(1)   Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương 

(2)   Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn vì cả đại hội nói về vương pháp chính luận rồi, lại bảo, đại hội các người nên lắng nghe. Như lai lại nói cho các người về một sự phụng hành chánh pháp xưa kia của Như lai. Ngay lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(3)   (1) Như lai xưa kia  
làm vị luân vương, 
 
bỏ hết đại địa 
 
và cả đại dương, 
 
đem bao trân bảo 
 
đầy bốn đại lục 
 
cung kính hiến cúng 
 
chư vị Như lai. 
 
(2) Như lai xưa kia 
 
trong vô lượng kiếp, 
 
vì cầu pháp thân 
 
tối cực chân tịnh, 
 
nên bao bảo vật 
 
đều xả bỏ cả, 
 
cả đến thân mạng 
 
cũng không tiếc lẫn. 
 
(3) Trong thì quá khứ 
 
khó lường đời kiếp, 
 
có bậc đẳng giác 
 
danh hiệu Bảo kế; 
 
sau khi Ngài đã 
 
nhập vào niết bàn, 
 
có một vị vua 
 
tên là Thiện sinh. 
 
(4) Làm bậc luân vương 
 
cả bốn đại lục, 
 
ngoại biên đại dương 
 
đều qui phục cả; 
 
vua có hoàng thành 
 
tên Diệu âm nhạc, 
 
vua thường cư trú 
 
nơi hoàng thành ấy. 
 
(5) Đêm mộng thấy nói 
 
phước trí Như lai. 
 
Thấy có pháp sư 
 
tên là Bảo tích, 
 
ngồi nghiêm trên tòa 
 
tựa vầng thái dương, 
 
diễn giảng kinh mầu 
 
Ánh sáng hoàng kim. 
 
(6) Sau khi tỉnh mộng, 
 
vua rất hoan hỷ, 
 
nỗi hoan hỷ lớn 
 
tràn khắp cơ thể. 
 
Đến lúc trời sáng, 
 
vua ra hoàng cung, 
 
đi đến dà lam 
 
của chư Bí sô. 
 
(7) Luân vương tôn kính 
 
cúng thánh chúng rồi, 
 
liền hỏi các ngài : 
 
trong thánh chúng này 
 
có hay không có 
 
pháp sư Bảo tích 
 
thành tựu công hạnh 
 
hóa độ chúng sinh? 
 
(8) Bấy giờ Bảo tích, 
 
vị đại pháp sư, 
 
cư trú ở trong 
 
một cái tịnh thất, 
 
chánh niệm trì tụng 
 
kinh mầu Hoàng kim, 
 
trang nghiêm bất động, 
 
thân tâm vui đẹp. 
 
(9) Một vị Bí sô 
 
hướng dẫn luân vương 
 
đến chỗ cư trú 
 
của ngài Bảo tích, 
 
thấy trong tịnh thất 
 
ngài ngồi thẳng mình, 
 
toàn thân đầy cả 
 
ánh sáng tướng đẹp. 
 
(10) Bí sô bảo vua: 
 
đây, ngài Bảo tích, 
 
giữ được hành xứ 
 
sâu xa của Phật, 
 
đó là bản kinh 
 
Ánh sáng hoàng kim, 
 
kinh vua các kinh, 
 
tối thượng bậc nhất. 
 
(11) Luân vương tức thì 
 
lạy ngài Bảo tích, 
 
cung kính chắp tay 
 
mà thỉnh cầu ngài: 
 
Xin bậc mặt đẹp 
 
tựa như trăng đầy, 
 
nói cho con nghe 
 
diệu pháp Hoàng kim. 
 
(12) Pháp sư Bảo tích 
 
nhận lời thỉnh cầu, 
 
hứa sẽ nói cho 
 
bản kinh vua ấy. 
 
Thế là khắp cả 
 
đại thiên thế giới, 
 
hết thảy chư thiên 
 
cùng đại hoan hỷ. 
 
(13) Vua dùng một nơi 
 
rộng rãi sạch sẽ, 
 
tận lực trang hoàng 
 
trân bảo quí lạ, 
 
rưới bụi bằng nước 
 
hương liệu thượng hạng, 
 
rải những bông hoa 
 
màu sắc đa dạng. 
 
(14) Nơi đặc biệt này 
 
vua đặt tòa cao, 
 
trang hoàng bảo cái 
 
tràng phan gấm lụa; 
 
xát hương xoa hương 
 
với đủ mọi cách, 
 
hơi thơm tỏa ra 
 
khắp cả mọi nơi. 
 
(15) Thiên, long, tô la, 
 
và khẩn na la, 
 
ma hô lạc dà 
 
cùng với dược xoa, 
 
nhất là chư thiên 
 
rải hoa mạn đà, 
 
hiến cúng pháp tòa 
 
rất cao cả ấy. 
 
(16) Lại có hàng ngàn 
 
hàng vạn chư thiên 
 
ưa nghe chánh pháp 
 
cùng đến tụ tập. 
 
