Long Thơ Tịnh Độ

 

Tác Giả :Vương Nhựt Hưu

 

---o0o---

 

QUYỂN NHẤT - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI :

 

Tôi xem khắp trong ba tạng kinh và các bộ ký; rút lấy ý chỉ nhiệm mầu mà viết ra bộ sách Tịnh độ này, không một chữ nào, mà không căn cứ. Vậy xin các trang hậu học đừng chấp tôi người hèn, mà không quan cố đến lời nói của tôi, trong bộ Long Thơ Tịnh Độ này.

 

Bởi tôi muốn ai ai cũng đồng tỏ ngộ, ai ai cũng đồng tu Tịnh độ. Thế cho nên tôi mới biện bạch những lời ngay thẳng, không dùng lời bóng bẩy và trau chuốt.

 

Tôi là họ Vương tên Nhựt Hưu ở về quận Long Thơ (nước Trung Hoa).

 

Xét ra sách Tịnh độ truyền đời nhiều lắm, cho nên tôi soạn bộ sách này để

 

nhan đề đầu quyển hiệu là : Long Thơ Tịnh Độ, cho khác với các bộ sách kia vậy.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ NHẤT

 

Cái thuyết Tịnh độ thường thấy người thực hành trong mỗi ngày, mà bao nhiêu công niệm Phật bèn thấy kết quả nơi đời sau, lúc vãng sinh về Tịnh độ. Người không biết, tưởng niệm Phật là việc của đời sau, nào ngờ đâu công đức niệm Phật lại rất có lợi ích ngay trong đời này nữa vậy.

 

Vì sao ? Phật sở dĩ tha thiết dạy người làm lành, cũng như nhà Nho dạy người lánh dữ, nào có khác chi ! Khác là khác có danh từ Phật với Nho vậy thôi. Thế cho nên người niệm Phật tu Tịnh độ thường thấy trong mỗi ngày, ý tưởng Phật, miệng niệm Phật, thân làm việc Phật, thì đâu không phải là ba nghiệp thanh tịnh ? Ba nghiệp thanh tịnh là việc lành. Làm lành thời là quân tử, là trang đại hiền, đương đời ai cũng kính mến, phục lụy, Thánh thần phò hộ, phước lộc được tăng trưởng, sống lâu vô cùng tận. Do đây mà nói, thời để tâm nghe theo lời Phật dạy, thực hành theo pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, thì ai dám bảo rằng không lợi ích ngay trong đời này ư ?

 

 

 

Lại nữa, người bị nghiệp duyên ràng buộc, không thể chuyên chú niệm Phật. Vậy nếu người có chí niệm Phật, thì ác duyên kia cũng có thể từ đây mà bớt lần, rồi thiện duyên cũng có thể từ đây tăng tiến. Ác duyên bớt lần bớt mãi không thôi, cho đến ngày bặt dứt, không còn ác duyên nữa. Thì thiện duyên tăng tiến tăng mãi không thôi, cho đến ngày thiện duyên thuần thục.

 

Ác duyên bặt dứt, thiện duyên thuần thục thì không phải người quân tử

 

chớ chi ? Không phải kẻ đại hiền chớ chi ? Do thế, nên nghiệm xét, thời lời nói của Phật không phải là vô cớ, vậy niệm Phật cầu sinh Tịnh độ làm tâm, thì ai dám bảo rằng không lợi ích đương đời ư ?

 

Lại nữa, những người không biết lễ nghĩa là sự quý, không biết việc hình phạt là sự đáng ghê sợ; cứ đem tiền tài khí lực làm mạnh, cứ lấy quyền thế

 

làm hơn. Vậy nếu biết lấy câu niệm Phật để vào tâm thời cũng biết xét mình, mà chừa cái lỗi của mình, phải trừ nơi tâm mình, không đặng mống các điều chê bai người, không hung dữ, không lòng ganh gổ người hiền, không tham muốn giận hờn, không ép uổng người gạt người lấy của, chỗ ra làm tuy không thể hợp lễ nghĩa cho mấy, nhưng cũng có thể kề gần sự lễ nghĩa không xa, tuy không thể khỏi hẳn việc hình phạt nhưng cũng lánh xa được việc hình phạt vậy. Gần lễ nghĩa, xa hình phạt, lần lần khỏi đặng khu vực của kẻ tiểu nhân, mà đi tới quốc độ của người quân tử.

 

Người thường biết được chút ít Phật lý, trong đời ai cũng ngợi khen là kẻ thiện nhân, và ai ai cũng bắt chước làm theo hành vi của người ấy. Do đây mà nghiệm xét thời lời Phật dạy, phải để tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, ai dám bảo rằng không lợi ích nơi đương đời ư ?

 

Có người hỏi ông Vương Nhựt Hưu rằng : Theo lời nói của đức Khổng Tử, để tâm thực hành theo Nho giáo, đâu chẳng lợi ích nơi đương đời, hà tất phải niệm Phật cầu sinh Tịnh độ làm chi ?

 

ĐÁP.- Vả chăng Phật có nói : “Cái thân mộng ảo này phải thác, giác tánh còn hoài”. Còn lời Thánh thì nói rằng : “Người noi làm theo sự nhân nghĩa thời đặng bất tử, mà kẻ nghe đạo thời chứng đặng quả vô sinh”.

 

Tóm lại thì như thuốc chẳng xứng tay nào, chỉ có biết dùng thời mới mau lành bệnh. Bởi thế thực hành theo Nho giáo, ấy đó là pháp thế gian mà thôi, chớ không phải pháp xuất thế gian vậy. Vì sao ? Pháp thế gian thời không ra khỏi luân hồi lục đạo, còn pháp xuất thế gian thời chóng khỏi luân hồi và sinh tử.

 

 

 

Thế cho nên niệm Phật cầu sinh Tịnh độ chẳng những ích lợi đương đời, lại còn lợi ích nơi đời sau nữa, cho nên pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là một pháp siêu việt, vượt thế gian và xuất thế gian vậy.

 

Nay sóng sông ái hà nhận chìm đến đáy, mà chẳng lo, ở nhà lửa đốt cháy sao không sợ, dệt dày lưới (Si) , ngọn gươm (Trị) lụt, cắt sao cho đứt, trồng sâu cội (Nghi), sức ít (Tín) nhổ sao cho tróc, đó mới thật đành lòng đành dạ, cầu họa vui tai, lại chê cái cõi trong sạch, tham mến cõi đời phiền não, như

 

châu chấu bị cháy cánh, như chim ở trong lồng, cá trong chậu, lại khen vui vẻ. Than ôi ! Ở trong thế gian này, có một sự làm cho cả thảy nhân loại không ai trốn tránh đặng và cũng không ai từ chối đặng.

 

Những sự ấy chánh pháp nguyên từ vô thỉ mà lưu độc cho đến ngày nay, chớ không phải là sự mới có. Thế mà ít thấy ai quan niệm và lưu tâm đến nó, thành thử, suốt đời cứ sống say chết ngủ ở trong cái phạm vi của nó mà không tự biết. Thiệt là thảm não thay !

 

 

Sự ấy là gì ? Chính là sự khổ hiện tiền của nhân loại đó. Cổ nhân có nói rằng : “Ta Bà khổ, Ta Bà khổ, Ta Bà chi khổ thùy năng sổ . Tịnh độ lạc !

 

Tịnh độ lạc ! Tịnh độ chi lạc thùy năng giác”. Nghĩa là : Ta Bà là cái cõi khổ

 

mà cái khổ ở nơi Ta Bà có ai kể xiết. Tịnh độ là cõi vui mà cái vui ở nơi Tịnh độ có ai biết đặng.

 

Vậy chúng ta đã hiểu rằng : Tịnh độ là cõi khoái lạc tối thắng rồi, mà muốn sinh về cõi ấy phải làm cách nào ? - Vả chăng Đức Phật A Di Đà có lời nguyện rằng : “Bằng có người nào niệm danh hiệu Ta, thì đặng về nước Ta; nếu chẳng như vậy, thời Ta thề không làm Phật”. Từ Đức Phật Thích Ca giáng trần đến nay đã hai ngàn năm trăm ba mươi sáu năm, trong bấy nhiêu năm ấy, có những bậc cao tăng, thánh hiền, cụ nho, nông, công, thương, sĩ, cổ, đàn ông, đàn bà, nô tỳ, hoặc mình cũng khuyên người, hoặc biên văn lập thế. Trọng giáo pháp như báu, khinh thân mình như bụi, gặp việc nặng chẳng sợ, cứ sửa mình lập hạnh, mà gắng sức học đạo này.

 

Hoặc người tu tùy hỷ, hoặc người tin mà quy y số ấy càng đông như sao, như bụi, song chưa gọi là nhiều vậy. Hoặc người niệm Phật nửa tin, nửa nghi, dụ dự không quyết, mà còn đặng sinh về Tây phương ở nơi biên địa nghi thành thay ! Huống chi người chánh kiến chánh nguyện thì có chi nghi ngờ ?

 

 

 

Nay có người muốn vui cõi thiên nhân, mà không tu phước, muốn khỏi biển sinh tử, mà không niệm Phật, cũng như chim không lông cánh mà muốn bay, cây không gốc mà muốn sống há dễ đặng nào !

 

Vậy nếu biết được như thế, thì chẳng những hiện tại, mà cho đến ngày sau chúng ta đặng rảnh phần khổ não, hưởng sự an vui, và hết lăn lộn trong trường sinh tử.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ HAI

 

Luận về lý, thời thượng thấy trong mỗi ngày, không hề xa cách, như bài trước đã nói. Luận về tích thời thấy trong khi xơi trà buổi ban mai bất tất vì chấp cả ngày, cứ niệm mười câu Nam mô A Di Đà Phật là được rồi. Vì sao ?

 

Bởi pháp môn tu trì có chia ra chín phẩm ai ai cũng có thể tu miễn là hồi tâm hướng thiện thời là được. Cho nên pháp môn mười câu niệm Phật đây ai ai cũng có thể làm được cả.

 

Ông Bạch Lạc Thiên làm lời tụng rằng : Ta tuổi bảy mươi mốt, chẳng ham việc ngâm nga, coi kinh mỏi con mắt, làm phước sợ bôn ba, lấy chi độ

 

tai mắt, cứ một tiếng niệm Di Đà, đi cũng niệm A Di Đà, ngồi niệm A Di Đà, dẫu việc chi gấp rút, chẳng lìa câu Di Đà, khuyên chúng trong pháp giới, đồng niệm A Di Đà, muốn thoát luân hồi khổ, phải niệm A Di Đà.

 

Hồi đời Phật còn tại thế, có một ông già cầu đi tu, ông Xá Lợi Phất chẳng cho, Phật xem lại người ấy, kiếp trước là tiều hái củi, bị cọp rượt, trèo lên cây, hoảng sợ niệm tiếng Nam mô Phật, vì có chút lành ấy, nên nay gặp Phật độ đặng siêu thoát, chứng quả A La Hán.

 

Hỡi ôi ! Chỉ kêu tên Phật một tiếng còn đặng thoát huống chi mình trọn đời niệm Phật thì sao ?

 

Trong Thập Lục Quán Kinh nói : Lòng chí thành niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật thì đặng tiêu tám mươi ức kiếp sinh tử tội nặng.

 

Những người tội ngũ nghịch thập ác, đến cơn lâm chung, niệm mười câu niệm A Di Đà Phật còn đặng về Tây phương, huống chi người ăn chay giữ

 

giới niệm Phật lâu ngày. Tuy người tạo ác trăm năm, nhưng một giờ tu thiện thì ác cũng có thể diệt trừ, ví như nhà tối ngàn năm chong một ngọn đèn thời là sáng vậy, cho nên tuy kẻ giết trâu xẻ ngựa lúc buông dao hàng thịt, cũng có thể tu chứng.

 

 

 

Vì lẽ biết hồi tâm sợ sự nhân quả mà tránh điều dữ làm việc lành. Có người nói rằng : Hai chữ nhân quả không đủ tin. - Nếu lấy sự trước mắt mà luận, thì những người bình sinh trong sạch, làm những điều phước thiện đáng lẽ được phước đặng thọ mới phải, mà sao thấy có ngươi cứ nghèo hèn tật bệnh và lại thọ mạng không dài ?

 

Trái lại, những người bất nhân ác nghiệp, hại vật sát sinh, lý ưng phải chịu mấy điều cực khổ hoạn nạn mới phải, mà sao thấy cũng có người lại được sống lâu, giàu có và sang trọng ? - Như vậy hai chữ nhân quả có chứng nghiệm gì, mà buộc người ta phải tin chớ ?

 

Ôi ! Nói như thế cũng chẳng khác nào ngồi dưới giếng mà ngó lên trời, dòm ống quản mà coi con beo, thì cái thấy ấy có nhằm gì đâu, mà bảo không lầm sao đặng ?

 

Kinh Niết Bàn nói rằng : “Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình, tam thế

 

nhân quả, tuần hườn bất thất, nhất sinh khống quá, hậu hối nan truy”. Nghĩa là : Lẽ báo ứng về sự thiện ác như bóng theo hình, nhân quả trong ba đời xoay quanh chẳng mất, nếu kiếp này bỏ qua, thì sau ăn năn không kịp.

 

Sách Châu Dịch nhà Nho nói rằng : “Tích thiện chi gia, tất hữu dư

 

khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. Nghĩa là : Nhà nào chứa điều lành, ắt có phước dư. Nhà nào chứa điều chẳng lành ắt có họa dư. Nếu xét theo lấy câu nói của các kinh sách đã dẫn chứng đó thì biết trong tam giáo, cũng đều dạy người, phải tin nhân quả, phải biết tội phước, chớ có lẽ

 

nào chưa thấy đặng cái chung cuộc của sự báo ứng thế nào mà vội bác khước, rằng không có nhân quả thì sao phải ? Thập Luận Kinh có nói rằng :

 

“Bác vô nhân quả, đoạn diệt thiện căn”. Nghĩa là : Bác khước cho là không có nhân quả, thì dứt mất căn lành.

 

Vậy nên xưa có thầy Tỳ kheo đối với người tham vấn nói rằng : Bậc đại tu hành không khi nào lạc nhân quả (chính nghĩa là không mất nhân quả).

 

Thế mà người nghe lầm tưởng rằng không có nhân quả, thầy Tỳ kheo bị cái ảnh hưởng thuyết pháp bất minh ấy mà năm trăm đời đọa làm thân con cáo.

 

Còn ông Thiện Tinh Tỳ kheo, thì khởi lòng tà kiến bác khước nhân quả

 

nói rằng : Không có nhân quả rồi trong lúc sống mà đọa địa ngục. Nếu chúng ta muốn nghiên cứu về Phật lý cho đặng đạt tới mục đích thâm diệu, thì trước hết phải tin hai chữ nhân quả cho cùng cực thấu đáo rồi mới do đó, mà vào chỗ chánh tri chánh kiến của Phật đặng.

 

 

 

Huống chi tội ác đã nhiều, phước duyên không có, thì làm sao được cuộc tao phùng thắng hảo, thành thử suốt đời không khi nào thấy Phật nghe pháp, và cũng không có người thiện tri thức nào dạy bảo, cho biết đường lành nẻo dữ, đi lại rồi cũng chìm xuống nổi lên, ở trong sông mê bể khổ.

 

Bởi vậy cho nên lời Tiên đức có nói rằng : “Dục đắc bất chiêu vô giáng nghiệp, mạc báng Như Lai chánh pháp luân”. Nghĩa là : Muốn đặng chẳng chiêu vô gián nghiệp, đừng chê chánh pháp của Như Lai.

 

Có người đương bị đày đọa trong đời hiện tại này, mà biết tự nghĩ rằng : mình cũng một hạng người trong nhân loại mà sao người ta thì phú quý phong lưu muôn phần tự tại, còn mình thì nghèo hèn khổ cực, khốn đốn trăm bề, chắc chỗ tạo nhân kiếp trước của mình lắm điều bất thiện, nên ngày nay mới chiêu cảm cái tội báo như vậy.

 

Nếu những người ấy nghĩ như thế, rồi hồi tâm cải quá, nết cư xử phải do đường chánh đạo, trăm điều ngàn chuyện tự xét lấy mình, ngoài ra thì ăn chay niệm Phật, cầu sinh Tịnh độ, niệm câu Nam mô A Di Đà Phật.

 

Nghĩ tưởng Đức Di Đà thiệt là cha lành của chúng sinh, cho nên khởi một lòng mong tưởng, thời đức vạn linh đã biết mình ngộ mình tu, đặng cầu về Cực Lạc, cho nên nói công phu tu trì chỉ thấy trong khi xơi trà một buổi ban mai, mà công đức lại muôn đời bất hoại.

 

Thế mà người đời vì sao mà không tu ! Tiếc thay, uổng thay. Sách Nho có câu rằng : “Thiên đường hữu lộ vô nhân đáo, địa ngục vô môn hữu khách tầm”. Nghĩa là : Đường về Tịnh độ rộng thênh thang không ai tìm biết mà đến, còn địa ngục không cửa nẻo lại cứ tìm cách mà vào cho đặng, thế mới thật là khổ.

 

Vậy có phải cái quả Thiên đường của ngươi tác phước, cái quả địa ngục của kẻ tạo tội đó không ?

 

Nếu người tác phước kia mà muốn cho cái quả vị của mình càng ngày càng cao, phước duyên của mình càng ngày càng lớn, thì phải lo bái sám tụng kinh ăn chay niệm Phật, ngoài ra để lòng nghiên cứu về diệu lý mà mở

 

mang trí khôn, lấp cạn nguồn tình, lóng trong biển thức. Được như thế chẳng những trong lúc hiện tại này, cái mầm tai gốc họa được tiêu khô, và ruộng phước, hoa duyên được tươi tốt đó thôi, mà lại cũng có ngày được chứng quả vô sinh rồi tiêu diêu trên con đường Cực Lạc nữa.

 

 

 

Bằng như người thừa cái thiện nhân đời trước mà hưởng đặng cái phước quả của ngày nay, rồi lại sinh lòng đắm sắc mê tài, tham danh tiếc lợi khiến cho thần hờn quỷ giận, kẻ oán người thù, thì cội phước càng tiêu, dây oan càng buộc, rồi phải trở lại bị cái ác nghiệp nó lôi kéo vào trong con đường thống khổ, cũng như người tạo tội kia không khác vậy.

 

Còn những người đương bị đày đọa trong đời hiện tại mà biết tự nghĩ

 

rằng : mình cũng con người như người ta, mà sao người ta lại giàu có, sung sướng, lên xe xuống ngựa, quần này áo kia, còn mình thời nghèo khổ trăm bề, thiếu trước hụt sau, quần áo vá trăm miếng, có lẽ chỗ tạo nhân kiếp trước của mình, lắm chuyện không lành, nên ngày nay phải mang cái tội báo như

 

vậy.

 

Nếu những người ấy nghĩ như vậy, rồi hồi tâm cải quá, nết cư xử phải do đường chánh đạo, sự hành vi phải giữ mực thanh bần, đừng gian, đừng tham, đừng láo, đừng dối, trăm điều ngàn chuyện tự xét lấy mình, ngoài ra thì ăn chay niệm Phật cầu nguyện cho thoát kiếp trầm luân được phần khoái lạc, nếu đặng như vậy thời Phật giúp, Trời thương, quỷ kiêng thần nể, tội hoa héo rụng, phước quả tròn nên, rồi được thừa cái thiện nghiệp ấy mà tự tại tiêu diêu, trên con đường bất sinh, bất diệt, chớ có chút gì thua kém ai đâu ?

 

Ta nên biết rằng : Cái kết quả của cái khổ với lạc là do cái tạo nhân của Thiện với Ác, như bóng theo hình đeo đuổi lẫn nhau, hễ hình ngay thì bóng thẳng, hình vạy thì bóng cong, lý vốn như thế rõ ràng, không sai một mảy.

 

Huống chi pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, không phí thì giờ bao nhiêu, dụng công rất ít, mà chỗ kết quả không nói cho hết đặng. Thế mà làm người sao chẳng tu ? Đời này không tu, một ngày kia lấy gì làm bằng cứ, thật đáng thương đáng tiếc, mà sự thương tiếc ấy nó cũng đã qua rồi.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ BA

 

Có người chợt nghe nói cảnh tượng Tịnh độ phần nhiều ít có người tin.

 

Không đủ lấy làm lạ. Bởi họ chấp những sự thường thấy trước mắt, còn những việc không thường thấy, tưởng là không có vậy thôi. Ví như người ở

 

nhà hẹp bẩn thỉu, đâu có biết tòa nhà cao rộng mát mẻ, ăn bát sành rau lê rau quát, đâu có biết thực phẩm quý giá ở trước nhà phương trượng.

 

 

 

Kẻ đựng đồ vật mọn trong chiếc rương bể; đâu có biết nhà vua có kho lẫm vật quý ê hề, thì đủ biết rằng ở cõi Ta Bà ác thế này, không tin có cõi Phật thanh tịnh là lẽ dĩ nhiên.

 

Cho nên người đời hầu hết đều đầu thai trong xác người phàm, chớ đâu có biết, sự hóa sinh nơi hoa sen ở cõi Tịnh độ, ở cõi này người sống lâu chỉ

 

bất quá trăm tuổi là cùng, đâu có biết, cõi Tịnh độ hà sa số thọ.

 

Ở cõi này sự ăn mặc ắt phải nhờ người làm ra mới có; đâu có biết cõi kia có áo cơm sẵn sàng. Cõi này có lúc vui, rồi lại có lúc buồn. Cõi kia thường có cái vui bất tuyệt.

 

Thế thời ta nên nghe theo lời Phật, không nên chấp theo những việc trước mắt không thấy mà vội không tin lời Phật. Trong Đại Di Đà Kinh có nói rằng : “Mười phương vô lượng Bồ tát nguyện vãng sinh về nước A Di Đà Phật kia”, như các vị Bồ tát còn muốn vãng sinh thay, huống chi ta là người bậc nào, mà chẳng cầu vãng sinh về đó ?

 

Như hậu thân của ông Tăng Lỗ Công là ông Triết Lão, thân sau chịu nhiều điều ưu khổ. Hậu thân ông Cổ Lão ham mê việc giàu sang, hậu thân bà vãi Pháp Hoa làm con hát cho nhà quan. Đều bởi chẳng tin phép niệm Phật cầu về Tây phương, nên mắc xoay vần trong đường luân hồi mà chịu khốn. Huống chi Đức Phật Ngài lại tha thiết dạy người, bảo người đừng vọng ngữ, thì lẽ nào Ngài lại nói vọng ngữ, mà dối gạt người hay sao ?

 

Người đời sở dĩ nói vọng ngữ, một là cầu danh, hai là cầu lợi và ba là lánh nạn.

 

Còn Phật, Ngài đã không màng đến ngôi vua có chi là cầu danh. Kho lẫm dẫy đầy Ngài không đoái hoài, thì cầu lợi nào nữa. Phật xem đường sinh tử như không, dầu kẻ ác liệng búa chém hư không, cũng như cầm dao chặt dưới nước, có dính dấp gì ai, mà phải nói vọng ngữ để mong lánh nạn.

 

Thế là Phật không dùng lời vọng ngữ để gạt người đã rõ rệt. Vả chăng, nhọc ta ở nơi thai bào, có già mới cướp sức mạnh ta, có bệnh mới tổn hình dạng ta, có chết mới bắt thần linh ta, có vinh mới sinh sự kiêu căng, có nhục mới sụt chí khí ta, có sang ta mới kiêu ngạo, có hèn mới dập sự hành lòng ta, có giàu thì nặng lòng tham lam ta, có nghèo thì thiếu y báo ta, có vui mới động cái tình ta, có khổ mới đau tinh thần ta, có khen mới khởi lòng cao ta, có chê mới có diệt danh giá ta. Nhẫn đến khi lạnh thời ép ngột thân ta, nóng thời bực bội lòng ta, khát thời khô cổ họng ta, đói thời xót ruột ta, kinh thời khiếp hồn ta, sợ thời mất vía ta, thuận thời lớn lòng ái ta, nghịch thời khiến ta ghét. Rồi lại dối với vua, trái cùng cha, ngạo người đời, đua theo thời, sinh lòng thú, tham sự lợi cầu tiếng danh, phỉnh gạt người, nếu dèm dua, nương quyền thế khi cô quả, sâu lòng hại tạo nghiệp nhiều, quạt lửa dục, thổi gió tham, rong theo trần, bỏ tính giác, làm việc bậy, lấp thiện nhân, chỉ ngó trước chẳng xem lại sau, chỉ đi chẳng tưởng lo về, tưởng cầu sống đâu biết chết, thời mỗi niệm như đốt nấu, mỗi bước sa hầm vậy. Phương chi nếu chúng ta biết lẽ đi tới cõi Niết Bàn là khỏi sự sinh tử luân hồi, hưởng phần an lạc thì cần phải biết do con đường nào mà đi đến đó, có phải là do theo đường Bát Chánh không ?

