ĐỜI TỐNG, NON CẤU KÊ,ÔNG KIM THÁI CÔNG

 

Ông Thái Công, tên Thích làm nghề võng ngư (chài lưới). Một bữa đổi nghề làm (làm nghề khác), chuyên niệm Phật A Di Đà mỗi ngày một vạn tiếng, trai tố (chay lạt) tu hành, không hề tạm bỏ. Sau không tật bệnh, chỉ nói Ta thấy Phật A Di Đà cùng Quan m, Thế Chí, ở trước cửa, ta nay về Tịnh độ

 

vậy.

 

Qua ngày sau lại nói Ta đã thấy hoa sen vàng đến rước ta vậy. Ông cầm lư

 

hương ngồi yên bắt ấn mà qua đời. Hương thôn xa gần ai cũng nghe âm nhạc, mùi hương bát ngát, phưởng phất cả ngày không phai. Khi ấy, nhằm thời kỳ

 

vua Chánh Hòa năm thứ 6.

 

---o0o---

 

ĐỜI TỐNG, ĐẤT ĐÀM CHU - ÔNG HUỲNH ĐẢ THIẾT

 

Ông Huỳnh Đả Thiết, vốn người trong quân lính làm nghề đập sắt, mỗi khi đập sắt, niệm A Di Đà Phật không ngớt tiếng.

 

Một hôm không bệnh, ông mượn người bạn bên xóm viết dùm bài kệ để

 

ông in ấn tống, đặng khuyên nhiềâu người niệm Phật. Bài kệ như vầy Đinh đinh đang đang.

 

Cửu luyện thành cang.

 

Thái bình tương cận.

 

Ngã vãng Tây phang.

 

Dịch nghĩa

 

Cổn cổn cản cản.

 

Luyện lâu thành cứng.

 

Thái bình gần đây.

 

Ta về Tây phang

 

Đọc bài kệ rồi, vui vẻ ngồi qua đời như ngủ. Bài kệ này truyền bá đất Hồ

 

Nam rất rộng, người niệm Phật rất nhiều.

 

---o0o---

 

 

 

ĐỜI TỐNG, PHỦ LM AN,LÀNG HÒA NHN, ÔNG NGÔ HUỲNH

 

Ông Ngô Huỳnh, trước làm ông Tăng, sau hườn tục, trước sau hai đời vợ, sinh đặng hai đứa con, nghề rượu thịt, không nghề mô không làm, thậm chí làm bồi bếp cho người nữa.

 

Mỗi khi cắt cổ gà, sát vịt, các vật mạng tay cầm đưa lên nói A Di Đà Phật, mau thác kiếp (thân) này đi, rồi giết, niệm Phật vài tiếng. Mỗi khi xắt thịt, một mặt xắt thịt, một mặt niệm A Di Đà Phật, thường niệm Phật không thôi.

 

Dạy người trong thôn, niệm kinh, làm phép sám hối, và khuyên người niệm A Di Đà Phật.

 

Sau trên con mắt sinh bướu (mọc mụt) như trứng gà rất sợ hãi. Tạo một am cỏ (thảo am) chia giao của cải cho vợ con, rồi ông ngày đêm niệm Phật sám hối. Qua đời vua Thiện Hưng năm thứ 23, mùa Thu ông dặn người bà con trong làng rằng Ngày mai giờ Tuất, tôi (Huỳnh) đi về Tây vậy.

 

Người tưởng nói chơi cười. Huỳnh đem chén bát, nồi, trách, cho người ta hết. Qua buổi chiều ngày sau ngỏ (nói) cho các đạo hữu tên Hạnh Bà rằng Giờ đây (Huỳnh) đi sắp gần đến, hãy cao tiếng niệm Phật (trợ niệm) giúp tôi, lấy áo vải đổi rượu uống liền viết bài tụng như vầy Tợ tửu giai không, vấn thâm thiền Tông,

 

Kim nhật trân trọng, minh nhật thanh phong.

 

Dịch nghĩa

 

Tuồng, rượu vốn không, hỏi chi thiền tông.

 

Ngày nay trân trọng, ngày mai thanh phong.

 

Đại ý bài tụng này. Câu Tuồng, rượu vốn không là nói muôn pháp rảnh rang không dính mắc, còn có tu chi nữa mà phải nhọc hỏi tới Thiền tông (pháp tu tham thiền).

 

Câu Ngày nay trân trọng, là nói cái nhân niệm Phật chí thành.

 

Câu Ngày mai thanh phong (gió mát) là nói kết quả của sự niệm Phật, là được giải thoát hay được vãng sinh về Tịnh độ.

 

 

 

Ông viết bài tụng xong, ngồi vững chắp tay niệm Phật. Kêu nói một tiếng Phật đến rồi liền tắt hơi.

 

---o0o---

 

ĐỜI TỐNG BÀ KINH VƯƠNG PHU NHN

 

Trong niên hiệu triều vua Nguyên Hựu, bà Kinh Vương phu nhân, cùng với kẻ tỳ thiếp (tôi tớ) ba, tinh tu niệm Phật, trong đó có một người thiếp giải đãi, bà phu nhân thét và đuổi. Thiếp kia hối ngộ tinh tấn, lâu rồi nói với các người thiếp khác mà rằng Tôi đêm nay sẽ sinh về Tây phương.

 

Quả thật đêm đó, mùi hương thơm lạ đầy nhà, thiếp ấy không bệnh mà qua đời. Sáng ngày mấy người thiếp (tớ) đồng sự (đồng một việc giúp đỡ

 

chủ nhà) tới tin cho bà phu nhân hay rằng. Đêm hôm qua tôi chiêm bao thấy thiếp đã chết kia, về dặn gửi lời giã từ bà như vầy Tôi nhờ ơn bà phu nhân dạy quở, tôi tu Tây phương (niệm Phật), nay đã đặng vãng sinh, cảm đức bà vô lượng.

 

Bà phu nhân đáp là không tin và nói Phải nó mà cho tao cũng chiêm bao, thời tao mới đáng tin.

 

Quả thật đêm đó, khuya lại bà phu nhân chiêm bao, thấy vong thiếp về

 

tự trần cảm tạ lời y như trước (nhờ bà dạy quở tôi tu Tây phương v.v…) Phu nhân hỏi Giả sử ta đi về Tây phương có đặng chăng ? Thiếp đáp Đặng, nhưng bà đi theo tôi, phu nhân theo đó, thấy hồ ao rộng lớn, hoa sen hồng, hoa sen trắng lăng xăng, lớn có nhỏ có, hoặc có bông thì héo, có bông khô, đủ thứ không đồng.

 

Phu nhân hỏi Như vậy đó là vì sao ?

 

Thiếp trả lời Đây đều là trong thế gian, mà chính là người phát tâm tu Tây phương vậy. Vừa phát một niệm thời sen trong ao mọc lên một đóa hoa.

 

Bằng tâm nguyện tinh tấn, thời hoa sen mỗi ngày nở tốt, cho đến lớn như

 

bánh xe. Bằng tâm nguyện thối lui, thời hoa sen mỗi ngày mỗi khô héo, cho đến phút cùng là hư rụng.

 

Kế thấy một người ngồi trên hoa sen, chéo áo phất phơ lui tới, mũ ngọc anh lạc trang nghiêm thân mình. Phu nhân hỏi Đây là người nào ? Thiếp đáp Ông Dương Kiệt vậy. Lại thấy một người ngồi trên đài hoa. Thiếp chỉ Còn đây là chú Mã Vu vậy.

 

 

 

Phu nhân hỏi Còn ta sinh về chỗ nào ? Người thiếp dẫn đi cỡ vài dặm xa xa trông thấy một đài vàng xẹt hào quang chiếu diệu. Thiếp nói Đây là chính chỗ của phu nhân hóa sinh bậc thượng phẩm thượng sinh vậy. Phu nhân bây giờ thức giấc, hỏi thăm ông Dương Kiệt và Mã Vu, thì Kiệt đã chết rồi còn Vu thì còn mạnh giỏi.

 

Thế cho nên biết rằng Người tu tinh tấn không lui sụt ấy, thân tuy ở cõi Ta Bà, mà thần thức đã gá sinh bên cõi Tịnh độ vậy.