Pháp sư bắt đầu 
 
rời chỗ ngồi cũ, 
 
họ đã hiến cúng 
 
bằng những thiên hoa. 
 
(17) Bấy giờ Bảo tích, 
 
vị đại pháp sư, 
 
tắm rửa mình mẩy, 
 
mặc đồ sạch sẽ, 
 
đi đến đại hội, 
 
lại chỗ pháp tòa, 
 
chắp tay chân thành 
 
mà kính lễ bái. 
 
(18) Thiên chủ, thiên chúng, 
 
cùng với thiên nữ, 
 
chung nhau rải xuống 
 
thiên hoa mạn đà; 
 
trăm ngàn thiên nhạc 
 
khó nghĩ khó tả, 
 
ở trong không trung 
 
xuất ra tiếng mầu. 
 
(19) Bấy giờ Bảo tích, 
 
vị đại pháp sư, 
 
liền lên pháp tòa 
 
mà ngồi xếp bằng, 
 
tập trung tâm trí 
 
nghĩ đến mười phương 
 
trăm ngàn vạn ức 
 
bậc Đại từ tôn. 
 
(20) Nghĩ đến tất cả 
 
chúng sinh đau khổ, 
 
phát sinh ý niệm 
 
từ bi bình đẳng. 
 
Rồi vì chủ mời 
 
là Thiện sinh vương, 
 
mà giảng kinh mầu 
 
Ánh sáng hoàng kim. 
 
(21) Vua đã nghe được 
 
diệu pháp như vậy, 
 
thành tâm chắp tay 
 
nói rằng tùy hỷ. 
 
Nghe pháp hiếm có, 
 
Vua trào nước mắt, 
 
nỗi mừng lớn lao 
 
tràn ngập thân tâm. 
 
(22) Bấy giờ quốc chúa 
 
luân vương Thiện sinh, 
 
vì muốn hiến cúng 
 
kinh vua Hoàng kim, 
 
nên cầm viên ngọc 
 
như ý ma ni, 
 
nguyện rằng hãy vì 
 
bao loại chúng sinh. 
 
(23) Hãy ngay nơi đây, 
 
đại lục Thiệm bộ, 
 
mưa xuống thất bảo, 
 
những xâu chuỗi ngọc, 
 
để người nghèo thiếu 
 
đồ dùng tiền của 
 
hảy đều tùy ý 
 
thụ hưởng hạnh phúc. 
 
(24) Tức thì thất bảo 
 
đổ xuống khắp nơi, 
 
sung mãn dân chúng 
 
cả bốn đại lục, 
 
cần gì tùy ý: 
 
chuỗi ngọc làm đẹp 
 
y phục ẩm thực 
 
không thiếu thứ gì. 
 
(25) Bấy giờ quốc chúa 
 
luân vương Thiện sinh 
 
thấy bốn đại lục 
 
được mưa trân bảo, 
 
thì đem hiến cúng 
 
Bảo kế như lai, 
 
và Bí sô tăng 
 
theo di huấn Ngài. 
 
(26) Đại hội nên biết 
 
luân vương Thiện sinh 
 
ngày nay chính là 
 
bản thân Như lai, 
 
xưa kia đã bỏ 
 
cả đại địa này, 
 
cả bao trân bảo 
 
đầy bốn đại lục. 
 
(27) Còn ngài Bảo tích, 
 
vị đại pháp sư, 
 
đã thuyết diệu pháp 
 
cho Thiện sinh vương, 
 
diễn giảng kinh vua 
 
cho nhà vua ấy, 
 
nay ở hướng đông 
 
thành đức Bất động. 
 
(28) Như lai xưa kia 
 
lắng nghe kinh vua, 
 
chắp tay nói rằng 
 
con xin tùy hỷ, 
 
quảng thí thất bảo, 
 
do những phước ấy 
 
được kim cương thân 
 
tối thắng bậc nhất. 
 
(29) Thân ấy ánh vàng 
 
trăm phước trang nghiêm, 
 
ai nhìn thấy được 
 
cũng hoan hỷ cả; 
 
tất cả chúng sinh 
 
không ai không thích, 
 
vô số chư thiên 
 
cũng thích như vậy. 
 
(30) Như lai trải qua 
 
chín mươi chín lần 
 
vô số đời kiếp 
 
làm vị luân vương, 
 
hoặc làm quốc vương 
 
cho những tiểu quốc 
 
cũng đến số lượng 
 
trăm ngàn đời kiếp. 
 
(31) Trong vô lượng kiếp 
 
lại làm Đế thích, 
 
và cũng đã làm 
 
bậc Đại phạn vương, 
 
hiến cúng Thập lực 
 
đại từ thế tôn 
 
số lượng đời kiếp 
 
cũng khó biết hết. 
 
(32) Như lai xưa kia 
 
nghe kinh, tùy hỷ, 
 
khối phước có được 
 
số lượng khó biết; 
 
do khối phước ấy 
 
được vô thượng giác, 
 
được pháp tánh thân 
 
diệu trí chân thường. 
 
