(1)             Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ

(2)           Vào lúc bấy giờ, ở trong đại hội, Đại biện tài thiên nữ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, có vị pháp sư nào giảng nói kinh Ánh sáng hoàng kim này thì con sẽ tăng thêm trí tuệ cho vị ấy, làm cho vị ấy toàn hảo sự hùng biện đầy nghiêm chỉnh và thuyết phục. Vị pháp sư ấy nếu quên mất văn chữ nào trong kinh Ánh sáng hoàng kim thì con làm cho nhớ lại, khéo léo mở mắt và thức tỉnh cho người. Con lại cho vị ấy minh chú để vị ấy được sự tổng trì thông suốt. Lại nữa, kinh Ánh sáng hoàng kim này được thường xuyên thọ trì bởi những người đã gieo trồng thiện căn nơi hàng trăm hàng ngàn chư vị Thế tôn, nên quảng bá trong đại lục Thiểm bộ mà không ẩn mất mau chóng, giúp cho những ai lắng nghe kinh này thì được sự hùng biện lanh lợi khó nghĩ khó bàn; được đại trí vô tận, khéo hiểu các loại luận thuyết và kyՠthuật; được mau thoát sinh tử, đạt đến vô thượng bồ đề; và hiện tại thì được tăng thêm thọ lượng, đời sống đầy đủ. Bạch đức Thế tôn, con sẽ nói cho vị pháp sư thọ trì quảng bá kinh này, và những ai ưa thích lắng nghe kinh này, về cách tắm rửa nước thuốc, để những người ấy nếu có tai biến sao dữ, nếu lúc mới sinh có sự xung khắc với ngôi sao sở thuộc, nếu có cái khổ của những bịnh truyền nhiễm, của chiến tranh, của ác mộng, ác thần, sâu cổ, quỉ mị, ác chú, quỉ khởi thi, có những điều dữ như vậy làm chướng nạn thì được loại trừ cả. Cách ấy là những người có trí hãy tắm rửa như thế này. Hãy dùng ba mươi hai loại hương dược (67) sau đây, cân lượng bằng nhau:

(3)   (1) xương bồ,  
(2) ngưu hoàng, 
 
(3) mục túc hương, 
 
(4) xạ hương, 
 
(5) hùng hoàng, 
 
(6) hợp hôn thọ, 
 
(7) bạch cập, 
 
(8) khung cùng, 
 
(9) câu kỷ căn, 
 
(10) tùng chi, 
 
(11) quế bì, 
 
(12) hương phụ tử, 
 
(13) trầm hương, 
 
(14) chiên đàn, 
 
(15) linh lăng hương, 
 
(16) đinh tử, 
 
(17) uất kim, 
 
(18) bà luật cao, 
 
(19) vi hương, 
 
(20) trúc hoàng, 
 
(21) tế đậu khấu, 
 
(22) cam tùng, 
 
(23) hoắc hương, 
 
(24) mao căn hương, 
 
(25) sất chi, 
 
(26) ngải nạp, 
 
(27) an tức hương, 
 
(28) giới tử, 
 
(29) mã cân, 
 
(30) long hoa tu, 
 
(31) bạch giao, 
 
(32) thanh mộc 
 
Lấy ngày sao Bố sái (68) mà giã, rây lấy bột, và chú nguyện bằng một trăm lẻ tám biến minh chú này: Tát da tha, su kri ti, kri ti, kri ti, ka ma ta lê, jăn ka ra ti, u ka ra ti, in dra ja li ni, sát a ran tê, va cha chi lê, a ban ti, ka si kê na, ku đu, ku đu, kha ka vi lê, ka pi lê, ka pi lê, ka pi la ma ti, si la ma ti, săn đi đu ra ma ti, pa ba, ka, bam chi lê, Si rê, Si lê, sa ti dát thi tê, soa ha. (Tadyatha sukrti krti krti kamatale jankarati ukarati indrajanili sakarante vacacile abanti kasikena kudu kudu khakavile kapile kapile kapilamati silamati sandhiduramati paba ka bhamcile Sire Sile satyasthite svaha).