 

Sau bà phu nhân đến ngày sinh nhật (gọi là ngày đáo tuế). Bà bưng lư

 

hương, đốt nhang đứng trước tượng đức Quan Thế m cúng dường cầu nguyện.

 

Các con và cháu, sắm lễ dâng (chúc thọ) nhưng mà thấy bà đứng trước tượng đức Quan Thế m Bồ Tát một cách thẳng thốn và nghiêm trang, coi lại thì hồn đã đi đâu chỉ có cái xác còn lại.

 

---o0o---

 

ĐỜI TỐNG BÀ QUAN M HUYỆN QUN

 

Bà Huyện Quân, tên Ngô thị, chồng bà là ông Lữ Hoằng, quan chức Viên ngoại Loan cũng tỏ ngộ Phật lý. Hai ông bà (chồng và vợ) đều là người trai giới lo tu. Bà Ngô thị có hai đứa thị nữ (gái hầu) cũng không ăn đồ huân huyết (cá thịt) gắn bó lo làm Phật sự.

 

 

Hôm nọ một đứa thị nữ, ham mộ việc Thiền lý (tu thiền). Báo thân đã mãn, trả xác tứ đại lại cho cõi hồng trần, ôm một linh tánh vui tươi, vừa nói, vừa cười, xuất thần ra khỏi thể, như ve kia lột vỏ vậy. Còn một đứa thứ hai, thời giữ giới cần khổ hoặc có khi trọn tháng không ăn, một ngày uống nước một lần. Bà Ngô thị, tụng chú Quán Thế m uống một chén nước mát mà thôi. Bỗng thấy sen vàng đỡ chân ba bông. Lại vài ngày thấy một cái đầu gối (Phật). Lại vài ngày thứ hai, thấy cái mình (Phật). Lại vài ngày thứ ba, thấy cái mặt và con mắt (Phật và Bồ Tát). Ba bông sen vàng xét lại thì là chính giữa Đức A Di Đà, con hai bên thời Quan m, Thế Chí hai vị Bồ Tát vậy.

 

Lại thấy cả đường điện quốc giới (đền đài cõi nước) rõ ràng như thấy chỉ

 

trong bàn tay trong khi xòe tỏa, hiển nhiên là một cõi Tịnh độ.

 

Bà hỏi gã thị nữ tường tận. Thị nữ đáp cõi Tây phương kia đều là cõi thanh tịnh chỉ toàn người nam, đi kinh hành, vui chơi không có nữ nhân vậy.

 

 

 

Bà Ngô thị lại hỏi Cõi kia Đức Phật thuyết làm sao ? Thị nữ thưa Tôi mới được Thiên nhãn (chỉ thấy được) chớ chưa được Thiên nhĩ vậy chưa nghe được. Cho nên tôi chỉ thấy người hỏi Phật đáp và Phật chỉ thời tôi thấy có Phật chỉ vậy thôi. Chớ Phật Ngài thuyết pháp làm sao thời tôi không nghe được.

 

Bà Ngô thị hỏi Tại sao Thiên nhãn là con mắt thấy, Thiên nhĩ là lỗ tai nghe, mà nhà ngươi nói chỉ thấy được, mà không nghe được ?

 

Đáp Chưa chứng được pháp Thiên nhĩ vì như người tuy có lỗ tai mà bị

 

điếc cho nên dù có lỗ tai mà không thể nghe được. Còn chứng được pháp Thiên nhãn rồi cũng như kẻ con mắt hết bệnh lành sáng lại, thì lẽ dĩ nhiên, ngó thấy đều được sáng suốt.

 

Thị nữ là tôi, thấy như vậy, cả ba năm nay, chưa từng có một nháy mắt nào, mà không từng thấy trước mặt. Kế bỗng nhiên cảm bệnh tự nói Tôi vãng sinh. Nói vừa rồi là vừa nghỉ thở.

 

Bà Ngô thị, Xuân mãn Thu qua, một lòng thờ kính đức Quán Thế m, đem hết tâm hồn, gởi đường sinh tử, tưởng có linh nghiệm. Mỗi khi trong tịnh thất bà rinh vò, lu, và bình, sắp để vài chục cái trong thất, múc nước rót vô đầy mấy cái, rồi tay cầm cành dương tụng chú Đại bi thấy đức Quan m phóng quang trong mấy cái đựng nước. Nước ấy dùng cho mấy người bệnh uống liền được lành mạnh. Do vì tụng chú nước ấy lâu ngày và nước ấy dù để mấy năm cũng không hư (hôi), gặp tiết Đại hàn (trời lạnh) cũng chẳng đông đặc.

 

Nên người đời tặng hiệu bà là Quan m Huyện Quân.

 

---o0o---

 

ĐỜI TỐNG BÀ PHÙNG THỊ PHU NHN

 

(Người đàn bà, chồng làm quan theo tục xưa gọi bà phu nhân) Phu nhân, tên Pháp Tín, tặng hiệu Thiếu Sư, con gái ông Hứa Tuân, gả cho quan Tuyên Sứ là ông Trần Tư Cung. Hồi nhỏ hay bệnh, kịp gả bệnh lại càng hung, Lương y nói Chứng bệnh ngoài khoa dược (nghĩa là không có thuốc trị

 

lành được). Một hôm phu nhân đến chùa, ra mắt ngài Từ Thọ Thâm thiền sư

 

hỏi thăm phương dũ tật (lành bệnh). Ngài Thâm Sư dạy trì trai niệm Phật, phu nhân dẹp hết đồ huân huyết, và dùng đồ trang sức với bao nhiêu y phục quý giá, trải nơi tháp (điện Phật) để cúng dường Phật.

 

 

 

Chuyên niệm pháp môn Tây phương, đi cũng Tây phương, ngồi cũng Tây phương, lúc ăn, lúc nghỉ cũng Tây phương, nói, nín, động, tịnh, cũng Tây phương, châm nước, hiến hoa cũng Tây phương, tụng kinh đi đường cũng Tây phương, trong một phút nghỉ, cái lành mảy may, cũng hồi hướng, làm cầu bến để đi về Tây phương, cả trong 10 năm trường, không chút biếng trễ. Tâm an thể kiện, thần khí chẩm hẩm, người ai đều tôn trọng, thời gian thăm thẳm. Một hôm thoạt viết bài kệ như vầy

 

Tùy duyên nhậm nghiệp hứa đa niên.

 

Uổng tác lão, ngưu, vi canh điền.

 

Đã diệp thân tâm tao qui khứ.

 

Miễn giao tỷ khổng thọ nhân xiêng.

 

Nghĩa là

 

Theo duyên mắc nghiệp bấy nhiêu năm.

 

Luống làm trâu lão bắt cày ruộng.

 

Tóm dẹp thân tâm sớm đi về.

 

Cho khỏi lỗ mũi chịu người xỏ.

 

Bà con trong họ lấy làm lạ không hiểu nói cái chi. Phu nhân đáp Ta làm kệ về Tây phương, chớ có cái chi đâu mà lạ. Kế có bệnh nằm, vừa có chút hơi ngặt ngợp, bà liền gượng ngồi dậy nói Thân ta qua Tịnh độ. Diện lễ Phật A Di Đà, Quan m bên tả ngó, Thế Chí bên hữu xem. Trăm nghìn muôn ức thanh tịnh Phật tử, cúi đầu chào ta về cõi nước. Hoặc thấy cung điện, rừng, ao, hào quang báu lạ, giống in như trong Kinh Hoa Nghiêm, cùng Kinh Thập Lục Quán đã nói. Đêm đó, người trong gia quyến nghe mùi hương lạ thơm lừng ngào ngạt, trong đời xưa nay chưa từng nghe cái thơm như hương ấy.

 

Sáng ngày cũng y như lệ thường thị tỳ, đồng nữ đến phụng sự hạ hầu. Thì!