 

Đường bát chánh ấy là :

 

1/ Trông thấy theo lẽ chân chánh.

 

2/ Suy nghĩ theo lẽ chân chánh.

 

3/ Nói năng theo lẽ chân chánh.

 

4/ Sự làm theo lẽ chân chánh.

 

5/ Nuôi sống theo lẽ chân chánh.

 

6/ Tinh tấn theo lẽ chân chánh.

 

7/ Ghi nhớ theo lẽ chân chánh.

 

8/ Và Thiền định theo lẽ chân chánh.

 

Trong mọi lẽ chân chánh nói trên đây có đủ năng lực làm cho những bậc tu hành từ xưa đến nay, được nhờ cái ánh quang minh soi thấy đường tà nẻo vọng khỏi bị lạc lầm mà thẳng tới cõi chân không tịch diệt. Còn con ma sinh tử kia, không có ngõ nào mà đem hột giống luân hồi gieo rải trong miền thế

 

gian được nữa.

 

Như vậy thì đường Bát chánh là một nơi cơ sở cho người xuất gia và một cái căn bản cho người học đạo. Nói tóm lại, pháp môn Tịnh độ dạy người cho biết rằng cả thảy mọi sự hữu vi trong thế gian đều là giả dối như

 

cảnh chiêm bao thấy đó rồi bỗng không đó, như bọt nước nổi đó rồi tan đó, như hạt sương đọng đó rồi khô đó, có cái gì mà làm cho đời người đặng nương cậy đâu !

 

 

 

Cho nên vị Tiên hiền nói : Lời Phật không tin chớ tin lời ai bây giờ ? -

 

Huống chi người ở nhà cửa thấp xấu, lại khen là nhà cao rộng lớn, ăn cơm hẩm canh rau, lại khen mùi ngon vật lạ, mặc áo quần to xấu, lại khen là tố

 

nhiễu nhỏ diệu.

 

Bằng nói tâm Tịnh độ, quốc Tịnh độ, như vậy thời chẳng còn chi mà phân biệt, huống chi nay mắc cái khổ, già, bệnh, chết, trong việc đời có khi trái tình, thời nhan sắc kẻ ấy với nhan sắc người chưa tỏ ngộ đồng nhau, như

 

vậy mà dám nói tâm Tịnh độ quốc Tịnh độ, mình bị chỗ trược buộc việc khổ

 

não, sao lại dối mình chi lắm vậy ? Chẳng đặng vậy khá nên tin giáo pháp, vâng chánh lý cõi Tịnh độ mà tu.

 

Như thuở xưa có người khắc tên một vị trung thần vào tấm bảng đá, nói vị

 

trung thần kẻ gian ác, liền bị trời đánh (sét) chết người vu oan và tấm bia tan nát.

 

Nay ta dùng vàng ngọc lụa là khắc chạm rương trấp, đựng lời vàng Đức Phật nói, mà đã chép trong kinh. Nếu lời kia là lời nói vọng, thì còn lắm tai hại hơn tấm bia của kẻ gian ác nói trên, có đâu đợi tới trăm năm, ngàn năm mà trời không đánh đó ư ? Thì đủ biết rằng lời Phật là lời thành thật vậy. Lời thành thật không tin, chớ hỏi , tin lời nào nữa ?

 

Cho nên tôi (lời ông Vương Nhựt Hưu) nói, không còn nghi ngờ, đã không nghi ngờ mà lại còn thậm tín hơn nữa. Huống chi từ xưa đến nay, những người tu theo pháp môn Tịnh độ này, sự cảm ứng rất nhiều chớ nên đem lòng không tin mà nói rằng không có.

 

Nếu làm lành mà nói không có kết quả, vậy thì bây giờ thử làm ác coi có tai hại hay không ?

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ TƯ

 

Người nhà Nho hoặc thấy những người tín đồ bên đạo Phật không giữ

 

giới hạnh, rồi buông lời chê đạo Phật, nhân đó mà cái thuyết Tịnh độ của Đức Phật dạy không tên nữa, như vậy là không phải.

 

Vì sao ? Thử hỏi, bên đạo của ông Lão Tử có những kẻ đạo sĩ bất chính không nhân, không nghĩa, mà rồi khinh đức Lão Tử sao đành và kẻ học trò Nho chẳng hiền, mà trở lại chê đạo cang thường của đức Khổng Tử dạy ư ?

 

 

 

Người trí còn không bỏ một lời nói phải của người thường, huống chi ta đi chấp những tín đồ làm không đúng, mà chê giáo lý cao thượng của Đức Thích Tôn ư ?

 

Chính các đệ tử của Đức Phật Tổ thuở xưa cũng vậy, ông được hạnh kia, lại thiếu hạnh nọ. Như ông Mục Kiền Liên thì sáng suốt về phép thần thông thứ nhất, ông A Nan thì nghe nhiều nhớ giỏi, ông Xá Lợi Phất thì trí huệ

 

sáng suốt hơn các vị Thanh Văn khác, ông Ca Diếp thì kiên tâm bền chí, tu theo hạnh đầu đà, khổ hạnh bậc nhất v.v…

 

Nếu các vị ấy mà được cả công đức đầy đủ muôn hạnh viên dung, thì ngang hàng với Đức Phật chớ đâu còn ở địa vị Thanh Văn hoặc Bồ Tát nữa.

 

Ví dụ như mấy vị đồ đệ hiền triết môn đồ của đức Khổng Tử, thì cũng có ông này ông khác. Nếu đem so sánh từ ông hiền số một đến ông hiền chót, thì ông hiền chót có lẽ tài đức kém hơn mấy ông hiền trước là dường bao ? Nhưng cũng được dự vào địa vị thánh hiền như ai vậy. Huống chi đời nay các ông Tăng cũng có ông tu nhiều, cũng có ông tu ít, có ông đủ tài mà thiếu đức, lại có ông đức hạnh đầy đủ, mà tài năng khiếm khuyết, thì hà tất chúng ta lại đi chê giáo lý ư ?

 

Vả lại giáo pháp Đức Phật lập ra không những một pháp mà là có pháp thế gian, và có pháp xuất thế gian nữa kia mà.

 

Thế nào là pháp thế gian ?

 

Pháp thế gian, Đức Phật lập cũng in như pháp của đức Khổng Tử dạy người đời không khác. Nay lược nói chỗ đại đồng, xin nhân giả để tâm nghiệm xét. Đức Phật sở dĩ khắn khắn dạy người đời đâu không răn người đời bỏ việc ác làm việc lành. Mà đạo Nho ta nào không từng răn ác khuyến thiện ư ! Nay đem những việc trước mắt thường thấy, nói cho dễ hiểu.

 

Như đạo Phật thì có năm giới như là : sát, đạo, tà, vọng, tửu. Còn nhà Nho thì có ngũ thường như là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cũng như nhau.

 

Nhà Phật chẳng sát sinh, nhà Nho lòng nhân lớn, Phật không trộm cướp, nhà Nho nghĩa thanh liêm, nhà Phật không tà dâm, nhà Nho lễ minh chánh, nhà Phật không uống rượu, nhà Nho trí tỏ sáng, nhà Phật không nói vọng, nhà Nho tín chí thành là phải vậy.

 

 

 

1/ Đức Phật dạy kẻ tín đồ quy y đạo Phật bảo đừng sát sinh, đừng trộm cướp, đừng tà dâm ba nghiệp của thân. Cũng như bên nhà Nho đức Khổng Phu Tử nói : “Thắng tàn khử sát”, ngăn việc tàn nhẫn cấm việc sát hại, có câu người làm thi nói : Vua Văn Vương, đức kịp đến loài điểu thú, côn trùng. Loài điểu thú côn trùng, ngài không nỡ ra tay sát hại, huống chi hại người, như thế nhà Nho đâu không răn việc sát sinh đó ư ?

 

Còn việc trộm cắp nhà Nho lại còn cấm gắt hơn nữa. Đức Khổng Tử lại nói câu : “Ngô vị kiến háo đức như háo sắc giả”. Nghĩa là : Ta chưa từng thấy người nào ham đạo đức, ví như ham sắc đẹp. Kẻ làm thì cũng nói : Chê người không ham đạo đức, mà cứ ưa sắc đẹp, như thế đạo nhà Nho đâu không răn việc tà dâm ư ?

 

2/ Đức Phật dạy tín đồ đã thọ giới bất vọng ngữ, thì đừng nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói lời hung dữ là bốn nghiệp của miệng. Đức Khổng Tử lại nói : Nhân nhi vô tín bất lập. Người mà xã hội không ai tin, ấy là người vô dụng, như vậy thì nhà Nho đức Khổng Tử nào không ngăn cấm việc nói vọng ngữ ư ? Ngài lại nói : Lời nói chuốt ngót điểm tô sắc cho đẹp, người như thế là người ít có lòng nhân. Thế là đức Khổng Tử đã răn cấm không cho nói lời thêu dệt đã rõ rồi.

 

Huống chi trong sách Nho Thiên Nhĩ Nhã, đức Khổng Tử có bảo đồ đệ

 

ngài rằng : Ngươi chớ nói phải trước mặt, lui sau có lời dị luận. Thế là đức Khổng Tử còn cấm thêm không cho nói lời nói hai lưỡi vậy. Kế đến lời nói hung dữ. Lời nói hung dữ, là lời thịnh nộ, mắng nhiếc người, ông Tuân Tử

 

nói : Một lời nói, có thể hại người lắm hơn gươm dáo. Như vậy thì nhà Nho không bao giờ đức Khổng Tử không cấm ngăn lời nói hung dữ.

 

3/ Đức Phật dạy tín đồ phải giữ ba nghiệp của ý mình cho được trong sạch, đừng sân đừng si. Đức Khổng Tử nói : Thấy việc người ta làm ơn, thời mình phải lo trả nghĩa, đó là Khổng Tử răn học trò ngài đừng có tánh tham. Đức Khổng Tử lại dẫn nhắc cái hạnh tốt của ông Bá Di, ông Thúc Tề là người không để tâm nghĩ đến cái thù xưa (bất niệm cựu thù). Đó là nhà Nho đức Khổng Tử răn cấm những kẻ học trò ngài, không muốn có những tính cách sân hận. Ngài lại muốn học trò ngài có những tính cách thông minh, cho nên ngài nói câu “Khổn nhi bất học, dân tư vi hạ”. Nghĩa là : Dốt mà không học, ấy là dân bậc hạ, thế là nhà Nho đức Khổng Tử phàn nàn răn việc ngu si triệt để.

 

Do đây mà nói thời đạo Nho cùng với đạo Phật chưa từng có lúc nào chẳng đồng vậy. Song chẳng đồng là đạo Nho thì chỉ nói về pháp thế gian, dạy đời như là : chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, chỉ nói trong một đời hiện tại rồi bao nhiêu cũng đổ trút về cho ông Trời.

 

Còn đạo Phật, chẳng những nói về pháp thế gian mà lại còn dạy về pháp xuất thế gian (ra ngoài đời), và biết đến các việc nhiều kiếp, thấy rõ nguồn cơn nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh nhiều đời nhiều kiếp luân hồi trong lục đạo và rồi tại làm sao tu phương pháp gì mà dứt nghiệp báo luân hồi sinh tử và thành ngôi đạo Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng Chánh giác như

 

các Đức Phật.

 

Thế mới nói đạo Phật với đạo Nho không đồng là vậy. Vậy muốn biết chỗ sở trường của đạo Phật thắng diệu như thế nào, thời cần nên xem kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già, Viên Giác, Kinh Vô Cái Chướng Bồ Tát Sở Vấn, và hiểu nghĩa lý của bộ Kinh Kim Cang, thì tự nhiên hiểu thấu đạo Phật, còn chưa được như vậy, thời khoan vội chê đó.

 

Nếu không biết mà chê, thời bị câu đức Khổng Tử quở rằng : “Bất tri nhi tác, khả bất giới tai, khả bất giới tai”. Nghĩa là : Không biết mà làm khá chẳng răn ư ! Khá chẳng răn ư ! Đúng như thế thời lời nói Đức Phật Thích Tôn đáng tin lắm, lời nói của Ngài đáng tin thời cái thuyết Tịnh độ của Ngài nói lẽ nào không tin ?

 

Chỗ gọi rằng pháp xuất thế gian, pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ

 

là hơn hết. Thế nào, người đời sao mà chẳng gắng vậy, tiếc thay ! Uổng thay

 

!

 

4/ Kẻ hoặc hỏi ông Vương Nhựt Hưu : Tại sao đạo Phật là đạo bình đẳng, mà Ngài lại phân biệt đạo Phật lại cao hơn đạo Nho ? Đáp rằng : Đạo Nho là đạo trong thế gian chỉ nói trong một đời. Còn đạo Phật là đạo xuất thế gian, luận đến những việc nhiều đời nhiều kiếp, tự nhiên phải cao hơn.

 

Đạo Nho ví như ngôi sao. Đạo Phật dụ như mặt trời. Mặt trời không chấp nó sáng, mà ánh sáng của mặt trời tự nhiên phủ lấp ngôi sao vậy thôi. Hơn nữa đạo Nho, nếu cao bằng đạo Phật thì đạo Nho là đạo Phật, có chi còn phân biệt Phật với Nho.

 

Huống chi Đức Phật dạy : “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”.

 

Nghĩa là : Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật. Tuy đồng có tánh Phật, nhưng có tu mới thành vị Phật, thành Phật thời vượt ngoài thế gian. Còn không tu thời vẫn ở trong vòng luân hồi lục đạo làm loài chúng sinh, làm chúng sinh thời là phải ở trong thế gian, rồi bây giờ ông cứ bảo, chúng sinh cũng bình đẳng, cũng ra ngoài thế gian như Phật, thì làm sao nghe được ?

 

 

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ NĂM

 

Trong đời có người chuyên tu về phép tham thiền nói Tâm là Tịnh độ đâu có Tịnh độ nào. Tánh là Di Đà, bất tất cầu thấy Di Đà nào nữa.

 

Lời ấy mới nghe qua tuồng như là phải, mà xét lại thời không phải. Vì sao ? Bởi cảnh Tây phương Tịnh độ, có lý có sự. Luận lý, thời hễ tâm mình tịnh thời tất cả đều tịnh, thật đúng cái nghĩa tâm là Tịnh độ. Luận về sự thời quả có thế giới Cực Lạc, Đức Phật đã cặn kẽ dạy rành Ngài đâu có nói vọng.

 

Nghĩa là người nào cũng có thể thành Phật đặng, đó là tánh mình đã có ông Phật Di Đà, quyết chắc không sai vậy. Nhưng mà bây giờ đây cái tâm chưa đặng thanh tịnh, thời làm sao nói : Tâm là Tịnh độ, Tánh là ông Phật Di Đà ?

 

Ví như có một thứ cây danh mộc, cây ấy có thể chạm trổ hình tượng Phật, hình Bồ Tát cực kỳ xinh đẹp, song cần phải gia công dồi mài khắc chạm. Vậy sau mới thành, chớ chẳng lẽ vội chỉ cây danh mộc kêu là tượng Phật thật khéo, tượng Bồ Tát rất đẹp.

 

Thế là người tham thiền nói : Tâm là cõi Tịnh độ, Tánh mình là ông Phật Di Đà, bất tất cần thấy Di Đà nào khác, ấy là không phải lẽ vậy. Lại nữa hoặc tin có Tịnh độ mà chấp Tịnh độ là ở trong tâm mình, không muốn cầu sinh về Tây phương kia vậy. Nghĩa là họ nói : hễ tham thiền tỏ ngộ tánh mình, thì cố nhiên bằng Phật, bằng Tổ, Di Đà không đủ ra mắt đó, lời nói ấy cũng quấy nữa. Vì sao ? Lời ấy thật là cao quá cao, nhưng mà không thiệt hành cho kịp lời ấy : “Năng thuyết bất năng hành”, nghĩa là : Nói được mà làm không được.

 

Huống chi cõi Tây phương Tịnh độ kia là một cõi không tham, không luyến, không sân, không si. Còn cái tâm ta đây đã không tham, không luyến, không sân, không si chưa ?

 

Cõi Tây phương Tịnh độ kia : Tưởng áo đặng áo, tưởng cơm đặng cơm, muốn tịnh thời tự nhiên tịnh. Còn cõi ta đây : Tưởng áo mà không có áo thời nó lạnh cứng ruột ta, tưởng cơm là không có cơm ăn thời nó đói thắt lòng ta, muốn tịnh mà không đặng tịnh thời nó rộn ràng trong óc ta, muốn đi mà bị

 

sông rạch, hầm hố, chông gai, không thể đi liền đặng, thời nó bứt rứt trong ý tánh ta.

 

 

 

Thế thì chỗ nói rằng : Tâm là cõi Tịnh độ thật không dễ gì được vậy.

 

Huống chi Đức Phật A Di Đà kia phước lớn hơn non sông, sức cao trên trời đất, biến địa ngục làm hoa sen, dễ như trở bàn tay, xem thế giới vô tận, gần như ở trước mắt.

 

Còn phước đức, sức lực của ta đây, không thể độ mình, e bị nghiệp nặng kéo trước, mà phải đọa vào địa ngục đấy chứ ! Đâu có thể biến địa ngục làm hoa sen ư ? Kìa những việc cách vách, còn có khi không ngó thấy là khác.

 

Huống nữa là thấy thế giới vô tận à ? Thế thì chỗ nói : Tánh mình là ông Phật Di Đà, thật không dễ gì được vậy.

 

Vậy thời tâm là Tịnh độ, mà rốt cục chưa được như cõi Tịnh độ. Tánh mình là Phật Di Đà mà rốt cục chưa được Di Đà. Thì đâu nên khinh cõi Tịnh độ mà không tin, bỏ Đức Di Đà mà chẳng muốn ra mắt ư ?

 

Thế cho nên, người tu pháp môn niệm Phật cầu sinh Tây phương ra mắt Phật Di Đà, cầu đắc đạo thời rất dễ. Bằng cứ ở thế giới ngũ trược này, muốn tham thiền cầu tỏ ngộ tánh mình, hơn Phật, hơn Tổ, thật rất khó. Huống chi, người tu pháp môn Tịnh độ không ngại gì những việc tham thiền. Cớ sao ?

 

Những người tham thiền ắt chê Tịnh độ mà chẳng tu ư ?

 

Trong Kinh Đại A Di Đà nói : Có vô lượng Bồ Tát ở trong mười phương đều vãng sinh về quốc độ Phật A Di Đà, thì thử nghĩ Bồ Tát kia còn muốn vãng sinh. Còn chúng ta là người bậc nào, mà không trông mong về cõi ấy ?

 

Hay là có lẽ ta hơn các vị Bồ tát kia chăng ?

 

Do đây mà nói : Tâm là Tịnh độ, Tánh là Phật Di Đà, thực lời to mà chẳng thiếu yếu cao mà không rốt ráo vậy. Những người tu chưa đến bậc ấy (tâm và tánh) nghe lời đây thì lầm lắm vậy.

 

Chi bằng cứ bước từng bước một đi lần đến chỗ thật, niệm Phật tu hành thời người người ắt sinh về Tịnh độ, mau khỏi luân hồi lục đạo. Bấy giờ đối với lời nói suông không thật kia, xa nhau một trời một vực vậy.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ SÁU

 

Đức Như Lai, dùng Phật nhãn thấy những việc vô lượng kiếp về trước và vô lượng kiếp về sau, cho nên những việc từ xưa đến nay, không việc gì mà Ngài không thấy. Và Phật lại dạy người đừng nói vọng thì quyết chắc rằng Ngài không nói vọng ngữ, dối gạt người đời vậy. Và chính Ngài dạy người đừng chấp ngã, lẽ đâu Ngài lại chấp ngã, để khoe khoang với người, thế nên biết lời nói của Ngài thật đáng bắt chước vậy.

 

Xét trong Lăng Nghiêm nói : Có mười bậc Tiên đều đặng sống lâu tới ngàn muôn năm, đến khi số tận, lại phải bị luân hồi. Bởi không rõ bản tánh mình sẵn có tánh Phật, nên luân hồi làm chúng sinh trong sáu đạo, mà đạo Tiên là một đạo cũng đồng ở trong vòng luân hồi, nên gọi là bảy đạo (hay là thất thú) tuy danh từ có khác, chớ cũng một hạng người trong luân hồi như

 

nhau vậy.

 

Sở dĩ người đời, những số người học theo đạo Tiên hàng muôn, mà những người đắc quả thành Tiên muôn người không đặng một. Dẫu có đặng đi nữa cũng không khỏi kiếp luân hồi, vì chấp hình thần nơi thân tứ đại mà không thể rời bỏ xác tứ đại vậy.

 

Xét cho đúng hình thần ấy, cũng là một cái vọng tưởng, ở trong chân tánh của mình mà hiện ra, cũng như cục bọt nổi lên từ nơi nguyên nhân của nước vậy, chớ không phải chân thật có.

 

Thế mà người mê, tưởng thân ấy là thiệt, tu luyện nơi thân mà không tỉnh ngộ nơi tâm. Vì sao ? Bởi tâm như vị công tào, còn thân như kẻ tùng giả, kẻ tùng giả do vị công tào sai khiến, nếu công tào không có thời tùng giả

 

cũng tiêu vong.

 

Ôm ấp lấy thân, luyện tập lấy thân, cũng như người chấp lấy một vật giả

 

mà không biết bỏ vật giả dối, để cầm nắm vật thiệt đó vậy !

 

Cho nên ngài Hàn Sơn Thập Đắc có làm một bài thi như vậy : “Nhiêu nhữ

 

đắc Tiên nhân, cáp tợ thủ thi quỷ, phi nhược Phật gia chi sinh tử tự như, nhi vô sở câu giả”. Nghĩa là : Dầu tu đặng làm người Tiên khác nào quỷ giữ thây chết, không bằng tu bên đạo Phật đường sinh tử tự như, mà không câu chấp vậy.

 

Vừa rồi, cỡ vài trăm năm sắp lại đây, kể người chứng đặng quả Tiên, thời duy có ông Chung Ly và ông Lữ Đồng Tân, chẳng những ngàn muôn, chính tôi (Vương Nhựït Hưu) được biết trong số ấy cũng không phải là ít, thế mà rốt cục, cũng đều tử vong, mai vu hạ thổ.

 

Thiệt uổng lúc bình sinh, luống hao tâm lực rốt cục không ích lợi gì cả.

 

Vậy ai là người muốn cho đặng trường sinh bất tử, thì không phương pháp chi bằng pháp tu niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ là hơn hết.

 

 

 

Vì sao ? Bởi người sinh về cõi Tịnh độ số thọ kiếp kiếp đời đời, nên gọi trường sinh bất tử vậy.

 

Thế mà phần đông, lắm người không biết tu theo pháp môn này, cứ học theo pháp thần tiên, khác nào bỏ hòn ngọc tốt trước mắt, mà mãi đi kiếm những thứ

 

đá võ phu há chẳng lầm ư ? Kẻ hoặc hỏi : Những người tu Tịnh độ sau khi nhắm mắt có chứng nghiệm gì ?

 

Ông Vương Nhựt Hưu đáp : Trong Tịnh độ truyện, có chép đủ những việc cảm ứng của những người tu Tịnh độ đành rành đâu không chứng nghiệm !

 

Có đâu như bên nhà tu theo pháp thần tiên, hễ có sở đắc chút chi, thời dấu kín (bí mật), không dám truyền ra và nói sợ tiết lậu thiên cơ mà có tội.