(4)   (1) Khi muốn đúng cách  
tắm rửa theo phép, 
 
thì làm đàn tràng 
 
vuông tám khuỷu tay, 
 
nơi chỗ tĩnh lặng 
 
và phải yên ổn, 
 
tại đó chú tâm 
 
vào điều nguyện cầu. 
 
(2) Đàn ấy phải dùng 
 
ngưu phấn (69) tráng nền, 
 
phía trên rải khắp 
 
bông hoa nhiều màu. 
 
Rồi dùng khí mãnh 
 
bạc vàng tinh khiết 
 
đựng đầy mĩ vị 
 
hay sữa hoặc mật. 
 
(3) Bốn phía đàn tràng 
 
hay là bốn cửa, 
 
hãy đặt bốn người 
 
giữ gìn đúng phép. 
 
Nhờ bốn đồng tử (70) 
 
phục sức trang nghiêm, 
 
mỗi người một góc 
 
tay bưng bình nước. 
 
(4) Thế rồi thường xuyên 
 
đốt an tức hương, 
 
và nhạc ngũ âm (71) 
 
không hề ngớt tiếng 
 
Phan lọng nghiêm chỉnh, 
 
lại treo lụa màu, 
 
trang hoàng bốn phía 
 
của đàn tràng ấy. 
 
(5) Ở trong đàn tràng 
 
thì đặt gương sáng, 
 
dao sắc kèm tên 
 
mỗi loại bốn cái. 
 
Chính giữa đàn tràng 
 
vùi cái bồn lớn, 
 
với ván xoi lỗ 
 
đặt ở phía trên. 
 
(6) Đem bột hương dược 
 
hòa với nước nóng, 
 
và cũng đặt để 
 
ở trong đàn tràng. 
 
Thiết trí như vậy 
 
xong xuôi cả rồi, 
 
sau đó tụng chú 
 
kiết giới đàn tràng. 
 
Minh chú kiết giới đàn tràng như vầy: Tát da tha, ăn ra kê, na da nê, hi lê, mi lê, gi lê, ki ki lê, soa ha (Tadyatha anrake nayane hile mile gile kikite svaha).

(5)   (7) Kiết giới như vậy  
cho đàn tràng rồi, 
 
sau đó mới vào 
 
nơi trong đàn tràng, 
 
chú nguyện nước [bình] 
 
hai mươi mốt biến, 
 
rồi rưới khắp cả 
 
bốn phía đàn ấy. 
 
(8) Kế đó chú nguyện 
 
nước nóng hương dược 
 
cho đủ số lượng 
 
một trăm tám biến, 
 
rồi bốn phía đàn 
 
dùng màn mà che, 
 
và rồi tắm rửa 
 
cho cả thân thể. 
 
Minh chú chú nguyện cho nước [bình] và nước nóng hương dược như vầy: Tát da tha, su ga ti, vi ga ti, vi ga cha, va đê, soa ha. (Tadyatha sugati vigati vigaca vade svaha).

(6)   Tắm rửa rồi, nước nóng tắm rửa ấy [đã chảy xuống bồn lớn], và những cúng phẩm hiến cúng trong đàn tràng, đều đem bỏ trong sông trong hồ. Ngoài ra thì thu dọn lại. Tắm rửa rồi mới mặc đồ sạch. Khi ra đàn tràng mà vào tịnh thất, thì vị thầy chú nguyện phải dạy cho người ấy cách phát đại nguyện nhắm vào sự diệt ác tu thiện, vào sự phát đại bi tâm đối với chúng sinh. Chính do yếu tố phát đại nguyện này mà được bao phước báo tùy tâm. Đại biện tài thiên nữ lại nói chỉnh cú sau đây.