 

Chỉ thấy bà để lại một tòa nhà vàng ngọc (thân tứ đại) mà thức thần đã đi đâu vắng. Làm lễ trà tỳ (thiêu) cả 3 ngày mà thây hình như khi còn sống.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

HẾT QUYỂN NĂM

 

---o0o---

 

QUYỂN SÁU - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

 

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI

 

Người tu Tịnh độ, nên tùy trường hợp, ra công làm lành, để giúp sự tu hành mau tiến triển, cho nên quyển này, tên là quyển KHUYẾN DỤ. Nếu người nào không biết chữ, nhờ trang từ nhân quân tử, phát tâm Bồ Tát, vì kia giải nói. Đây cũng là một sự bố thí rất lớn.

 

Nội dung của quyển này Trước, sau thứ lớp, từ gần đến xa, từ gấp đến hưỡn, bất câu người cao, thấp, đồng khuyến dụ vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN SĨ NHN

 

SĨ NHN Hoặc có người đọc sách chưa bao nhiêu, mà thi đỗ khoa cao, có người đọc sách rất nhiều, mà trọn đời thì không đậu. Thế đâu chẳng phải đời trước trồng cái nhân thiện ác chẳng đồng, mà nay phải chịu cái cảnh huống ấy không ?

 

Song tuy nhiên người tuổi trẻ đỗ khoa cao, rỡ ràng tôn tộc, công nghiệp cậy nhờ trong một thuở, rồi phước báu cũng có khi cùng tận.

 

Vậy kính khuyên trang hậu sinh, cần nơi học vấn dốc lòng hiếu thuận, xa nghĩ ông Cao, Tằng, ta nhẫn nay, những người còn sống đó, cũng để tâm nơi đạo này, lâu ngày chày tháng, dồn chứa công nhiều lâu rồi tự có chỗ khá vui, kịp người tuổi cao, nên nghĩ việc dĩ vãng dường như mộng ảo, thí như chúng ta người và muôn vật, ở đâu mà đến đây ?

 

Chúng ta đến đây để làm gì, đến đây chúng ta chết, rồi chúng ta sẽ đi đâu ? Hay nghĩ bằng cách khác

 

Chúng ta sống nguồn gốc ở đâu ? Mục đích sự sống ra thế nào ? Đến đâu là cùng tận của sự sống, và đến cả sự sống nữa, sống đây là gì ?

 

Nếu nói sự sống để chống chọi lại sự chết, thì trước phải định nghĩa cái chết đã. Mà chết! Chết tức là hết sống. Vậy thế là không phải định nghĩa, thì lại rơi vào cái vòng quanh quẩn, rồi ngày lại ngày qua, có ai tránh khỏi ?

 

Đâu khá chẳng để tâm đạo này vậy.

 

 

 

Không luận già, trẻ, nếu ta đem giáo môn này dạy người, khiến người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời ta đặng phước báu, thân đời sau được sinh lên bậc Thượng phẩm vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN HỮU QUAN QUN TỬ

 

Khuyến người quân tử có chức quan.

 

Người quân tử có chức quan! Đâu không phải đời trước tu trồng cội phước, nên nay hưởng chức đây!

 

Ví như Mùa Xuân xuống giống, mùa Thu thâu gặt. Nếu không tu phước, duyên gì được thế!

 

Song phước đây có ngày hưởng hết. Nếu lại tu phước, làm các việc phương tiện, như thương người, lợi vật. Muốn sức vị tha được phát ra một cách tự nhiên không miễn cưỡng, muốn sự hy sinh không đau khổ, cần phải có tình thương.

 

Có bao giờ người mẹ hy sinh cho con mà nghe đau khổ đâu ? Tình thương càng rộng lớn thì những cử chỉ hào hiệp càng dễ dàng, chỉ có kẻ

 

thiếu tình thương mới ích kỷ, chỉ có kẻ thiếu tình thương mới dửng dưng được trước nỗi khổ của mọi người. Tình thương càng mãnh liệt, thì sức che chở giữa người và mình càng hùng hậu, rồi lấy công đức đây hồi hướng cầu sinh về Tây phương, thời chóng khỏi luân hồi, thọ mạng và khoái lạc vô cùng tận, đâu phải phước báu của thế gian chỗ hay bì kịp ?

 

Nếu người dốc lòng thương dân chẳng nỡ bỏ đó. Lại nguyện sinh Tây phương, cho dứt sinh tử rồi, trở lại thế gian này, hiện làm thân Tể tướng, làm công lợi lớn lao nào chẳng đặng ?

 

Nếu hay đem pháp môn niệm Phật này dạy người, và bảo người rộng khuyến hóa ra nữa, thời người ắt trọng lời nói của mình, vui lòng làm theo, cứ thi hành theo bài kệ đức Đại Từ Bồ tát, thời đời sống đây, cũng có thể

 

tiêu tai đặng phước, lúc chết thức thần được gá sinh lên đài sen bậc thượng phẩm vậy.

 

KHUYẾN TẠI CÔNG MÔN GIẢ

 

 

 

Người ở tại chốn công môn, phải tự nghĩ rằng Người kia có chức quan, ta phải hầu hạ kia. Kia cao ta thấp, kia khỏe ta mệt, phụng sự người được vừa ý, ta khỏi có cái lo hành phạt, hoặc khi lỡ lầm, lại bị trách mắng. Thế là đời trước của ta chỗ tu phước chẳng bằng người cho nên ngày nay phải chịu nỗi khốn khổ này, rồi tự an ủi nơi lòng rồi phải thấp lòng giữ nết, để bảo thủ

 

thân này, mỗi việc không câu lớn nhỏ, tùy cơ phương tiện gánh vác, để cho người ngó thấy sinh tâm hoan hỷ, thời ta khỏi lo hậu hoạn, tích thiện mãi mãi phước đến cho con cháu.

 

Nhưng vị tha chưa đủ, vị tha mới là phần lý trí do sự hiểu biết mối tương quan cần thiết giữa quyền lợi, chung cùng và riêng biệt mà ra, nó là sự tính toán phải lẽ sáng suốt. Nhưng cái gì thuộc lý trí cũng khô khan, và có khi trái với con tim mình nữa. Vì thế có những sự hy sinh tuy rất đẹp đẽ, nhưng cũng rất khổ đau cho người phải hy sinh.

 

Nên biết, những người ở chốn công môn, con cháu họ được vinh hiển, đâu chẳng phải Tổ phụ tích đức tu thiện ư.

 

Công lý rõ ràng chẳng khá chẳng tin, và thường niệm Phật A Di Đà, nguyện sinh Cực Lạc thế giới, lại đem pháp niệm này dạy người, khiến người thay nhau khuyến hóa, chẳng những hiện tiền đặng phước. Thân đời sau mau sinh lên phẩm thượng bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN Y GIẢ

 

Những người làm nghề y khoa (thầy thuốc), phải tự nghĩ rằng Thân người tật bệnh, cũng như ta có bệnh, hễ đến rước thì tức đi liền, hoặc người đến xin thuốc, ta liền hốt cho, chớ luận kẻ sang người hèn, chớ

 

lựa kẻ giàu người nghèo, chỉ chuyên một lòng cứu mạng để kết duyên người và tích phước cho mình, thời trong chỗ u u minh minh cũng có thánh thần giúp trợ.

 

Nếu ta dùng tâm bất nhân, thừa khi người bệnh ngặt dốc lòng đòi của đáng một nói mười, thời trong chỗ minh minh sẽ có tai to họa dữ.

 

Phương chi, bác ái chỉ là áp dụng trong phạm vi người, từ bi lan cùng cho đến cỏ cây muôn vật, có một tình yêu thương rộng lớn như thế thì may ra đối với người mới thiết thật bác ái được, nếu không thì cũng tiếp tục giết hại lẫn nhau mà thôi.

 

Vả lại mang thân xác này là đã chất chứa đầy dẫy biết bao sự bệnh tật, mà sự bệnh tật ấy là nền tảng của tất cả sự khổ của nhân sinh. Bệnh tật càng lớn lên chừng nào, nhân loại càng khổ sở điêu đứng chừng ấy.

 

Rốt cuộc nhân loại từ giàu đến nghèo, từ thông minh đến ngu dốt đều gồm thâu trong một chữ khổ, nên Phật Ngài nói thế giới loài người là một bể

 

khổ mênh mông. Hiện trạng của thế giới ngày nay đã chứng cứ cho chúng ta về chữ khổ vậy.