 

Còn đạo Phật thời pháp môn của Đức Phật dạy truyền mãi cho người đời biết, để tu hành. Thế mà sợ truyền không đặng rộng nữa kia. Bởi mục đích muốn độ tận chúng sinh, nhiên hậu dĩ mới mãn nguyện.

 

Thế là chỗ rộng lớn của đạo Phật thật không thể lường, không phải phép thần tiên kia, mà hằng sánh kịp vậy.

 

Lại có kẻ thưa rằng : Tôi là người phàm đâu dám trông mong về Tịnh độ

 

mà làm Phật, vậy tôi thiệt có lòng đó lại e là vọng tưởng ? Chẳng phải thế

 

đâu, ông Phật đó là tánh giác mình, cõi Tịnh độ là cái tâm mình. Lòng ấy ai mà chẳng có, hễ giác là Phật, mê là chúng sinh vậy.

 

Người bỏ giác tánh hiệp sáu trần, luân hồi ba cõi, bốn loại sáu đường, gây nghiệp lành dữ, quả báo tốt xấu, đều bởi nhìn tứ đại đó là thân ta, sáu trần thiệt có, theo mãi cảnh dối, ngày đêm trôi nổi chẳng chịu xét suy đặng trở lại chỗ

 

sáng, mà ăn chay niệm Phật.

 

Thì từ khi sinh đến lúc già, chỉ lo gia nghiệp chẳng rồi, của cải tuy nhiều cũng chẳng vừa lòng, càng nhiều càng cầu lòng tham chẳng đầy.

 

Tuy nói làm lành thờ Phật, đảnh lễ đốt nhang làm phước chỉ nguyện giàu có, sang cả, sống lâu đừng chết, mới làm chút đỉnh sự phải và phục nguyện vài điều, thì cầu cho lúa gạo đầy kho, tằm tơ vạn bội, con cháu vinh hiển, trâu ngựa sinh nhiều. Rủi xảy có điều chi chẳng vừa lòng, thì họ oán Phật sao không bảo toàn, họ chỉ muốn mỗi ngày của tới thường thường, thì mới nói vị thiên long cảm ứng, tham cầu như vậy mới gọi là vọng tưởng chứ !

 

 

 

Đâu có phải cầu sinh Tịnh độ gọi là vọng tưởng ư ? Vả chăng trong lời sám của đức Phổ Hiền Bồ Tát có nói rằng : Nguyện tôi đến lúc lâm chung, trừ hết việc chướng ngại, trước mặt thấy Đức A Di Đà, đặng sinh về cõi an vui là phải vậy.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ BẢY

 

Có người không tin nhân quả, nhân đó không tin Tịnh độ luôn. Vả chăng nhân quả đâu khá chẳng tin ?

 

Kinh Nhân Quả nói : “Yếu tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị, yếu tri hậu thế quả, kim sinh tác giả thị”. Nghĩa là : Muốn biết nhân đời trước, coi đời nay thọ quả gì đây, muốn biết quả đời sau, coi đời nay ta tạo cái nhân gì đó.

 

Nếu không tin lời này, sao chẳng lấy những việc trước con mắt mà xem thử : Người đời sở dĩ có người giàu, có người nghèo, có người làm chủ nhà, có người làm đầy tớ, có người ăn không hết, có người bòn không ra, có người ở nhà rộng năm căn bảy lớp, có kẻ lại ở sân hè xó chợ, có người vui, có kẻ buồn, có người sống lâu, có người chết yểu v.v… mỗi mỗi không đồng.

 

Tuy nói rằng số mạng do nơi trời, nhưng xét cho đúng lý, Trời đâu có riêng tư cho ai ư ? Bởi vì người đời trước tạo cái nhân chẳng đồng nên đời nay hưởng thọ quả báo cũng không đồng, mà trời thì là chủ chứng cho vậy thôi.

 

Thế cho nên cái thân này, kêu bằng cái thân quả báo. Thế nào là quả báo

 

? Nghĩa là : Đời trước ta gây tạo cái chi, đời nay sinh cái thân này, để chịu quả báo ấy, chớ Trời nào có dung cho cái Tâm ta được ư ? Vì sao ? Ví như

 

người đời, hoặc người có công, hoặc người có tội với triều đình vậy, có công thời đặng thưởng, còn có tội thì phải trừng.

 

Đời trước ta tạo cái nhân thiện ác gì đây, nên đời này phải chịu cái ảnh hưởng, hoặc hưởng phước, hoặc mang họa, để đền bù lại, đó gọi rằng trả quả

 

vậy.

 

Kìa như những người nào tạo thiện nhân được thuần thục, thời bây giờ

 

hưởng phước được hoàn toàn.

 

 

 

Còn như những người nào đời trước tạo nhân nửa thiện nửa ác, thời đời nay cũng tùy theo mà lấy những sự ảnh hưởng ấy. Bởi vậy mới có người đầu tắt mặt tối, làm đổ mồ hôi rơi nước mắt mà cũng không đủ cơm ăn áo mặc, lại có kẻ ăn rồi thả rông, không làm gì động móng tay, lại cũng quần này áo kia, nay ăn cao lầu, mai ăn tiệc nọ tiệc kia.

 

Bởi thế trong kinh có nói rằng : “Giả sử bá thiên kiếp sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hườn tự thọ”. Nghĩa là : Ví dầu trăm ngàn kiếp mình làm việc chi cũng chẳng mất, nhân duyên lúc gặp gỡ, quả

 

báo lại mình chịu.

 

Nhân nào quả ấy, như bóng theo hình, vang theo tiếng dội, hào ly không hề sai chạy, vậy cho nên có câu : “Chủng đào đắc đào, chủng lý đắc lý”, nghĩa là : Trồng đào thời đặng đào, trồng lý thời đặng lý. “Vị hữu chủng ma, nhi đắc đậu, chủng mạch nhi đắc tắc giả”, nghĩa là : Chưa có khi nào trồng mè mà đặng đậu, hay là trồng bắp mà đặng lúa bao giờ.

 

Duy có lúc trồng thì ít mà lúc thu gặt thời nhiều. Ví dụ như lúc trồng chỉ

 

có một hột lúa, mà lúc hái thời được nhiều hột lúa, trái lại việc thiện ác, họa phước cũng vậy.

 

Lúc làm cái thiện hoặc cái ác không bao nhiêu, mà lúc sau hoặc hưởng, hoặc chịu tội, cũng đầy dẫy nên có câu : “Xuân chủng nhất liệp túc, thu thâu vạn quả tử”, nghĩa là : Mùa Xuân gieo một hột, mà mùa Thu thâu được nhiều hột.

 

Người đời tạo thiện ác, cảm thọ sự quả báo cũng như vậy, không hơn không kém, ấy là lý tự nhiên như thế, chớ không phải Thượng đế nào thưởng phạt ta đặng. Lại nữa thử hỏi : nếu nói không có nhân quả hiện tại, thì thử

 

nghĩ tại sao những kẻ trộm cắp sát nhân, sợ gì mà lại phải trốn tránh ? Ấy rồi có khi nào, kẻ sát nhân trộm cướp có tránh khỏi những ác nghiệp của họ đã làm không nào ?

 

Trong Kinh Niết Bàn nói : Nghiệp báo có ba điều : một là Hiện báo, hiện đời nay làm nghiệp lành dữ, hiện chịu quả báo khổ vui đời này. Hai là Sinh báo, hoặc kiếp trước làm nghiệp, đời sau chịu quả báo, hoặc đời nay làm nghiệp đời sau chịu quả báo. Ba là Tốc báo, trước mắt gây việc bèn thấy mắc quả báo.

 

Vậy xét trong một lần nữa : những người đã thọ cái nhân không tốt, nên mắc lấy cái quả khổ là một tội rồi, mà bây giờ đổ thừa cho trời khiến, trời phạt, ấy là chồng thêm một tội vu oan là hai tội, khác nào kẻ không cẩn thận để lửa cháy nhà rồi đổ thừa họ Toại nhân xưa bày kéo lửa, người trí không bao giờ tin quấy, nói lầm như thế vậy.

 

Vậy thì đủ chứng minh cho cái lý nhân quả này đáng tin. Vả chăng một đứa bé thơ có tội tình gì mà mới lọt lòng mẹ lại phải chịu tật nguyền ? Hoặc đui hoặc dư thiếu tay chân hoặc không biết đi biết đứng, nói cười, thì thử hỏi cái mầm gốc ấy tự nơi đâu mà sinh ra ?

 

Vậy thì cái lý nhân quả này đáng tin, thời cái thuyết Tịnh độ Đức Phật nói chắc khá đặng tin. Vì sao ? Bởi hai thuyết cũng là một lời Phật nói vậy, Phật nói lý nhân quả đã rõ ràng như hai với hai là bốn chắc như thế, thời cái thuyết Tịnh độ Đức Phật nói : Không bao giờ Ngài nói vọng vậy.

 

Đây là nhân người không tin nhân quả mà rồi cũng không tin thuyết Tịnh độ luôn, cho nên bài này tôi (ông Vương Nhựt Hưu), phân giải chỗ lầm đó vậy.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ TÁM

 

Có người thấy những việc thiện ác trước mắt chưa có quả báo, nhân đó mà không tin cái lý nhân quả, và không tin có cõi Tịnh độ. Đâu có biết, thiện ác chưa có quả báo, tuy chưa có chớ không phải là không vậy, chỉ vì sớm với muộn mà thôi.

 

Thí như kẻ cướp và người làm công siêng năng cần mẫn, thì được chủ

 

yêu vì, mà lại đặng lên lương thăng chức, còn kẻ cướp kia không kíp thì chầy cũng phải sa vào lưới pháp luật rồi một ăn ít, hai phải trả nhiều năm lao tù khổ cực, ấy đó cũng là một cái hiện tiền nhân quả.

 

Đức Phật từng kêu ông A Nan mà bảo rằng : “Này A Nan ông có biết vì sao, có người đời nay làm lành mà chết đọa địa ngục, lại có người đời nay làm ác mà chết được sinh lên thiên đường không ?”.

 

Ông A Nan bạch Phật, con thiệt không biết cớ làm sao cúi xin Như Lai từ bi chỉ giáo.

 

Phật bảo này A Nan, những người đời nay làm lành mà chết đọa vào địa ngục đó, là cái lành đời nay chưa thuần thục, mà cái ác đời trước đã thuần thục vậy.

 

 

 

Những người đời nay làm ác, mà khi chết được sinh lên thiên đường, đó là cái ác đời nay chưa thuần thục, mà cái lành đời trước đã thuần thục vậy, sở dĩ

 

cái nào thuần thục trước thời là đi chịu quả báo trước. Ví như người thiếu nợ, mối nào gấp đòi thời trả trước.

 

Họ Tả thị là bộ sách Xuân Thu nói : Ông Lăng Võ Tử có đức để lại cho con ông là ngươi Ảm, cho nên ngươi Ảm tuy làm ác, mà có thể khỏi được họa hại; còn con ngươi Ảm là thằng Đinh hết sức làm lành mà rốt cuộc bị cái ác của Ảm lây lụy đến đỗi đời Đinh phải chịu, cho nên Đinh tuy làm lành song sống mà rồi phải mắc nạn.

 

Song những việc thế gian, thiện ác, quả báo, ngó thấy trước con mắt còn như thế, huống chi những việc cách đời, làm sao biết được. Cho nên phương ngôn thường có câu : “Đời xưa trả báo thời chầy, đời nay trả báo một giây nhãn tiền”.

 

Thật quả như vậy có người lúc trước hống hách bao nhiêu, bây giờ lại hiền lành bấy nhiêu, bởi vì hồi nào còn của còn quyền, kêu dân dân dạ, bây giờ dạ dân, ấy đó cũng là một quả báo ! Vậy ta đem một thí dụ mà suy nghiệm thì đủ chứng tỏ coi có quả báo không vậy ?

 

Ví như thân ta đang có bệnh ghẻ ngứa, đến lúc tới cơn ngứa thì ta gãi có phải nó đã ngứa lắm ư ? Ấy mà sau khi đã sự ngứa ngẩm rồi, thì có phải nó đau nhức nhối lắm không ? Mà sự đau nhức mới lại khó chịu hơn lúc ngứa ngẩm, ấy đó cũng là một quả báo, nếu khi cơn ngứa mà ta dằn tâm đừng gãi thì đâu đến nỗi nhức nhối đau đớn sau khi ! Cứ suy như thế thì đủ biết, dù ở

 

trường hợp nào cũng có sự báo ứng, dù thiện dù ác, đều có sự quả báo đi đôi, nên phương ngôn có câu rằng : “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”, nghĩa là : Cái phước thì không đến cho ta hai lần, chớ cái họa thì bao giờ

 

cũng chực chờ trước ngõ.

 

Bởi vì ta làm việc phải trong một xóm thì ít ai khen, nhưng không mắc họa, chí ư, ta thử làm một chuyện quấy thì cả xóm nhao nhao, nếu không tù rạc thì cũng đòn bộng tiếng tăm.

 

Đó là làm lành sẽ gặp lành, còn làm ác gặp ác, thì không phải quả báo chớ chi ?

 

Trong kinh thơ lại nói : “Thiên đạo phước thiện họa dâm”, nghĩa là : Trời ngài giáng phước cho người lành, giáng họa cho kẻ dữ (tiếng nói Trời là chỉ cho công lý).

 

 

 

Cho biết đời trước, chỗ làm có lành có dữ nên đời nay dùng họa phước mà đền đó. Chỗ bởi chẳng đặng trọn việc lành, nên chẳng đặng trọn hưởng phước.

 

Bởi vậy mới có giàu sang mà khổ chết yểu, có người nghèo hèn sống lâu đặng vui vẻ, có người sang yêu mà bị nhục, có người thấp thỏi mà an nhàn, có người tuổi nhỏ thi đỗ cao khoa, có người thi không đậu, có người tiền gạo đầy dẫy mà không con trai con gái, người nghèo mạt ghét con, mà lại sinh con liền liền, có người sao lại chồng chết trước vợ còn sống, vợ chết mà chồng sống, có người con mà lại chết trước cha mẹ ông bà, có người vui trước mà sau lại khổ, có ngươi khổ trước mà sau lại vui, có người trước sau vui mà ở giữa chừng lại khổ, có kẻ trước sau khổ giữa chừng lại vui, có người trọn đời vui vẻ, có kẻ

 

trọn kiếp lại buồn.

 

Nếu không tin có nhân quả vậy chớ mấy cớ nói trên bởi đâu mà ra ?

 

Phải biết việc lành dữ rõ ràng nhân quả chẳng mất. Phật nói chắc đoán nhân quả, ắt không nói dối việc nơi cõi Tây phương. Vả luận thân đứng làm người, phải biết việc phải quấy, biết việc liêm sỉ, tin việc nhân quả, sợ việc tội phước, xét việc lành dữ, phân lẽ tà chánh, trên chẳng hờn trời, dưới chẳng trách người, sang hèn chẳng hay động lòng, đặng mất chẳng hay rủn chí, ở chỗ giàu sang chẳng vui, rủi nghèo hèn chẳng buồn, tới lui biết tự

 

lượng sức gánh việc, đáng dùng đó thời làm, đáng bỏ đó thời bỏ, ngay thảo nhân từ, trước sau chẳng dối. Như thế chẳng là quân tử, là bậc đại hiền chớ

 

chi ?

 

Ông Lão Tử nói : “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”, nghĩa là : Lưới trời lồng lộng tuy thưa mà chẳng lọt, chính tam giáo đều đồng một lý đây, nhưng chỉ có chậm và mau vậy thôi đâu nên lấy việc trước mắt chưa thấy mà vội cho rằng không có quả báo, không có nhân quả, mà rồi không tin có cõi Tịnh độ vậy ?

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ KHỞI LÒNG TIN THỨ CHÍN

 

Kẻ hoặc nghi hỏi : Người trong cõi này niệm Phật, bên Tây phương trong ao thất bảo thế nào lại mọc lên một đóa hoa sen ?

 

 

 

Ông Vương Nhựt Hưu đáp : Việc ấy dễ hiểu chẳng khó gì. Ví như một cái minh kiến, phàm có vật chi đến, liền hiện bóng trong đó, kiến kia nào từng chẳng có tâm dung nạp, bởi kiến kia cũng là lẽ tự nhiên vậy thôi.

 

Trong cõi nước Đức Phật A Di Đà một màu thanh tịnh trong sạch, tự

 

nhiên chiếu thấy mười phương thế giới, cũng như minh kiến kia, xem thấy mặt mày.

 

Cho nên người cõi này niệm Phật, thời bên cõi Tây phương trong ao thất bảo tự nhiên sinh ra một đóa hoa sen không đủ nghi vậy.

 

Kẻ hoặc lại nghi hỏi nữa : Niệm thần chú vãng sinh Đức Phật A Di Đà thường đứng trên đảnh, vệ hộ người đó, nếu vô lượng chúng sinh niệm thần chú ấy, Đức Phật A Di Đà đâu hay khắp, đứng trên đảnh người kia mời ?

 

Đáp rằng : Đó cũng tự nhiên vậy. Vì sao ? Ví như trên trời chỉ có một mặt trăng, mà phổ hiện trong tất cả lũng nước, đâu chẳng phải tự nhiên ư ?

 

Có người đương tu hành tinh tấn lại nghi hỏi : Người niệm Phật khi lâm chung, Phật và Bồ tát đến rước, và như trong mười phương thế giới có vô lượng chúng sinh cũng tinh tấn niệm Phật, Phật đâu biết kỳ lâm chung kia, mà đến rước cho hết.

 

Đáp rằng : Cũng tự nhiên vậy. Ví như trên không trung có một mặt trời khắp chiếu tới vô lượng thế giới nước này qua nước khác đâu chẳng phải là lẽ tự nhiên chớ gì ?

 

Huống chi oai thần Đức Phật, chẳng phải như thế lực mặt trời mặt trăng vậy, thời sự khắp đứng trên đảnh, khắp biết thời kỳ lâm chung, nào đủ nghi vậy.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

HẾT QUYỂN NHẤT

 

---o0o---

 

QUYỂN NHÌ - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

 

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI :

 

Ta xét trong Đại Tạng có bộ :

 

Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh.

 

A Di Đà Quá Độ Nhân Đạo Kinh.

 

Vô Lượng Thọ Kinh.

 

Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh.

 

Trong bốn bộ này gốc cũng là một bộ, song người dịch chẳng đồng, nên mới đặt ra các tên bốn bộ, trong đó câu văn và chữ viết có sai lạc nhiều lắm, nhưng tôi đã có giảo chính và cũng đã khắc bản ấn hành lâu rồi.

 

Hôm nay tôi rút trong bốn bộ nói trên và các kinh truyện khác làm lời tổng yếu, để cho những người muốn tu Tịnh độ dễ hiểu, để thực hành làm theo.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU THỨ NHẤT

 

Nói tóm lại trong Đại Tạng, chẳng những có mươi ngoài bộ kinh, nói về

 

việc Tây phương Tịnh độ. Lời đại lược trong các bộ nói, cõi kia, toàn dùng bảy báu trang nghiêm không có địa ngục, ngạ quỷ, và cầm súc cho đến loài bò bay máy cựa. Thường được thanh tịnh tự nhiên, không còn tất cả tập ác, cho nên kêu là cõi Tịnh độ.

 

Người trong cõi này trong hoa sen sinh ra, sống mãi không già, ăn mặc cửa nhà tùy ý muốn đều hiện ra, cảnh tượng ấy vẫn trường xuân, không còn có nóng, rét, hoàn toàn khoái lạc không có chút khổ, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc.

 

Tên Đức Phật ở thế giới ấy, hiệu là A Di Đà, A Di Đà là tiếng Phạm ngữ

 

(A-mi-ta Bu-đa)

 

Theo tiếng nói nước Trung Hoa dịch là Vô lượng. Bởi do hào quang Đức Phật kia chiếu khắp mười phương thế giới không có hạn lượng.

 

Phàm chúng sinh phát tâm niệm Phật, không một chúng sinh nào mà Ngài không soi thấu cho nên lại có tên là : Vô Lượng Quang Phật.

 

 

 

Thọ mạng Đức Phật kia, cùng nhân dân trong nước ấy đều không có hạn lượng. Dù kiếp số hà sa còn có hết, chớ số thọ mạng kia không bao giờ cùng tận. Cho nên có tên là : Vô Lượng Thọ Phật.

 

Đức Phật kia có đại thệ, nguyện độ người, oai thần Ngài thật bất khả tư

 

nghị ! Cho nên người nào chí tâm tin hướng niệm danh hiệu Ngài, hiện đời được tiêu tai, tiêu nạn, dẹp trừ được loài quỷ quái oan khiên, thân tâm được yên tịnh. Tăng thêm phước thọ cảm đến bên Tây phương kia, trong ao thất bảo tự nhiên sinh một đóa hoa sen, một ngày nọ gá sinh trong đó, mau thoát khỏi cõi luân hồi.

 

Những chuyện như đây, đều có sự tích không phải lời bịa đặt hoang đàng dối gạt.

 

Cái thuyết niệm Phật, rất dễ làm, cả trong Đại Tạng, có tám vạn bốn ngàn pháp môn, tóm tắt, những pháp môn cho dễ tu hành, thời không có pháp môn nào bằng pháp môn Tịnh độ. Thế mà, người hoặc không biết, đáng thương đáng tiếc ! Nhưng biết mà không làm, lại càng thương tiếc vậy

 

!

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU THỨ NHÌ

 

Trong Kinh Đại A Di Đà nói : “Đức Phật Thích Ca, một bữa dung nhan khác thường. Thị giả là ông A Nan thấy lấy làm lạ hỏi. Phật bảo hay thay lời ông hỏi, công đức nhiều hơn đem cả của bảy báu cúng dường tất cả thế giới (thiên hạ) nào Thanh Văn, nào Duyên Giác, và bố thí bao nhiêu chư Thiên, nhân dân, hẳn nhẫn đến loài quyên phi xuẩn động, trải qua nhiều kiếp, và hơn trăm nghìn muôn kiếp công đức nhiều biết bao, thế mà không thể kịp một phần công đức của ông hỏi đây !

 

Sở dĩ vì sao ? Bởi chư Thiên, Đế Thích nhân dân, cho đến loài quyên phi xuẩn động, đều nhờ câu hỏi của ông mà được đạo, độ thoát.

 

Do đây xem đó, thiệt Đức Phật Thích Ca khi muốn nói hạnh nguyện Đức Phật A Di Đà, còn trong tâm mà đã lộ bày ra ngoài sắc mặt, khác với lúc bình thường thời đủ biết Đức Phật A Di Đà, sở dĩ cảm đến chư Phật một cách phi thường.

 

 

 

Huống chi cảm tất cả chúng sinh ư ? Chúng sinh chưa được độ thoát, nhờ ông A Nan hỏi, Phật trả lời mà được độ thoát.

 

Ấy là trên từ chư Thiên Đế Thích, dưới đến loài quyên phi xuẩn động đồng một hạng còn ở trong vòng luân hồi, chưa được độ thoát, nay nhờ nghe đại nguyện đại lực Đức Phật A Di Đà mà được độ thoát vậy.

 

Lời nguyện ban đầu, Đức Phật A Di Đà rằng : Đến khi ta thành Phật, danh tiếng ta đồn khắp mười phương. Người, Trời, vui mừng đặng nghe, thời đều được sinh về nước ta vậy. Ngài lại nói : “Chẳng những loài người, mà là tất cả loài địa ngục, ngạ quỷ, và súc sinh cũng được sinh về trên nước của ta nữa”.

 

Thế là tất cả lục đạo chúng sinh luân hồi trong ba cõi, không một chúng sinh nào mà không nhờ Đức Phật A Di Đà từ bi tế độ, thì đủ biết vậy.

 

Cho nên kinh này Di Đà nói : Đức Phật A Di Đà hiện ở cõi Tây phương Cực Lạc thế giới, mà cũng ở trong mười phương thế giới khác giáo hóa vô ương số, chư thiên, nhân dân, dĩ chí loài quyên phi xuẩn động, đâu đâu cũng đều được siêu độ và giải thoát.

