên cung, hưởng hạnh phúc tùy thích. Quốc vương Thiên tự tại quang sáng ngày hỏi đại thần, đêm qua vì gì mà bỗng nhiên có hiện tượng lành là ánh sáng phóng lớn? Đại thần tâu, xin đại vương biết cho, đó là có một chúng chư thiên đến nhà trưởng giả tử Lưu thủy, hiến bốn xâu chuỗi mỗi xâu có mười ngàn hạt ngọc chân châu, lại rải thiên hoa mạn đà la dày đến đầu gối. Quốc vương bảo đại thần, hãy đến nhà trưởng giả Trì thủy triệu trưởng giả tử Lưu thủy đến đây. Đại thần tuân lịnh, đến tuyên vương mạng mà mời ông. Ông đến chỗ quốc vương tức thì. Quốc vương hỏi, vì gì mà đêm qua hiện ra hiện tượng hiếm có? Ông tâu, theo hạ dân nghĩ, thì chắc chắn bầy cá trong hồ, như trong kinh dạy, đã chết và sinh lên Đao lợi, họ đến trả ơn nên có những hiện tượng hiếm có và kỳ lạ như vậy. Quốc vương nói làm sao biết được? Ông tâu, xin đại vương phái sứ giả đi với hai con hạ dân, đến ngay hồ ấy mà xét nghiệm coi ra sao? Mười ngàn cá chết hay sống? Quốc vương nghe vậy, tức thì phái sứ giả và hai con của ông đến ngay bên hồ. Thì thấy trong hồ có nhiều hoa mạn đà la, dồn thành đống lớn. Bầy cá đã chết cả. Thấy rồi chạy về tâu rõ với quốc vương. Quốc vương nghe thế, hoan hỷ hết sức, than là sự thể chưa bao giờ đã có.

Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ thần, thiện nữ nên biết, trưởng giả tử Lưu thủy xưa kia chính là bản thân Như lai. Trưởng giả Trì thủy nay là bồ tát Diệu tràng. Hai người con của trưởng giả tử thì con trưởng Thủy mãn nay là Ngân tràng, con thứ Thủy tạng nay là Ngân quang. Quốc vương Thiên tự tại quang thì chính là thiện nữ, Bồ đề thọ thần. Còn bầy cá mười ngàn chính là mười ngàn thiên tử đây. Vì xưa kia Như lai cho họ nước để họ sống, cho họ ăn để họ no, lại thuyết cho họ diệu pháp mười hai duyên khởi và minh chú thích ứng diệu pháp ấy, niệm cho họ hồng danh của đức Bảo kế như lai, do thiện căn như vậy mà họ sinh chư thiên, [và liên tiếp sinh chư thiên mãi]. Nay đến chỗ Như lai, hoan hỷ nghe pháp, và Như lai thọ ký cho họ thành tựu vô thượng bồ đề, nói cho họ biết danh hiệu của họ. Thiện nữ, xưa kia, trong sinh tử luân hồi mà Như lai vẫn làm lợi ích cho chúng sinh một cách rộng rãi. Đối với vô lượng chúng sinh, Như lai làm cho họ tuần tự thành thục vô thượng bồ đề và thọ ký cho họ. Các người hãy làm như Như lai, cần cầu giải thoát, đừng có phóng dật.

Đại hội lúc ấy nghe đức Thế tôn nói như vậy thì ai cũng hiểu rằng, phải do đại bi cứu giúp tất cả, siêng làm khổ hạnh, mới chứng được vô thượng giác. Ai cũng phát ra tâm nguyện sâu xa, tín thọ một cách hoan hỷ.

 

 

Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng

Nói cho đại hội về chuyện xưa của mười ngàn thiên tử rồi, đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần và đại hội, rằng trong quá khứ, Như lai đi theo đường đi bồ tát, chẳng những cho nước cho ăn để cứu mạng bầy cá, mà đến nỗi cái thân tiếc nuối cũng xả bỏ. Sự thể như vậy đáng cùng nhau quan sát.