Bấy giờ đại hội nghe sự tuyên thuyết như vậy ai cũng than là hiếm có. Ai cũng nguyện phụng trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, quảng bá bất tuyệt.

 

 

(4)   Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì (90)

(5)   Bấy giờ đức Thế tôn bảo Đại cát tường thiên nữ, rằng nếu có thiện nam hay thiện nữ đức tin trong sáng nào muốn đem cúng phẩm bất tư nghị phụng hiến chư vị Như lai trong ba thì gian, lại muốn thấu hiểu hành xứ (91) rất sâu của các Ngài, thì người ấy quyết định phải hết lòng tùy bản kinh vua này ở đâu hãy diễn giảng quảng bá cho chúng sinh chỗ ấy, dầu chỗ ấy là thành thị, xóm làng hay trong chằm núi. Còn những người nghe pháp thì phải bỏ tâm tưởng tán loạn mà tập trung thính giác, chuyên chú tâm trí. Bấy giờ đức Thế tôn liền nói những chỉnh cú sau đây cho chư thiên và đại hội.

 

(6)   (1) Đối với chư Như lai  
muốn hiến cúng siêu việt,  
lại muốn hiểu lĩnh vực  
sâu xa của các Ngài,  
(2) thì thấy ai diễn giảng  
kinh Ánh sáng hoàng kim,  
hãy đích thân đi đến  
những chỗ diễn giảng ấy.  
(3) Kinh ấy khó nghĩ bàn,  
phát sinh mọi phước đức,  
trong biển khổ rộng lớn  
cứu vớt bao chúng sinh.  
(4) Như lai thấy kinh này  
đầu giữa cuối đều hay,  
đều sâu không lường nổi,  
thí dụ cũng không bằng.  
(5) Giả như cát sông Hằng,  
bụi đại địa, nước biển,  
đá núi cả không gian,  
không ví được ít phần.  
(6) Muốn hội nhập pháp tánh  
hãy lắng nghe kinh này:  
nơi chùa tháp pháp tánh  
mới khéo được hội nhập.  
(7) Trong chùa tháp như vậy  
Thấy ta, đấng Mâu ni,  
với ý đẹp lời hay  
quảng diễn kinh vua này.  
(8) Thấy thế nên nhiều kiếp  
số lượng khó nghĩ bàn,  
thường ở trong trời người  
hưởng được vui siêu việt.  
(9) Lắng nghe kinh vua này  
hãy tư duy như vầy:  
ta được một hợp thể  
phước đức bất tư nghị.  
(10) Giả sử khối lửa lớn  
trải dài trăm thiện na,  
nhưng vì nghe kinh này  
bước qua không do dự.  
(11) Đến chỗ giảng kinh này  
được nghe kinh này rồi,  
ác nghiệp loại trừ hết,  
ác mộng cũng loại trừ.  
(12) Ác tinh và biến quái  
cổ đạo cùng tà mị,  
lúc nghe được kinh này  
thì rời xa tất cả.  
(13) Hãy trang trí tòa cao  
đẹp sạch tựa hoa sen,  
pháp sư ngồi trên đó  
trông như chúa đại dương.  
(14) An tọa pháp tòa rồi  
giảng kinh sâu xa này,  
lại sao chép tụng trì  
và giải thích ý nghĩa  
(15) Pháp sư rời tòa ấy  
đi đến các nơi khác,  
thì nơi tòa cao ấy  
tưởng thấy bao thần biến.  
(16) Hoặc thấy hình pháp sư  
còn ngồi trên tòa cao.  
Hoặc thấy hình Như lai  
cùng chư vị Bồ tát.  
(17) Hoặc tưởng đức Phổ hiền,  
hoặc tưởng Diệu cát tường,  
hoặc thấy Từ thị tôn,  
ngồi trên tòa cao ấy.  
(18) Hoặc thấy tướng kỳ diệu  
hay thấy hình chư thiên,  
và mới thấy như vậy  
thoạt cái đã biến mất.  
(19) Thấy những điềm lành ấy  
làm gì cũng vừa ý,  
phước đức viên mãn cả:  
Như lai nói như vậy.  
(20) Siêu việt và danh tiếng,  
hủy diệt mọi phiền não,  
giặc ngoại xâm trừ được,  
chiến đấu thường đắc thắng.  
(21) Ác mộng toàn không có  
độc tố cũng tiêu tan,  
ác nghiệp thân miệng ý  
kinh lực cũng diệt được.  
(22) Trong đại lục Thiệm bộ  
danh tiếng tràn đầy cả,  
bao nhiêu những oán thù  