 

Như sự đau đớn bệnh tật không những chỉ tàn hại người già nua, mà nó cũng dày xéo luôn những tấm thân tráng kiện nữa, một khi chết là hết. Bao nhiêu lâu đài hạnh phúc tạm bợ đã xây dựng trên cuộc đời đều đổ sụp.

 

Cuối cùng chỉ mang theo nghiệp lực đã tạo trong kiếp sống để rồi đi đầu thai vào một kiếp sống khác cũng chẳng kém phần đau khổ.

 

Nhắc làng tôi (Vương Nhựt Hưu) có ông Trương Ngạn làm nghề y khoa có tiếng. Các ông Tăng, bần sĩ, quân lính, quan viên, và phàm dân nghèo hèn đến ông hốt thuốc, ông chẳng thọ tiền, lại còn có khi lấy tiền nhà mua gạo cho nữa.

 

Những người đến rước, dù là người hết sức nghèo ông cũng đi. Người giàu đem tiền hốt thuốc, không hỏi tiền nhiều ít, cứ lấy thuốc cho nhiều, mong sao cho lành mạnh, chưa hề để ý trong kia đem tiền đến hốt thuốc.

 

Cũng có khi biết người bệnh ngặt, khó mà cứu sống nhưng cũng vẫn cho thuốc tốt, để an ủi tâm người bệnh, không chịu thọ tiền. Ta Vương Nhựt Hưu ở chung với hắn (thầy thuốc) rất lâu, rõ biết hắn làm thuốc không lúc nào thấy hở miệng hỏi tiền, thật đáng gọi là Y nhân trung đệ nhất đẳng nhân hỷ. Nghĩa là Trong các người thầy thuốc, hắn là người bậc nhất vậy.

 

Một hôm tình cờ trong thành hỏa tai nổi dậy, trong khi ngọn lửa bốc cháy, đâu đó cháy hết chỉ chỗ ở của ông vẫn còn lại. Lại nữa, có một năm tai dịch, trâu chết rất nhiều, thế mà chuồng trâu của ông vẫn còn nguyên không mất một con nhỏ.

 

Lấy đây mà nghiệm đâu chẳng phải Thần minh giúp hộ ấy ? Hơn nữa con ông đọc sách (đi học) sau thi đậu khoa khôi giáp (đậu trạng nguyên), cháu ông có ba người thuần hậu sáng ngỏ. Đó cũng là Đạo Trời ban phước cho người thiện, hay là lý công Người thiện thì được phước, thật đúng vậy.

 

Giả sử ông ta làm thuốc, cứ bo bo tiền của, tham tâm keo rít, tốn phí còn nhiều hơn số ấy nữa. Chỗ lời cũng chưa bù đặng chỗ thiếu, huống lại có phần thưởng lớn lao như thế.

 

Vậy thời những người đồng môn (đồng nghề thuốc) sao khá chẳng lấy đây làm gương ? Nếu thường giữ tấm lòng như ông, rồi niệm Phật cầu sinh về

 

Tịnh độ, quyết định sinh lên bậc thượng phẩm.

 

Nếu nhân trong người đang bệnh khổ mà dạy họ tu pháp môn này, thời họ dễ phát tín tâm, và khuyên người phát lời đại nguyện dùng rộng truyền pháp niệm Phật để chuộc tội đời trước, mong cầu lành mạnh ắt toại sở

 

nguyện. Hoặc tuổi trời đã hết, cũng khá nhờ nguyên lực đây mau sinh Tịnh độ. Cứ thường như vậy dạy người, chẳng những thân sau hóa sinh phẩm thượng mà hiện đời ai cũng tôn thờ và kính trọng, phước báu vô biên, kịp đến đời con cháu nữa vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN TĂNG

 

Tăng già, phải tự nghĩ rằng Ta là người xuất gia, liễu đạt sinh tử, mới phải là việc bổn phận, chẳng đặng như thế, bèn sa chân theo trần tục, một mai đại hạn tới rồi, biết lấy chi nương cậy. Tuy ngày bình nhật có làm việc lành, cũng không khỏi đi trong cảnh luân hồi, lúc thiện nghiệp hết rồi, lại phải đọa xa, chi bằng sớm tu Tịnh độ, mau khỏi luân hồi, diện kiến Phật A Di Đà, mới là xong việc của người xuất gia, như ngài Vĩnh Minh Thọ Thiền sư, ngài Trường Lô Trách Thiền sư, ngài Vạn Niên Nhất Thiền sư, đều tu pháp này. Lại đem pháp niệm này dạy người, và khiến người thay nhau khuyến hóa, ta đâu chẳng bắt chước các ngài ư ?

 

Vả lại cố gìn giữ tham cầu làm chi những vật vô thường giả hiệp quanh ta, khi chính ta đây cũng vô thường giả hiệp. Cố nắm bắt làm chi cái có không ấy, trong lúc chính ta đây cũng không có rồi. Đã suy nghiệm như thế

 

nên bao giờ cũng cố tâm diệt trừ dục vọng cố tập tánh thản nhiên, trước những sự còn, mất, có, không. Đây là một điều chúng ta cần phải suy nghĩ

 

kỹ.

 

 

 

Phàm thọ người ta một đồng tiền, hộ ta một bữa ăn, ta đều sẽ vì kia mà giảng nói pháp môn Tịnh độ này, để đáp bù ân đức kia. Dù kia không tin, cũng khiến cho họ biết, lỗ tai quen lần lâu rồi tự tin hay là tin liền, lợi ích biết mấy, thường khuyên hóa người như thế, hiện đời được người kính nể, thiện duyên ta càng thêm thuần thục.

 

Lại hay chuyên tâm quán tưởng, quyết chẳng bao lâu thấy được chân thân của Phật, mãn tận báo thân này, sau chắc sinh lên phẩm thượng đồng bậc Bồ Tát bất thối chuyển vậy.

 

Nên lời cổ ngữ có câu Thử thân bất hướng kim sinh độ. Cảnh hướng hà thời độ thử thân. Nghĩa là Thân đời này chẳng liền độ nó ngay trong đời này, lại đợi đến đời nào mới là độ nó ? Thường để ý niệm đây, chớ nên trễ

 

nãi vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN THAM THIỀN GIẢ

 

Trang tham thiền đại ngộ, mau thoát sinh tử luân hồi, vốn là bậc thượng, song người được như thế trong số trăm người không đặng hai ba. Chi bằng tu Tây phương chóng khỏi luân hồi, mà đường sinh tử tự như, muôn người chẳng mất một.

 

Hôm nay tôi (Vương Nhựt Hưu) muốn khuyên các Tăng già, những người bậc thượng căn lợi khí, ngoài giờ tham thiền, mỗi ngày trong giờ phút rảnh tu Tây phương.

 

Hoặc tham thiền đại ngộ, liền mau khỏi luân hồi, còn cách Phật rất xa, chi bằng về Tây phương ra mắt đức Phật A Di Đà thi lễ rất kỉnh, có chi không đặng ?

 

Nếu người chưa đặng đại ngộ, mà thọ số rủi hết, cũng mau sinh Tây phương thấy Phật nghe pháp, lo gì không được đại ngộ! Vậy, nếu không tu Tây phương, quyết không khỏi theo nghiệp duyên mà đi vậy. Dù như ông Thanh Thảo Đường, ông Giới Thiền sư, và ông Chân Như Kiết, đều trầm ngập trong cảnh luân hồi, thật khá đáng thương, mà cũng thiệt đáng sợ (tích này trong quyển bảy có nói).

 

 

 

Vậy lời nói để hình dung mô tả sự thật mà thôi. Muốn thấy sự thật phải sống với nó, phải hành sự thật, phải thể nhập với sự thật. Chỉ khi ấy lòng tin mới đủ điều kiện của nó và mới mạnh mẽ đúng đắn được.

 

Nếu quý ngài không khinh pháp môn này, một lòng tu tấn, và đem truyền dạy người, lại khiến người thay nhau khuyến hóa, người tưởng mình là một ông danh Tăng, ắt ưa nghe theo lời nói của mình, thời mình được sự

 

lợi ích vô cùng tận, lẽ dĩ nhiên ta được sinh lên phẩm thượng, bậc thượng vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN PHÚ GIẢ

 

Người bậc phú giả phải tự biết rằng Ta đời này được giàu có, đều do đời trước có gieo trồng thiện căn.