(7)   (9) Những người khổ sở  
vì các thứ bịnh, 
 
điều trị đủ cách 
 
mà không lành được, 
 
thì hãy tắm rửa 
 
đúng cách như trên, 
 
cọng thêm đọc tụng 
 
bản kinh vua này. 
 
(10) Ngày đêm ý niệm 
 
không hề tán loạn, 
 
chuyên tâm thiết tha 
 
và rất tin tưởng, 
 
thì bao bịnh hoạn 
 
được tiêu tan cả, 
 
lại hết nghèo khó 
 
có đủ tài sản. 
 
(11) Tinh tú bốn hướng 
 
cùng với nhật nguyệt 
 
thần lực hộ vệ 
 
cho được nhiều tuổi, 
 
cát tường yên ổn 
 
phước đức tăng thêm, 
 
tai biến ách nạn 
 
đều loại trừ cả. 
 
Sau khi [phát đại nguyện], hãy tụng minh chú hộ trì thân thể sau đây, hai mươi mốt biến: Tát da tha, săm mê, vi săm mê, soa ha; su ga tê, vi ga tê, soa ha. Vi ga ta, va ti, soa ha; Sà ga ra săm bút đa da, soa ha; si kăn đa, ma ta da, soa ha; ni la kăn ta da, soa ha; a pa ra ji ta, via da da, soa ha; hi ma van ta da, soa ha; a ni mi la vát ta da, soa ha; nam mô, ba ga va tê, Brắt, ma ni, soa ha; nam mô, Sa rát va ti, ma ha, đev dê, soa ha; sít dăn tu, măm, măn tra pa đa, soa ha; đa ra ta, va chi tô, Brắt ma nu, ma nô ra, soa ha. (Tadyatha samme visamme svaha; sugate vigate svaha. Vigata vati svaha; Sagarasambudhaya svaha; skanda mataya svaha; nilakantaya svaha; aparajita viryaya svaha; himavantaya svaha; animilavaktaya svaha; namo bhagavate Brah mani svaha; namo Sarasvati maha devye svaha; siddyantu mam mantrapada svaha ; dharata vacito Brahmanu manora svaha).

(8)   Đại biện tài thiên nữ nói về cách tắm, về đàn tràng, và về minh chú rồi, bước tới lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong bốn bộ đệ tử đức Thế tôn có ai thọ trì đọc tụng sao chép lưu hành bản kinh vua nhiệm mầu này và tu hành đúng như kinh dạy, thì ở thành thị, thôn xóm, đồng nội, núi rừng, trú xứ tăng ni, bất cứ ở đâu con cũng vì họ mà đem tùy thuộc, tấu thiên nhạc, cùng đến chỗ ấy mà hộ vệ, loại trừ bịnh khổ, sao sa, quái tượng, truyền nhiễm, chinh chiến, tù đày, ác mộng, ác thần, cổ đạo, thuật ếm, những chướng nạn như vậy đều bị trấn áp mà ích lợi cho người trì kinh. Chúng con lại giúp cho bốn đệ tử đức Thế tôn, và những người lắng nghe kinh này, ai cũng mau chóng vượt qua biển cả sinh tử, không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề.

(9)   Bấy giờ đức Thế tôn nghe Đại biện tài thiên nữ trình bày như vậy thì khen rằng, lành thay thiên nữ, thiên nữ có thể lợi ích cho bao nhiêu chúng sinh, bằng cách nói về minh chú, về nước thơm và đàn tràng như vậy. Phước báo của thiên nữ thật khó nghĩ thấu. Thiên nữ nên hộ trì bản kinh vua tối thượng, đừng để mai một mà được lưu hành mãi. Đại biện tài thiên nữ, lúc ấy, lạy ngang chân đức Thế tôn rồi trở về chỗ cũ.

(10)Bấy giờ vị Bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, vâng theo uy lực của đức Thế tôn, đứng trước đại hội mà tán dương Đại biện tài thiên nữ.