rời xa được hết thảy.  
(23) Thù địch đến xâm lăng  
nghe danh cũng triệt thoái,  
không động đến vũ khí,  
đối trận sinh hoan hỷ.  
(24) Phạn vương và Đế thích,  
bốn Thiên vương hộ thế,  
và Kim cương dược xoa,  
Chánh liễu tri đại tướng,  
(25) long vương hồ Vô nhiệt,  
cùng với Sa yết la,  
nhạc thần Khẩn na la,  
Tô la kim sí chủ,  
(26) Đại biện tài thiên nữ,  
Đại cát tường thiên nữ,  
chư thiên đứng đầu này  
thống lãnh cả thiên chúng,  
(27) thường hiến cúng Như lai  
và Pháp bảo siêu việt,  
thường sinh tâm hoan hỷ  
tôn kính kinh vua này.  
(28) Thiên chúng như thế này  
đều cùng nhau suy nghĩ,  
quan sát người làm phước  
rồi cùng nói như vầy:  
(29) Hãy coi những người ấy  
là bậc đại phước đức,  
thiện căn tinh tiến lực  
sẽ sinh lên Thiên giới.  
(30) Để nghe kinh vua này,  
người ấy kính đến đây,  
hiến cúng chùa tháp Pháp  
vì lòng tôn trọng Pháp.  
(31) Người ấy thương chúng sinh  
mà làm đại lợi ích,  
và là đồ chứa đựng  
kinh vua sâu xa này.  
(32) Nhập được pháp môn này  
là nhập được pháp tánh,  
nên với kinh Hoàng kim  
hãy hết lòng lắng nghe.  
(33) Người ấy đã hiến cúng  
vô số chư Như lai,  
do thiện căn lực ấy  
mới được nghe kinh này.  
(34) Do vậy các thiên chủ,  
thiên nữ Đại biện tài,  
thiên nữ Đại cát tường,  
cùng bốn vị Thiên vương,  
(35) và vô số Dược xoa  
dũng mãnh đầy thần lực,  
phân nhau ra bốn phía  
thường đến hộ vệ cho.  
(36) Nhật nguyệt và Đế thích,  
chư thần nước gió lửa,  
Phệ sốt nộ, Diêm la,  
Đại biện tài vân vân,  
(37) Các Thiên vương hộ thế  
dũng liệt, đủ uy thần,  
hộ vệ người trì kinh  
ngày đêm không rời xa.  
(38) Đại lực dược xoa vương,  
Na la diên, Tự tại,  
hâm tám thần Dược xoa,  
Chánh liễu tri cầm đầu,  
(39) và trăm ngàn Dược xoa  
sức lớn lại thần thông,  
thường đến chỗ hiểm nguy  
ủng hộ người trì kinh.  
(40) Kim cương dược xoa vương  
với năm trăm tùy thuộc,  
cùng chư đại bồ tát  
cũng thường đến hộ trì.  
(41) Bảo vương dược xoa chủ,  
cùng với Mãn hiền vương,  
Khoáng dã, Kim tì la,  
Tân độ la, Hoàng sắc (92) .  
(42) Mỗi dược xoa vương này  
cùng năm trăm tùy thuộc,  
thấy ai nghe kinh vua  
thì cùng đến hộ vệ.  
(43) Thái quân, Kiền thát bà,  
Vi vương, Thường chiến thắng,  
Châu cảnh và Thanh cảnh,  
và Bột lý sa vương,  
(44) Đại tối thắng, Đại hắc,  
Tô bạt noa kê xá,  
Bán chi ca, Dương túc,  
cùng với Đại bà dà,  
(45) Tiểu cừ và Hộ pháp,  
cọng với Di hầu vương,  
Châm mao và Nhật chi,  
Bảo phát, cùng đến giúp.  
(46) Đại cừ, Nặc câu la,  
Chiên đàn, Dục trung thắng,  
Xá la với Tuyết sơn,  
cùng với Sa đa sơn (93) ,  
(47) đều có thần thông lớn  
hùng mãnh đủ đại lực,  
thấy người trì kinh ấy,  
cùng đến mà hộ vệ.  
(48) A na bà đáp đa,  
cùng với Sa yết ra,  
Mục chân, Ê La diệp,  
Nan đà, Nan đà nhỏ (94) ,  
(49) rồng trong trăm ngàn rồng,  
đủ thần thông uy đức,  
cùng giúp người trì kinh,  
ngày đêm không rời bỏ.  
(50) Bà trĩ, La hầu la,  
Tì ma chất đa la,  
Mẫu chỉ chiêm bát ra,  
Đại kiên và Hoan hỷ (95) .  
(51) Và tô la vương khác  
cùng vô số thiên chúng,  
có sức lớn, mạnh mẽ,  
đều đến giữ người ấy.  
(52) Mẫu thần Ha lị để,  
Dược xoa chúng năm trăm,  