 

Quyên phi xuẩn động : Loài bò bay, máy cựa. Loài bò bay máy cựa, mà Đức Phật còn tế độ. Huống chi người thực là hạnh nguyện quảng độ chúng sinh của Đức Phật A Di Đà, không thể cùng tận.

 

Phàm người nhất niệm quy y, thời liền sinh về nước Ngài không còn nghi vậy.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU THỨ BA

 

Trong Kinh A Di Đà lại nói : Vô lượng số kiếp về trước có một Đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương ra đời, hóa độ chúng sinh, khi đó một ông vua nước lớn, đến nghe pháp tỏ ngộ liền bỏ ngôi vua đi xuất gia tu hành hiệu là Pháp Tạng Tỳ Kheo (tức là Phật A Di Đà).

 

Đối trước Phật Thế Tự Tại Vương phát 48 lời đại nguyện. Nguyện nào nguyện nào cũng đều một mục đích cứu độ chúng sinh.

 

 

 

Phát nguyện rồi, Ngài tinh tấn tu hành thoát khỏi sinh tử, vào quả vị Bồ

 

Tát. Khỏi sinh tử là đối với sự sinh tử tự như vậy. Vào quả vị Bồ tát là : trong thời tu huệ, ngoài thời tu phước vậy.

 

Tu Huệ là trau giồi huệ tánh, càng ngày càng xán lạn, đến khi thành Phật, thời huệ tánh trùm khắp cả hư không thế giới, không chỗ nào không biết, không chỗ nào không thấy.

 

Tu Phước là gá sinh trong tất cả mọi loài đồng hình thể, đồng tiếng nói, lập phương pháp giáo hóa, cho nên trên từ vị Đế Thích, dưới cho đến loài trùng kiến vi tế, đều gá sinh trong đó cả.

 

Như vậy, vô lượng, vô số kiếp lại đây, lập pháp giáo hóa chúng sinh. Vả

 

chăng lập phương pháp như thế, đâu không phải đặng phước.

 

Nhưng đặng phước mà không thọ dụng, cho nên phước càng chứa, càng chứa thì càng lớn, càng lớn càng lâu, càng lâu thời tràn khắp cả hư không thế

 

giới vậy.

 

Phước lớn thời oai thần lớn. Ví như người đời làm lớn, thời thế lực lớn.

 

Do oai thần ấy, không chỗ nào chẳng đặng, cho nên mới đặng thành tựu đại nguyện, vì thành tựu đại nguyện cho nên được chứng vào ngôi vị Phật vậy.

 

Từ lời nguyện ban đầu, đến lời nguyện cuối cùng không lời nguyện nào mà không cứu độ chúng sinh.

 

Song nay Ngài đã thành Phật trên mười đại kiếp rồi, hẳn không trái nguyện độ sinh. Thế nên người nào một lòng tín hướng, niệm danh hiệu Ngài hiện đời ắt nhờ phước giúp, thân sau chóng sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Người hay chuyên lòng tưởng hình tượng Ngài hiện đời cũng được thấy chân dung Ngài. Bởi oai thần Phật không chỗ nào chẳng có mà người tâm hằng niệm Phật cho thuần thục thời tự nhiên cảm ứng, cho nên Phật hiện thân vậy (sự tích này quyển thứ 5, có nói).

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU THỨ TƯ

 

Trong Kinh A Di Đà nói : Đức Phật A Di Đà trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp, tu hạnh Bồ Tát, nhẫn lực đã thành tựu, chẳng màng các sự khổ, thường hiện nhan sắc tươi hòa, và lời nói êm ái, làm lợi ích chúng sinh, khéo giữ khẩu nghiệp không chê nói lỗi người, khéo giữ thân nghiệp, không sai phép tắc. Khéo giữ ý nghiệp trong sạch không nhiễm, trong tay thường phóng ra, tất cả y phục, tất cả ẩm thực, tất cả tràng phan bảo cái, tất cả âm nhạc và tất cả đồ cần dùng tối thượng.

 

Đem thí cho tất cả chúng sinh, làm cho chúng sinh được tâm hoan hỷ và nghe lời giáo hóa Ngài.

 

Cho nên vô lượng, vô ương số chúng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Ngài thi hành từ hạnh như vậy, vô lượng vô số, trăm nghìn muôn ức kiếp, công đức đầy đủ, oai thần lừng lẫy, mới đặng thành tựu sở nguyện mà vào ngôi chánh giác. Do đây mười phương vô ương số thế giới chư thiên nhân dân, nhẫn đến loài quyên phi xuẩn động, không một loài nào mà chẳng nhờ lòng từ bi Ngài tế độ.

 

Sở dĩ ta dùng một niệm quy y, bèn sinh về nước kia, đều ở trong hoa sen, trong ao thất bảo sinh ra tự nhiên khôn lớn, cũng không đợi phải có người cho bú và nuôi ăn, cơm tự nhiên tưởng có, dung mạo hình sắc đoan chánh tươi đẹp, chẳng phải người cõi này sánh đặng, cũng chẳng phải người trời bì kịp ! Thân thể tự nhiên trong sáng, nhẹ nhàng, sống lâu vô cùng cực.

 

Khắp cả trong cõi, toàn là người bậc thượng thiện nhân, hẳn không hàng phụ nữ. Đều thọ mạng vô ương số, có Thiên nhãn thông thấy suốt, Thiên nhĩ

 

nghe cùng xa mấy cũng thấy, nhỏ mấy cũng nghe, một hạng người cầu đạo

 

“Thiện”, không hạng người khác. Dù trải qua muôn kiếp, những việc từ lâu nhẫn lại, không việc nào mà không biết rõ.

 

Lại biết tới mười phương thế giới, những việc đời quá khứ đời vị lai và đời hiện tại. Lại biết vô ương số, trên trời dưới trời, nhân dân, nhẫn đến loài quyên phi xuẩn động, tâm muốn nghĩ gì, miệng muốn nói gì, và lại biết những chúng sinh ấy, đến kiếp nào, năm nào, tháng nào, ngày nào đều được độ thoát kiếp, lên làm người và đặng sinh về thế giới Cực Lạc. Do vì được huệ tánh của Phật nên mới thấy biết được như vậy.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU THỨ NĂM

 

Trong bộ truyện Tịnh độ nói : Đức Phật A Di Đà, cùng Quan m, Thế

 

Chí hai vị Bồ tát, ngồi thuyền Đại nguyện, qua biển sinh tử đến thế giới Ta bà này, kêu rước những chúng sinh lên thuyền Đại nguyện đưa về cõi Tây phương, những người chịu đi không người nào mà chẳng sinh về vậy.

 

Xem đây thì Phật với hai vị Bồ tát, thương xót chúng sinh, trầm luân trong biển khổ, không do đâu ra khỏi đặng, cho nên Ngài dùng sức oai thần, thệ nguyện dìu dắt người đời về cõi Tịnh độ.

 

Cũng như kẻ đưa đò kêu hú hành khách lên đò, đưa qua bờ bên kia vậy.

 

Chỉ sợ người không tin vậy thôi, bằng người tín tâm tin chịu, thì dù tội ác đến đâu, cũng có thể vãng sinh về Tịnh độ được cả. Vì sao ? Một là do lời thệ nguyện Phật và hai là do lòng thành tín của mình, cho nên nói oai thần Phật, chẳng khá sánh với người phàm vậy.

 

Vì người phàm chẳng vì thế lực, chẳng cùng ta làm bạn, chẳng có ích lợi cho mình, thì chẳng cùng làm bạn, thế cho nên chỉ làm người phàm vậy.

 

Bậc hiền nhân quân tử còn chẳng như thế huống nữa là bậc Phật. Vì sao ?

 

Bởi không lòng từ bi, không đủ làm Phật, không tế độ chúng sinh, không đủ làm Phật, không có đại oai lực, không đủ làm Phật vậy.

 

Do vì Đức Phật dũ lòng từ bi, thấy chúng sinh trầm luân trong bể khổ

 

mà muốn tế độ. Do vì Đức Phật có đại oai lực, cho nên hay đem tâm tế độ, bèn thành công tế độ, sở dĩ làm Phật là vậy.

 

Trong kinh Đại A Di Đà nói : Vị Đại Y Vương hay trị tất cả bệnh, nhưng mà không thể trị lành được cái bệnh của người số tận, cũng như Đức Phật hay độ tất cả chúng sinh, nhưng mà không thể độ nổi những chúng sinh bất tin khá gọi là người cùng vậy, nên có câu : Ông vua phải thua thằng cùng là nghĩa đây vậy.

 

Phải chăng người có tín tâm, muôn việc thu về một niệm như người khi sống đây, một niệm tâm muốn đi, thời cái thân đứng dậy đi liền. Tâm muốn ở, thời thân bèn ở lại, thế là thân phải tùy tâm niệm.

 

Song có khi tâm niệm muốn đi, mà thân bị giam cầm nào có đi được.

 

Nhưng thân bị giam cầm là cầm giam lúc sống, chớ khi thân hoại mạng thác, vẫn còn có một tâm niệm mà thôi.

 

Tâm niệm xu hướng chỗ đó, thời quyết định đi tới chỗ đó, bởi vậy cho nên, lúc ta còn sống đây, hằng ngày ăn chay niệm Phật, tâm niệm cầu sinh về cõi Tịnh độ dù thân bị ràng buộc đến đâu, khi thác thế nào cũng được sinh cõi Tịnh độ.

 

Huống chi cõi Tịnh độ sẵn có Phật Di Đà, Quan m, Thế Chí, lại dắt dìu rước ta về cõi ấy nữa kia mà !

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU THỨ SÁU

 

Đức Phật A Di Đã có phát lời thề nguyện rằng : “Những chúng sinh nào đã sinh về nước Ta rồi, bấy giờ muốn sinh về nước khác cũng đặng như nguyện hẳn không còn sa đọa trong ba đường ác đạo nữa”. Vì sao ? Bởi người sinh về

 

cõi Tịnh độ, là người đã được chứng lên bậc vô sinh pháp nhẫn rồi vậy. Vả

 

chăng người mà chứng lên được bậc vô sinh pháp nhẫn rồi, chính là người đã không còn sinh tử nữa vậy. Người đã dứt hết đường sinh tử rồi, thì dù có vào cõi sinh tử, một linh tánh ấy vẫn sáng suốt, không hề mê muội, thời do đâu mà trôi lăn trong ba đường ác ư ?

 

Luận theo lý, đã quyết định không sa đọa trong ba đường ác rồi, huống chi nhờ sức hộ trì, lẽ cố nhiên sự sa đọa quyết hẳn là không. Cho nên luận như người sinh về cõi Tịnh độ chẳng những trường sinh bất lão, mà lại sống lâu kiếp kiếp đời đời mà đường sinh tử cũng như như bất động.

 

Cho nên muốn lập phương pháp để giáo hóa tất cả chúng sinh, vào trong tất cả cõi sinh tử của chúng sinh, mà một chân tánh vẫn thường vắng lặng thường sáng suốt, không còn lầm mê ngoại vật, không còn nghiệp duyên lôi kéo, mặc dầu ở trong thế giới luân hồi, mà không còn luân hồi như ai, nên gọi rằng : Thế xuất thế gian. Nghĩa là : Tuy ở trong đời mà đã ra khỏi ngoài đời vậy.

 

Thế cho nên người được vãng sinh về cõi Tịnh độ kia rồi, toàn là người đã được, đường sinh tử như như bất động rồi, lúc bấy giờ muốn sinh qua cõi trời cũng đặng, muốn sinh lại cõi người cũng đặng, muốn sinh trong nhà đại phú quý cũng đặng, muốn sinh vào cõi thanh tịnh cũng đặng, cho đến muốn sống hoài chẳng chết cũng đặng, hay là muốn chết rồi sống trở lại cũng đặng. Tùy ý mình muốn chi, và chi, không việc chi mà không vừa ý muốn (Tự tại ý dục, vô bất tự tại) thế, sở dĩ ta muốn một điều quý nhất, là muốn sinh về Tịnh độ vậy !

 

 

 

Người đời không rõ ý muốn như đây, luống ở trong đường sinh tử, muốn sinh trong nhà giàu sang, mà trở lại sinh trong nhà bần tiện, muốn sinh trong cõi khoái lạc, mà lại trở sinh trong cảnh buồn thảm, muốn sinh cho được trường thọ, là cứ sinh rồi bị chết yểu chết non, muốn sinh làm đạo lành mà trở sinh vào ác thú, mỗi mỗi đều bị cảnh ngoài cám dỗ, duyên nghiệp kéo lôi, không thể tự tại.

 

Từ vô lượng kiếp mãi đến ngày nay, luân hồi trong lục đạo, chưa có lúc nào ra khỏi. Cứ một niệm tưởng những việc ưu khổ như vậy, quày tâm niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ cho dứt hết mọi sự ưu hoạn. Một cõi mọi sự ưu hoạn đã dứt hết, mà không kêu cõi ấy là cõi thế giới Cực Lạc chớ chi ?

 

Người có trí để ý ngấm ngầm nghiệm xét khá thấy vậy.

 

---o0o---

 

TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU THỨ BẢY

 

Ông Vô Vi cư sĩ tên Dương Kiệt, hiệu Thứ Công tuổi trẻ đậu khoa cao, tỏ tông chỉ thiền môn, nói: Chúng sinh căn cơ lợi độn, theo chỗ gần dễ hiểu chỗ gọn dễ làm. Duy có pháp môn Tây phương Tịnh độ, hễ nhất tâm quán niệm, nhờ nguyện lực Phật mau sinh về nước An dưỡng.

 

Ông, vì ông Vương Mẫn Trọng làm lời tựa bộ TRỰC CHỈ TỊNH ĐỘ

 

QUYẾT NGHI nói Phật A Di Đà phóng quang như mặt trăng tròn sáng lớn chiếu khắp mười phương, nước trong và tịnh thời trăng hiện toàn thể.

 

Trăng chẳng phải theo nước mà đi mà đến, hễ nước đục xao động, trăng không có ánh sáng, nhưng trăng cũng không bỏ nước mà đi.

 

Ở nơi nước có trong, có đục, có động, có tịnh, ở nơi mặt trăng thời không thủ, không xả, không khứ, không lai. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm có chép : Ông Trưởng giả tử nói : Biết tất cả chư Phật cũng như bóng dạng.

 

Tâm mình dụ như nước. Các Đức Như Lai kia không đi đến cõi này, song ta bằng muốn thấy nước An dưỡng thế giới A Di Đà Như Lai tùy ý liền thấy, cho nên chúng sinh chuyên niệm thì chắc thấy A Di Đà. Bằng sinh cõi Tây phương kia, thời không các sự khổ.

 

Kinh Ban Châu Tam Muội nói : Ông Bạc Đà Hòa Bồ Tát, bạch Đức Phật Thích Ca rằng : Thưa Đức Đại Giác Thế Tôn ! Chúng sinh đời vị lai sau này, làm sao thấy các Đức Phật trong mười phương ? Phật dạy phải niệm Phật A Di Đà thời liền thấy mười phương tất cả chư Phật.

 

Lại Kinh Đại Bửu Tích nói : Hoặc chúng sinh ở thế giới phương khác, nghe danh hiệu Đức Vô Lượng Thọ A Di Đà Như Lai, nhẫn đến hằng Phật một niệm thanh tịnh tín tâm, hoan hỷ ham mộ, chỗ tu căn lành hồi hướng nguyện sinh nước kia, tùy nguyện vãng sinh đặng bậc bất thối chuyển.

 

Đây là lời Đức Phật Thích Ca nói vậy. Lời Phật nói không tin, lời nào đáng tin ? Chẳng cầu sinh về Tịnh độ, chớ cầu sinh về cõi nào ?

 

Ông Tô Đông Pha nói : Ông Thứ Công tuổi già làm quan Giám Tư Thái Thú thường vẽ tượng Phật A Di Đà một trượng sáu (1m60) đi đâu mang theo cúng dường và quán tưởng, đến ngày lâm chung, cảm Phật đến rước vững ngồi mà qua đời.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

HẾT QUYỂN HAI

 

--- o0o ---

 

QUYỂN BA - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI :

 

Ông Vương Nhựt Hưu dẫn lời ngài Mạnh Tử nói Người ai ai cũng có thể

 

làm hạnh lành như vua Thuấn vua Nghiêu. Ông Tuân Tử nói Người đi ngoài đường cũng kêu là vua Võ được.

 

Ông Thường Bất Khinh Bồ Tát nói Ta đối với tất cả người, không dám khinh tất cả người, vì tất cả người; nếu tu cũng có thể thành Phật. Thế là người người đều khá làm Thánh Hiền, ai ai cũng có thể làm Phật, thời đủ

 

biết cái pháp môn niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ, quyết không có một người nào mà không tu được vậy. Cho nên hôm nay tôi (Vương Nhựt Hưu) soạn quyển này là quyển Phổ Khuyến Tu Trì (khắp khuyên ai nấy gắng tu gắng làm).

 

---o0o---

 

 

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ NHẤT

 

Kẻ hoặc hỏi đức Khổng Phu Tử rằng Có người sang đổi nhà quên cả vợ

 

chăng ? Đức Khổng Tử đáp Cũng có lắm người vậy, vua Kiệt vua Trụ thời quên cả thân mình. Nếu dùng đạo nhãn xem, thì người đời bây giờ phần nhiều quên cả đời mình nữa. Vì sao ? Từ sớm mai thức dậy, mở mắt khỏi chỗ nằm.

 

Đến tối tới chỗ nằm nhắm con mắt lại, không đâu là không để tâm lo lắng việc trần lao. Chưa từng tạm xét lấy thân mình, ấy là quên cả thân mình đó vậy.

 

Vả chăng, thân người, lấy việc trước mắt mà nói Chi lớn hơn việc đói khát, ắt phải sắm những món uống ăn. Lấy việc quanh năm mà nói Chi lớn hơn sự

 

lạnh, nóng, ắt phải sắm những áo “Cừu” áo “Yết”. Lấy việc trọn đời mà nói Chi lớn hơn đường sinh tử, không lo sắm những món tư lương để đi về cõi Tịnh độ, là sao ư ?

 

Vả như người có món vàng trăm cân, rủi có đại nạn không thể mang theo ắt phải bỏ vàng mà đi không. Nếu ham tiếc ôm vàng theo thì ắt phải chết. Đời gọi là người ngu si (đại ngu). Thân này rất trọng hơn món vàng trăm cân vậy.

 

Song ngày bình nhật thời bo bo cầu danh đua lợi, tuy vật nhỏ cỡ trăm đồng tiền, cũng không chịu nới bỏ, mà mình chẳng quý trọng thân mình là sao ư ?

 

Hoặc người mắng mình là trộm cắp, hoặc nhiếc mình là cầm súc, thời mình uất ức tức giận, có người đến trọn đời oán trách mà không thể nguôi hết, có người đập đánh đến nỗi thành ra kiện cáo. Song cái tên trộm cắp hay cầm súc của người nói, cũng không hại gì đến thân ta, mà ta ghét giận như thế, ấy là luống tiếc cái danh giả nơi mình, mà không biết những cái chân thật của mình, là sao ư ?

 

Vả chăng cái chân thật của mình là chi ? Gượng kêu là cái chết, mà thật chưa từng chết được vậy. Người vẫn thấy kẻ bỏ cái thân giả này mà đi, chính gọi đó là chết. Mà không biết bỏ cái thân này rồi, thời đi đầu thai làm cái thân khác vậy. Song chỗ đi đó ta đâu không dự bị tư lương trước ư ?

 

Cho nên cái thuyết Tây phương Tịnh độ thiệt chẳng nên bỏ vậy.

 

---o0o---

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ HAI

 

Khi người sinh, cha, mẹ, vợ, con, nhà cửa, ruộng vườn, trâu, bò, xe, ngựa, cho đến ghế đẳng, bát, bồn, y phục, dây lưng, hết thảy đồ đạc không luận vật lớn hay vật nhỏ. Hoặc Tổ phụ để lại cho mình, hoặc tự mình làm ra mới có, hoặc con cháu, hoặc người khác vì mình tom góp, mỗi món đâu không phải là vật của mình. Vả như những giấy dán cửa sổ, tuy là vật rất mọn, nhưng mà bị

 

người khác chọc lủng đi, ta còn có tâm giận, một cây kim tuy nhỏ, bị người khác lấy đi, ta còn có tâm tiếc. Kho lẫm đã đầy, lòng tham chưa đủ. Vàng bạc đã nhiều sắm mãi không thôi. Mở mắt dở chân, đâu không ái trước. Một đêm ngủ ngoài đã lo ở nhà, một đứa đầy tớ chưa về, đã lo nó đi mất. Trăm việc tính toan, chẳng có một việc nào mà chẳng để vào lòng toan tính.

 

Song một mai đại hạn tới rồi, thảy đều bỏ ráo, dù thân ta đây cũng là vật bỏ, huống chi những vật ở ngoài thân ư ? Chạnh lòng ngẫm nghĩ, khác nào một giấc mộng trường (dài).

 

Cho nên ông Trang Tử nói Vả có bậc Đại giác, vậy sau mới biết thân này, là trường đại mộng.

 

Người xưa nói câu “Nhất nhật vô thường đáo, phương tri mộng lý nhân, vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân”, nghĩa là Một mai vô thường đến, mới biết người ở trong mộng, lúc chết muôn vật đem theo chẳng đặng, duy có nghiệp đeo đuổi theo mình. Rất đúng thay lời ấy vậy.

 

Hôm nay tôi (Vương Nhựt Hưu) cũng thể theo hai câu sau của bài trên, thêm vào hai câu thành một bài kệ như dưới đây Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân, đản niệm A Di Đà, định sinh An lạc quốc”, nghĩa là Muôn việc đem theo chẳng đặng, chỉ có nghiệp theo mình, nếu niệm A Di Đà quyết sinh nước an dưỡng.

 

Song nghiệp, có hai nghiệp một là nghiệp lành, hai là nghiệp dữ. Luận như

 

hai món nghiệp này, đều đem theo đặng. Đâu chẳng nên để tâm niệm Phật, cầu sinh Tịnh độ làm nghiệp ư ?

 

Có ông Minh Liễu Trưởng lão vì cả trong chúng, chỉ thân này mà nói rằng Thân này là vật chết, ở trong cái thân chết này nó có cái không chết, cái không chết đó gọi là Thức Tâm, tâm này sống mãi mãi tới vô lượng kiếp. Vậy chớ

 

lầm, nhè trên vật chết làm kế sống. Phải chính trên vật sống, tìm cầu vật sống mới được.

 

Tôi (Vương Nhựt Hưu) rất phục lời nói ông Trưởng lão này, cho nên tôi thường nói với người rằng Phàm tham các món vật ở ngoài, dùng phụng dưỡng nơi thân, dầu là ngay trên vật chết, mà lầm làm kế sống vậy. Người đời tuy chưa khỏi thế, nhưng phải ở trong việc làm ăn nuôi sống. Thừa trong lúc rảnh, cũng phải quày tâm suy xét, để tâm với pháp môn Tịnh độ này, là trên vật sống làm kế sống vậy. Vả như bo bo lo sống, tuy có giàu như ông Thạch Sùng, sang đến bậc nhất phẩm, rốt cuộc cũng có ngày số tận, đâu bằng niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ, hưởng sự khoái lạc vô cùng tận vậy ư ?

 

---o0o---

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ BA

 

Người vốn chưa từng chết, mà cái tên chết nó đã có sẵn trên thân này rồi.

 

Vì sao ? Bởi thần thức nó đi đầu thai mà gá nơi cõi thân tứ đại, thân này do có thần thức mà được lớn được mạnh, nên gọi đó là sinh. Lúc thần thức lìa thân tứ

 

đại, thời thân này do đây là hư hoại nên gọi đó là chết (tử).

 

Thần thức là gì ? Dụ như thân ta đây.

 

Thân tứ đại là gì ? Dụ như nhà ta ở vậy.

 

Ta có đi có đến nên nhà ta có thành có hoại.