 

Ví như lúa ta ăn trong năm này, đều là thứ giống mạ ta đã cấy trồng ở

 

năm ngoái. Song áo cơm tài lộc của nhân sinh, chốn âm ti (cân nhân quả) đều có số nhất định. Chậm rãi làm ăn, như số ta đáng có tự nhiên nó đến.

 

Song bổng lộc nó đến, tuy là chậm chậm đến, nhưng nó được lâu dài. Ví như, nước chảy ít, thì thời lâu hết vậy.

 

Bằng chóng gấp tham cầu, thì cũng chỉ chừng số ấy. Nếu ngoài số ấy mà đặng (đặng của hoạnh tài) thời họa sinh mà chết như nước đầy quá, lẽ phải ngập tràn vậy.

 

Cho nên phải tùy phận làm ăn nuôi sống, đừng quá tham tràn, và bớt chút ít giúp người, để phòng sự tràn ngập. Được như thế, chẳng những khá dùng hưởng phước đương đời được yên ổn, mà lại bố thí, để trồng phước qua đời vị lai.

 

Nhưng phải nghĩ tưởng, phước thế gian cũng có ngày hết. Nếu dùng tâm hồi hướng Tây phương thời phước không cùng tận.

 

Đã bao nhiêu lần kết quả của bao nhiêu kinh nghiệm đã trượt khỏi bàn tay và khi cái mà người ta tưởng đã nắm được, ấy chính là lúc chúng tiêu tan mất.

 

Huống chi sự giàu có của thế gian, cũng không đặng mỗi món vừa lòng.

 

Duy có để tâm Tây phương, thời tự có chỗ khá an lạc. Lại thay nhau ấn thí văn tự Tây phương để rộng khuyên người và khiến thay nhau giáo hóa, thời đây tức gieo trồng cội phước vô cùng tận, được vậy, đương đời có thể khá dùng tiêu tai khỏi nạn, quỷ thần cung kỉnh mà ủng hộ cho. Thân đời sau, ắt sinh lên phẩm thượng bậc thượng vậy.

 

---o0o---

 

KHUYÊN THAM LẪN GIẢ

 

Người đặng của ba ngàn, mà chưa lấy làm nhiều là tham vậy. Mới chi phí vài ngàn mà cho là nhiều, ấy là tiếc vậy. Cái tội tham tiếc, ai cũng có, nhưng ít người tự biết. Nếu người nào bỏ được tánh cách đây, mới kêu là ông Hiền giả.

 

Nào, chúng ta thử xét trước kia lòng ta tham lam, giận dữ, kiêu mạn, nghi ngờ nó ép bức, khuấy rối, sai khiến, thúc giục, làm cõi lòng chúng ta phải làm tôi để chịu kiếp kiếp đọa đày, phong ba bão tố táp làm tan nát lòng người, giọt lệ máu đào nhuộm đầy cả vũ trụ.

 

Nay ta trông thấy cảnh đau thương của cả nhân loại, nó sát cánh với ta quá đi, ta giựt mình tỉnh giấc mộng lớn, thì lòng ta có vui chi, thiết chi những cái sương mai bọt nước.

 

Những nỗi đau khổ của kiếp người, nếu không phải là của tất cả, thì một phần lớn đều do sự mê mờ. Nếu kịp nghĩ thế thì thiện nghiệp Không lành nào mà chẳng làm. Ác nghiệp Không cái dữ nào mà chẳng răn dứt. Vì sao ? Bởi không tiếc của là thiện nhân, bằng có tham của thì là ác nhân vậy. Nếu như vậy mà tu Tịnh độ quyết chẳng sinh ở phẩm hạ vậy. Lại hay đem pháp này dạy người và khiến người lần hồi truyền rộng ra, thời người thấy mình không có tâm tham tiếc thế tất họ phải tôn kính, và ưa nghe theo lời thiện ngôn của mình đó là pháp!

 

Nhất đăng truyền vạn đăng (một ngọn đèn mồi ra trăm vạn ngọn).

 

Thời vãng sinh bậc thượng phẩm ta còn nghi chi nữa ? Phước báu đương đời cũng khá mau thấy được vậy, nên nói Phước báu giả bất khả dĩ ngôn tận, hành giả đương tự tri chi. Nghĩa là Phước báu ấy, chẳng khá dùng nói cho hết, người tu phải tự biết đó.

 

---o0o---

 

KHUYẾN HIẾU TƯ

 

Ngài Trường Lô Trách Thiền sư, làm bài văn Khuyến Hiếu, một trăm hai mươi bài Một trăm bài trước, nói về sự hiếu dưỡng cha mẹ, món ngon ngọt là cái hiếu của thế gian. Hai mươi bài sau là nói về cái hiếu khuyên cha mẹ tu Pháp môn Tịnh độ, là cái hiếu của người xuất thế gian.

 

Luận rằng Cái hiếu thế gian, chỉ có một đời trong khi cha mẹ còn sinh tiền mà thôi, cũng là cái hiếu rất nhỏ vậy.

 

Còn cái hiếu xuất thế gian, là cái hiếu vô cùng tận. Vì sao ? Nếu cha mẹ

 

được sinh về Tịnh độ, hưởng sự phước thọ như hà sa số kiếp, thì có cái chi hơn cái hiếu này vậy.

 

Có người báo ân cha mẹ bằng cách an hưởng thú vui vật chất, có người làm cho cha mẹ vui hưởng về tinh thần, hoặc hưởng cái vui chốc lát, vui lâu dài, vui đậm đà đầm ấm, và vui siêu thoát v.v… Ấy, đàng nào cũng gọi là hiếu, đàng nào cũng tìm cách đem lại sự an vui cho cha mẹ.

 

Nhưng xét cho thấu đáo, thì chỉ có cái vui siêu thoát mới đem lại cho cha mẹ sự an vui đời đời, mới thật hoàn toàn đạt được sự báo hiếu mà thôi.

 

Cha mẹ còn, mà không đem pháp môn này khuyên gắng ngày kia luống uổng dầu làm việc hậu lễ, cũng nào có ích chi!

 

Nếu đem pháp này dạy người, bảo người thay nhau khuyến hóa, lấy công đức đây giúp cha mẹ được phước thọ thêm thiện báo cho cha mẹ nữa.

 

Phật không ngăn nguyện chúng sinh, ý đây ắt khá toại vậy. Trong văn Thượng phẩm Thượng sinh nói Người mà được lên bậc thượng phẩm thượng sinh, là cái nhân hiếu dưỡng cha mẹ trước nhất. Tôi (Vương Nhựt Hưu) để tâm suy nghiệm theo đây, làm bài văn nói về sự hiếu dưỡng, phẩm đệ vãng sinh, khá thấy vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN CỐT NHỤC N ÁI

 

Nghĩa cốt nhục, tình ân ái, phải tự nghĩ rằng Đức Đại Từ Bồ Tát có làm bài kệ nói Cốt nhục ân tình yêu nhau, ít mong tuổi thọ đến bạc đầu, những trang cường tráng bao nhiêu chết, lại có lúc khờ mạng chẳng lâu, rủ nhau niệm Phật A Di Đà sen vàng ao báu nở hoa, bà con tụ hội một nhà, vạn kiếp thượng sinh khoái lạc.

 

 

 

Chẳng đặng như thế, luống sắm áo tốt, cho rực rỡ thân mình. Món ăn ngon, cho đẹp miệng mình, một mai thân tình ly tán, rốt cuộc rồi không nơi nhờ cậy.

 

Huống chi trong khoảng từ sinh đến tử, sự sống chung đụng người với người hằng ngày trong gia đình, giữa xã hội, sợi giây ân ái cột trói người này qua người khác, ân ái chừng nào sự chia ly càng đau khổ chừng ấy, và càng oán thù chừng nào mà phải gặp gỡ lại càng bực bội thêm chừng ấy.

 

Lại còn làm người hy vọng quá nhiều. Đến khi thất vọng thì nỗi khổ lại càng tăng. Cái luật vô thường sớm còn tối mất, mới trắng răng phút đã bạc đầu. Cho nên lúc sinh tiền, phải khuyên nhau niệm Phật.