người trì kinh thức dậy  
là đến hộ vệ cho.  
(53) Chiên trà, Chiên trà lị,  
Chiên trĩ nữ dược xoa,  
Côn đế, Câu tra xỉ,  
Hút tinh chất chúng sinh (96) ,  
(54) thần chúng như thế ấy  
sức lớn, có thần thông,  
giữ gìn người trì kinh  
ngày đêm thường không rời.  
(55) Vô lượng các thiên nữ  
Biện tài thiên cầm đầu,  
bao nhiêu là tùy thuộc  
Cát tường thiên lãnh đạo,  
(56) Nữ thần đại địa này,  
thần trái hạt vườn rừng,  
thần cây, thần sông rào,  
thần chùa tháp, vân vân,  
(57) chư thiên thần như vậy  
lòng sinh đại hoan hỷ,  
cùng đến mà hộ vệ  
người đọc tụng kinh vua.  
(58) Thấy ai trì kinh vua,  
tăng thọ lượng sắc lực,  
tăng uy quang phước đức,  
tăng tướng tốt trang nghiêm,  
(59) mà tinh tú biến quái  
xúc phạm đến người ấy,  
thì đến nỗi ác mộng  
cũng làm cho tan biến.  
(60) Nữ thần đại địa này  
Kiên cố đầy uy thế,  
bằng năng lực pháp vị  
của kinh vua Hoàng kim,  
(61) làm cho màu mỡ đất  
vốn thấm xuống rất sâu,  
nay lại được thấm lên  
tươi nhuần cho đại địa.  
(62) Đại địa dày sáu mươi  
tám ức du thiện na,  
từ ngoại biên kim cương  
màu đất vẫn thấm lên.  
(63) Lại do nghe kinh vua  
được khối đại công đức,  
làm cho chính chư thiên  
cũng nhờ được ích lợi;  
(64) làm cho chư thiên ấy  
tăng uy lực ánh sáng,  
tăng hoan hỷ yên vui,  
hết hiện tượng suy đồi.  
(65) Đại lục phía nam này  
thần cây trái lúa thóc  
cũng do lực kinh vua  
mà tâm thường hoan hỷ,  
(66) làm lúa cây thành thục,  
bông hoa đều sum sê,  
trái hạt đầy phẩm chất,  
tất cả tràn đại địa.  
(67) Bao nhiêu loại cây cỏ,  
và cả những vườn rừng,  
đều sinh ra hoa đẹp,  
hương thơm thường lan tỏa.  
(68) Những loại cây có hoa  
kết ra các thứ trái,  
thì trái ngon và ngọt,  
và chỗ nào cũng có.  
(69) Cũng tại đại lục này,  
vô số những long nữ  
tâm sinh đại hoan hỷ,  
cùng vào trong ao hồ.  
(70) Sen hồng, sen trắng nở,  
sen xanh và sen trắng,  
ao hồ nào cũng trồng  
và hoa đầy ao hồ.  
(71) Uy lực kinh vua này  
làm không gian trong sáng,  
mây mù bị xua tan,  
toàn bộ đều sáng sủa.  
(72) Thái dương phóng ánh sáng  
trong suốt và rực rỡ,  
do lực kinh vua này  
sáng huy hoàng khắp nơi.  
(73) Uy lực kinh vua này  
hỗ trợ cho quốc chúa,  
có và dùng vàng ròng  
mà kiến tạo cung điện.  
(74) Thần thái dương vui vẻ  
nhìn thấy đại lục này,  
nên thường đem sáng lớn  
chiếu rực khắp mọi nơi.  
(75) Do vậy trong đại địa  
bao nhiêu hồ ao sen,  
ánh sáng chiếu đúng lúc  
nên hoa sinh nở cả.  
(76) Trong cả đại lục này  
trái hạt và dược liệu  
đều khéo thành thục hết  
và tràn đầy đại địa.  
(77) Do uy lực kinh vua,  
nhật nguyệt chiếu đến đâu  
tinh tú đúng hành độ  
gió mưa thuận thời tiết.  
(78) Khắp đại lục Thiệm bộ  
đất nước rất giàu vui,  
chỗ nào có kinh vua  
hơn chỗ khác bội phần.  
(79) Kinh Ánh sáng hoàng kim  
quảng bá đến chỗ nào,  
có người giảng và tụng  
thì phước được như vậy.  
Bấy giờ Đại cát tường thiên nữ, cùng chư thiên vân vân, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết như vậy thì ai cũng đại hoan hỷ, nhất tâm hộ vệ kinh vua và những người thọ trì kinh vua, làm cho những người ấy không lo buồn, được an lạc.