(11)(12) Biện tài thiên nữ  
thông minh tinh tiến, 
 
người trời hiến cúng 
 
đáng nên tiếp nhận, 
 
danh vang thế giới 
 
tràn khắp mọi nơi, 
 
ban cho ước nguyện 
 
của bao chúng sinh. 
 
(13) Trên đỉnh núi cao 
 
nơi rất siêu việt, 
 
lợp tranh làm phòng 
 
mà ở trong đó, 
 
bện những cỏ mềm 
 
mà làm áo mặc, 
 
bất cứ ở đâu 
 
thường kiễng một chân. 
 
(14) Vậy mà chư thiên 
 
thường đến tụ tập 
 
cùng nhau một lòng 
 
tán dương thỉnh cầu. 
 
Kính xin thiên nữ 
 
bậc đại hùng biện, 
 
hãy cho mọi người 
 
lời tiếng vi diệu. 
 
Đại biện tài thiên nữ liền chấp nhận thỉnh cầu mà tuyên thuyết minh chú sau đây: Tát da tha, mi ri, chi ô rê, a va tê, a va jê va ti, hin gu lê, min gu lê, pin ga lê va ti, ăn khu sa, ma ri chi dê, sặm ma ti, vi sặm ma ti, a gra ti, mắc khi dê, ta ra chi, ta ra chi va ti, chia si, chi ri, si ri mi ri, ma nan đi, đa ma khê, ma ri chi dê, pra na pa ri dê, lô ka ji dết tha, lô ka, si nết thi, lô ka via dê, sít đa, pa ra tê, bi ma mu khi, su chi cha ri, a pra ti ha tê, a pra ti ha ta bút đi, na mút chi, na mu chi, ma ha đếp dê, pra ti, gra ha, na mát ka ra, ma ma, bút đi, đa sa hi, bút đi, a pra ti ha ta, ba va tu, si ra ha mê, vi sút đa, chi tô, sát tra si lô ka, măn tra, pi ta ka, ka pi da đi sô, tát da tha, ma ha pra ba va, hi li, mi li, vi cha ra tu, vi bút đi, ma ma, bút đi, sút đi, ba ga vát ti dê, đê vê dăm, Sa rát va tim, ka ra ti, kê du ra ma ti, hi ri, mi ri, hi ri, mi ri, a ba da, mê, ma ha đê vi, bút đa, sát dê na, đa ma, sát dê na, săn ga, sát dê na, In dra, sát dê na, Va ru na, sát dê na, dê lô ki dê sát da, sát dê na, tê săm, sát dê na, sát da va cha ni da, a ba da, mê, ma ha đê vi, hi li, mi li, hi li, mi li, vi cha ra tu, ma ma, bút đi, nô, nam mô, ba ga va ti, ma ha đê vê, Sa rát va ti da, sít đi dăn tu, măn tra, pa đa, mê, soa ha. (Tadyatha miri cyore avate avajevati hingule mingule pingalevati ankhusa maricye sammati visammati agrati makhye taraci taracivati cirsi ciri sirimiri manandhi damakhe maricye pranaparye lokajyestha loka snesthi lokavirye siddha parate bhimamukhi sucicari apratihate apratihatabuddhi namuci namuci mahadevye prati graha namaskara mama buddhi darsahi buddhi apratihata bhavatu sirahame visuddha cito sastrasloka mantra pitaka kapiyadiso tadyatha mahaprabhava hili mili vicaratu vibuddhi mama buddhi suddhi bhagavatye deveyam Sarasvatim karati keyuramati hiri miri hiri miri abhaya me mahadevi buddha satyena dharma satyena sangha satyena Indra satyena Varuna satyena yelokyesatya satyena tesam satyena satyavacaniya abhaya me mahadevi hili mili hili mili vicaratu mama buddhi no namo bhagavati mahadeve Sarasvatya siddhiyantu mantra pada me svaha).