Bấy giờ đức Thế tôn -- bậc như lai ứng cúng chánh đẳng giác, bậc cao nhất tôn nhất trên trời dưới trời, bậc hàng trăm hàng ngàn ánh sáng chiếu khắp thế giới mười phương, bậc hoàn hảo nhất thế trí và viên mãn đại công đức -- đem các vị Bí sô và cả đại hội đến khu dân cư Bát giá ra, đi vào một cánh rừng. Ở đây đất bằng phẳng, không có gai góc, hoa danh tiếng, cỏ mềm mại, bủa khắp mặt đất. Đức Thế tôn bảo trưởng lão A nan đà hãy trải tọa cụ cho Như lai dưới gốc cây kia. Trưởng lão vâng lời, trải tọa cụ rồi, thưa, bạch đức Thế tôn, con đã trải tọa cụ sắp chỗ ngồi rồi, xin đức Thế tôn biết cho đã đến lúc thích hợp. Đức Thế tôn đến ngồi xếp bằng trên chỗ ấy, thẳng mình, chính niệm, bảo các vị Bí sô, các vị muốn thấy xá lợi của Bồ tát khổ hạnh thời xưa không? Các vị Bí sô thưa, chúng con muốn thấy. Đức Thế tôn liền dùng cái tay trăm phước trang nghiêm mà ấn xuống đất. Tức thì đại địa chấn động với sáu hình thức, và nứt ra, một ngôi tháp thất bảo bỗng nhiên xuất hiện, phủ lên trên là mạng lưới kết ngọc. Đại hội thấy vậy lấy làm hiếm có. Đức Thế tôn tức thì đứng dậy khỏi chỗ Ngài ngồi, làm lễ bảo pháp, nhiễu quanh theo chiều bên phải, rồi trở lại chỗ ngồi, bảo trưởng lão A nan đà hãy mở cửa tháp. Trưởng lão mở ra, thấy có cái hộp thất bảo, được trang sức bằng những trân bảo kỳ lạ. Trưởng lão bạch đức Thế tôn, có cái hộp thất bảo, trang sức bằng các loại ngọc. Đức Thế tôn bảo hãy mở ra. Trưởng lão tuân mệnh, mở ra, thì thấy có xá lợi trắng như bạch mã não, như tuyết, như sen trắng (100) . Trưởng lão bạch đức Thế tôn, trong hộp có xá lợi, màu đẹp khác thường. Đức Thế tôn bảo hãy đem xá lợi của đại sĩ lại đây. Trưởng lão A nan đà liền lấy xá lợi ấy kính trao cho đức Thế tôn. Ngài cầm lấy mà bảo các vị Bí sô, các vị hãy nhìn xá lợi của Bồ tát khổ hạnh. Ngài lại nói chỉnh cú:

(1) Đức cao của Bồ tát  
tương ứng có tuệ giác,  
dũng mãnh mà tinh tiến  
viên mãn cả sáu độ.  
Thường xuyên tu không ngừng  
và chỉ vì bồ đề,  
không rời sự kiên cố  
tâm không có mệt mỏi.  
Các vị Bí sô, hãy cùng nhau kính lạy xá lợi của Bồ tát. Xá lợi này được xông bởi vô lượng hương liệu giới định tuệ, là ruộng phước tối thượng, cực kỳ khó gặp. Các vị Bí sô, và cả đại hội, đều nhất tâm, chắp tay, cung kính mà đảnh lễ xá lợi ấy, tán dương hiếm có. Bấy giờ trưởng lão A nan đà bước tới, lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, Ngài là vị thầy cao cả, vượt trên hết thảy, được hết thảy chúng sinh tôn kính, tại sao lại lạy linh cốt xá lợi này? Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A nan đà, Như lai nhờ xá lợi này mà tốc chứng vô thượng bồ đề. Để báo ơn xưa nên Như lai kính lạy. Ngài lại bảo, An nan đà, Như lai sẽ giải trừ hoài nghi cho trưởng lão, và cả đại hội, mà nói chuyện cũ của xá lợi này. Các người hãy khéo nghĩ, hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Trưởng lão A nan đà thưa, chúng con ước muốn được nghe. Xin đức Thế tôn khai thị cho chúng con.