 

 

(1)   Phẩm 23: Thọ Ký Thành Phật

(2)   Bấy giờ đức Thế tôn ở trong đại hội thuyết pháp phong phú rồi, muốn thọ ký cho bồ tát Diệu tràng và hai người con, Ngân tràng và Ngân quang, sẽ được vô thượng bồ đề. Lúc ấy có mười ngàn thiên tử, do thiên tử Tối thắng quang minh cầm đầu, từ Đao lợi thiên đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài rồi ngồi qua một phía, lắng nghe Ngài thuyết pháp.

(3)   Đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, trong vị lai, quá vô lượng vô số kiếp, tại thế giới hệ Kim quang minh, ông sẽ thành vô thượng giác, với danh hiệu Kim bảo sơn vương như lai, đủ mười đức hiệu. Sau khi đức Kim bảo sơn vương như lai nhập niết bàn, giáo pháp cũng hết, thì trưởng tử là Ngân tràng sẽ ở chính nơi thế giới hệ ấy mà kế tiếp chỗ Ngài, được thành Phật đà danh hiệu Kim tràng quang như lai, đủ mười đức hiệu, và thế giới hệ ấy bấy giờ chuyển danh là Tịnh tràng. Sau khi đức Kim tràng quang như lai nhập niết bàn, giáo pháp cũng hết, thì thứ tử là Ngân quang cũng ở chính nơi thế giới hệ ấy mà kế tiếp chỗ Ngài, được thành Phật đà, danh hiệu Kim quang minh như lai, đủ mười đức hiệu.

(4)   Mười ngàn thiên tử nghe ba vị đại sĩ được thọ ký, trước đó lại nghe kinh vua tối thượng, nên tâm hoan hỷ, sạch như hư không. Đức Thế tôn biết mười ngàn thiên tử ấy thiện căn thuần thục, nên cũng thọ ký cho sẽ được đại bồ đề. Rằng các thiên tử, trong vị lai, quá vô lượng vô số kiếp, các người sẽ ở nơi thế giới hệ Tối thắng nhân đà ra cao tràng mà thành tựu vô thượng bồ đề, cùng một dòng họ, cùng một danh hiệu. Danh hiệu ấy là Diệm mục thanh tịnh ưu bát la hương sơn như lai, đủ mười đức hiệu. Mười ngàn đức Như lai như vậy tuần tự tiếp nhau mà xuất hiện.

(5)   Bấy giờ Bồ đề thọ thần thưa, bạch đức Thế tôn, mười ngàn thiên tử này mới từ Đao lợi đến chỗ đức Thế tôn để nghe pháp, tại sao đức Thế tôn thọ ký liền cho sẽ thành Phật đà? Bạch đức Thế tôn, con chưa nghe những thiên tử này tu tập đầy đủ sáu ba la mật và những khổ hạnh khó làm như vô lượng bồ tát khác, xả bỏ tay chân, đầu mắt, tủy não, thân quyến, vợ con, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, bộc tùng, cung điện, vườn rừng, bạc vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, bích ngọc, bạch ngọc, đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm, dược phẩm, đem cúng phẩm hiến cúng vô số chư vị Thế tôn. Mà bồ tát thì phải làm như vậy, và ai cũng phải trải qua vô số kiếp, sau đó mới được thọ ký thành tựu vô thượng bồ đề. Bạch đức Thế tôn, các thiên tử này vì lý do nào, tu thắng hạnh gì, trồng thiện căn chi, mà từ Đao lợi đến đây, mới nghe pháp lại được thọ ký liền? Xin đức Thế tôn giải thích cho con khỏi hoài nghi.

(6)   Đức Thế tôn bảo Bồ đề thọ thần, theo thiện nữ nói thì phải từ thiện căn thắng diệu là siêng khổ tu tập mới được thọ ký. Nhưng các thiên tử này từ bỏ lạc thú ở thiên cung mà cố đến đây lắng nghe kinh Ánh sáng hoàng kim. Nghe rồi thiết tha tôn trọng kinh ấy. Tâm họ như lưu ly, không gợn dơ bẩn. Họ lại nghe sự thọ ký của ba vị đại sĩ. Họ còn có yếu tố thệ nguyện và chánh hạnh mà quá khứ đã tu tập lâu xa. Do vậy mà Như lai thọ ký cho trong vị lại sẽ thành tựu vô thượng bồ đề. Bồ đề thọ thần nghe đức Thế tôn giải thích như vậy thì hoan hỷ tín thọ.

 

 

(7)   Phẩm 24: Chữa Trị Bịnh Khổ

(8)   Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần, hãy nghe cho kyլ hãy khéo nghĩ nhớ. Như lai nay nói cho thiện nữ nghe về bản nguyện của mười ngàn thiên tử.

(9)   Thiện nữ, quá khứ vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật đà xuất hiện thế giới, danh hiệu Bảo kế như lai, đủ mười đức hiệu. Sau khi đức Như lai ấy nhập niết bàn, giáo pháp nguyên chất hết rồi, trong giáo pháp tương tự có một quốc vương tên Thiên tự tại quang, luôn luôn áp dụng chánh pháp mà hóa cải quốc dân, tựa như cha mẹ đối với con cái. Trong vương quốc có một trưởng giả tên Trì thủy, hiểu rành y học, thông suốt tám thuật. Ai bịnh khổ, tứ đại bất ổn, ông cứu chữa được cả.