(12)Đại biện tài thiên nữ tuyên thuyết minh chú như vậy rồi, nói với Bà la môn, rằng lành thay đại nhân, ông có thể vì những người cầu sự hùng biện nhiệm mầu, cầu châu ngọc, cầu thần thông trí tuệ, để lợi ích tất cả và mau chứng bồ đề, thì nên biết cách thức thọ trì minh chú nói trên. Đại biện tài thiên nữ tức thì nói những lời chỉnh cú sau đây. 

(13)(15) Trì minh chú này  
trước phải thuộc lòng 
 
sao cho thuần thục 
 
không sai không sót. 
 
Kế đó qui kính 
 
Tam bảo chư thiên, 
 
cầu xin da trì 
 
ước nguyện tùy tâm. 
 
(16) Kính lạy Phật bảo 
 
cùng với Pháp bảo 
 
Tăng bảo Bồ tát 
 
Độc giác Thanh văn, 
 
kế lạy Phạn vương 
 
cùng với Đế thích 
 
bốn vị Thiên vương 
 
hộ vệ thế giới. 
 
(17) Đối với những vị 
 
thường tu phạn hạnh, 
 
thì hết lòng thành 
 
thiết tha kính lạy. 
 
Hãy ở lan nhã 
 
yên tĩnh yên ổn 
 
mà tụng lớn tiếng 
 
minh chú nói trên. 
 
(18) Trước tượng Thế tôn 
 
và trước thiên long, 
 
tùy mình có gì 
 
thì đem hiến cúng. 
 
Đối với hết thảy 
 
bao loại chúng sinh 
 
tâm hãy nổi dậy 
 
từ bi thương cảm. 
 
(19) Thế tôn tướng tốt 
 
thân màu vàng tía, 
 
tập trung tâm tưởng 
 
vào tướng tốt ấy. 
 
Thế tôn da trì 
 
tuyên thuyết giáo pháp 
 
cho người thích hợp 
 
tu tập thiền định. 
 
(20) Khéo nghĩ chữ nghĩa 
 
của giáo pháp ấy, 
 
lại theo nghĩa Không 
 
tu tập chính xác. 
 
Hãy ngồi ở trước 
 
hình tượng Thế tôn 
 
nhất tâm chánh niệm 
 
về giáo pháp Ngài. 
 
(21) Thế thì thực hiện 
 
Diệu trí tam muội, 
 
lại còn thực hiện 
 
tổng trì tối thắng. 
 
Miệng vàng Thế tôn 
 
tuyên thuyết giáo pháp, 
 
tiếng mầu thuần hóa 
 
chư thiên nhân loại. 
 
(22) Tướng lưỡi tùy cơ 
 
biểu hiện hiếm có 
 
rộng dài bao trùm 
 
đại thiên thế giới ; 
 
tiếng mầu lưỡi ấy 
 
của đức Thế tôn 
 
chí thành nhớ lấy 
 
lòng không nghi ngại. 
 
(23) Thế tôn do sự 
 
phát nguyện rộng lớn, 
 
nên được tướng lưỡi 
 
bất khả tư nghị, 
 
tuyên thuyết các pháp 
 
toàn là phi hữu, 
 
tựa như không gian 
 
không có vướng mắc. 
 
(24) ­ thanh, trường thiệt 
 
của đức Thế tôn, 
 
tư duy hai tướng 
 
thì thỏa nguyện cầu. 
 
Thấy ai hiến cúng 
 
Đại biện thiên nữ, 
 
hoặc thấy đệ tử 
 
theo lời thầy dạy, 
 
(25) truyền cho mật pháp 
 
bảo nên tu học, 
 
trân trọng thiết tha 
 
nguyện gì cũng thành. 
 
Muốn thực hiện được 
 
trí giác tối thượng, 
 
thì phải nhất tâm 
 
trì mật pháp ấy. 
 