 

Thế thì lúc sống đây, không phải là sống thiệt do thần thức đến, mà thân này hình như có sống vậy thôi. Lúc chết, cũng chẳng phải là chết hẳn, chỉ vì thần thức đi mà thân này phải tan ra vậy thôi. Song người sinh ở đời, ít ai được nhận thức cứ chấp cái thân tứ đại này thôi. Bởi chấp tứ đại này cho là thiệt có, là trường tồn, nên hy vọng việc sống, mà toan ghét sự chết, mê lầm đến thế, khá chẳng thương ư ?

 

Thần thức khi đi, từ đâu mà đi ?

 

Đáp rằng Tùy nghiệp duyên mà đi.

 

Hỏi Nghiệp duyên là gì ?

 

Do chỗ người tạo tác nghiệp lành hay dữ chi đó, thần thức đi theo duyên nghiệp, mà đầu thai chịu quả báo ấy, như người tạo nghiệp nhân gian (thọ tam quy, ngũ giới). Thần thức cũng tùy đó, mà đầu thai sinh trong loài người. Còn tạo nghiệp cõi thiên thượng (tu thập thiện) thời thần thức cũng tùy nơi đó, mà đầu thai sinh lên cõi trời.

 

Còn tạo nghiệp về cõi A tu la (cũng tu Thập thiện nhưng mà sân hận nhiều) thần thức cũng tùy nơi đó mà đầu thai sinh lại cõi A tu la. Còn tạo nghiệp trong ba đường ác (Tham, sân, si nhiều) thời thần thức cũng tùy nơi đó, mà đầu thai sinh vào trong ba đường ác (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Thế là thần thức, tùy theo nghiệp duyên tạo tác mà luân hồi, mãi trong sáu thú, không hẹn thời kỳ

 

nào ra khỏi vậy.

 

Song mà thần thức này, từ vô thỉ, nhẫn đến ngày nay, đầu thai đổi xác, chẳng đặng ở lâu một chỗ là vì lẽ gì ? Bởi do nghiệp ta gây tạo chẳng lâu, cho nên thần thức ở trong các thân này một thời kỳ ngắn ngủi rồi tùy nghiệp đi qua xác khác, giữ gìn thân khác đến khi nghiệp hết thần thức đi ra, thời thân hình phải hoại, hình hoại thời thần thức không chỗ nương tựa, vì không chỗ nương tựa nên tùy theo cái nghiệp trong đời này đã tạo, thần thức tùy nghiệp ấy mà đi đầu thai chịu xác khác (thân đời sau) vậy. Ví như người cấu tạo nhà cửa, rồi ở

 

trong nhà cửa, người sắm đồ ẩm thực ắt hưởng sự ẩm thực, cho nên hễ tạo những nghiệp như thế nào thời ắt phải chịu quả báo cũng phải như thế ấy cả. Là lý tự nhiên vậy.

 

Thế thời đời này ta tạo những nghiệp gì đây há chẳng cẩn thận cho lắm ư ?

 

Như những người muốn chóng khỏi luân hồi, hằng lìa khổ não, không chi bằng để tâm nơi pháp môn niệm Phật cầu sinh về Tây phương Tịnh độ là cần hơn. Cho nên tôi (Vương Nhựt Hưu) xin các nhân giả chớ khá dần dà mà chẳng tu cho sớm vậy.

 

---o0o---

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ TƯ

 

Người sống trong bầu thế giới này, khác nào một cục bọt nổi trên mặt nước, có đó rồi không đó sinh diệt vô thường. Hoặc có người sống một tuổi hoặc có người sống hai tuổi, hoặc có người sống một mươi, hai mươi tuổi. May phước được bốn năm mươi, cũng đã khá, dù cho bảy mươi (gọi là thất thập cổ

 

lai hy) cũng rất ít có.

 

Người đời chỉ thấy những người chưa già trước con mắt, chớ không biết xét những kẻ chưa già mà đã chết mất kia cũng lắm vậy. Huống chi trong thế

 

gian này, không có cái gì mà không phải khổ, ngặt vì không để tâm suy xét cho nên không rõ biết vậy thôi, coi như trong lúc ta không vừa lòng, vẫn đã khổ rồi.

 

Bằng gặp những việc vừa lòng, cũng không bao lâu, cha, mẹ, vợ, con, suôi gia, quyến thuộc hoặc tật bệnh chết mất, hoặc bị sát phạt, ly tán, hoặc mình tới hạn số một cách tình cờ (bất ngờ).

 

Xét lại đời sống, cả đời đâu đặng toàn thiện không chút tội ác ?

 

 

 

Vậy lấy việc trước con mắt dễ thấy mà nói Như tâm ta khởi một niệm bất chánh, nói một lời bất chánh, ngó cái vật bất chánh, nghe một tiếng bất chánh, làm một việc bất chánh, đâu không tội lỗi. Huống chi những vật ăn dùng, là thịt của chúng sinh, áo ta mặc sát hại tằm tơ mà có.

 

Hơn thế nữa, tội lỗi chẳng những ăn thịt, mặc tơ tằm chẳng tưởng thì thôi, tưởng ra thật khá ghê rợn vậy.

 

Từ nhỏ đến già, từ sinh đến chết, một đời chất chứa đã nhiều, buộc ràng nhiều lớp, không do đâu giải thoát. Sau khi nhằm mắt, chẳng khỏi theo nghiệp duyên mà đi, mờ mờ, mịt mịt biết ở chỗ nào ? Hoặc sa trong địa ngục, chịu các cực hình, hoặc sinh trong loài ngạ quỷ, lửa đói đốt thân, hoặc vào Tu la sân hận đầy bụng, dù có chút nghiệp lành, đặng sinh lên cõi trời hay trong cảnh người, hưởng hết phước báo rồi, cũng không khỏi luân hồi trở lại như cũ, trồi lặn chìm nổi, không thể biện ra vậy.

 

Duy có pháp môn niệm Phật cầu sinh về Tây phương Tịnh độ, là một con đường thẳng tắt mau ra khỏi luân hồi mà thôi.

 

Huống chi thân này khó đặng, vậy đương lúc chưa già không bệnh phải lo cho xong cái đại sự (sinh tử) này, phải thường nghĩ như vầy Ta từ vô lượng kiếp lại đây, đã từng trải trong vòng luân hồi lục đạo, mà chưa lúc nào biết được pháp môn này, cho nên không ra khỏi cảnh luân hồi lục đạo.

 

Ngày nay ta đã biết, đâu khá không tức thời làm đi, những người tuổi cao, vẫn nên cố gắng, còn người trẻ tuổi cũng chớ dần dà.

 

Khi mạng chung, đặng sinh về thế giới Cực Lạc rồi ngó lại thấy những người chết, vào âm phủ, ra mắt vua Diêm La chịu những việc cực hình ghê tởm. Cách nhau như trời với vực không thế đồng ngày mà nói vậy.

 

---o0o---

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ NĂM

 

Vậy như người vào trong một cái thành lớn, tất nhiên phải tìm chỗ ở yên, rồi mới trở ra làm việc, lúc chiều tối có chỗ về nghỉ ngơi.

 

Trước hết tìm chỗ ở yên là nghĩa tu pháp môn niệm Phật vậy. Đến khi chiều tối, là nghĩa cơn đại hạn (chết) nó tới rồi vậy. Có chỗ nghỉ ngơi, là nghĩa sinh trong hoa sen, khỏi sa vào ác thú vậy.

 

 

 

Lại như ta đi đường xa, trước phải sắm đồ che mưa, rủi gặp lúc trời mưa thời khỏi sự lo ướt át lang thang.

 

Trước sắm đồ che mưa là gì ? Là người tu Tịnh độ vậy. Rủi trời mưa là gì ?

 

Là đại mạng sắp hết vậy.

 

Khỏi lo sự ướt át lang thang là gì ? Nghĩa là chẳng đến nỗi mà bị trầm luân trong ác thú chịu các sự khổ éo le vậy.

 

Vả chăng trước tìm chỗ ở yên, cũng không hại gì việc ra làm. Sắm đồ che mưa trước, cũng không ngại gì đi con đường xa. Người tu Tịnh độ cũng không ngại gì tất cả việc đời. Cớ sao người đời chẳng tu niệm ư ?

 

Chính tôi (Vương Nhựt Hưu) được biết có một người, ngày bình sinh phần nhiều tạo tội sát ngư; khi tuổi già mang bệnh, dường như chứng trúng phong.

 

Tôi thương người kia gây tội ác mang bệnh khổ, bèn đến thăm. Tôi khuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà Anh ta cằn nhằn chẳng chịu niệm, chỉ ngó tôi rồi nói chuyện phi pháp (bậy bạ).

 

Thế đâu chẳng phải là bị nghiệp ác nó chướng ngại (ngăn trở) ốm đau mê sảng ư ? Vậy mình chẳng hay hồi tâm niệm thiện (nghĩ nhớ việc lành), sau khi nhắm mắt đi rồi, sẽ lấy chi nương cậy ?

 

Cho nên người tu pháp môn niệm Phật đây, phải chóng hồi đầu cho sớm vậy.

 

Ở trong thế gian, ban ngày thì ắt phải có ban đêm, lạnh thì có nóng. Mỗi người ai cũng biết thì đấy không có dấu diếm đi đâu. Như nói Sống thì ắt phải có chết, mỗi người đều sợ mà tránh né, đến nỗi không dám nói ra, đứa trẻ hở

 

miệng buông lời (tôi chết), thì cha mẹ la rầy, dừng nói tầm xàm, sao mà tệ thế ?

 

Ôi! Đâu có biết chỗ nói chết đấy, vốn chưa từng chết. Nhưng chỉ theo nghiệp duyên hết, là thần thức lìa khỏi xác thịt mà đi thế thôi.

 

Cho nên chúng ta cần tu Tịnh độ cầu sinh trong hoa sen để thọ cái thân như

 

Phật, sống lâu vô cùng, và được thoát khỏi tất cả sự ưu bi, khổ não ở trong vòng sinh tử vậy!

 

---o0o---

 

 

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ SÁU

 

Người sinh về phẩm hạ, chính khi lâm chung tướng địa ngục hiện trước mắt, người đó chí tâm niệm mười câu Nam mô A Di Đà Phật, thời biến hình tướng địa ngục trở thành hoa sen, người đó cũng được sinh về Tịnh độ. Đây là do lòng từ bi của Đức Phật, chí thâm oai đức rất lớn, cho nên mới có tài năng như vậy.

 

Bài này nói mười câu niệm Phật chính lúc sinh tiền (khi còn sống), tự mình niệm mười câu Nam mô A Di Đà Phật. Chớ không phải lúc hậu thân (chết rồi), thỉnh người khác niệm thế vậy.

 

Sinh tiền mình niệm, khi lâm chung có Phật cùng Bồ Tát thân hành đến tiếp rước, cho nên quyết chắc sinh về Tịnh độ. Còn thân hậu thỉnh người khác niệm, thì tôi (Vương Nhựt Hưu) chưa biết được!

 

Kinh Nhân Quả nói Thân hậu, thỉnh người khác niệm, làm phước độ vong, thì trong bảy phần công đức, vong chỉ được một phần; còn sinh tiền (lúc chưa chết), mình tự niệm, thời trăm ngàn phần mình hưởng trọn trăm ngàn phần.

 

Người đời tội gì mà không chính lúc sinh tiền, mỗi ngày niệm mười câu hiệu Phật, hà tất đợi khi chết, mới rước thầy niệm Phật thế cho ư ?

 

Lại nữa! Sắt đá tuy nặng, nhưng nhờ sức ghe tàu chở qua sông to cũng đặng. Còn một cây kim tuy nhỏ, nếu không nhờ tàu, bè, dù sông nhỏ cũng không thể qua. Nghĩa là nói người tuy có tội nặng, nhưng nhờ sức chư Phật hộ

 

trì, đặng về Tịnh độ. Còn người tội ác tuy ít (nhẹ), nếu không nhờ chư Phật hộ

 

trì, thì Tịnh độ khó sinh.

 

Lại nữa! Như người cả một đời làm ác một bữa thôi làm, cũng trở thành người thiện, người hồi tâm hướng thiện niệm Phật, nhờ Phật hộ trì, tội ác được tiêu, cũng lại như vậy.

 

Lại nữa! Như con kiến, con rận muôn đời muôn kiếp có lúc nào đi tới được ngàn dặm. Song nếu nó đeo trong thân áo người, dù ngàn dặm cũng có thể tới.

 

Nhờ sức hộ trì chư Phật được sinh về Tịnh độ, cũng in như vậy. - Xin chớ

 

nghi!

 

Người có tội ác, hồi tâm niệm Phật mà không muốn vãng sinh một mình mình, tâm chỉ muốn thấy Phật, đắc đạo rồi, trở lại độ tất cả, những kẻ oán người thân, cũng đều đặng vãng sinh, thời không có một người nào mà chẳng đặng sinh về vậy.

 

Kẻ hoặc (có người nghi) hỏi Người thuở bình sinh làm ác, sát hại chúng sinh, ngược đãi dân lành, khi chết niệm Phật, cũng được vãng sinh, thì như

 

những chúng sinh bị sát, bị khổ kia, nó sẽ ôm lòng uất hận (ức) biết bao giờ

 

nguôi phai thì sao ?

 

Đáp rằng Miễn ta sinh về Tịnh độ, sau khi đắc đạo rồi trở lại độ tất cả, kẻ

 

oán, người thân, cũng đồng về nước an dưỡng.

 

Đâu không hơn những kẻ gây thù kết hận, oan oan tương báo, rốt cuộc mình và người cả hai đều lặn hụp trong khổ luân hồi, không biết đến kiếp nào hẹn ra ư ?

 

---o0o---

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ BẢY

 

Tôi (Vương Nhựt Hưu) lập cái thuyết Tịnh độ muốn khuyên tất cả, kẻ thấy người nghe, phát tâm quảng đại (rộng lớn) lấy tâm Phật làm tâm mình, khiến cho mọi người đều biết đó, đồng sinh về Tịnh độ. Phải đem tâm tưởng rằng Pháp môn này, nếu người biết đó, cũng như mình biết đó, đâu không khoái (mừng) ư ? Bằng người không biết, cũng như mình không biết, há chẳng buồn ư ?

 

Chẳng phải để tu riêng một mình mình. Nếu tu riêng một mình mình, thời là chúng Thanh Văn, Phật gọi là bậc Tiểu thừa.

 

Tiểu là nhỏ. Thừa là cỗ xe, hay thừa là chở. Nghĩa là Người tu Tiểu thừa, dụ như cỗ xe rất nhỏ, chỉ chở được một mình mình mà thôi. Phật nói người này, là người đoạn hột giống của Phật. Vì tu theo lối ích kỷ vậy (lợi cho mình).

 

Còn người phát tâm rộng lớn khuyên tất cả mọi người đồng tu, thời gọi là Đại thừa Bồ Tát. Ví như cỗ xe rất lớn, chở luôn cả mình và người đồng đi đến chỗ cứu cánh, quả vị các Đức Phật.

 

Cho nên phước báu của người này, cũng đặng to tát đến vô lượng vô biên.

 

Mười phương hằng hà sa số các Đức Phật, Đức Phật nào cũng đều khen ngợi công đức Phật A Di Đà, là bất khả tư nghì. Nghĩa là Không thể lấy tâm suy nghĩ, không thể dùng lời nói mà luận bàn được vậy.

 

 

 

Công đức to lớn như thế, không thể mô tả cho cùng tận. Cho nên chỉ mượn hai chữ mà tung hô rằng “Tột bậc”. Song công đức to lớn tột bậc như thế, thì ra làm việc chi mà lại không đặng ?

 

Cho nên khuyên đặng một người tu pháp môn Tịnh độ, nhờ duyên lành này, tiêu mòn tội ác cũng đặng vậy, chẳng những tiêu tội ác, mà lại tăng cao phước và thọ nữa.

 

Chẳng những tăng cao phước thọ, mà cũng có thể thành tựu công đức vãng sinh về cõi Tịnh độ. Chẳng những được vãng sinh về cõi Tịnh độ, mà cầu cho vong giả vãng sinh về cõi Tịnh độ nữa cũng được vậy.

 

Song cần phải chí thành chú nguyện mới đặng công đức, và đặng vãng sinh về cõi Tịnh độ. Xem như trong truyện ông Phòng Chữ thời biết vậy (ông Phòng Chữ là tội nặng niệm Phật cũng được vãng sinh lên quả vị bất thối).

 

Huống chi khuyên đặng một người, nhẫn đến năm người, mười người ư!

 

Ta khuyên người, rồi bảo người lần lựa khuyên rộng ra nữa. Đời đời bất tuyệt như thế thì cái thuyết Tây phương, rải rác khắp cùng trong thiên hạ, tất cả

 

chúng sinh trong bể khổ cũng đều đặng sinh về Tịnh độ hết vậy.

 

Khuyên người làm đạo lành, gọi là Pháp thí. Mà pháp môn Tịnh độ này là một môn Pháp thí đứng đầu trong các Pháp thí. Và muốn ra khỏi luân hồi không chi bằng môn Pháp thí này vậy.

 

Cho nên phước báu của sự thí pháp chẳng khá nói cho cùng tột vậy.

 

Ngài Đại Từ Bồ Tát làm bài kệ khuyên người tu Tịnh độ như vầy Năng khuyến nhị nhân tu,

 

Tỷ tự tỷ tinh tấn,

 

Khuyến chí thập dư nhân

 

Phước đức kỷ vô lượng.

 

Nghĩa là

 

Khuyên đặng hai người tu,

 

Sánh bằng mình tinh tấn.

 

 

 

Khuyên đặng hơn mươi người,

 

Phước đức mình vô lượng.

 

Và câu

 

Như khuyến bá dư thiên,

 

Danh vi chân Bồ tát.

 

Hựu năng quá thử số,

 

Tức thị A Di Đà.

 

Nghĩa là

 

Bằng khuyên trăm nghìn người,

 

Gọi ông chân Bồ Tát.

 

Lại khuyên hơn số ấy,

 

Tức Phật A Di Đà.

 

Xem đây thời biết, cái thuyết Tây phương Tịnh độ há không dùng tâm rộng lớn. Khuyến hóa mọi người, đồng biết pháp môn này để chứa nhóm vô lượng phước báu hay sao ?

 

---o0o---

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ TÁM

 

Vả như thấy người đói, ta cho họ một bữa ăn. Người lạnh khổ ta giúp một cái áo, đã là ơn lớn rồi.

 

Huống chi chúng sinh trầm luân trong lục đạo không có thời kỳ nào ra khỏi. Ta chỉ dạy pháp môn niệm Phật, khiến mau ra khỏi luân hồi, hưởng sự

 

khoái lạc dài lâu vô cũng vô tận, ơn ấy đâu kể xiết ư ?

 

Kinh Kim Cang nói Nếu người dùng hằng hà sa đẳng thân mà bố thí. Như

 

thế vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp phước đức lớn biết bao. Thế mà không bằng có một người nghe hiểu kinh điển này, tín tâm chẳng trái, thời phước đức lại nhiều hơn.

 

 

 

Vì sao ? Bởi đem thân bố thí, bất quá là hưởng phước báu cõi thế gian này, có khi phải hết.

 

Còn kẻ nghe hiểu kinh điển này, thời lần hồi tỏ ngộ chân tánh đặng phước không cùng không tột. Cho nên hơn là vậy.

 

Do đây tôi (Vương Nhựt Hưu) xét nghiệm, người tin Kinh Kim Cang còn được phước báu như thế. Bằng khuyên người tu Tịnh độ phước báu cũng như

 

trên không kém thiếu vậy.

 

Vì sao ? Bởi tu pháp môn Tịnh độ, không còn luân hồi và đặng bậc Bất thối chuyển, thẳng đến thành Phật, quả vị cứu cánh viên mãn.

 

Huống chi người sinh về cõi kia rồi, dù chưa chứng quả Phật liền. Nhưng cũng chính là giai cấp đi lần lên quả Phật. Cho nên khuyên một người tu Tịnh độ, là thành tựu một chúng sinh thành Phật vậy.

 

Phàm những người thành Phật, tất nhiên phải độ vô lượng chúng sinh, mà những chúng sinh đắc độ kia, đều do ta làm đầu, thì lẽ cố nhiên phước báu ấy phải nhiều hơn những người đem hằng hà sa đẳng thân bố thí tới vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp chớ sao.

 

---o0o---

 

PHỔ KHUYẾN TU TRÌ THỨ CHÍN

 

Phàm ta thọ ơn sư, hữu giáo huấn, ơn cha mẹ dắt dìu, ơn bè bạn lễ đưa, thảy đều khuyên bảo tu Tịnh độ, để đáp đền lại, nhẫn đến mang ơn tất cả người, hoặc có cái ơn cho ta uống một bát nước trà, hoặc giúp một lời nói, cùng tôi tớ

 

có công lao hầu hạ.

 

Phàm chỗ ta thọ dụng, tất cả ân lực của người. Ta đều đem pháp môn này khuyên bảo, khiến cho họ thoát ly bể khổ, chẳng những người có ân với ta, mà là tất cả người ta biết, cùng không biết, quen cùng không quen, đều toan dạy một cách này mong cũng nhau sinh về Tịnh độ.

 

Chẳng những như đây. Xem như hồi thời kỳ Đức Phật Thích Ca còn tại thế, có một nước nhỏ khó giáo hóa. Phật nói Dân chúng ở quốc độ này, có nhân duyên với ông Mục Kiền Liên. Liền sai ông Mục Kiền Liên đến giáo hóa, thì người trong nước ấy, đều rắc rắc phục tùng theo lời nói của ông Mục Kiền Liên.

 

 

 

Cô người hỏi Phật rằng Những người trong quốc độ ấy, với ông Mục Kiền Liên có nhân duyên như thế nào ? Phật dạy Hồi đời trước ông Mục Kiền Liên làm ông tiều đốn củi làm kinh động một bầy ong trong núi. Ông Mục Kiên Liên phát lời thệ rằng Sau khi ta đắc đạo, nguyện độ hết bầy ong này. Nay dân chúng trong thành đây, chính là bầy ong hồi đó vậy. Vì ông Mục Kiền Liên phát lời nguyện đó, cho nên nay có nhân duyên này.

 

Do đây mà xem đó, chẳng những ta đối với tất cả người khuyên tu Tịnh độ, mà là với tất cả cầm thú bay chạy, cho đến loài mối, kiến, muỗi, mòng, phàm có hình tướng mà có thể thấy được đó, ta đều niệm Nam mô A Di Đà Phật vài tiếng phát lời thiện thệ rằng Các ngươi chúng sinh, đều sinh về thế giới Cực Lạc, sau khi ta đắc đạo, độ hết các ngươi.

 

Chẳng phải đối với loài có hình tướng ta thấy được mà loại hình tướng không thấy được ta cũng phải như thế cả.

 

Như vậy, thì thiện niệm ta được thuần thục. Đối với tất cả chúng sinh đều có nhân duyên. Ta sinh lên bậc thượng phẩm, sinh lên bậc thượng phẩm rồi, trở

 

lại trong cõi này, hóa độ mọi người. Bấy giờ không có một ai mà không ưa thích và phục tùng lời nói của ta vậy.

 

Cho nên có câu Nói một lời người nghe một vạn là thế.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

HẾT QUYỂN BA

 

---o0o---

 

QUYỂN TƯ - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI

 

Pháp môn Tịnh độ, thoáng thấy trong Kinh “Đại A Di Đà” cùng Kinh

 

“Thập Lục Quán” có nói pháp tu Tịnh độ, có thấp và có cao. Người tu theo pháp thấp thời công nhỏ, mà ở trong quả vị “Chín phẩm” cũng chỉ ở về

 

phẩm hạ (thấp). Còn người tu theo pháp cao thời công lớn, mà ở trong quả

 

vị “Chín phẩm” lại được phẩm thượng (cao). Song miễn sinh về trong chín phẩm, dù thượng hay hạ, cũng đều được thoát kiếp luân hồi và trường sinh bất lão cả.

 

Nay trước kể quả vị của người tu cao thấp mà bày ra nói có phẩm thượng, phẩm trung, và phẩm hạ vậy.

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ NHẤT

 

Đức Phật A Di Đà, Ngài có phát 48 lời nguyện, cứu độ chúng sinh, trong đó có lời nguyện rằng Khi Ta thành Phật, chúng sinh trong mười phương, chí tâm tín chịu, muốn sinh về trong nước của Ta, thì phải niệm mười tiếng danh hiệu Ta, thời được sinh về trong nước của Ta. Nếu không được như thế, Ta thệ

 

không làm Phật.