 

Nếu lại đem pháp môn niệm Phật đây dạy người, bảo người thay nhau khuyến hóa. Thế, chẳng những khiến cốt nhục của mình có ái ân vô cùng, mà cũng khiến cốt nhục người khác có ân ái vô tận.

 

Thì phước báu ta đâu có cùng tận ? Chắc sinh lên phẩm thượng bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN PHỤ NHN

 

Các người phụ nhân, phải nghĩ rằng Đức Phật, là đấng chí tôn Vô thượng giác, biết cùng tột nghiệp tánh chúng sinh chỉ một lòng từ bi vô lượng muốn làm sao đem chúng sinh ra khỏi bể luân hồi, trở về đường sáng suốt.

 

Cứ theo lời Phật dạy Người phụ nữ do tâm dục nặng nhiều, nên mới chịu sinh làm tấm thân người phụ nữ. Ấy đã là không phải thiện nghiệp, nếu không tự xét mình, còn thêm tâm tật đố, tâm tham dục, nghiệp duyên càng sâu quả báo khá ghê sợ.

 

Loài người đã tạo ra vô lượng vô biên khổ não, gây ra sát hại, trộm cắp, dâm dật, nói láo, phóng đãng, lường gạt v.v… quả khổ của thân này chịu chưa vừa, lại gây thêm nhân lầm lạc cho thân khác, thành thử quả gây nhân, nhân cảm quả, xoay vần vay trả đời đời kiếp kiếp không bao giờ thôi.

 

Nếu hay hồi tâm sám hối, cải đổi niệm xằng (quấy) lòng nhân từ tha thứ

 

cho kẻ tỳ thiếp, ôn hòa lễ nhượng dưới trên và thường niệm Phật A Di Đà phát nguyện rằng Nguyện cho hắc nghiệp (nghiệp ác) càng ngày tiêu tan, bạch nghiệp (nghiệp lành) mỗi ngày thêm lớn, hiện đời trong sạch, thân tâm nhẹ nhàng. Đời này hết rồi, hằng chẳng còn chịu quả làm thân người nữ nữa.

 

Mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, chắc sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp này giáo hóa, từ kẻ tỳ thiếp đến nội nhà, cả trong tôn tộc bà con, thời phước báu vô cùng, ắt sinh lên bậc thượng phẩm. Xem trong truyện bà Kinh Vương phu nhân khá thấy vậy. (Tích này ở quyển thứ 5)

 

---o0o---

 

KHUYẾN BỘC THIẾP

 

Người làm kẻ bộc thiếp (tôi tớ), phải nghĩ rằng Đời trước ta không tu trồng cội phước, nên đời này phải chịu làm kẻ bần tiện, người hưởng sự an vui, ta chịu cần lao, người ăn vị ngon, ta ăn hẩm hút, người mặc đồ nhẹ

 

nhuyễn, ta mặc áo xấu thô. Ấy đều là bởi nghiệp duyên đời trước, việc đó đã qua rồi dù có ăn năn cũng không đặng.

 

Bởi nghiệp báo của mình tuân theo luật nhân duyên nhân quả, tất đều phát sinh hiển hiện, tiếp nối theo những tiền nhân. Và những tiền nhân ấy đã cấu tạo thành hiện quả mà mình đang cảm nhận hay thọ lãnh.

 

Vậy bây giờ, bắt đầu từ đây về sau, ta phải gieo niệm thiện cải ác, cải quá, trung trực cần cẩn, hết lòng phụng sự chủ nhân, để bảo thủ thân này, và gắng trồng cội phước về sau, thường niệm Phật A Di Đà, niệm hoài không dứt, tâm niệm thuần thục, tự nhiên sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Lại đem pháp này truyền dạy cho bạn đồng nghiệp, và bảo thay nhau khuyến hóa, thời phước báu vô cùng, ta ắt được sinh về phẩm thượng bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN NÔNG GIẢ

 

Người làm nghề nông, phải tự nghĩ rằng Nghề nông này tuy là việc căn bản, song việc cày ruộng cuốc đất chi cho khỏi sát hại các loài vật mạng vi tế cũng chẳng phải ít.

 

Việc đây, tuy không biết làm sao được, không lẽ không làm lấy cơm đâu mà ăn ?

 

 

 

Như thế nghĩa là trong thực tế, ta không thể phân chia một cách đúng đắn loài hữu tình và loài vô tình, chúng ta chỉ phân chia một cách độc đoán ở trong trí não mà thôi. Trí não là một lưỡi dao rất sắc bén, đã cắt đứt sự tương liên, tương tục của Nhân và Vật.

 

Nhưng trí não phải độc đoán như thế mới có thể giải quyết mọi vấn đề

 

phiền phức của sự sống.

 

Vậy nếu hay tránh né toàn bộ, và sám hối tội trước thường niệm Phật A Di Đà, phát lời đại nguyện rằng Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, trước độ tất cả những chúng sinh vi tế mà ta đã lỡ lầm sát hại, từ khi cày trồng đến nay, kế đến độ tất cả những kẻ oan người thân, đều đặng giải thoát, đều đặng sinh về Tịnh độ. Thường niệm như thế, khiến cho mỗi niệm đừng quên, niệm tự thuần thục, quyết định sinh lên thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp môn này truyền dạy người khác khiến người khác khuyến hóa rộng ra, thời đương đời đặng phước và thân sau ắt đặng sinh về phẩm bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN DƯỠNG TẰM GIẢ

 

Những kẻ dưỡng tằm phải tự nghĩ rằng Nuôi tằm kéo tơ, để làm áo cho người mặc, việc này vốn là lý thường của thế gian song cũng là một chuyện sát hại vật mạng.

 

Xứ Ấn Độ, người đời truyền nhau họ nói Việc làm tằm tơ, là do ngài Mã Minh khai sáng, song xét trong kinh tạng thì không có chuyện đó. Duy có thuyết Phật dạy các ông đệ tử Ngài đừng mặc áo bằng tằm tơ và dùng da trâu bò làm giầy dép, vì các thứ ấy, cũng là sát vật mạng mới có.

 

Bởi loài người đối với loài vật, thường có sự tự cao vô lý, sự tự cao ấy xui sử người ta bất công, mà khi đã sẵn trong lòng một mối bất công, thì trong lúc đối đãi, không những với loài vật mà ngay người với người, cũng khó mà bình đẳng được. Trước sự sống mọi sinh vật đều như nhau, con kiến, con bọ cũng có quyền được sống như loài người, thì loài người không thể

 

viện lý gì để gom góp sự sống riêng cho mình.

 

Người đã dùng nuôi tằm làm nghề đâu khá chẳng biết sợ tội, phải thường sám hồi, thường niệm Phật A Di Đà phát lời đại nguyện rằng Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả tằm mạng mà ta đã lỡ

 

lầm, sát hại từ ngày ta nuôi tằm tơ tới nay đồng sinh về Cực Lạc. Khiến mỗi niệm mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, cũng sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp môn này truyền dạy người khác khiến người khác thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời ắt đặng phước báu, thân đời sau được sinh lên phẩm trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN THƯƠNG CỔ

 

Người làm việc thương cổ (buôn bán) phải tự nghĩ rằng Một đời bình sinh ta đứng ra buôn bán, chi cho khỏi dối trá chút đỉnh. Nếu là một cây lụa cũng đều là do mạng con tằm mới có, không nên cượng nói rằng mình không tội lỗi, một ngày mạng tận phải theo nghiệp duyên mà đi. Chẳng bằng sám hối rồi đổi qua làm nghề khác hay hơn, tùy phận làm ăn nuôi sống.

 

Mạng mình nếu nhiều của tự nhiên lần có, mạng mình nếu của ít, dù đặng nhiều cũng thất sinh tai này họa khác. Huống chi đời người tai số có phần gấp cầu mà, rủi số mãn, thời phải chết sớm. Cầu hưởng mà của đến chậm mới đặng lâu dài.