(26) Tăng trưởng tư lương 
 
phước đức trí tuệ, 
 
quyết định thành tựu 
 
đừng có nghi hoặc; 
 
cầu mong tài sản 
 
được lắm tài sản, 
 
cầu mong danh vọng 
 
được danh vọng tốt. 
 
(27) Cầu nguyện giải thoát 
 
thì được giải thoát, 
 
quyết định thành tựu 
 
đừng có nghi hoặc. 
 
Thành tựu công đức 
 
vô lượng vô biên, 
 
toàn đúng ước nguyện 
 
nội tâm người cầu. 
 
(28) Nếu có khả năng 
 
y thế tu hành 
 
thì được thành tựu 
 
đừng có nghi hoặc. 
 
(29) Nên chọn chỗ sạch 
 
và mặc đồ sạch, 
 
mà làm đàn tràng 
 
lớn nhỏ tùy ý. 
 
Dùng bốn bình sạch 
 
mà đựng mĩ vị, 
 
cùng với hương hoa 
 
hiến cúng tùy lúc. 
 
(30) Giăng treo lụa màu 
 
tràng phan bảo cái, 
 
bôi rải khắp cả 
 
bằng bột hương liệu, 
 
hiến cúng Thế tôn 
 
và Biện tài thiên, 
 
cầu thấy thiên thân 
 
cũng được toại nguyện. 
 
(31) Hai mươi mốt ngày 
 
tụng minh chú trên, 
 
bằng cách đối trước 
 
tượng Biện tài thiên. 
 
Nếu chưa thấy được 
 
thân Biện tài thiên, 
 
thì nên dụng tâm 
 
thêm chín ngày nữa. 
 
(32) Mà nửa đêm sau 
 
vẫn chưa thấy được, 
 
thì nên tìm chỗ 
 
thanh tịnh đẹp hơn, 
 
rồi vẽ đúng cách 
 
tượng Biện tài thiên, 
 
hiến cúng trì tụng 
 
chứ không xả bỏ. 
 
(33) Cả ngày liền đêm 
 
không hề biếng nhác, 
 
sẽ được vô cùng 
 
tự lợi lợi tha. 
 
Đem kết quả ấy 
 
hồi hướng chúng sinh, 
 
thì cầu nguyện gì 
 
cũng thành tựu cả. 
 
(34) Nếu chưa toại ý 
 
thì phải ba tháng, 
 
sáu tháng chín tháng 
 
cho đến một năm, 
 
thiết tha thỉnh cầu 
 
lòng không dao động, 
 
thì được thiên nhãn 
 
được tha tâm thông. 
 
Bà la môn Kiều trần như nghe Đại biện tài thiên nữ nói như vậy thì hoan hỷ, phấn chấn, khen chưa từng có. Ông thưa đại hội mà nói như vầy, tất cả đại hội nhân loại chư thiên nên biết và nghe cho, tôi lại muốn theo phép thế đế mà tán dương Đại biện tài thiên nữ. Ông liền nói những chỉnh cú sau đây.

(14)(35) Kính lạy Thiên nữ  
bậc đại dũng mãnh 
 
và đại tự tại 
 
trong thế giới này; 
 
nay tôi tán dương 
 
bậc tôn cao ấy, 
 
với lời tựa như 
 
lời tiên nhân xưa. 
 
(36) Cát tường hoàn thiện 
 
tâm trí thanh thoát, 
 
thông minh tàm quí 
 
có danh tiếng lớn. 
 
Là bậc mẹ sinh 
 
của cả thế giới, 
 
dũng mãnh thường hành 
 
sự đại tinh tiến. 
 
(37) Ở trong quân trận 
 
chiến đấu thường thắng, 
 
giáo dục thuần hóa 
 
từ bi nhẫn nhục. 
 
Hiện làm chị cả 
 
của Diêm la vương, 
 
mà thường mặc áo 
 
kén tằm hoang xanh. 
 