 

Thế là Đức Phật, Ngài đã sẵn có lời thệ nguyện độ người, chỉ nương nơi mười tiếng niệm của người, để tỏ lòng chí thành quy y với Phật.

 

Cho nên chúng ta, mỗi ngày sớm mai, chắp tay, quay mặt về hướng Tây đảnh lễ và niệm Nam mô A Di Đà Phật (to tiếng). Lại đảnh lễ, niệm bài kệ

 

Đức Đại Từ Bồ Tát. Phát nguyện một biến như vầy Tôi nguyện cho người đồng niệm Phật, đồng sinh về nước Cực Lạc, thấy Phật dứt sinh tử như lời Phật thệ độ tất cả! Đọc xong đảnh lễ rồi lui.

 

Chí thành như vậy không có một ai mà chẳng được sinh về trong chín phẩm. Dù phẩm hạ cũng được nghe Phật thuyết pháp. Nhờ nghe pháp rồi lần lần chứng lên phẩm trung, và phẩm thượng vậy.

 

HỎI Những người không biết chữ thì sao ?

 

ĐÁP Tuy không biết chữ, nhưng ta dạy họ niệm bài kệ này cho thuộc lòng cũng đặng phước báu rất lớn.

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ HAI

 

Mỗi ngày sớm mai, chắp tay quay về hướng Tây, đảnh lễ xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô Quán Thế m Bồ Tát. Nam mô Đại Thế

 

Chí Bồ Tát. Nam mô nhất thiết Bồ Tát, Thanh Văn, chư Thượng thiện nhân (mỗi hiệu 10 lần).

 

 

 

Lại đảnh lễ, và niệm bài Đại Từ Bồ Tát khen Phật, sám hối tội và hồi hướng phát nguyện, toàn bài kệ niệm một biến như vầy Trong ba đời mười phương Phật.

 

Di Đà là Phật thứ nhất.

 

Chín phẩm độ chúng sinh,

 

Oai đức không cùng tột.

 

Con nay cả quy y,

 

Sám hối ba nghiệp tội.

 

Phàm có bao nhiêu phước thiện,

 

Một lòng đem hồi hướng.

 

Nguyện cầu người đồng niệm Phật.

 

Cảm ứng tùy thời Phật hiện.

 

Khi lâm chung Tây phương cảnh.

 

Phật, rõ ràng ở trước mắt.

 

Kẻ thấy người nghe đều tinh tấn.

 

Đồng sinh về nước Cực Lạc.

 

Thấy Phật hết sinh tử,

 

Như Phật độ tất cả chúng sinh.

 

Lạy đảnh lễ rồi lui

 

Bài kệ này oai lực rất lớn, tiêu trừ đặng tất cả tội, thêm lớn tất cả phước, phàm khi niệm lại thêm đảnh lễ, đốt hương, lạy Phật, càng thêm phước nữa.

 

Mỗi ngày như vậy, thời quyết đặng sinh vào trung phẩm.

 

Bằng dạy người niệm bài kệ này, đặng phước báu rất lớn.

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ BA

 

Mỗi mỗi cũng niệm tụng như trước, chỉ có lúc niệm Phật, tâm tưởng thân mình ở cõi Tịnh độ, trước Phật, chắp tay cung kính niệm. Khi niệm danh hiệu các vị Bồ Tát cũng như vậy. Khi niệm danh hiệu tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, các bậc thượng thiện nhân, thời tâm tưởng thân ta ở cõi Tịnh độ.

 

Tiếng ta niệm tụng vang rền khắp cả, trước các Bồ Tát, Thanh Văn và bậc thượng thiện nhân. Khi đảnh lễ, cũng tưởng ở trong cõi Tịnh độ mà lễ Phật.

 

Khi niệm bài kệ cũng tưởng ở cõi Tịnh độ, trước Phật chắp tay cung kính niệm bài kệ.

 

Duy khi có tượng Phật, và Bồ Tát thời khỏi cần phải quán tưởng như

 

vậy. Song phải tưởng tượng kia như Phật và Bồ Tát hiện thân thiệt tại nơi đây, thọ ta lễ bái và nghe ta niệm tụng, chuyên chí như vậy, đặng vãng sinh phẩm đệ, cũng chẳng phải thấp (rất cao).

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ TƯ

 

SỰ TÍCH Hồi Đức Phật Thích Ca còn tại thế Ngài dạy hai người già niệm danh hiệu Đức A Di Đà đây không nên nghi vậy. Nếu người chí tâm trì niệm và tụng thần chú vãng sinh, đã vãng sinh, mà còn được diên thọ (sống lâu) đặng phước báu rất lớn. Chứng lên quả Vô thượng nhẫn ở địa vị Bất thối, đâu chẳng quý ư ? Ông Lữ Nguyên Ích biên lời này để khuyến tu.

 

Nhắc lại thời kỳ Đức Phật Thích Ca còn tại thế có ông già, bà già, lụm cụm, lấy lúa để ghi số niệm. Niệm Phật A Di Đà cầu về Tây phương, hễ

 

niệm Nam mô A Di Đà Phật thì bỏ trong hũ một hột lúa. Đức Thích Ca Ngài dạy Ta riêng có một pháp rất hay, dạy ngươi niệm Phật một tiếng, đặng số

 

lúa rất nhiều. Hai người mừng quýnh liền đảnh lễ xin dạy.

 

Phật bảo niệm Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu, đại từ, đại bi, A Di Đà Phật. Trút lúa ra đếm tới một hộc, một ngàn tám trăm hột (tức là 2.000 tạ lúa vậy).

 

Phật thường lấy danh hiệu đây, dạy hai người già, xem đây thời biết công đức niệm Phật to lớn biết bao, nên phải biết vậy. (rút trong Bửu Vương Luận).

 

Nếu người tối dốt, không thể nhớ niệm câu dài ấy được, thì giữ niệm sáu chữ thường đó cũng đặng. Và dạy người niệm, đặng phước báu rất lớn, hoặc gồm trì tụng Kinh Tiểu A Di Đà hoặc Kinh Đại A Di Đà, hoặc kinh Phật khác (Dược Sư, Phổ Môn v.v…).

 

Tùy số tụng nhiều ít, tụng rồi hồi hướng, cầu về Tây phương cũng đặng.

 

Và niệm thần chú “Bạt nhất thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Đà la ni”. Nghĩa là Tụng thần chú vãng sinh về cõi Tịnh độ. Tụng thần chú vãng sinh như vầy

 

Nam mô A di da bà dạ, đa tha già da dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa tỳ ca lang dế, A di rị đa tỳ ca lang đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.

 

 

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ NĂM

 

Phật hỏi ông A Nan rằng Ông muốn thấy người trong địa ngục không ?

 

Ông A Nan bạch Dạ, con muốn thấy, nhưng làm sao thấy đặng ?

 

Phật dạy Người trong địa ngục, là người thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ việc ác, ấy là người trong địa ngục vậy.

 

Luận rằng Người đời thiện, hay là ác chẳng qua ngoài ba nghiệp thân, khẩu và ý.

 

Nay nói ba nghiệp đều ác, toàn gọi là hắc nghiệp thế mới vào địa ngục vậy.

 

Nếu ba nghiệp đều thiện, toàn gọi là bạch nghiệp mới sinh lên cõi Thiên đường.

 

Còn trong ba nghiệp, có một nghiệp lành ấy gọi là tạp nghiệp, cũng khỏi vào địa ngục.

 

Cho nên thân nghiệp, ý nghiệp tuy ác mà khẩu nghiệp niệm danh hiệu Phật cũng kêu là một nghiệp thiện. Còn xa hơn ba nghiệp đều ác.

 

Huống khẩu nghiệp khi niệm Phật, lại hay tâm tưởng Phật, thời ý nghiệp thiện. Thân ngồi ngay thẳng, tay cầm xâu chuỗi thời thân nghiệp thiện. Ba nghiệp thường đặng thiện, dùng tu Tịnh độ, thời ắt sinh lên bậc thượng phẩm thượng sinh.

 

Tôi (Vương Nhựt Hưu) từng ở đất Trấn Giang nghe người bán tôm. Rao tôm một tiếng, mà biết ba nghiệp kia đều ác.

 

Vì sao ? Thân gánh tôm, thời là thân nghiệp ác, ý muốn bán tôm, thời là ý nghiệp ác. Miệng rao bán tôm, thời là khẩu nghiệp ác. Thế biết rao tôm một tiếng, mà biết ba nghiệp đều ác. Sở dĩ Phật nói người đó là người ở

 

trong địa ngục vậy.

 

Lấy đây mà quán xét, thời trước con mắt, đã thấy người trong địa ngục nhiều lắm, khá chẳng sợ ư! Chúng sinh do tâm ngu si, chẳng biết nhân quả

 

sa nơi tội ác, rất khá thương xót. Ta vì muốn mở mang dạy bảo cho chúng nó ấy gọi là Pháp thí. Pháp thí là một môn bố thí rất vĩ đại đặng phước báu há dễ lường được ư!

 

Kẻ hoặc hỏi Người mà niệm danh hiệu Phật một tiếng cùng hai mà thôi, cứ một mực niệm hoài, chi khỏi Phật ghét. Cũng như kêu tên một người nào đó, bất quá đôi ba lượt mà thôi, bằng cứ réo dặc một thì làm gì cho khỏi người kia hãy sinh lòng giận!

 

Cho nên biết rằng Một mực xưng niệm danh hiệu Phật hoài, theo tôi tưởng chưa phải là thiện vậy!

 

ĐÁP Luận như thế, không phải đâu. Bởi chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến giờ, tội lỗi của khẩu nghiệp, nhiều hơn núi, biển. Cần phải niệm danh hiệu Phật cho thật nhiều mới mong rửa sạch, còn e chưa đủ. Đâu nên chấp cái tên của người thường, mà sánh với danh hiệu Phật, là một đấng chí tôn từ bi chan chứa!

 

Huống chi các Đức Phật, Ngài mở dạy pháp môn niệm Phật, sở dĩ dắt dẫn chúng sinh thiện nơi khẩu nghiệp, lần thiện đến thân nghiệp, và ý nghiệp. Cho nên nói một bề xưng niệm danh hiệu Ngài luôn mà chưa đủ là thiện kia, đâu nên chấp miệng nói thế tục, mà chê lời kim khẩu của Đức Từ

 

Phụ dạy bảo cho chúng sinh ?

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ SÁU

 

Người nào giữ toàn trai giới, lại lễ Phật, niệm Phật, đọc tụng kinh điển Đại thừa, hiểu nghĩa đệ nhất, dùng công đức đây hồi hướng nguyện sinh về

 

Tây phương thì chắc đặng sinh lên bậc thượng phẩm vậy.

 

- Thế nào gọi là trì trai ư ?

 

- Nghĩa là Không ăn thịt, không uống rượu, không dâm dục, không ăn năm món hôi nồng (ngũ vị tân) vậy.

 

- Thế nào gọi là giữ cấm giới ư ?

 

- Nghĩa là Những chuyện như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, là ba nghiệp của thân. Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói lời hung dữ, là bốn nghiệp của khẩu. Tham dục, sân hận, tà kiến, là ba nghiệp của ý. Tổng cộng là mười điều giới.

 

 

 

Nếu giữ đặng mười điều giới cấm đây, không phạm thời gọi là mười điều thiện (Thập thiện). Bằng không giữ để cho phạm thời gọi là mười điều ác (Thập ác).

 

Giữ hoàn toàn mười giới này, mới đặng sinh lên cõi trời. Còn giữ bốn giới trước, thêm giới bất ẩm tửu (uống rượu) cộng là năm giới (tại gia giữ

 

ngũ giới). Nếu người nào giữ đặng năm giới này thường khỏi mất nhân thân.

 

Nếu phát tâm tu Tịnh độ thời chẳng ở nơi hạng này. Bằng người nào giữ

 

trọn mười giới, thêm lên như văn trước chỗ đặng công đức, chắc chắn sinh về phẩm thượng vậy.

 

Nhược bằng chỉ giữ năm giới, mà tu Tịnh độ cũng chẳng mất sinh vào phẩm thượng của bậc trung, hay là phẩm hạ của bậc thượng vậy. Còn nếu không giữ nổi năm giới, đâu khá chẳng ráng giữ giới sát sinh ư ? Vì sao ?

 

Bởi sát sinh là giới đầu trong năm giới. Cũng là giới đầu trong mười giới, và cũng là giới đầu trong hai trăm năm chục giới của thầy Tỳ Kheo. Thế là giới (bất sát sinh) mà giữ đặng, thời kêu là người Đại thiện. Còn sát sinh, thời kêu là kẻ Đại ác.

 

Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói Phàm người muốn sát sinh, sao chẳng xét mình! Ví như ai sát hại mình, mình có chịu không ? Vật mạng cũng là thế (như nhau). Cho nên người không sát sinh được phước báu sống lâu. Kẻ

 

sát sinh thời mắc báo chết yểu, què xuội. Luận rằng Mình muốn mạng mình sống lâu, loài vật cũng muốn mạng nó sống lâu. Nếu ta sát mạng, mà muốn no khẩu phúc (miệng và bụng). Thời sự thèm muốn của khẩu phúc nào nó chán. Sau khi buông đũa, vị ngon đã hết, mà nghiệp sát vẫn còn.

 

Nếu sát sinh, để đãi khách. Nếu người khách ấy biết ta bình nhật không sát sinh, thì khách ấy không trách buồn chi cả. Huống chi tội sát sinh, mình làm mình chịu (ăn chung mà tội riêng). Cho nên trong kinh có nói Đến đầu thai, cũng một mình mình, chết đi cũng một mình mình đi. Luân hồi một mình mình lãnh. Quả báo một mình mình mang.

 

Xem đây thì đâu nên vì người khách mà sát sinh đãi đằng! Bằng sát sinh để cúng tổ tiên, thì cũng có hiếm chi thứ cơm chay vật quý. Đức Khổng Tử

 

nói rằng Tuy cơm hẩm canh rau, cúng tế cũng là kính vậy, mà đã thành kính, thời nào khá chẳng đặng.

 

Nhưng sự cúng tế chẳng những ở nơi món đồ, mà cần nhất phải đốt hương, tụng kinh, nhờ Phật lực, để cầu cứu giúp vong nhân, thời vong nhân ắt đặng siêu sinh thoát tử. Cho nên sự cúng tế đều chẳng phải ở nơi việc sát sinh đã quyết định.

 

Nếu ai giữ đặng một giới bất sát này, rồi cứ tu Tịnh độ, chẳng ở phẩm hạ

 

vậy (được sinh lên phẩm trung hay phẩm thượng).

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ BẢY

 

Trai giới sạch mình, thanh tâm tịnh lự (yên lòng đừng vọng tưởng). Ngồi quay mặt về hướng Tây phương, nhắm mắt lim dim quán tưởng chân thân sắc vàng, Đức Phật A Di Đà ở Tây phương trong ao thất bảo, ngồi trên một hoa sen rất lớn, mình cao một trượng sáu (10m60) ở chặn giữa chân mày, có một đường hào quang chiếu sáng, mặt sắc vàng, thân cũng sắc vàng.

 

Kế lặng lòng chuyên tưởng nơi hào quang trắng, chẳng đặng vọng động có chút mảy niệm khác, phải nhắm mắt hơi hơi (hí hí) thảy đều thấy Phật.

 

Như thế muốn mỗi niệm, mỗi niệm đừng quên vậy. Như thế lâu lâu, tâm niệm thuần thục, tự nhiên cảm ứng được thấy toàn thân Phật.

 

Phép này rất là bậc thượng. Nghĩa là Khi tâm tưởng Phật, tức nhiên tâm này là Phật. Lại có thắng phần hơn miệng niệm vậy. Hậu thân (thân đời sau) chắc sinh về bậc thượng phẩm thượng sinh.

 

Đời Đường, ông Khải Phương, ông Viên Quả hai người thường tu pháp quán này, chỉ có năm tháng tự biết thân mình đi đến cõi Tịnh độ, thấy Phật và nghe Phật thuyết pháp (sự tích này sẽ có trong quyển thứ năm) chẳng những ở đây, dạy pháp quán tưởng, mà trong Kinh Thập Lục Quán đã nói đủ.

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ TÁM

 

Quán tưởng thân Đức Phật A Di Đà rất cao rất lớn. Ngồi trên hoa sen, cũng cao lớn xứng nhau. Lại chuyên tưởng giữa chặn mày, có một đường hào quang trắng xẹt ra. Mỗi mỗi như bài trước đã nói. Phép quán tưởng này thật là bậc thượng. Vì khi tâm tưởng Phật tâm này tức là Phật. Lòng tưởng lớn, thời niệm lành cũng lớn. Không vậy, thời lại quán tưởng tượng nhỏ

 

cũng đặng. Nhưng phải chuyên tinh, đứng cho tán loạn vọng niệm xen vào.

 

 

 

Cứ trong Kinh Thập Lục Quán nói Quán Phật A Di Đà cả thân tướng và hào quang, rực rỡ như trăm nghìn muôn ức vàng Diêm Phù Đàn. Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na do tha(), hằng hà sa do tuần(). Hào quang trắng giữa chặn mày, khắp trùm năm hòn núi Tu Di. Mắt Ngài trong như nước bốn biển lớn, trắng, xanh rõ ràng, dùng lòng từ vô duyên nhiếp độ chúng sinh.

 

Chỉ nói một hằng hà sa do tuần rất lớn không thể nói được. Huống chi tới sáu mươi vạn ức và vạn ức hằng ha sa số do tuần ư ?

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ CHÍN

 

Tưởng Phật A Di Đà, và tưởng đức Quán Thế m Bồ Tát thân cũng cao lớn. Tám mươi vạn ức na do tha do tuần. Thân sắc vàng thăm, bàn tay hóa ra hoa sen nhiều sắc nhiều màu có tám vạn bốn nghìn đường hào quang, dịu dàng mát mẻ, kẻ gặp hào quang, hết bệnh hết não, do tay quý báu của Ngài dìu dắt chúng sinh.

 

Kế tưởng đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Thân cũng có tám vạn ức na do tha do tuần cả mình đều có hào quang ửng màu sắc vàng, những chúng sinh nào có duyên mới được thấy hào quang ấy.

 

Kế tưởng thân mình sinh về Tây phương Cực Lạc thế giới, ở trong hoa sen, ngồi tréo kiết già, trong hoa sen búp, rồi tưởng hoa sen nở thấy Phật thấy Bồ Tát đầy dẫy giữa hư không.

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ MƯỜI

 

Tu Tịnh độ, phát tâm cứu độ chúng sinh, phát tâm chí thành, phát tâm kiên cố, phát tâm thâm thúy và thêm lễ bái niệm Phật. Như vậy, thời đương đời nhờ Ngài gia hộ. Hậu thân (đời sau), ắt sinh về bậc thượng phẩm thượng sinh.

 

Phát tâm cứu độ chúng sinh là Ta nguyện sinh về Tịnh độ, kiến Phật đắc đạo rồi trở lại độ tất cả chúng sinh ngấm chìm trong biển khổ, chớ không phải độ một mình mình vậy.

 

Phát tâm chí thành là Chí thành quy hướng về Phật, không cẩu thả (lơ

 

đãng) vậy.

 

 

 

Phát tâm kiên cố là Kiên cố tấn tu, hằng không thối chuyển vậy.

 

Phát tâm thâm thúy là Chỗ dụng tâm thâm thúy thẳng tới cõi Tịnh độ.

 

Như kẻ lặn sâu dưới đáy biển, để tìm cho đặng ngọc châu vậy. Ba đời chư

 

Phật cùng tất cả chúng sinh trong pháp giới, cũng đều có một tâm mà có ra vậy, tâm ta như thế, đâu chẳng đặng sinh về bậc thượng phẩm thượng sinh ư

 

?

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ MƯỜI MỘT

 

Trai Tăng, cúng Phật, đốt hương, dâng hoa, treo phan, dựng tháp, niệm Phật, lễ sám, mỗi việc kính thờ ngôi Tam Bảo. Dùng công đức đây hồi hướng nguyện sinh về Tây phương cũng đặng vậy, hoặc vì trong thế gian, những việc nào có lợi ích, ta phương tiện dạy người, như làm con thời phải hiếu dưỡng cha mẹ, làm anh thời phải thương yêu các em, làm em thời kính thuận huynh trưởng, trong khuê môn (gia đình) đâu không trọn lành, trong tôn tộc đâu chẳng thuận hòa. Hương thôn xóm làng thân nhân quyến thuộc, tiếp với nhau bằng lễ nghĩa, làm ơn nhuận cho nhau. Cho đến kẻ thờ vua thời hết lòng vì nước, kẻ làm quan, thời nhân từ lợi dân. Làm người lớn thời khéo điều hòa trong chúng. Làm bậc hạ thời siêng thờ bề trên, hoặc dạy bảo kẻ ngu mê, hoặc giúp đỡ kẻ côi cút, yếu đuối. Hoặc giúp người cấp nạn, hoặc cho kẻ bần cùng, hoặc sửa cầu, đào giếng, hoặc thí thuốc thí cơm, hoặc bớt phần mình, nuôi kẻ thiếu, lợi ích tha nhân (người khác), hoặc cho của lợi người mà phần mình bớt ít, hoặc dạy người làm phải, hoặc khen ngợi việc làm lành, cản ngăn việc làm dữ. Tùy sức tùy trường hợp làm tất cả thiện sự

 

trong thế gian, lấy công đức đây mà hồi hướng, nguyện sinh Tây phương cũng đặng.

 

Hoặc vì trong thế gian, tất cả việc lợi ích, chẳng luận là lớn hay nhỏ, chẳng luận nhiều hay ít, bằng cứ lấy một đồng tiền cho người, hoặc bưng một bát nước cho người, nhẫn đến lượm một chà gai giữa đường cho người đi khỏi đạp cũng là việc thiện, ta cũng khởi một niệm tưởng rằng Dùng công đức làm nhỏ mọn này đây, hồi hướng cầu sinh về Tây phương Cực Lạc cũng đặng. Thường khiến tâm giữ một niệm như vậy, đừng cho gián đoạn, mỗi niệm mỗi niệm chí thú nơi cõi Cực Lạc, thời quyết định một ngày kia được sinh về bậc thượng phẩm thượng sinh vậy.

 

---o0o---

 

 

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ MƯỜI HAI

 

Trong Kinh Thập Lục Quán, Đức Phật dạy Muốn sinh về Tịnh độ phải tu ba món phước

 

1/ Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười thiện nghiệp.

 

2/ Vâng giữ phép Tam quy, giữ tròn các giới, chớ phạm oai nghi.

 

3/ Phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa.

 

Khuyên người tu hành, ấy là ba chánh nhân tịnh nghiệp của ba đời chư Phật vậy.

 

Tam quy là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng vậy.

 

---o0o---

 

TU TRÌ PHÁP MÔN THỨ MƯỜI BA

 

Tôi (Vương Nhựt Hưu) khắp xem trong kinh tạng không có chỗ nào nói việc gởi kho dưới minh phủ. Vậy tôi kính khuyên người đời đừng bày đặt gởi kho tốn phí vô ích.

 

Nên thỉnh chúng Tăng, sắm lễ cúng dường và nhất tâm cầu về cõi Tây phương, thời chắc đặng vãng sinh. Nếu không như thế mà làm việc gởi kho minh phủ, thời chí quyết ở nơi minh phủ, lúc chết hãy vào ngay minh phủ

 

không sai vậy.

 

Vì sao ? Ví như có người không chịu làm theo hạnh người quân tử, giao kết với bạn hiền nhân, quân tử, mà cứ khum lưng đút tiền lo lót với mấy chú giữ ngục ở dưới âm ty đợi lúc vào ngục, dùng tiền ấy mà chuộc tội đâu chẳng lầm ư ?