 

Nên biết, ta thông minh có một tâm hồn, nhưng ta lại bắt buộc sự thông minh và tâm hồn ấy phải hạ thấp sống ngang hàng với vật chất phải phụ

 

thuộc vật chất, không hiểu rằng Vật chất không phải là sự sống, mà chỉ là cái dùng để nương tựa, sự sống chưa hoàn mỹ. Vậy hình tướng dầu sai khác, tinh thần vẫn một thể, hơn nữa phải noi theo giáo lý Đức Phật mà hoán cải đời sống tươi sáng hơn, phải lấy đây để lòng, thường niệm Phật A Di Đà nguyện sau khi ta đắc đạo thấy Phật rồi, trước độ tất cả những người giao thiệp với ta. Kế độ kẻ oan người thân và sau độ tất cả chúng sinh có duyên cùng không duyên đồng sinh về Cực Lạc thế giới. Như vậy, mỗi niệm nỗi niệm nối luôn, niệm tự thuần thục, ắt sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp này truyền dạy người làm, bảo người khuyên hóa rộng ra, thời hiện đời đặng phước, thân sau sinh lên phẩm thượng của bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

 

 

KHUYẾN CÔNG TƯỢNG

 

Làm người công tượng (thợ) phải tự nghĩ rằng Ta làm người thợ, hoặc vì người cất nhà cửa hoặc vì người làm đồ dùng.

 

Đây tuy là thiện nghiệp, bởi đời trước ta chẳng tu phước, nên đời này tự

 

không được giàu có, cả đời cứ lo cất nhà, mà bao giờ cũng cất nhà cho người khác ở, còn mình thì chui đụt chòi nhà tranh lá rách dột. Cả đời cứ lo làm đồ

 

dùng, mà bao giờ cũng làm đồ dùng cho ai đâu, chớ phần mình không có cái bàn để uống nước v.v…

 

Nếu không như vậy, áo cơm thiếu thốn, phải tùy phận làm lành, khi vì người cất nhà cửa, tài vật chớ quá mong, việc làm cho hết lòng.

 

Đây cũng là trồng ruộng phước, thường niệm Phật A Di Đà khi cầm búa đẽo cây, cũng một lòng niệm Phật, khiến mỗi niệm không thôi, niệm tự

 

thuần thục, quyết định sinh về Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp niệm này dạy người, và khiến người rộng khuyến hóa, thời hiện đời đặng phước, thân đời sau ắt sinh lên phẩm thượng bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN ĐA ĐỒN KIỂN

 

Người nhiều việc đồn kiển (cắn đắn), chớ oán trời, chớ trách người, đều là nghiệp duyên đời trước của mình gây tạo. Nếu thấy người hoan hỷ, thời đặng báo hoan hỷ, đời trước não hại người nay mắc báo người não hại, trước làm việc lợi ích, nay đặng báo mọi điều như ý. Cho đến trước cản trở người, nay mắc báo bị người cản trở, món món cũng đều do sự làm của mình đời trước tất cả, như bóng theo hình vang theo tiếng dội. Và như hôm nay ta mang nhiều việc cắn đắn đây, chính đời trước ta gây cái nhân bất thiện, không làm phước nghiệp.

 

Quanh ta mọi vật tương tục chảy trôi như thác đổ mà ta cũng là dòng suối không bao giờ dừng. Cái khổ của người đời đã để dòng suối đời mình chảy ngược lại với dòng thác đổ của sự vật, và cuối cùng cũng không làm sao cưỡng lại ngọn thác cuốn phăng đi.

 

 

 

Thôi đã qua rồi biết làm sao, và có ăn năn cũng chẳng đặng. Vậy thì bây giờ và từ đây về sau ta cần sám hối, thường niệm Phật A Di Đà, chẳng những khá dùng tiêu trừ chướng trước, mà lại còn có thể tăng trưởng thiện duyên, đời sau sinh lên thế giới Cực Lạc, không còn có việc cắn đắn nữa vậy. Đừng nói đời sau đâu xa, chỉ ngay trong khi nhắm mắt tức là đó.

 

Nếu đem pháp này dạy người, và bảo người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời đặng phước, thân sau cũng quyết chắc sinh lên phẩm thượng của bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN CỐT NHỤC OÁN TẮNG

 

Kẻ cốt nhục oán tắng, phải tự nghĩ rằng Ta do đời trước có làm ác nghiệp nên mắc báo như thế này. Hoặc sát mạng người, hoặc thiếu nợ người, hoặc tổn hại người. Nếu làm duyên lành, ắt chẳng đến nỗi như đây.

 

Dù sao hiểu được căn nguyên của bệnh đã là một chuyện quý, sự khổ

 

vui, dầu là kết quả tiếp nối theo tiền thân, con người bị ràng buộc khổ sở, một phần nhỏ bởi ngoại cảnh, phần lớn tại nội tâm.

 

Cái ngục thất giam hãm còn rộng rãi hơn ngục thất tối tăm của cái ta ích kỷ.

 

Khi mà cái ta không còn nữa, thì dục vọng cũng không biết vào đâu để

 

đòi hỏi. Mà ích kỷ cũng không còn thấy có cái kỷ, để mà làm ích riêng.

 

Chừng ấy người và mình sẽ giao hòa trong biển sóng mênh mông không bờ

 

lũy, không ngăn ngại.

 

Bởi tâm chúng ta bao giờ cũng quen suy nghĩ những việc quấy hơn việc phải, nghĩ dữ nhiều hơn nghĩ lành. Nếu hay giác ngộ sám hối nghiệp đời trước, tủi mình mà lại trách lấy mình, chẳng còn cùng người làm ác, thường niệm Phật A Di Đà. Đều là các người thượng thiện, không còn có khổ ấy vậy.

 

Nếu biết đem pháp này truyền dạy người khác rồi bảo người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời khá đặng phước báu, hậu thân ắt sinh phẩm thượng bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

 

 

KHUYẾN NGƯ GIẢ

 

Ngư giả (người chài lưới) phải tự nghĩ rằng Cá sinh trong nước, không hại chi nơi người. Ta bèn lập xảo kế bắt nó toan đem mua bán, để nuôi mạng sống ta. Bằng ta để tâm thử nghĩ Cá ở trong nước nó cũng có bà con của nó, trong bụng nhiều con, mỗi con đều có tánh mạng ta bèn sát hại, tội kia vô lượng. Nếu hay cải nghiệp (đổi nghề) ấy là bậc thượng vậy, bằng chưa hay vội bỏ. Vả đừng sát mạng loài cá nhỏ và các thứ ốc, sò, chình, lươn, những vật khó chết ấy.

 

Bởi tất cả chúng sinh đều do nhân duyên tạo thành, mà loài người tuy ở

 

một từng bậc cân đối, tế nhị hơn loài súc vật. Nhưng cũng vẫn thuộc từng ấy nguyên liệu, vâng theo từng ấy luật nhân quả nhân duyên, cho nên chỗ

 

chung cùng thì không có những cái riêng biệt.

 

Vậy nên thường niệm Phật A Di Đà, sám hối và phát lời đại nguyện rằng Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả những vật mạng bị ta sát, từ trước đến giờ đều sinh Tịnh độ, niệm niệm không dứt, niệm tự thuần thục cũng được sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp này dạy người, và khiến người truyền bá rộng ra, thời hiện đời, cũng có thể trừ tai đặng phước, thân hậu cũng chẳng ở phẩm hạ của bậc hạ vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN VÕNG PHI CẦM GIẢ

 

Người làm nghề võng phi cầm (rập chim) phải tự nghĩ rằng Loài chim bay trong rừng, ngoài đồng nội, giữa hư không, không hại chi đến người, ta tham ăn thịt, hay sinh nhiều chước khéo để bắt. Ta tiếc mạng ta, nó cũng thương mạng nó, ta thương bà con ta, nó cũng có con của nó.

 

Nếu hay cải nghiệp (đổi nghề) ấy là người bậc thượng, bằng chưa bỏ

 

liền đặng, thì đừng sát mạng của loài nhỏ và những giống có ấp trứng. Vả

 

một khi loài người chưa hiểu nỗi đau khổ của đồng loại, của tất cả chúng sinh. Là, hay sẽ là, nỗi đau khổ của chính mình, thì người ấy còn nông nổi và ích kỷ.