(10)Thiện nữ, Trì thủy trưởng giả có người con trai duy nhất, tên là Lưu thủy. Người đẹp, nghiêm chỉnh, ai cũng thích nhìn. Bẩm tính thông minh, quán triệt mọi luận thuyết và kyՠthuật. Bấy giờ trong vương quốc nhiều người bị bịnh truyền nhiễm, khổ sở đến nỗi không thích sống nữa. Thiện nữ, trưởng giả tử Lưu thủy thấy vậy thì sinh đại bi tâm, nghĩ như vầy. Bao nhiêu là người bịnh khổ! Cha ta rành y học, khéo tám thuật, chữa được mọi bịnh do tứ đại hoặc thêm hoặc bớt. Nhưng cha ta già yếu rồi. Đi đâu cũng phải đỡ, làm sao đến được những nơi làng xóm thành thị mà chữa bịnh. Thế thì bao người bịnh nặng mà không ai cứu chữa. Vậy ta hãy đến chỗ cha ta, vị đại lương y, hỏi bí quyết chữa bịnh. Biết được bí quyết ấy, ta sẽ đi đến thành thị làng xóm mà cứu chữa cho người, làm cho họ an lạc. Trưởng giả tử nghĩ rồi tức tốc đến chỗ cha, lạy ngang chân ông, chắp tay cung kính, đứng qua một bên, dùng lời chỉnh cú mà thỉnh cầu.

(11)(1) Xin cha thương tưởng con.  
Con muốn cứu mọi người.  
Nay con hỏi y thuật,  
mong cha nói cho con.  
(2) Tại sao thân suy hỏng,  
tứ đại có thêm bớt?  
Và ở vào lúc nào  
thì bịnh tật sinh ra?  
(3) Ăn uống như thế nào  
để hưởng được yên vui?  
Làm sao trong cơ thể  
nhiệt lực không suy tổn?  
(4) Bịnh con người có bốn,  
có bịnh phong, nhiệt, đàm,  
lại có bịnh hỗn hợp,  
làm sao trị liệu được?  
(5) Lúc nào nổi bịnh phong?  
lúc nào phát bịnh nhiệt?  
lúc nào động bịnh đàm?  
lúc nào bịnh hỗn hợp?  
Trì thủy trưởng gia nghe con hỏi rồi, cũng nói lại bằng chỉnh cú.