 

---o0o---

 

THỰC NHỤC THUYẾT THUYẾT NÓI VỀ ĂN THỊT

 

Kinh Lăng Nghiêm nói Có vô lượng nhân duyên, chẳng nên ăn thịt. Thịt các loài chúng sinh, vốn không phải vật của ta ăn. Vì sao ? Bởi loài động vật nó có thức tánh như ta, biết đau, biết ngứa, biết khổ, biết vui không khác, bởi vì chúng ta, bấy lâu tai nghe mắt thấy quen thường, tưởng là sự phải ngờ đâu sự tội lỗi hằng sa (vô số) mà nào ai có xét.

 

 

 

Vậy chúng ta bằng ai có thể đoạn bỏ, thời người ấy mới đáng gọi là người bậc thượng, hay là bậc Bồ Tát cứu độ chúng sinh. Còn người nào đoạn trừ chưa nổi, thì tạm quyền cho ăn ba thứ tịnh nhục, dần dần giảm bớt.

 

Ba tịnh nhục là Không thấy sát, không nghe sát, không nghi người sát cho ta ăn, ấy là ba món tịnh nhục.

 

Lại nữa, hoặc như bữa ăn đôi món thời ta giảm bớt đi một món. Ví như

 

đáng hai bữa thịt ta nên dùng một bữa chay.

 

Người đời bổng lộc có chừng, cứ như đây, thời được thêm tuổi thọ (sống lâu).

 

Kế nói Khá vì chúng sinh (bị sát) đó niệm tụng cầu siêu, ngõ hầu giải oan tiêu tội.

 

Cứ theo lời vua Diêm La, bảo người Trịnh Lân() thời biết rằng hễ chí thành vì chúng sinh kia, niệm danh hiệu Phật, thì chắc đặng vãng sinh vậy.

 

---o0o---

 

QUÁN M TỌA TƯỚNG THUYẾT THUYẾT NÓI VỀ TƯỚNG NGỒI

 

ĐỨC QUÁN THẾ M

 

Xét trong tạng kinh nói Chư Phật, Bồ Tát, tay, chân, cả lục căn đều được đoan chính, cho nên có câu Tứ bát đoan nghiêm Quán Thế m Bồ Tát. Do vì ngài đủ 48 tướng đoan nghiêm, ngồi kiết già cách thần thông tự tại, tùy theo cảm ứng của chúng sinh mà phóng hào quang để cứu độ cho, nên gọi là ông Quán Tự Tại Bồ Tát. Người đời bây giờ bắt chước cũng ngồi co giò duỗi tay, rồi nói Ta đây là tự tại Quán Thế m ấy lầm lắm vậy.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

HẾT QUYỂN TƯ

 

---o0o---

 

QUYỂN NĂM - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

 

 

 

 

Đời Đông Tấn, ngài Pháp sư Huệ Viễn ban đầu xướng pháp tu Tịnh độ.

 

Trong bổn triều (triều vua đời nhà Tấn), có ông Vương Mẫn Trọng Thị

 

Lang, và ông Dương Lục Cư Sĩ biên tập “Sự tích cảm ứng” kể ngoài (200) hai trăm truyện, đã khắc bản lưu truyền. Nay không kịp chép hết, chỉ chép sơ lược những người trì trai giữ giới và người bậc trung với bao nhiêu người tội ác, cùng người đương ở trong cảnh bệnh khổ mà có tu Tịnh độ, cũng đều đặng vãng sinh. Cộng kể ba mươi mấy truyện. Sở dĩ để phát giác tín tâm cho người tu Tịnh độ vậy.

 

---o0o---

 

ĐÔNG TẤN, HUỆ VIỄN PHÁP SƯ

 

Đời Đông Tấn, có ông Tăng tên Huệ Viễn người sinh trưởng tại đất Nhạn Môn, qua ở non Lô Sơn cùng ông Lưu Di Dân v.v…

 

Cả Tăng và tục hai trăm ba chục người kết làm bạn Liên Xã (hội tu Tịnh độ) nói Ngày kia gá sinh trong hoa sen vậy.

 

Ngài Huệ Viễn trừng tâm quán tưởng mới mười một năm (11) ba phen thấy tướng hảo Phật A Di Đà, thế mà ngài Huệ Viễn ngấm ngầm không nói.

 

Sau tới năm mười chín (19) đêm 30 tháng 7, bỗng nhiên trước mặt thấy Đức A Di Đà Phật, thân to lớn đầy cả hư không, trong viên quang hóa ra vô số

 

Phật, đức Quan m, đức Thế Chí hai vị Bồ Tát, đứng hầu hai bên. Lại thấy nước chảy, hào quang tỏa ra bốn ngã, mỗi ngã nước chảy lên rồi lại xuống, tự nhiên diễn nói ra tiếng nói giáo pháp khổ, không, vô thường và vô ngã.

 

Như trong Kinh Thập Lục Quán nói. Khi đó Đức A Di Đà lại kêu ông Huệ

 

Viễn mà bảo rằng Do vì sức bản nguyện của Ta, nên đến đây an ủi ngươi, ngươi sau 7 ngày nữa, sẽ sinh về nước của Ta.

 

Rồi ông Huệ Viễn ngó lại thấy ông Tăng là ông Phật Đà Da Xá, với ông Huệ Trì, cùng ông Đàm Thuận, đứng ở bên Phật. Bước tới xá ngài Huệ Viễn mà rằng Chí nguyện Pháp sư ở trước chúng tôi, vì sao về đây muộn vậy ?

 

Huệ Viễn mắt thấy rõ ràng và để tâm nhớ kỹ, thuật lại cho các môn đồ (đệ

 

tử) nghe và nói Ban đầu ta ở đây 11 năm, chuyên tu Tịnh độ ba phen thấy tướng Phật Di Đà rồi, nay lại thấy nữa đây, chắc ngày giờ ta sắp về Tịnh độ đã tới vậy.

 

Kế bữa sau cảm bệnh sơ qua trong 7 ngày rồi ngài quy tịch.

 

 

 

Nhắc lại đời ngài, tuổi còn thơ mà đã bác lãm kinh sử, và rất thông sách Lão, Trang. Nhân một hôm qua non Thái Hành, nghe ngài Đạo An Pháp sư

 

giảng kinh Bát Nhã. Thoạt nhiên tỏ ngộ bèn nói Sách cửu lưu dị nghị đều là bả

 

xác, chẳng bằng kinh Phật siêu thoát hơn. Nhân đây, Viễn xin xuất gia theo hầu ngài Đạo An học đạo, sau trở về non Lô Sơn ở tu trong đó 30 năm không ra khỏi núi, hưởng thọ 82 tuổi.

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐÔNG TẤN, ÔNG LƯU DI DN

 

Ông Trình Chi tự Trọng Tư, hiệu Di Dân. Theo ngài Huệ Viễn đồng tu tịnh nghiệp chuyên ngồi thiền, thực hành pháp quán tưởng, mới nửa năm, trong khi ngồi thiền định thấy hào quang Phật chiếu sáng, lại thấy đất đều sắc vàng, ở tu trong núi 15 năm, chót lại trong lúc quán tưởng niệm Phật, thấy Phật A Di Đà thân vàng, thắm hào quang chiếu sáng duỗi cánh tay, đến trong nhà ông, ông Trình Chi vui mừng rơi lụy thưa rằng Hân hạnh được Như Lai vì con ma đảnh (rờ đầu) và y phục phủ trên đầu con, Phật liền đưa tay rờ đầu và dùng áo ca sa phủ trên mình ông.

 

Ngày kia trong khi quán tưởng niệm Phật, cũng lại thấy thân mình vào trong ao thất bảo đại trì, hoa sen xanh, trong, xem màu nước trong veo vắt, dường như không bờ mé, trong ao có một người, nơi đầu có viên quang (hào quang tròn) trước ngực có dấu hình chữ vạn chỉ nước trong ao mà rằng Nước bát công đức này, ngươi khá uống đi! Ông Trình Chi uống nước, ngọt thơm cả miệng. Bèn thức dậy còn biết mùi thơm của nước, phát hực mấy lỗ

 

chân lông, ông bèn nói đây là duyên Tịnh độ ta đã đến vậy.

 

Chư Tăng trong hội Lô Sơn đều nhóm họp, ông Trình Chi tới trước tượng Phật đốt hương kê trên trán chúc rằng Con nhờ Đức Phật Thích Ca để kinh giáo lại, cho nên biết có Đức Phật A Di Đà. Vậy con nguyện đốt nén hương này, trước cũng dường Thích Ca Như Lai, kế cúng dường Phật A Di Đà, sau cúng dường trong hội Pháp Hoa, Phật và Bồ Tát chúng, cho đến mười phương Phật Bồ Tát chúng, cầu nguyện cho chúng hữu tình đồng sinh về Tịnh độ.

 

Chúc nguyện xong, cùng cả thảy nói lời từ biệt, quay mặt hướng Tây vững ngồi xếp bằng, ngậm miệng nín hơi quy tịch, tuổi thọ được 59.

 

---o0o---

 

 

 

ĐỜI ĐÔNG TẤN, ÔNG QUAN CÔNG TẮC

 

Ông Công Tắc là người trong hội Bạch Liên Xã, là hội tu Tịnh độ của ngài Huệ Viễn. Qua đời, người bạn của Tắc bắt được tin qua đất Đông Kinh, chùa Bạch Mã làm chay thất, siêu độ thấy cả cây rừng chùa am, đều ửng hiện sắc vàng, giữa hư không có tiếng kêu nói Ta là Quan Công Tắc đây, bấy lâu cầu nguyện vãng sinh về Cực Lạc bửu quốc, nay đã về đặng rồi nên ta trở lại đây báo tin cho người bạn biết. Nói rồi đi đâu mất, không thấy nữa.

 

---o0o---

 

ĐỜI TẤN, CHỨC HÀN LM HỌC SĨ - ÔNG TRƯƠNG KHẢN

 

Ông Trương Khản lúc bình sinh làm việc tích thiện, tín trọng đạo Phật, vái tụng chú Đại Bi Đà la ni mười vạn biến để nguyện sinh về Tây phương.

 

Khi tụng vừa xong, tuổi quá lục tuần (60), thoạt nghe trong mình có bệnh cảm, nắm tay lần chuỗi, miệng niệm Phật A Di Đà. Liền nói với người rằng Tây phương Tịnh độ hiện ở giữa căn nhà phía Tây kia, Đức Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen. Thằng cháu của tôi là “Ông Nhi” ở trong ao thất bảo hoa sen, trên đất vàng toàn bằng Kim Sa, lễ Phật vui mừng.

 

Nói rồi giây lát, niệm Phật mà qua đời, “Ông Nhi” là tên thằng cháu của Khản mới 2, 3 tuổi mà qua đời được vãng sinh trong ao thất bảo vậy.

 

---o0o---

 

ĐỜI TỐNG, ĐẤT GIANG LĂNG - ÔNG TĂNG TÊN ĐÀM GIÁM

 

Ông Đàm Giám, tu hành thận trọng, thường nguyện thân này được về

 

nước An dưỡng (Tịnh độ) được thấy Phật A Di Đà. Cho nên mỗi khi ông làm được chút lành chi, đều hồi hướng cầu sinh về Tịnh độ. Một ngày nọ, trong khi ông đương ngồi thiền định thấy Phật A Di Đà đem nước rải trên mặt nói rằng Ta rửa trần cấu cho ngươi, sạch tâm niệm ngươi, cùng thân nghiệp, khẩu nghiệp ngươi đều được nghiêm tịnh. Rồi ở trong bình lấy ra một bông sen đưa cho ông cầm.

 

Đàm Giám khi xuất định, thuật lại cho chúng Tăng trong chùa nghe và tỏ lời từ biệt. Rồi thì đêm thanh, thoắt một mình đi dưới mái hiên, tay lần chuỗi niệm Phật A Di Đà gần đến canh năm tiếng niệm càng khuya càng lớn.

 

 

 

Kịp đến sáng y theo lệ thường các đệ tử đến hầu hạ và thăm hỏi, thì thấy ông ngồi kiết già không cục cựa, xúm lại gần xem thời ông đã thị tịch còn hơi nóng nóng.

 

---o0o---

 

ĐỜI NAM TỀ ĐẤT DƯƠNG ĐÔ - ÔNG TĂNG TÊN HUỆ TẤN

 

Ông Huệ Tấn ngoài 40 tuổi, nguyện tụng Kinh Pháp Hoa, mới cầm quyển kinh, bắt sinh bệnh, ông vái cầu nguyện tả một trăm bộ Pháp Hoa để

 

sám hối nghiệp chướng, xin tiền mua giấy tả kinh vừa xong thì là bệnh ông vừa hết.

 

Ông nguyện đem công đức tả kinh hồi hướng sinh về Tịnh độ. Bỗng nhiên giữa thinh không có tiếng rằng Việc ngươi làm đã xong, nguyện ngươi cũng đã toại sinh về Tịnh độ kia, chẳng phải ngươi chớ ai!

 

Huệ Tấn nói Tôi không dám mong cầu bậc thượng phẩm, miễn được về

 

bậc hạ phẩm, cũng được bậc bất thối chuyển vậy.

 

Khi ấy đời Tề Ninh niên hiệu thứ 3, ông Tấn không bệnh mà tự nhiên qua đời hưởng thọ được 80 tuổi.

 

---o0o---

 

TRIỀU HẬU NGỤY XỨ BÍCH CỐC - ÔNG TĂNG TÊN ĐÀM LOAN

 

Ông Đàm Loan, trước gặp ông Đào Ẩn Quân trao cho kinh tiên 10

 

quyển. Loan vui mừng tự đắc, tưởng là phép thần tiên chắc đặng vậy.

 

Sau gặp ông Tăng Bồ Đề Lưu Chi, vấn nạn rằng Đạo Phật có đặng trường sinh không ? Và có được khỏi già và khỏi chết không ?

 

Lưu Chi đáp Trường sinh bất tử chính là đạo Phật ta vậy. Nói xong liền lấy đưa cho ông quyển Kinh Thập Lục Quán nói rằng Ngươi khá đọc quyển kinh này, thời không còn đi lại trong ba cõi, không còn lui tới trong sáu đường sang trọng, nhục vinh, mất còn, họa phước, nên hư, không với có không còn dính mắc, đó là trường thọ vậy. Trường thọ có số kiếp thạch vậy, có số hà sa vậy. Song số kiếp thạch và hà sa còn có hạn lượng, chớ số thọ

 

mạng của người đã sinh Tây phương không bao giờ cùng tận. Đấy là phép trường sinh bất tử của họ Kim Tiên (Đức Phật) ta vậy.

 

 

 

Ông Đàm Loan càng thâm tín liền đốt kinh Tiên, mà chuyên tu theo Kinh Thập Lục Quán. Dù thời gian thấm thoát trải qua cơn trời lạnh rét, nắng chang dời đổi, tật bệnh ráp thân, cũng không lúc nào là lúc thối chí ngã lòng và giải đãi. Chúa nước Ngụy thương chí hướng của ông, lại khen ông là người biết tự hành hóa tha, lưu truyền pháp môn Tịnh độ rất rộng, bèn tặng hiệu ông là Thần Loan.

 

Thần Loan ngày kia bảo các kẻ đệ tử ông rằng Khổ trong địa ngục, các ngươi chẳng khá đừng chẳng sợ, nghiệp lành nơi chín phẩm sen, chẳng khá đừng chẳng tu (là tu). Nhân đó ông bảo các đệ tử cao tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật.

 

Thần Loan quay mặt về hướng Tây nhắm mắt cúi đầu mà qua đời, khi đó cả Tăng và ngươi tục đồng nghe những tiếng âm nhạc, từ góc trời phía Tây thổi tới, giây lâu mới dứt.

 

---o0o---

 

ĐỜI TÙY TẠI CHÙA KHAI GIÁC CÓ - ÔNG TĂNG TÊN ĐẠO DŨ

 

Ông Đạo Dũ niệm danh hiệu Phật A Di Đà lên cốt Phật bằng cây Chiên đàn bề cao ba tấc, xong rồi ông chết, trong bảy ngày tỉnh lại thuật nói.

 

Trong khi thấy Phật A Di Đà, Ngài hỏi Tại sao ngươi tạo tượng ta rất nhỏ thế ?

 

Tôi bạch Tâm tưởng lớn thời lớn, tâm tưởng nhỏ thời nó nhỏ. Nói dứt lời, tượng kia lớn đầy khắp cả hư không.

 

Phật lại bảo Ngươi trở về bổn quốc dùng nước thơm tắm rửa, ngày mai, chừng giờ sao mai mọc Ta đến rước ngươi. Kịp đến giờ, quả nhiên thấy các ông hóa Phật đến rước, hào quang sáng chiếu đầy nhà, chúng nhân ai nấy đều nghe và thấy ông Đạo Dũ qua đời. Nhằm thời niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 8.

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT KINH SƯ - ÔNG TĂNG TÊN THIỆN ĐẠO

 

Ông Thiện Đạo, trong niên hiệu Trinh Quán thấy hội tu Tịnh độ cửu phẩm của ngài Tây Hà Xước Thiền lập. Ông xin vào tu tập, cần lao khổ

 

hạnh, như cứu lửa cháy đầu. Mỗi khi ông vào điện lễ Phật, chắp tay quỳ gối, hết lòng niệm Phật. Nếu không phải kiệt lực, thời ông chưa nghỉ. Dù mùa trời lạnh, ông cũng lại niệm cho tháo mồ hôi mới chịu. Để nêu tấm lòng chí thành của ông hy sinh với Phật.

 

Lúc ra ngoài, liền vì chúng nhân giảng nói pháp môn Tịnh độ, không hề

 

tạm bỏ những việc làm có lợi ích, tuổi ngoài 30, không bao giờ có chút ngủ

 

nghỉ.

 

Tu theo pháp Ban Châu (niệm Phật đứng), pháp Hành Đạo (đi niệm), và pháp lễ Phật (vừa lạy vừa niệm). Cùng pháp Phương Đẳng (niệm Phật được chánh định).

 

Có chỗ nói pháp Ban Châu là cả ba nghiệp thân, khẩu, và ý không gián đoạn và đều được thanh tịnh niệm Phật.

 

Ông dùng mấy pháp niệm đây, để làm trách nhiệm cho mình giữ gìn hạnh không phạm, không ngó tới nữ nhân, không cầu danh lợi, xa bặt các sự lý luận.

 

Mỗi khi làm Phật sự, lấy sự tịnh thân để cúng dường. Những ẩm thực, y phục có dư, đem hộ cho kẻ thiếu, có món ăn ngon, nhũ, lạc, đề hỗ, ông nhường lại không dám uống. Ai có cho tiền thời mua giấy tả kinh (A Di Đà) trên 10 muôn bộ. Họa ảnh tượng cõi Tịnh độ trên 300 bức.

 

Thấy chùa hư tháp sập đều tu bổ, thắp đèn cúng Phật nối ánh sáng hằng năm không tắt, ba y (y ngũ, y thất, và y đại). Bình bát, tự mình xếp và rửa, tự

 

đầu chí cuối y như vậy không thay đổi, chẳng cùng với chúng đồng đi, vì ngừa có những khi nói qua việc đời, khuyết phạm chánh hạnh, lần hồi truyền pháp môn Tịnh độ cho người tu vô số.

 

Khi đó có người đến hỏi Người lành niệm Phật sinh về Tịnh độ, sự ấy có thật không ?

 

Đáp Như người niệm toại chí nguyện người. Nói rồi ông liền niệm Nam mô A Di Đà Phật một tiếng, tự nhiên trong miệng phóng ra một đường hào quang. Niệm 10 tiếng, nhẫn đến 100 tiếng hào quang cũng y như vậy.

 

Ông thường dùng bài kệ này khuyến hóa người đời tu. Kệ rằng Tiệm tiệm kê bì hạt phát,

 

Khan khan hành bộ lung chung.

 

 

 

Giả nhiên kim ngọc mãn đường,

 

Nan miễn duy tàn lão bệnh.

 

Nhậm thị thiên ban khoái lạc

 

Vô thường chung thị đáo lai.

 

Duy hữu kinh lộ tu hành.

 

Đảnh niệm A Di Đà Phật.

 

Dịch nghĩa

 

Lần lần tóc bạc da gà,

 

Chân đi lóng cóng bộ là cò ma.

 

Dầu cho vàng, ngọc đầy nhà,

 

Khó mà tránh khỏi cái già bệnh suy

 

Dầu cho nghìn món vui gì ?

 

Vô thường rốt cuộc cũng thì bỏ đi.

 

Chỉ có đường tắt tu trì.

 

Một câu A Di Đà Phật ấy thì đem theo.

 

Nhắc lại vua Cao Tôn thấy ông tu hành tinh tấn, từ thỉ chí chung không hề thối chuyển, mỗi khi niệm Phật trong miệng thường bay ra những đạo hào quang làm cho dân chúng trong đất Tràng An (thành vua) đều bắt chước làm theo. Tỏ ra đời là một cảnh thái bình. Vua mừng khen tặng và ban hiệu chùa ông là Quang Minh Tự.

 

Có chỗ nói Ông Thiện Đạo tức là Đức Phật A Di Đà hóa thân. Và có chỗ

 

nói Hậu thân (thân đời sau) ông Thiện Đạo tức là ngài Pháp Chiếu Đại Sư vậy.

 

---o0o---

 

 

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT THÁI CHU - ÔNG TĂNG TÊN HOÀI NGỌC

 

Ông Hoài Ngọc, nhất sinh tu tịnh nghiệp (niệm Phật) gần 40 năm. Thời kỳ

 

vua Thiên Bửu tức vị năm đầu. Trong khi ông Ngọc đương niệm Phật, thoạt thấy cảnh Tây phương các vị Thánh chúng đông đến hằng hà sa số, trong đó có một người, tay bưng ngân đài (đài bạc) đến trước đưa cho ông Hoài Ngọc.

 

Ngọc nói Như tôi đây, bổn vọng (ý muốn) cái kim đài (đài vàng). Vì sao hôm nay ngân đài đến đây ? Nói rồi, ngân đài ẩn mất, người bưng đài cũng ẩn.

 

Từ đấy ông Ngọc càng gia công tinh tấn khổ hạnh đến 21 ngày, người trước bưng kim đài đến bảo rằng Do pháp sư tinh cần khổ hạnh, nên đặng sinh lên bậc thượng phẩm. Lại nói Sinh bậc thượng phẩm ắt trước thấy Phật, vậy ngài ngồi yên, đợi chút Phật Ngài đến. Chưa bao lâu dị quang (hào quang lạ) chiếu sáng cả nhà. Lại ba ngay sau, hào quang lạ lại phát ra nữa. Hoài Ngọc nói Nếu nghe mùi hương lạ đây, chắc là báo thân ta đã mãn. Liền cầm bút đề bài kệ

 

như vầy

 

Thanh tịnh kiến khiết vô trần cấu.

 

Liên hoa hóa sinh vi phụ mẫu.

 

Ngã kim thập kiếp tu đạo lai.

 

Xuất thị Diêm phù yểm chung khổ.

 

Nhất sinh khổ hạnh siêu thập kiếp.

 

Vĩnh ly Ta bà quy Tịnh độ.

 

Nghĩa là

 

Sáng suốt trong sạch không nhơ bợn.

 

Hoa sen hóa sinh là cha mẹ.

 

Ta đã mười đời tu đến nay.

 

Sinh cõi Diêm phù nhàm các khổ.

 

Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp.

 

Hằng lìa Ta bà về Tịnh độ.

 

 

 

Viết kệ xong, hương lạ bốn phía bay lại. Đệ tử có người thấy Phật, thấy hai vị Bồ Tát đồng ngồi đài vàng, một bên đài, có nghìn trăm vị hóa Phật, từ

 

góc trời phía Tây giáng xuống tiếp rước ông Hoài Ngọc. Hoài Ngọc hết lòng cung kính chắp tay vui vẻ, lên ngồi kim đài theo Phật đi về nước An dưỡng một giây.

 

An dưỡng tức là nước Cực Lạc. Hào quang lạ tức là bấy lâu chưa từng thấy hào quang Phật, bấy giờ mới thấy nên gọi hào quang lạ.