Đức Thế tôn dạy, trưởng lão A nan đà, quá khứ có một quốc vương tên Đại xa, giàu lớn, lắm của, kho lẫm đầy ắp, quân binh vũ dũng, ai cũng khâm phục. Quốc vương lại thường xuyên đem chánh pháp mà khai hóa đến cả những người đen đủi. Quốc dân đông đảo, không có giặc thù. Hoàng hậu sinh được ba con trai, đẹp, nghiêm, ai cũng thích nhìn. Thái tử tên Ma ha ba la, thứ tử tên Ma ha đề bà, ấu tử tên Ma ha tát đỏa. Bấy giờ quốc vương xuất du núi rừng. Ba vương tử cũng tùy tùng. Ham tìm hoa trái nên ba anh em tách ra, đi quanh quẩn đến nhằm khu rừng tre lớn, nghỉ ngơi ở đây. Vương tử thứ nhất nói, anh cảm thấy sợ hãi, chỗ này có mãnh thú hại chúng ta chăng? Vương tử thứ hai nói, chưa bao giờ em tiếc thân mình, chỉ sợ người thân có cái khổ biệt ly. Vương tử thứ ba thưa hai anh.

(2) Đây là nơi chốn  
thần tiên cư trú.  
Em không sợ hãi,  
không khổ biệt ly.  
Thân và tâm em  
tràn ngập hoan hỷ,  
cái điềm sẽ được  
công đức đặc thù !  
Ba vương tử nói linh tính mình rồi đi tới, thấy con cọp sinh bảy con. Sinh mới mấy ngày mà cọp mẹ bị bầy con quấn quýt nên đói khát, thân hình gầy ốm, có vẻ sắp chết. Vương tử thứ nhất nói cọp này thật đáng thương, bị con quấn quýt, không đi kiếm ăn được, đói quá chắc phải ăn đến con. Vương tử Tát đỏa hỏi anh, cọp mẹ này thường ăn thứ gì? Vương tử thứ nhất nói với em

(3) Cọp báo sói sư tử  
chỉ ăn thịt máu nóng  
chứ không ăn gì khác  
mà qua cơn đói này.  
Vương tử thứ hai nghe thế, nói con cọp này đói sắp chết, nhưng chúng ta làm sao kiếm được thực phẩm như anh nói? Ai chịu bỏ thân mạng mà cứu cơn đói của nó? Vương tử thứ nhất nói, không có gì khó bỏ cho bằng thân mình. Vương tử Tát đỏa nói, chúng ta tiếc nuối thân mạng, lại không trí tuệ, không làm được gì lợi cho kẻ khác. Nhưng bậc đại sĩ thì có đại bi tâm, thường vì lợi người mà bỏ mình. Vương tử Tát đỏa nghĩ riêng, thân ta đây hàng trăm hàng ngàn đời vất bỏ thối rã mà chẳng được ích gì, tại sao ngày nay ta không bỏ để cứu cái khổ cơn đói. Cả ba vương tử nói với nhau như trên kia, ai cũng thương xót, ái ngại nhìn cọp đói, bồi hồi bỏ đi. Nhưng vương tử Tát đỏa lại liên tiếp nghĩ riêng, nay chính là lúc thích đáng cho ta bỏ thân này. Tại sao?

(4) Vì xưa đến nay  
ta giữ thân này,  
cái thân xú uế  
không thể thích được.  
Ta cấp đồ nằm  
cùng với đồ mặc,  
cung đốn xe ngựa  
và bao của quí.  
(5) Nhưng thân hư rã  
vì vốn vô thường,  
cầu hoài không thỏa  
giữ mãi vẫn chết.  
Ta cung dưỡng nó  
nó lại hại ta,  
cuối cùng bỏ ta  
chẳng biết ơn nghĩa!  
Thêm nữa, thân này không bền, vô ích cho ta. Thân này đáng sợ như giặc, dơ bẩn như phân. Ngày nay ta sai cái thân này làm cái việc cao cả. Trong biển sinh tử, nó phải là thuyền tàu to lớn. Nó phải bỏ luân hồi, đạt đến giải thoát. Vương tử lại nghĩ, bỏ thân này là bỏ không ít ác bịnh và bao nhiêu kinh hãi. Thân này chỉ có phân giải. Nó mong manh như bóng nước. Nó, nơi sâu giòi tập hợp, sống chỉ vì gân cốt huyết mạch dính líu với nhau. Vậy ta nên bỏ, để cầu Niết bàn tối thượng và cứu cánh. Ở đó vĩnh biệt vô thường, vĩnh ly sinh tử, vĩnh đoạn trần lụy. Ở đó huân tu bằng định lực và tuệ lực, trang nghiêm với cả trăm phước đức. Ở đó hoàn thành nhất thế trí, chứng đắc diệu pháp thân. Hoàn thành và chứng đắc như vậy rồi đem cho chúng sinh vô biên pháp lạc. Vương tử Tát đỏa bấy giờ nổi dậy sự đại dũng mãnh, phát ra sự đại thệ nguyện, và tăng cường tâm mình bằng sự đại từ bi. Nhưng vương tử sợ hai anh lưu luyến sợ hãi mà cản trở, nên nói, hai anh đi trước, em đi sau một chút. Vương tử Ma ha tát đỏa liền trở lại khu rừng, đến chỗ cọp đói, thoát hết y phục mắc trên cây tre, phát nguyện như vầy.