(12)(6) Y theo phép chữa bịnh  
của tiên nhân đời xưa,  
cha tuần tự nói cho,  
khéo nghe để cứu người.  
(7) Ba tháng là mùa xuân,  
ba tháng là mùa hè,  
ba tháng là mùa thu,  
ba tháng là mùa đông.  
(8) Ấy là theo một năm  
ba tháng một mà nói.  
Hai tháng một một tiết  
một năm thành sáu tiết:  
(9) giêng hai là tiết hoa,  
ba tư là tiết nóng,  
năm sáu là tiết mưa,  
bảy tám là tiết thu,  
(10) chín mười là tiết lạnh  
một chạp là tiết tuyết.  
Phải phân biệt như vậy,  
cho thuốc đừng sai chậy  
(11) Tùy theo mùa tiết ấy  
mà điều hòa ăn uống,  
vào bụng tiêu hóa được,  
mọi bịnh mới không sinh.  
(12) Khí hậu nếu thay đổi  
thì tứ đại biến động,  
bấy giờ mà không thuốc  
thì tất sinh bịnh khổ.  
(13) Thầy thuốc biết bốn mùa,  
lại biết về sáu tiết,  
biết bảy phần cơ thể  
thì cho thuốc không sai.  
(14) Bảy phần là vị (97) , máu,  
thịt, mỡ, xương, tủy, não.  
Biết bịnh nhập bảy phần  
lại biết chữa được không.  
(15) Bịnh thì có bốn loại:  
các loại phong, nhiệt, đàm,  
và loại bịnh hỗn hợp,  
nên biết lúc chúng phát:  
(16) mùa xuân phát bịnh đàm  
mùa hè phát bịnh phong,  
mùa thu phát bịnh nhiệt,  
mùa đông biểnh hỗn hợp.  
(17) Xuân ăn chất nóng cay,  
hè béo nóng mặn dấm,  
thu ăn lạnh ngọt béo,  
đông ăn chát béo ngọt.  
(18) Trong bốn mùa như vậy,  
dùng thuốc và ăn uống  
theo như mùi vị ấy,  
bịnh không lý do sinh.  
(19) Sau ăn bịnh do đàm,  
ăn tiêu bịnh do nhiệt,  
sau tiêu bịnh do phong,  
cứ thế nhận thức bịnh.  
(20) Nhận thức gốc bịnh rồi,  
tùy bịnh mà cho thuốc.  
Nếu bịnh trạng khác đi,  
cũng chữa cái gốc trước.  
(21) Phong thì dùng dầu, kem,  
nhiệt thì lợi đại tiểu,  
đàm thì hóa, thông, thổ,  
hỗn hợp thì cả ba.  
(22) Phong nhiệt đàm cùng có,  
thế gọi là hỗn hợp.  
Tuy biết lúc bịnh phát,  
cũng phải xét gốc bịnh.  
(23) Xét biết như vậy rồi,  
tùy lúc mà cho thuốc.  
Ăn, uống, thuốc, không sai,  
mới gọi thầy thuốc giỏi.  
(24) Lại nữa biết tám thuật  
bao quát mọi cách chữa.  
Nếu hiểu rõ tám thuật  
hãy chữa bịnh cho người.  
(25) Tám thuật là châm chích,  
giải phẫu, chữa thân bịnh,  
chữa tâm bịnh, trúng độc,  
khoa nhi với khoa lão,  
sau hết là dưỡng sinh,  
[đó, tám thuật chữa bịnh].  
(26) Trước xem xét hình sắc,  
nói năng và tánh tình,  
sau hỏi đến chiêm bao,  
thì biết phong nhiệt đàm.  
(27) Khô ốm đầu ít tóc,  
tâm tính không ổn định,  
nói nhiều mộng bay đi,  
đó là thuộc loại phong.  
(28) Tuổi trẻ mọc tóc trắng,  
nhiều mồ hôi, hay giận,  
thông minh, mộng thấy lửa,  
đó là thuộc loại nhiệt.  
(29) Tâm ổn, thân ngay thẳng,  
nghĩ ky
լ đầu nhờn, cáu,  
mộng thấy nước, vật trắng,  
đó là thuộc loại đàm.  
(30) Hỗn hợp thì có chung,  
chung hai hay chung ba,  
và hễ loại nào nhiều  
là tính bịnh hỗn hợp.  
(31) Biết gốc, đặc tính bịnh,  
chuẩn bịnh mà cho thuốc.  
Nhưng thấy không tướng chết  
mới rõ bịnh cứu được.  
(32) Giác quan thì thác loạn,  
khinh khi thầy thuốc giỏi,  
thấy bạn thân cũng giận,  
đó là hiện tượng chết.  
(33) Mắt trái biến màu trắng  
lưỡi đen, sống mũi lệch,  
vành tai không như cũ,  
môi dưới thì xệ xuống (98)  
(34) Ha lê lặc một thứ  
có đủ cả sáu vị,  
trừ được tất cả bịnh,  
là thuốc vua, không kị.  
(35) Lại ba trái ba cay (99)  
là thuốc dễ có được,  
đường cát, mật ong, sữa,  
cũng chữa được nhiều bịnh.  
(36) Ngoài ra, dược liệu khác,  
tùy bịnh mà thêm vào.  
Nhưng trước phải từ tâm,  
đừng mưu tính tài lợi.  
(37) Cha đã nói những việc  
cần cho sự chữa bịnh.  
Con đem ra cứu người  
thì phước sẽ vô biên.  
Thiện nữ, bấy giờ trưởng giả tử Lưu thủy đích thân hỏi và nghe cha nói về tám thuật, về tứ đại thêm bớt, về thời tiết bất đồng, về cách cho thuốc. Hiểu biết rành rẽ rồi, trưởng giả tử tự xét kyՠmình đủ sức cứu chữa mọi bịnh. Bèn đi đến thành thị thôn xóm, chỗ nào có bịnh nhân cũng đến, dịu ngọt an ủi, và rằng tôi là thầy thuốc, tôi là thầy thuốc, tôi rành thuốc chữa bịnh. Tôi sẽ chữa cho các người lành mạnh. Thiện nữ, bấy giờ người ta nghe trưởng giả tử an ủi, hứa chữa bịnh cho, thì bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng nghe lời ấy cũng phấn chấn thân tâm, vui mừng hiếm có. Do vậy mà bịnh khổ tiêu tan, khí lực sung mãn, bình phục như cũ. Thiện nữ, bấy giờ lại có bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng mà khó cứu chữa, tức thì đến chỗ trưởng giả tử xin chữa thêm. Trưởng giả tử tức thì cho thuốc, bảo dùng, và ai cũng lành cả. Thiện nữ, cứ như thế, trưởng giả tử Lưu thủy chữa lành cho bao nhiêu bịnh nhân ở trong vương quốc.

�cre8�)�8nbsp;
(88) Gió hòa đúng thời tiết,  
mưa ngọt thuận thời vụ,  
thóc trái khéo sinh, lớn,  
quốc dân không đói khát.  
(89) Tất cả hàng chư thiên  
hay ẩn mình cung vua  
cầu chúc cho nhà vua  
quên mình quảng bá Pháp.  
(90) Hãy tôn trọng Pháp bảo  
mà yên vui quốc dân,  
hãy thân thiết Pháp bảo,  
phước báo tự trang hoàng.  
(91) Thân quyến thường hoan hỷ  
thường lánh xa ác pháp:  
đem Pháp giáo dục người  
thì an lạc thường xuyên.  
(92) Làm cho cả quốc dân  
tu hành mười thiện nghiệp,  
thì cả nước sung túc,  
thì quốc gia thanh bình.  
(93) Vua mà hành hóa Pháp  
thuần hóa kẻ làm ác,  
thì được danh vọng tốt  
vì lợi lạc quốc dân.  
Bấy giờ đại hội, trong đó có các vị quốc vương, nghe đức Thế tôn nói về chánh pháp quản trị quốc gia của quốc vương xưa, ai cũng được sự tâm đắc hiếm có, cùng đại hoan hỷ mà tin tưởng, tiếp nhận và phụng hành.