(38) Dung nhan khi đẹp 
 
khi thì xấu xí, 
 
xấu thì mắt nhìn 
 
đã làm khiếp sợ. 
 
Nhiều việc đặc thù 
 
vượt trên thế giới, 
 
những ai tin tưởng 
 
thì thu nhận cả. 
 
(39) Hoặc ở hang núi 
 
chỗ sâu và hiểm, 
 
hoặc ở hầm sâu 
 
hay ở bên sông, 
 
hoặc ở đại thụ 
 
hay ở lùm cây, 
 
Thiên nữ phần nhiều 
 
cư trú như vậy. 
 
(40) Giả sử những người 
 
rừng núi hoang dã, 
 
mà thường hiến cúng 
 
đối với Thiên nữ, 
 
lấy những lông công 
 
mà làm phan cờ, 
 
thì cũng thường được 
 
Thiên nữ hộ trì. 
 
(41) Sư tử cọp beo 
 
thường thường vây quanh, 
 
bò dê gà trĩ 
 
cũng thường nương tựa. 
 
Rung cái linh lớn 
 
âm thanh phát ra, 
 
chúng núi Tân đà 
 
cũng nghe âm vang. 
 
(42) Hoặc cầm cái kích, 
 
đầu tóc búi tròn, 
 
và tay thường cầm 
 
tinh kỳ nhật nguyệt. 
 
Ngày chín, mười một 
 
của tháng trăng tối (72) 
 
lúc ấy thì nên 
 
hiến cúng Thiên nữ. 
 
(43) Hiện làm em gái 
 
Bà tô đại thiên, 
 
thấy có chiến tranh 
 
lòng đầy thương xót. 
 
Quan sát tất cả 
 
bao loại chúng sinh, 
 
thấy không có ai 
 
hơn được Thiên nữ. 
 
(44) Lại hiện nữ nhân 
 
Mục ngưu hoan hỷ, 
 
chiến với chư thiên 
 
thường thường đắc thắng. 
 
Có thể sống lâu 
 
ở trong cuộc đời, 
 
khi thì hòa nhẫn 
 
khi thì bạo ác. 
 
(45) Bốn loại minh luận 
 
của Bà la môn, 
 
trong có biến hóa, 
 
đều tinh thông cả. 
 
Là tự tại nhất 
 
trong chúng thiên tiên, 
 
tạo ra hạt giống 
 
cùng với đất đai. 
 
(46) Khi các thiên nữ 
 
tụ tập với nhau, 
 
Thiên nữ ứng đến 
 
y như thủy triều (73) . 
 
Với các bộ loại 
 
long thần dược xoa, 
 
thì làm cầm đầu 
 
thuần hóa được cả. 
 
(47) Phạn hạnh Thiên nữ 
 
hơn mọi nữ nhân. 
 
Nói thật, y như 
 
chúa tể thế giới. 
 
Trong giới vua chúa 
 
thì như hoa sen. 
 
Sông mê bến khổ 
 
thì làm cầu, thuyền. 
 
(48) Khuôn mặt thì giống 
 
mặt trăng tròn đầy. 
 
Đa văn toàn hảo 
 
là nơi nương tựa. 
 
Hùng biện nổi bật 
 
in như núi cao. 
 
Ai tưởng niệm đến 
 
thì làm cồn, bãi (74) . 
 
(49) Bộ loại tu la 
 
cùng với chư thiên, 
 
ai cũng tán dương 
 
công đức Thiên nữ. 
 
Ngay như Đế thích 
 
với cả ngàn mắt, 
 
cũng nhìn với lòng 
 
kính trọng nồng hậu. 
 
(50) Chúng sinh nếu có 
 
mong cầu những gì, 
 
thì làm cho họ 
 
thành đạt mau chóng. 
 
Giúp kẻ hùng biện 
 
toàn hảo nghe nhớ. 
 
Là kẻ hơn hết 
 
giữ cho địa cầu. 
 