(6) Ta vì chúng sinh  
khắp cả pháp giới,  
chí cầu Bồ đề  
tuệ giác tối thượng.  
Khởi tâm đại bi  
không thể dao động,  
mà bỏ cái thân  
phàm phu luyến tiếc.  
(7) Trạng huống Bồ đề  
không có nóng bức,  
ai người có trí  
đều rất ưa thích.  
Bao nhiêu chúng sinh  
trong biển khổ lớn,  
ta nguyện cứu vớt  
đưa lên Bồ đề.  
Vương tử phát nguyện như vậy rồi đến nằm buông mình trước cọp đói. Nhưng do uy thế từ bi của Bồ tát, cọp không làm gì được. Thấy vậy, Bồ tát chạy lên núi cao mà gieo mình xuống, thì thần tiên tiếp đỡ nên không thương tổn gì. Vương tử nghĩ, cọp đói lả, không ăn ta nổi. Liền đứng dậy tìm dao, dao không có. Nên vương tử lấy tre khô thích cổ chảy huyết, đi lại bên cọp. Bấy giờ đại địa chấn động với sáu hình thức, như gió khích nước, vọt lên dội xuống không yên. Mặt trời không sáng, như bị la hầu che. Khắp nơi mờ tối, không còn ánh sáng. Chư 
thiên rải xuống danh hoa và diệu hương khắp cả khu rừng. Trong không gian, chư thiên nhìn cảnh tượng như vậy thì tâm tùy hỷ, than hiếm có, cùng khen lành thay bậc đại sĩ! Họ ca tụng

(8) Đại sĩ vận dụng  
đại bi cứu vật,  
nhìn toàn chúng sinh  
coi như con một;  
mạnh mẽ hoan hỷ,  
lòng không tiếc nuối,  
xả thân cứu khổ,  
việc thật khó lường!  
(9) Quyết định đạt đến  
chân thường siêu việt,  
thoát bỏ sinh tử  
mọi thứ buộc ràng;  
mau chóng chứng được  
tuệ giác Bồ đề,  
vắng lặng yên vui  
thể hiện Vô sinh.  
Bấy giờ cọp đói ngửi thấy huyết từ cổ Bồ tát chảy ra thì liếm lấy, và ăn hết thịt Bồ tát, còn lại chỉ có xương.

Vương tử thứ nhất thấy đất động thì nói với em hai

(10) Đại địa núi sông  
chấn động tất cả,  
bốn phía mờ tối  
không ánh mặt trời,  
thiên hoa rơi xuống  
khắp cả không gian,  
chắc chắn là điềm  
em ba bỏ mình.  
Vương tử thứ hai nghe anh nói rồi, tự nói chỉnh cú

(11) Em nghe Tát đỏa  
nói lời từ bi,  
khi thấy cọp đói  
thân thể ốm xọp,  
đói hành nó quá  
chắc ăn cả con.  
Em nghi em ba  
xả thân mất rồi.  
Vương tử thứ hai rất buồn rầu đau khổ, khóc lóc than thở. Tức khắc cùng anh trở lại chỗ cọp. Thì thấy y phục của em treo để trên tre, còn xương với tóc thì vung vãi ra. Máu thấm đỏ cả đất. Thấy thế ngất đi, không tự chủ được. Rơi mình trên xương em, hồi lâu mới tỉnh, dơ tay, kêu gào, khóc lớn, than thở:

(12) Em ta dung mạo đẹp,  
cha mẹ thương hơn hết,  
tại sao cùng ra đi  
giờ bỏ mình, không về!  
(13) Nếu cha mẹ ta hỏi,  
ta phải nói thế nào?  
Thà ta cùng bỏ mình,  
chứ sống để làm gì?  
Hai anh em vương tử khóc lóc áo não, tạm rời mà về. Trong khi những kẻ tháp tùng của vương tử út thì bảo nhau, vương tử đi đâu, chúng ta phải tìm.