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT PHN CHU ÔNG TĂNG - TÊN KHẢI PHƯƠNG

 

VÀ VIÊN QUẢ

 

Ông Khải Phương và ông Viên Quả là hai vị Pháp sư, chuyên tâm quán tưởng Tịnh độ. Kế năm tháng, trong khi quán tưởng, đồng biết thân mình đến ao thất bảo đại trì. Trong ao có tấm màn báu lớn, thân hai ông liền vào trong ấy, thấy đức Quan m và Thế Chí, hai vị Bồ Tát đang ngồi trên hai bửu tòa đài Liên Hoa, còn dưới tòa có nghìn vạn hoa sen đầy dẫy.

 

Đức Phật A Di Đà từ hướng Tây lại ngồi trên một cái hoa sen rất lớn, cả

 

phóng hào quang chiếu suốt mười phương. Ông Khải Phương và ông Viên Quả lễ Phật và bạch Phật Thưa Đức Đại Từ! Giả sử chúng sinh cõi Diêm phù (cõi Ta bà), này y theo kinh dạy niệm Phật có được sinh về đây không ?

 

Phật dạy Như niệm danh hiệu Ta đều đặng sinh về nước Ta, không có một người nào là người niệm Phật, mà không sinh về được bao giờ.

 

Hai ông Khải Phương và Viên Quả lại thấy quốc độ kia, đất đai bằng phẳng, tràng báu lưới ngọc trên dưới xen pha. Lại có một ông Tăng, từ xa đi lại bảo Khải Phương và Viên Quả rằng Ta đây là Pháp Tạng vậy (tiền thân Phật Di Đà). Bởi do nguyện đời trước của ta nên nay đến đây rước hai nhà ngươi.

 

Khải Phương và Viên Quả, cũng cứ ngồi trên xa báu đi tới trước, lại biết thân mình ngồi trên hoa sen báu. Lại nghe Phật Thích Ca và đức Văn Thù Bồ

 

Tát, khen ngợi cõi Tịnh độ. Đi tới trước, lại có một bửu điện rất lớn. Điện ấy có ba cấp đường bằng ngọc. Cấp đường thứ nhất toàn người thế tục đi. Cấp đường thứ hai Tăng và tục phân nửa (nửa Tăng nửa tục). Bước qua cấp đường thứ ba duy có Tăng chứ không có tục. Đức Phật chỉ đó mà bảo hai ông Khải Phương và Viên Quả rằng Phong cảnh đây, để dành cho những chúng sinh cõi Diêm phù đề (cõi Ta bà), người nào niệm Phật, thời sinh về ở đây. Vậy hai người hãy tự gắng.

 

Bấy giờ Khải Phương, Viên Quả trực giác thức dậy (xuất định), kể

 

chuyện cho các đồ đệ (đệ tử) nghe sự tích này. Qua 5 ngày sau, hai ông không bệnh tự nhiên nghe tiếng chuông, thế mà các người khác không nghe.

 

Ông Khải Phương và Viên Quả nói Tiếng chuông ấy là cái việc của ta, nói rồi vui vẻ trong giây lát hai ông đồng lâm chung một lượt (vì đồng một tịnh nghiệp).

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT CHN CHU - ÔNG TĂNG TÊN TỰ GIÁC

 

Ông Tự Giác, do có phát nguyện mà được đức Quán Thế m Bồ Tát, dẫn ông đến yết kiến Phật Di Đà. Bấy giờ ông Tự Giác tự mừng thầm mình có nhân duyên với đức Đại Bi hóa độ. Liền đi xin tiền đúc tượng đức Đại Bi Quán Thế m Bồ Tát, bề cao 49 thước (49m) dựng chùa thờ đó. Lời chúc nguyện đã thành tựu.

 

Đêm đó canh ba thoạt có hai đạo hào quang kim sắc (sắc vàng), ông thấy Đức Phật A Di Đà từ trong hào quang đằng vân giáng xuống có đức Quan m và đức Thế Chí theo hầu hai bên. Phật đưa cánh tay sắc vàng rờ đầu ông Tự Giác mà rằng Ngươi ráng giữ lời nguyện đừng có cải đổi, lấy việc lợi người làm trước nhất (lợi vật vi tiên). Rồi đây hãy sinh về ở trong ao thất bảo, đâu chẳng y lời nguyện. Nói rồi ẩn mất.

 

Cách 11 năm sau, trong đêm ngày rằm tháng bảy thấy có một người ở

 

trong mây hiện ra nửa thân mình, hình như ông trời Tỳ Sa Môn thiên vương, cúi xuống bảo ông Tự Giác rằng Nay đã đến thời kỳ đại đức hãy về nước An dưỡng (Tịnh độ) rồi vậy. Ông Tự Giác nghe nói liền đến trước tượng đức Đại Bi Quán Thế m ngồi kiết già, mà thác hóa (chết).

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT LỤC CHU - ÔNG TĂNG TÊN THIẾU KHƯƠNG

 

Ông Thiếu Khương trong niên hiệu Trinh Quán năm đầu, đến đất Lạc Hạ

 

nơi chùa Bạch Mã thấy trong chùa có một quyển kinh thường phóng hào quang chiếu sáng, ông thò tay rút ra xem thời là quyển văn của ông Thiện Đạo viết để

 

khuyên người niệm Phật vậy.

 

 

 

Ông Thiếu Khương nghĩ rằng Nếu ta có duyên với quyển này, thời xin hào quang phóng ra lần nữa làm tin. Nói chưa dứt lời, hào quang liền tủa ra lòa mắt. Thiếu Khương tin sâu vào óc, liền đi qua đất Trường An (kinh thành), lại nhà thờ có thờ tượng ông Thiện Đạo, cả bày lễ cúng. Ông Thiện Đạo ở trên hư không ứng tiếng rằng Ngươi y theo việc của ta lợi lạc cho người đời, thời công đức của ngươi, cũng đồng sinh về nước An dưỡng vậy.

 

Lại gặp một ông Tăng bảo rằng Người muốn dạy người niệm Phật, hãy qua đất Tân Định, nói rồi ẩn mất. Đất Tân Định tức là quận Nghiêm Châu (xứ

 

Trung Hoa) bây giờ vậy.

 

Thiếu Khương bèn qua xứ kia, thì người ở đất ấy chưa có ai biết niệm Phật, mà ông Thiếu Khương giảng lý nhân quả khuyên niệm, người ta lại còn ghét hơn nữa. Thiếu Khương mới tìm cách đi xin tiền về dụ các đứa con nít cho nó và dạy Phật A Di Đà là bổn sư của các em, nếu các em niệm đặng một tiếng, ta cho một đồng tiền. Các đứa con nít ham tiền, theo tiếng ông niệm mà niệm theo. Sau một tháng ngoài, các em niệm Phật xin tiền số

 

đông.

 

Ông Thiếu Khương mới bảo lại Hễ niệm Phật 10 tiếng ta mới cho các em một đồng tiền, các em cũng nghe lời cứ niệm. Như vậy niệm suốt một năm. Bấy giờ không luận kẻ lớn người nhỏ, kẻ quý người tiện, hễ thấy mặt ông Thiếu Khương thời đều niệm A Di Đà Phật.

 

Vì duyên cớ như trên, cho nên người niệm Phật đầy cả đường lộ, niệm Phật thuần thục, không còn ai dùng tiếng thô tục. Gia đình cư xử, bạn bè giao tiếp, trước cũng niệm Phật rồi mới nói chuyện. Thật là Cảnh cuộc thuần phong mỹ tục, thiên hạ đời sống vui thú làm sao!

 

Sau ông Thiếu Khương qua núi Ô Long kiến lập đạo tràng Tịnh độ. Lập đàn ba cấp rủ người ngày đêm niệm Phật. Thiếu Khương trước xướng niệm Nam mô A Di Đà Phật, kế các người niệm rập theo. Khi ông Thiếu Khương đương xướng các người bên cạnh có người thấy một vị Phật, từ trong miệng bay ra. Xướng luôn 10 tiếng, thời có 10 vị Phật cũng từ trong miệng bay ra liền luôn như xâu chuỗi.

 

Ông Thiếu Khương hỏi Các ngươi thấy Phật chăng ? Như người nào thấy thì quyết định sinh về Tịnh độ.

 

Song trong số người lễ Phật, mấy nghìn người, nhưng cũng có người hoàn toàn không thấy (do thiếu lòng thành vậy).

 

 

 

Sau rốt ông dạy người, phải đối với nước An dưỡng phát khởi tâm cho tăng thắng (chí thành tâm) và với cõi Diêm phù đề (cõi Ta bà), phải sinh tâm nhàm chán.

 

Ông lại nói Hết thảy các ngươi trong giờ phút này, mà hễ ai thấy được hào quang, mới thật là đệ tử ta (ngã chân đệ tử), nói xong liền phóng hào quang lạ vài đường mà viên tịch (chết).

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TINH CHU - ÔNG TĂNG TÊN DUY NGẠN

 

Ông Duy Ngạn, chuyên tu pháp Thập Lục Quán (16 pháp thiền định).

 

Nhân khi xuất định, thấy đức Quán Thế m và Đại Thế Chí hai vị Bồ Tát, hiện thân ở giữa không trung, hồi lâu mà chưa diệt. Duy Ngạn, cúi đầu đảnh lễ sa nước mắt, mà than rằng Ôi! May phúc cho nhục nhãn ta được thấy hình tượng Ngài, nhưng tiếc đời sau không truyền lại.

 

Vừa nói dứt lời, vừa ưa đàng kia có hai người song song đi lại, tự xưng mình họa sĩ, trong chưa bao lâu, vẽ rồi hai bức tượng của hai vị Bồ Tát. Vẽ

 

rồi hai họa sĩ đâu mất.

 

Đệ tử thấy lấy làm lạ hỏi. Duy Ngạn nói Hai người ấy đâu không phải là họa sĩ!

 

Duy Ngạn lại nói Thời kỳ ta về Tây phương đã tới rồi, trong các đệ tử có người nào muốn theo, thời sáng ngày nói cho ta biết.

 

Có tên Tiểu Đồng Tử nói Thầy cho con theo thầy đi về. Duy Ngạn nói Nếu có muốn đi theo ta thời nên về nhà nói với thân phụ, thân mẫu ngươi đã.

 

Lúc Đồng Tử về nói. Cha mẹ nó cười mắng mà nói rằng Con đừng có nói chơi không nên. Đồng Tử trở về chùa, dùng nước thơm tắm gội, tới trước tượng Phật A Di Đà ngồi tréo kiết già mà hóa vãng.

 

Có người lại cho ông Duy Ngạn hay. Ngạn tới vỗ vai nó mà rằng Ngươi làm thị giả hầu ta, sao mà đi về trước ta vậy.

 

Nói rồi cầm bút, đốt hương, tới trước tượng hai vị Bồ Tát, làm bài kệ

 

như vầy

 

 

 

Quan m trợ viễn thiếp.

 

Thế Chí phụ diêu nghinh.

 

Bửu bình quang thượng hiển.

 

Hóa Phật đảnh tiền minh.

 

Cụ du thập phương sát.

 

Trì hoa hầu cửu sinh.

 

Nguyện dĩ Từ bi thủ.

 

Đề tượng cộng Tây hành.

 

Nghĩa là

 

Đức Quan m xa nương dìu dắt.

 

Đức Thế Chí tới rước đem về.

 

Bửu bình trên mão bày tỏ rõ.

 

Hóa Phật trước đầu hiện quang minh.

 

Đồng đạo mười phương cùng các cõi.

 

Cầm hoa chờ chực sinh chín phẩm.

 

Nguyện cánh (tay) từ bi ngài nhiếp thọ.

 

Dắt dìu về đến cảnh Tây hành (Tây phương).

 

Viết kệ xong, liền bảo các đệ tử xúm lại trợ niệm (niệm Phật). Mỗi người đều cất tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật, Duy Ngạn mở mắt ngó về

 

hướng Tây, rồi cúi đầu ríu ríu đi.

 

---o0o---

 

 

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TRƯỜNG AN - NI CÔ PHÁP DANH TỊNH CHƠN

 

Cô Tịnh Chơn, ở đất Trường An, nơi chùa Tích Thiện, mặc áo bá nạp, đi hành khất (khất thực), cả đời tánh cách không sân, tụng kinh Kim Cang mười muôn bộ, chuyên tinh niệm Phật.

 

Trong niên hiệu Hiển Khánh năm thứ 5, nhiễm bệnh bảo các đệ tử rằng Ta nội trong tháng năm này, mà mười phen thấy Phật A Di Đà, hai phen thấy thế

 

giới Cực Lạc, trên hoa sen báu, Đồng tử giỡn chơi. Ta chắc đặng vãng sinh về

 

thượng phẩm. Nói rồi ngồi kiết già mà thác hóa hào quang chiếu sáng cả chùa.

 

(Nếu tu mãn báo thân này, được vãng sinh về Tây phương, từ trong hoa sen sinh, hóa làm thân như Đồng Tử (đứa nhỏ), người tu Tịnh độ thuần thục, thấy Đồng tử chơi giỡn nơi ao thất bảo, thời ngươi đó được biết mình chắc sinh về Tịnh độ).

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ÔNG PHÒNG CHỮ

 

Ông Phòng Chữ chết giấc, hồn xuống dưới m phủ ra mắt vua Diêm La.

 

Vua nói Cứ tra trong sổ bộ thời thấy nhà ngươi đã có lần khuyên một ông già niệm Phật, mà ông ấy đã sinh Tịnh độ, nhờ phước ấy, ngươi cũng được sinh về Tịnh độ, cho nên ta mời người đến đây cho thấy nhau.

 

Phòng Chữ đáp Ngày trước tôi có nguyện tụng Kinh Kim Cang một muôn bộ và qua non Ngũ Đài, làm lễ đức Văn Thù Bồ Tát nên chưa muốn vãng sinh.

 

Vua nói Tụng kinh làm lễ vẫn là việc tốt, song mà sao cho bằng sớm sinh về Tịnh độ.

 

Vua biết chí hướng của ông không thể ngăn, bèn thả về.

 

Do đây, thời biết khuyên người tu niệm, chẳng những được vãng sinh, mà lại cảm động đến chốn u minh nữa vậy.

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TRƯỜNG AN - ÔNG LÝ TRI DIÊU

 

Ông Tri Diêu giỏi thông kinh Tịnh độ. Lập năm hội niệm Phật, ông làm vị

 

sư phạm trong đại chúng.

 

 

 

Sau nhân có bệnh thoạt nói Ta nay niệm Đức Phật Hòa Thượng để đi về

 

vậy. Nói rồi, rửa mặt súc miệng, bưng lư hương ra trước nhà đảnh lễ Phật. Bỗng nghe giữa thanh không có tiếng nói bài kệ như vầy Báo nhữ Lý Tri Diêu,

 

Công thành quả tự chiêu.

 

Dẫn quân sinh Tịnh độ.

 

Tương nhĩ thướng kim kiều (Kim Đài)

 

Nghĩa là

 

Tin ngươi Lý Tri Diêu

 

Công thành quả tự chiêu (đặng).

 

Dắt ngươi về Tịnh độ.

 

Đem ngươi lên cầu vàng (Đài vàng).

 

Ông Tri Diêu nghe rồi, lui lại giường ngồi mà qua đời. Chúng nhân nghe mùi hương lạ, từ góc trời phía Tây bay lại rồi bay đi (hết nghe thơm gọi là bay đi).

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG PHỐ THƯƠNG ĐẢNG - CÔ DAO BÀ

 

Cô Dao Bà, nhờ bà Phạm Hạnh khuyên tu niệm danh hiệu Phật A Di Đà.

 

Khi lâm chung thấy Phật và Bồ Tát đến rước. Dao Bà bạch Phật rằng Con chưa kịp đến tạ biệt bà Phạm Hạnh vì bà có ơn dạy con niệm Phật, xin Phật nán đợi dùm con một chút. Phật đứng giữa hư không, chờ bà Phạm Hạnh đến, cô Dao Bà lễ tạ ơn rồi, đứng mà thác hóa (chết).

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TỊNH CHU - VỢ ÔNG ÔN TỊNH VĂN

 

Vợ ông Tịnh Văn đau lâu tại giường, Tịnh Văn khuyên vợ niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tin theo niệm hai năm không dứt, liền thấy cõi Tịnh độ, bèn nói với ông Tịnh Văn rằng Tôi thấy Phật rồi, tháng sau tôi chắc đi về. Lại đem đồ ăn dâng cho cha mẹ, và từ tạ cha mẹ rằng Con nay theo Phật đi về.

 

Xin cha mẹ và chồng ở lại ráng tu niệm, chừng về Tây phương thấy nhau. Nói rồi qua đời (nhắc lại 3 ngày trước thấy hoa sen, lớn bằng vừng mặt nguyệt).

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ÔNG TRƯƠNG CHUNG QUỲ

 

Ông Chung Quỳ, làm nghề sát kê mắc nghiệp báo. Bỗng thấy một người mặc áo đỏ, đuổi bầy gà đến nói mổ mổ, bầy gà xúm lại mổ. Mổ bốn phía rồi lại mổ lên trên hai con mắt đổ máu, chịu khổ đau nhức. Có ông thầy vì trương tượng Phật đốt hương niệm danh hiệu Phật A Di Đà và bảo ông kia niệm, Chung Quỳ nhất tâm niệm. Thoạt vậy nghe mùi hương thơm bát ngát đầy nhà, vui vẻ mà qua đời.

 

---o0o---

 

ĐỜI ĐƯỜNG ÔNG TRƯƠNG THIỆN HÒA

 

Ông Thiện Hòa làm nghề sát trâu, mắc nghiệp báo, khi lâm chung thấy bầy trâu nói tiếng như người rằng Người sát ta, nay ta báo oán. Thiện Hòa cả sợ, nói với vợ rằng Mau thỉnh thấy đến cứu ta! Ông Tăng đến giảng Trong Thập Lục Quán Kinh có nói Bằng người khi lâm chung tướng địa ngục có hiện ra, thời chí tâm niệm 10 tiếng danh hiệu Phật như vầy Nam mô A Di Đà Phật, thời liền đặng vãng sinh về Tịnh độ.

 

Thiện Hòa nói Chắc vào địa ngục quá! Rồi không kịp bưng lư hương, tay trái cầm lửa, tay phải nắm nắm nhang, xoay mặt về hướng Tây chuyên thiết niệm Phật. Chưa đầy 10 tiếng, Thiện Hòa nói Ta thấy Phật A Di Đà từ

 

Tây phương đến, cho ta một cái tòa báu. Nói rồi lâm chung.

 

---o0o---

 

ĐỜI TÙY ĐẤT THẠCH TẤN QUẬN PHỤNG TƯỜNG ÔNG CHÍ

 

THÔNG

 

Ông Chí Thông, thấy ngài Trí Giả Đại Sư làm nghi thức Tịnh độ lưu truyền, không xiết vui mừng, không nhổ hướng Tây, không ngồi xoay lưng về hướng Tây, chuyên tâm tu tấn.

 

Sau thấy chim Bạch hạc, Khổng tước bay lớp lang, từ hướng Tây đến.

 

Lại thấy hoa sen, tướng hào quang, nở, búp ở trước mặt.

 

 

 

Ông Chí Thông nói Bạch hạc, Khổng tước là chim ở cảnh Tịnh độ, còn tướng hào quang hoa sen là chỗ ta gá sinh về vậy. Tịnh độ đã hiện rồi.

 

Ông liền đứng dậy lễ Phật, ngó Phật mà qua đời. Lúc phần hóa (thiêu), có năm sắc mây lành, đanh phủ trên lửa.

 

---o0o---

 

ẤP QUỐC SƠ, CHÙA VĨNH MINH - NGÀI THỌ THIỀN SƯ

 

Ngài Thiền sư tên Diên Thọ, vốn người đất Đơn Dương. Sau qua đất Dư

 

Hàng. Hồi nhỏ tụng Kinh Pháp Hoa. Lúc ra làm quan Huyện, hằng lấy bớt tiền quan. Tra ra thì ông lấy số tiền ấy, để mãi vật phóng sinh. Triều đình nghị tội đáng chết, dẫn đến Thị Tào (chỗ xử trảm). Tiền Vương (Vua, chủ

 

tiền), sai người nom theo dò xét, nếu nhan sắc biến liền trảm (chém). Bằng không biến đổi về tâu lại.

 

Quả nhiên, tới giờ gần xử trảm nhan sắc không đổi, mà lại càng vui tươi nói “Chết một mạng, mà cứu được nhiều mạng, dù chết cũng sung sướng nơi lòng”.

 

Quân hồi trào báo tin. Vua bèn tha được sống và cho đi xuất gia làm ông Tăng. Trong khi ngài đang tham thiền quán tưởng, thấy đức Quan m dùng nước cam lồ rưới miệng ông, ông đặng biện tài của đức Quan Thế m, thuyết pháp vô ngại. Khi xuống bút là thành sách. Ông viết bộ sách nhan đề là “Vạn Thiện Đồng Quy tập” và bộ “Tông Kính Lục” v.v… cộng vài trăm quyển. Ngài làm trụ trì nơi chùa Vĩnh Minh, non Tuyết Đậu.

 

Mỗi ngày tụng 108 việc (10 phương Phật, 3 đời Phật, 7 Đức Như Lai, và 88 Phật, cộng 108 việc), tinh tấn tu Tây phương. Lâm chung, ngồi qua đời, khi phần hóa xong, dựng một bửu tháp.

 

Bấy giờ có ông Tăng, mỗi ngày tới đi nhiễu và lễ bái cái tháp ngài.

 

Người đời thấy lấy làm lạ hỏi, ông Tăng đáp Tôi là ông sư quận Phủ Châu vậy. Nhân đau nặng, hồn đến m phủ, đền Diêm Vương, vua nói Mạng nhà người chưa tới tha về. Thấy bên cạnh đền có cái bức tượng hình một ông Tăng khôi ngô nghiêm nghị. Vua Diêm La bảo tôi đến lễ bái cúng dường.

 

Tôi hỏi Tượng này là ai ? Tên quân lại đáp Ngài Thọ Thiền sư ở chùa Vĩnh Minh, Hàng Châu vậy.

 

Phàm ai chết, cũng đều đến chỗ này, chỉ có một ông Tăng này, không đến chỗ này, mà là đã sinh về bậc thượng phẩm thượng sinh, bên thế giới Tây phương Cực Lạc kia rồi. Nên vua tôi vẽ tượng này thờ nơi đây để cúng dường kính trọng.

 

Tôi nghe thế nên tôi phát tâm đến đây nhiễu tháp và lễ bái. Do đây mà thấy người tinh tấn niệm Phật đặng m phủ vua Diêm Vương chẳng những hoan hỷ và lại còn kính trọng bội phần.

 

---o0o---

 

ĐỜI TỐNG ĐẤT MINH CHU - ÔNG TĂNG TÊN KHẢ CỬU

 

Ông Khả Cửu thường tụng Kinh Pháp Hoa cho nên người đời kêu ông là ông Cửu Pháp Hoa cả bình sinh tu nghiệp Tịnh độ.

 

Triều vua Nguyên Hựu năm thứ 8, tuổi 81 ông ngồi mà tịch. Ba ngày sống trở lại thuật việc Tịnh độ như trong Kinh Thập Lục Quán nói Thấy đài Liên Hoa đều nêu người nào sinh về có tên và họ hẳn hòi Một cái Tử Kim đài, nêu rằng Triều Đại Tống phủ Thành Đô, chùa Quảng Giáo, ông Cửu Pháp Hoa đã sinh trong đó.

 

Lại một cái Kim đài, nêu rằng Đất Minh Châu ông Tôn Thập Nhị Loan, được sinh trong đó.

 

Lại một cái Kim đài nêu rằng Ông Cửu Pháp Hoa Đài (đài này để dành cho ông Cửu Pháp Hoa).

 

Lại một cái Ngân đài, nêu rằng Đất Minh Châu Bà Từ Đạo Cô Đài (Đài này để cho bà Từ Đạo sinh về ngồi).

 

Ông Cửu Pháp Hoa, thuật câu chuyện của ông đã thấy, xong lại chết luôn. Cách 5 năm, bà Từ Đạo chết, mùi hương lạ đầy nhà. Lại cách 12 năm, ông Tôn Thập Nhị Loan qua đời, nhạc trời réo rắt từ phía Tây xích lại, giây lâu mới hết.

 

---o0o---