(51) Ở trong thế giới 
 
khắp cả mười phương, 
 
làm ánh đèn lớn 
 
chiếu soi thường xuyên. 
 
Cho đến quỉ thần 
 
cùng với cầm thú 
 
cũng toại nguyện cho 
 
những gì chúng cầu. 
 
(52) Trong mọi nữ nhân, 
 
như đỉnh núi cao. 
 
Sống lâu ở đời 
 
như tiên nhân xưa. 
 
Thường xuyên ly dục 
 
như Thiếu nữ thiên. 
 
Lời nói chân thành 
 
như Đại thế chúa. 
 
(53) Nhìn khắp thế giới 
 
chủng loại khác nhau, 
 
cho đến chư thiên 
 
của cả Dục giới, 
 
chỉ thấy Thiên nữ 
 
đáng xưng tôn quí, 
 
không thấy có ai 
 
hơn được Thiên nữ. 
 
(54) Những ai kinh hoàng 
 
ở trong chiến trận, 
 
những ai sa vào 
 
ở trong hố lửa, 
 
sông ngòi hiểm nạn 
 
và gặp đạo tặc, 
 
thì được làm cho 
 
hết cả sợ hãi. 
 
(55) Ai bị phép vua 
 
bắt bớ cùm kẹp, 
 
ai bị oán thù 
 
muốn giết muốn hại, 
 
mà nhớ Thiên nữ 
 
lòng không dao động, 
 
quyết định thoát được 
 
mọi nỗi lo sợ. 
 
(56) Người hiền kẻ dữ 
 
đều giúp đỡ cả, 
 
ý niệm từ bi 
 
thường ở trước mắt. 
 
Thế nên nay tôi 
 
đem lòng chân thành 
 
kính lạy ngưỡng vọng 
 
Đại biện thiên nữ. 
 
Bà la môn, lúc ấy, lại chú tán (75) Đại biện tài thiên nữ như sau:

(57) Tôi kính lạy bậc  
tôn quí trong đời, 
 
là mẹ hơn hết 
 
tất cả bà mẹ. 
 
Ba loại thế giới (76) 
 
đều hiến cúng cả. 
 
Mặt và dáng dấp 
 
ai cũng thích nhìn. 
 
(58) Diệu đức đa dạng 
 
trang sức thân thể. 
 
Mắt như cánh sen 
 
xanh mà lớn dài. 
 
Ánh sáng phước trí 
 
nổi tiếng khắp nơi, 
 
tựa như ngọc quí 
 
như ý vô giá. 
 
(59) Tôi nay ca tụng 
 
một bậc siêu việt, 
 
bậc làm thành tựu 
 
cho sự mong cầu, 
 
bậc diệu cát tường 
 
chân thật công đức, 
 
bậc như hoa sen 
 
rất ư thanh khiết. 
 
(60) Thân sắc uy nghiêm 
 
ai cũng thích nhìn. 
 
Tướng tốt hiếm có 
 
không thể nghĩ bàn. 
 
Phóng ra ánh sáng 
 
trí tuệ trong sạch. 
 
Ý niệm hơn hết 
 
trong mọi ý niệm. 
 
(61) Ví như sư tử 
 
nhất trong loài thú, 
 
thường có tám tay 
 
tự trang hoàng mình: 
 
cầm cung, cầm tên 
 
cầm đao, giáo, búa, 
 
chày, bánh xe sắt, 
 
cùng với dây buộc. 
 
(62) Đẹp đẽ thích nhìn 
 
tựa như trăng tròn. 
 
Nói năng thông suốt 
 
mà lại hòa nhã. 
 
Những ai trong lòng 
 
cầu nguyện những gì, 
 
bậc Thiện sĩ này 
 
tùy niệm thỏa mãn. 
 
(63) Đế thích, chư thiên 
 
đều kính trọng cả, 
 
đều cùng tán dương 
 
là nơi nương tựa.