Còn hoàng hậu thì ngủ trên lầu cao. Trong mộng thấy hiện tượng bất tường. Nhũ bộ bị cắt cả đôi. Răng rụng hết. Được ba con bồ câu non, một con bị cắt bắt, hai con kinh hoàng. Khi động đất, hoàng hậu thức, thì trong lòng sầu não:

(14) Tại sao hôm nay  
đại địa chấn động,  
sông ngòi rừng rú  
đều rung lắc cả,  
mặt trời mờ tối  
như bị che khuất,  
mắt máy vú động  
khác hơn ngày thường?  
(15) Tim như trúng tên  
lo sợ bức xúc,  
cả người run rẩy  
không kềm chế được.  
Hiện tượng bất tường  
mà ta mộng thấy,  
tất có tai biến  
phi thường nào đây!  
Nhũ bộ của hoàng hậu bỗng nhiên chảy sữa. Bà nghĩ tất có biến quái. Bấy giờ thị nữ nghe người ngoài nói tìm vương tử chưa được thì sợ quá, tức tốc vào tâu với hoàng hậu, rằng xin hoàng hậu biết cho, ở ngoài người ta bổ ra đi tìm vương tử khắp cả mà chưa thấy. Hoàng hậu nghe thế càng lo sợ, nước mắt đầy tròng, đến chỗ quốc vương mà tâu: Đại vương, thần thiếp nghe người ngoài nói đứa con nhỏ nhất mà chúng ta thương nhất đã mất đâu rồi. Quốc vương nghe thì kinh hoàng, nấc lên: Khổ quá, ta mất đứa con yêu thương rồi. Nhưng ông phải lau nước mắt mà an ủi hoàng hậu: Hiền thủ, đừng khóc nữa. Chúng ta cùng đi tìm đứa con yêu thương của chúng ta. Rồi ông cùng hoàng hậu và thần dân ra khỏi hoàng thành, phân tán tìm tòi khắp nơi. Một lát, một đại thần bước tới, tâu rằng đã nghe các vương tử hãy còn, xin vương thượng đừng lo. Chỉ vương tử nhỏ nhất thì tìm chưa thấy mà thôi. Quốc vương nghe vậy, than thở khổ thay cho ta, ta mất đứa con thương yêu nhất rồi!

(16) Khi mới có con  
ta vui mừng ít,  
giờ con mất đi  
ta khổ sở nhiều.  
Ai làm con ta  
sống còn lại được,  
thì mất mạng ta  
ta cũng không khổ.  
Hoàng hậu nghe thì như bị trúng tên bắn, than thở

(17) Con ta ba đứa  
đi với thị tùng,  
cùng vào trong rừng  
thưởng ngoạn cảnh trí.  
Giờ đứa nhỏ nhất  
mình nó không về,  
chắc chắn có điều  
tai biến mất rồi!  
Kế tiếp, vị đại thần thứ hai đến chỗ quốc vương, vương hỏi ngay, con ta đâu? Đại thần áo não, lưỡi khô, cổ rát, miệng không nói được, không biết trả lời làm sao. Hoàng hậu bảo

(18) Thượng quan nói gấp,  
con ta ở đâu?  
Ta nóng cả người  
như thiêu như đốt,  
kinh hoàng hoảng hốt  
mất cả bình tâm,  
đừng để bụng ta  
rách vỡ cả ra!  
Vị đại thần phải đem việc vương tử xả thân mà tâu quốc vương. Quốc vương với hoàng hậu nghe rồi, bi thiết không thể chịu nổi, nhắm chỗ vương tử xả thân mà chạy tới. Đi đến rừng tre, chỗ Bồ tát xả thân. Thấy xương vung vãi, ai cũng gieo mình xuống đất, cơ hồ sắp chết. Họ như đại thọ bị gió mạnh xô ngã. Họ bất tỉnh. Đại thần rưới nước, một lát tỉnh lại. Họ lại dơ tay, khóc, than:

(19) Tai họa cho con!  
con đẹp đẽ lắm!  
tại sao cái chết  
áp bức con trước?  
Phải chi nếu cha  
được chết trước con  
thì đâu phải thấy  
khổ quá thế này!  
Hoàng hậu hơi tỉnh, lại đầu bù tóc rối, hai tay đấm bụng, quằn quại dưới đất. Như cá trên đất, như bò mất con, hoàng hậu buồn thảm:

(20) Ai giết mất con ta  
mà chỉ còn xương cốt?  
ta mất con yêu thương  
bi thiết chịu sao nổi!  
(21) Ai giết mất con ta  
gây ra cảnh bi thảm?  
lòng ta phi kim cương  
làm sao không tan nát!  
(22) Trong mộng ta đã thấy  
nhũ bộ ta bị cắt,  
răng cũng rụng mất cả,  
nay khổ quá thế này!  
(23) Lại mộng ba bồ câu  
một bị cắt bắt đi,  
ra ta mất con quí,  
ác mộng thật không sai!  
Bấy giờ quốc vương, cùng hoàng hậu với hai con, ai cũng gào khóc, bỏ cả chuỗi ngọc. Họ cùng quốc dân thu nhặt xá lợi của Bồ tát, tôn trí trong tháp để hiến cúng. Trưởng lão A nan đà, các người nên biết, đây là xá lợi ấy của Bồ tát.

Đức Thế tôn lại bảo trưởng lão A nan đà, xưa kia, Như lai đủ cả tham sân si, mọi thứ phiền não, vậy mà ngay trong năm nẻo đường dữ, Như lai vẫn tùy cảnh ngộ cứu vớt chúng sinh ra khỏi chỗ ấy; huống chi nay đây Như lai đã hết cả phiền não, thói quen cũng không còn, được gọi là bậc Thiên nhân sư, đủ Nhất thế trí, mà không thể vì mỗi một chúng sinh trải qua nhiều kiếp ở ngay trong địa ngục, và bao chỗ khác, thay họ chịu khổ, làm cho họ thoát ly sinh tử, phiền não và luân hồi hay sao. Bấy giờ đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

 

(24) Như lai nhớ quá khứ  
vô lượng vô số kiếp,  
khi thì làm quốc vương  
khi thì làm vương tử.  
(25) Thường làm bố thí lớn,  
cho cả thân đáng tiếc,  
nguyện thoát sinh tử khổ  
đi đến đại bồ đề  
(26) Xưa có quốc gia lớn  
quốc vương tên Đại xa,  
vương tử tên Dũng mãnh  
bố thí không tiếc lẫn.  
(27) Vương tử có hai anh  
Đại cừ với Đại thiên.  
Ba anh em xuất du,  
đi lần vào núi rừng.  
(28) Thấy cọp mẹ bị đói  
thì nghĩ như thế này,  
cọp bị đói hành hạ  
mà không có gì ăn.  
(29) Đại sĩ thấy như thế  
sợ nó ăn con nó,  
nên xả thân không tiếc  
để cứu cả mẹ con.  
(30) Đại địa và núi non  
đồng thời chấn động cả,  
sông biển cũng sôi sục  
sóng dữ mà nước ngược.  
(31) Trời đất mất ánh sáng  
mờ tối không thấy gì.  
Cầm thú rừng, đồng nội  
bay chạy mất chỗ ở.  
(32) Hai anh quái mất em  
lo buồn đến bi thảm,  
tức khắc cùng thị tùng  
tìm khắp cả lùm rừng.  
(33) Hai anh bàn với nhau  
hãy trở lại núi sâu,  
nhìn quanh không có em  
chỉ thấy con cọp đói.  
(34) Cọp mẹ với bảy con  
miệng toàn có vấy máu,  
còn xương tàn với tóc  
thì vung vãi mặt đất.  
(35) Lại thấy có huyết chảy  
dính nhằm mấy cây rừng.  
Hai anh thấy như thế  
lòng sinh đại sợ hãi.  
(36) Ngã đất mà chết giấc  
mê man hết biết gì,  
bụi đất lấm cả người  
giác quan mất ý thức.  
(37) Thị tùng hai vương tử  
khóc lóc lòng lo sợ,  
lấy nước rưới tỉnh lại  
lại dơ tay gào khóc.  
(38) Khi Bồ tát bỏ mình  
thì mẹ ở trong cung,  
cùng năm trăm thế nữ  
đang hưởng thụ vui thú.  
(39) Hai nhũ bộ hoàng hậu  
bỗng nhiên chảy sữa ra,  
cả người như kim chích  
đau đớn rất bất an.  
(40) Đột nhiên nghĩ mất con  
sợ như tim trúng tên,  
tức khắc tâu vua hay  
nỗi khổ bà đang có.  
(41) Khóc lóc không nhịn được  
thảm thiết nói với vua,  
vua nên biết cho thiếp  
thiếp đang khổ vô cùng.  
(42) Nhũ bộ bỗng chảy sữa  
ngưng lại cũng không được,  
cả mình như kim chích  
nóng bực bụng muốn vỡ.  
(42) Điềm ác mộng trước đây  
biết chắc mất con yêu.  
Xin vua cứu mạng thiếp  
tìm biết con còn mất.  
(44) Mộng thấy ba bồ câu  
nhỏ nhất là con cưng,  
bỗng bị cắt bắt mất  
đau buồn khó nói hết.  
(45) Thiếp ngập trong lo sợ  
đi mau đến cái chết,  
e con không toàn mạng  
xin vua đi tìm gấp.  
(46) Lại nghe người ngoài nói  
con út tìm không thấy,  
lòng thiếp rất bồn chồn  
xin vua thương xót thiếp!  
(47) Hoàng hậu tâu vua rồi  
cả người quị xuống đất,  
đau đớn tâm mê man  
hôn mê hết hay biết.  
(48) Thế nữ thấy hoàng hậu  
ngất xỉu xuống mặt đất  
thì cất tiếng khóc lớn  
bàng hoàng mất chỗ dựa.  
(49) Vua nghe hoàng hậu nói  
cũng lo không chịu nổi,  
ra lịnh cho quần thần  
tìm kiếm con thương nhất.  
(50) Vua tôi ra hoàng thành  
chia nhau mà truy tìm,  
gặp ai cũng khóc hỏi  
thấy vương tử ở đâu.  
(51) Vương tử còn hay mất?  
ai biết đi chỗ nào?  
làm sao cho ta thấy  
giải cho ta lo sợ.  
(52) Ai cũng nghe nói chuyền  
rằng vương tử chết rồi.  
Ai nghe cũng thương cảm  
buồn đau khó chế ngự.  
(53) Bấy giờ Đại xa vương  
kêu than mà đứng dậy  
đến chỗ hoàng hậu ngất  
lấy nước rưới thân bà.  
(54) Hoàng hậu được nước rưới  
lát lâu mới hồi tỉnh,  
khóc thảm mà hỏi vua  
con của thiếp còn không?  
(55) Vua nói với hoàng hậu  
ta đã phái mọi người  
bốn hướng tìm vương tử  
nhưng chưa có tin tức.  
(56) Vua lại bảo hoàng hậu  
hậu đừng quá phiền muộn,  
cố bình tỉnh một chút  
để cùng đi tìm con.  
(57) Vua cùng với hoàng hậu  
xa giá đi mau tới,  
với tiếng kêu thê thảm  
lo như lửa đốt lòng.  
(58) Cả ngàn vạn dân chúng  
cùng đi theo nhà vua,  
cùng muốn tìm vương tử,  
tiếng kêu than không ngớt.  
(59) Vua cố tìm con yêu,  
mắt nhìn cả bốn phía,  
thấy một người bước đến,  
tóc xõa mình đầy máu,  
(60) khắp mình dính đất bụi,  
buồn khóc đi ngược lại.  
Vua thấy ác tướng ấy  
càng nóng ruột lo sợ.  
(61) Vua giơ cả hai tay  
gào thảm không tự chế.  
Vị đại thần thứ nhất  
vội vàng đến chỗ vua,  
(62) gắng gượng mà tấu bạch,  
xin đừng quá bi thương,  
vương tử vua thương nhất,  
hiện vẫn chưa tìm được,  
(63) nhưng lát nữa chắc đến  
để giải lo cho vua.  
Vua lại đi tới nữa  
gặp đại thần thứ hai.  
(64) Vị này đến chỗ vua  
chảy nước mắt mà tâu,  
hai vương tử hiện còn  
nhưng đang bị quá lo.  
(65) Còn vương tử thứ ba  
vô thường nuốt mất rồi.  
Cọp đói mới sinh con  
sắp ăn chính con nó.  
(66) Tiểu vương tử Tát đỏa  
thấy vậy lòng thương xót,  
nguyện cầu đạo vô thượng  
quảng độ cho tất cả.  
(67) Chuyên tâm đại bồ đề  
rộng sâu như biển cả,  
nên lên trên núi cao  
gieo mình trước cọp đói.  
(68) Cọp yếu nên không thể  
vồ mà ăn vương tử,  
vương tử phải dùng tre  
tự thích cổ đổ máu.  
Cọp liếm, ăn vương tử,  
chỉ còn lại xương cốt.  
(69) Vua cùng với hoàng hậu  
nghe rồi cùng ngất xỉu,  
lòng ngập trong đau thương  
trong lửa dữ phiền não.  
(70) Đại thần lấy nước hương  
rưới vua và hoàng hậu,  
hồi tỉnh lại thét gào  
tự tay đấm ngực bụng.  
(71) Vị đại thần thứ ba  
tâu vua như thế này,  
đã thấy hai vương tử  
ngất xỉu ở trong rừng.  
(72) Hạ thần rưới nước lạnh  
hai vương tử mới tỉnh,  
nhìn khắp cả bốn phía  
thấy như lửa lan tràn.  
(73) Nên dậy rồi lại ngã,  
gào khóc không ngưng nổi,  
và giơ tay mà than  
em tôi thật hiếm có.  
(74) Vua nghe nói như vậy  
lo càng nung nấu hơn.  
Hoàng hậu gào lớn lên  
mà than vãn như vầy.  
(75) Con út của ta  
ta thương xiết bao,  
nay thì đã bị  
quỉ chết nuốt rồi!  
Hai đứa con lớn  
tuy vẫn hiện còn,  
nhưng bị thiêu đốt  
bởi lửa lo buồn.  
(76) Ta phải đi mau  
đến dưới núi kia,  
an ủi cho chúng  
bảo tồn mạng sống.  
Hoàng hậu tức khắc  
rong xe đi tới,  
cố mong đến gấp  
chỗ út bỏ mình.  
(77) Trên đường gặp con  
vừa đi vừa khóc,  
đấm bụng áo não  
mất hết uy phong.  
Cha mẹ thấy vậy  
buồn thảm ôm con,  
cùng vào núi rừng  
chỗ út bỏ mình.  
(78) Khi đến cái chỗ  
Bồ tát xả thân,  
cả nhà gào khóc  
đau đớn cùng cực,  
cởi bỏ chuỗi ngọc,  
cùng nhau bi thương  
thu nhặt xương cốt  
của thân Bồ tát.  
(79) Rồi cùng mọi người  
chung nhau hiến cúng:  
đem xá lợi trên  
đặt trong hộp này,  
xây dựng tại đó  
ngôi tháp thất bảo,  
mới về hoàng thành  
với sự đau buồn.  
(80) Trưởng lão A nan đà,  
Tát đỏa xưa kia ấy  
nay là ta, Mâu ni,  
đừng nghĩ là ai khác.  
(81) Quốc vương là Tịnh phạn,  
hoàng hậu là Ma da,  
thái tử là Từ thị,  
thứ tử là Mạn thù,  
(82) Cọp là Đại thế chúa (101) ,  
năm con: năm Bí sô (102) ,  
một nữa: Mục kiền liên  
một nữa: Xá lợi phất.  
(83) Như lai nói việc cũ  
để thấy phải lợi tha  
mới là bồ tát hạnh,  
là nhân tố thành Phật:  
toàn thể đại hội này  
phải học tập như vậy.  
(84) Khi Bồ tát xả thân  
thì đã phát đại nguyện,  
nguyện xương cốt của mình  
sẽ lợi ích lớn lao  
cho bao nhiêu chúng sinh  
trong bao kiếp sau đó.  
(85) Và địa điểm này đây  
chính là chỗ xưa kia  
Bồ tát đã xả thân,  
là chỗ tháp thất bảo,  
vì trải qua nhiều kiếp  
nên vùi sâu xuống đất.  
(86) Do nguyện lực xưa kia,  
rằng tùy theo cơ hội  
mà tế độ chúng sinh,  
nên nay vì ích lợi  
cho bao nhiêu nhân thiên  
mà bảo tháp xuất hiện.  
Khi đức Thế tôn nói về chuyện cũ này thì cả đại hội, bao gồm vô số nhân loại và chư thiên, ai cũng vô cùng bi cảm, hoan hỷ, tán dương là sự thể chưa bao giờ đã có, và cùng phát tâm vô thượng bồ đề. Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần, Như lai vì trả ơn mà kính lạy. Rồi Ngài thu hồi thần lực thì bảo tháp trở lại lòng đất.