 

Và nếu ta đã biết giác ngộ rằng Cái Tâm rất bình đẳng, phổ biến chung cùng như nước đại dương, thì lẽ não lại còn đi làm việc trái đạo ?

 

 

 

Vậy nên thường niệm Phật A Di Đà sám hối phát lời đại nguyện rằng Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả vật mạng bị ta sát hại từ trước đến giờ, đồng sinh về Tịnh độ, niệm niệm không ngớt, niệm tự

 

thuần thục, cũng sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem truyền dạy người đời, và bảo người lần lượt khuyến hóa rộng ra, hiện đời cũng có thể trừ tai hết tội, thân hậu cũng chẳng mất phần sinh về

 

phẩm hạ của bậc hạ (du thắng thiên cung).

 

---o0o---

 

KHUYẾN TRÙ TỬ GIẢ

 

Người đứng ra làm vị trù tử (bồi bếp) phải tự nghĩ rằng Đời trước của ta không tu phước nghiệp, nên đời giờ phải chịu cái bần khổn và khi chưng, ram, bằm, xắt thịt chúng sinh. Tuy chẳng phải chính tự mình sát song cũng đồng mang một cái trọng tội, chớ chẳng phải không. Nếu hay đổi nghiệp vốn là bậc thượng, bằng không bỏ liền đặng, dè chớ chặt giết loài đang sống.

 

Thường niệm Phật A Di Đà, sám hối làm việc thiện, phát lời đại nguyện rằng Nguyện sau khi ta tu đắc đạo rồi, độ hết tất cả những vật mạng bị sát hại từ trước đến giờ và bao nhiêu chúng sinh đã bị ta bằm xắt, đều sinh về

 

Tịnh độ một nhà, niệm niệm mãi không thôi, niệm tự thuần thục, cũng sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp này truyền dạy người khiến người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời khá trừ tai diệt tội, thân hậu cũng chẳng mất phần sinh ở phẩm hạ của bậc hạ (du thắng thiên cung vậy).

 

---o0o---

 

KHUYẾN TÁC PHƯỚC GIẢ

 

Các việc làm phước thiện dầu là tốt cả, song cái phước thế gian có khi hưởng hết, rốt cuộc không ra khỏi luân hồi, chẳng bằng đem pháp này hướng về cõi Tây phương, thời chóng khỏi luân hồi, phước báu này đâu có hết ư!

 

Ta (Vương Nhựt Hưu) vì thế, nên quyển này, hiệu là quyển Khuyến dụ, như

 

trước đã nói Vốn người không biết chữ, toàn nhờ người làm phước, lấy tâm Bồ Tát làm tâm mình, vì người cắt nghĩa cho họ biết như tối đặng đèn, như

 

lạc gặp đường, lấy pháp môn này rộng làm việc bố thí. Khiến ai ai cũng biết, ai ai cũng đều được thoát ly luân hồi, thời phước báu muôn muôn kiếp bất tận, nơi thế giới Cực Lạc, ắt sinh vào phẩm thượng, đâu phải phước báu thế

 

gian cho hay sánh kịp.

 

---o0o---

 

KHUYẾN TỤNG KINH NHN

 

Phàm người tụng kinh, hay là người giữ trai giới vốn là thiện nghiệp.

 

Đời sau ắt hưởng phước báu không còn nghi vậy. Song phước này có khi phải hết, chẳng hay thoát khỏi luân hồi, chi bằng tu pháp niệm Phật cầu về

 

Tây phương, tức là khỏi ngoài vòng luân hồi. Chính người tội ác mà tu, còn được vãng sinh. Huống người trì trai tụng kinh, sinh lên bậc thượng phẩm chắc vậy.

 

Tuy vậy nhưng tu một mình mình, công đức rất nhỏ, không bằng khuyên người tu mới gọi là đại công.

 

Nếu đem pháp tu này truyền dạy và khuyên người thay nhau truyền dạy rộng ra, thời người kính mình trì trai tụng kinh, ắt tin trọng lời nói của mình mà làm theo thời công càng lớn, phước càng nhiều. Hiện đời ai cũng quy y, cung kính, thân sau phước đức đâu có hết ư!

 

---o0o---

 

KHUYẾN QUỚI NHN

 

Kẻ quới nhân, phải tự nghĩ rằng Tuy mọi việc đều như ý, mọi việc đều được khoái lạc. Song ngày giờ mau chóng thân mộng ảo khó bảo tồn. Từ

 

xưa đến nay, những bậc cực quý có ai còn đâu, chẳng bằng trong khi gấp rút nhín chút thì giờ, mỗi ngày tu pháp niệm Tây phương, thời hiện đợi khá tiêu tai bớt nghiệp, thân sau gá sinh trong hoa sen, bằng không khổ thú, thường hưởng khoái lạc, đâu chẳng tốt ư ?

 

Như triều nhà Tống ông Văn Hộ Công, ở đất Kinh sư cùng với ngài Tịnh Nghiêm Thiền sư kết duyên với mười muôn người đồng tu Tịnh độ. Ông Vương Mẫn Trọng, ông Dương Thứ Công, ông Các Trọng Thần, ông Mã Đồng Vương, ông Phùng Tế Xuyên đều là người quới nhân, mà tu Tịnh độ

 

khá chẳng nhớ sao ?

 

Nếu phát tâm Đại thừa của Bồ Tát, đem pháp này dạy người và bảo người thay nhau khuyến hóa thời người kính mình là bậc quới nhân, đều tín trọng lời nói của mình, thời pháp môn của ta dạy đây, khá dùng rộng truyền, thời đặng phước báu đâu dễ lường ư! Thân sau ắt sinh bậc thượng phẩm.

 

Nếu ngấm ngầm để qua ngày, không biết tu pháp này một ngày kia có ăn năn cũng chẳng khá kịp vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN ĐẠI THÔNG MINH NHN

 

Người đại thông minh, rộng học nhớ dai, thốt lời thành văn, xuống bút thành bài, vốn là người đời chỗ tôn kính. Song đối với trong phần chân tánh của ta, dường như không ăn thua chi cả, ông Trang Tử nói Những việc ta thấy chẳng phải thiệt ta thấy, chính người kia tự thấy mà thôi. Những việc ta nghe, chẳng phải thiệt ta nghe, chính người khác tự nghe mà thôi.

 

Ta không thấy người tự thấy, ta không nghe người tự nghe, ấy là đặng chỗ đặng của người, chẳng phải đặng chỗ đặng của mình. Thích cái thích của người, chẳng phải thích chỗ thích của mình vậy.

 

Một mai bỏ đi rồi, mới biết một đời bình sinh của ta, sở dĩ lưu ý ấy, không ích chi cho ta. Tuy sự nghiệp thông minh không thể bỏ đặng, nhưng phải mỗi ngày thừa trong lúc rảnh rang, để tâm về pháp Tịnh độ. Nếu người hiểu thấu lý này, thì ác duyên tự nhiên lần bớt, thiện duyên tự chứa thêm nhiều, lúc sinh tiền đây mình đã có chỗ khá vui.

 

Bằng đem pháp niệm đây dạy người, bảo người thay nhau khuyến hóa, thời họ kính mình là bậc thông minh hơn, người cũng tin theo lý đây, ắt họ

 

nói lý niệm đây không khá nghĩ nữa. Thời các thuyết Tịnh độ khá dùng thạnh truyền nơi đời càng lâu. Đây cũng là ông Bồ Tát phò trì giáo môn này vậy. Ngày kia ắt sinh lên bậc thượng phẩm chỗ đặng phước báu đâu dễ gì lường được.

 

---o0o---

 

KHUYẾN MẠI TỬU GIẢ

 

Người mại tửu (bán rượu) phải tự nghĩ rằng Năm giống lúa, vốn để nuôi người, nay đem đâm nát đặt rượu, khiến người uống say, làm những việc bất thiện, tội đó về ai ?

 

 

 

Thường phải tự sám hối, niệm Phật A Di Đà phát lời đại nguyện rằng Nguyện ta từ khi bán rượu trở lại đây, tất cả những tội phá hoại năm giống lúa, thảy đều tiêu dứt, sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, đều độ hết chỗ dùng năm giống lúa đặt rượu, khi trồng gieo năm giống lúa, tất cả chỗ sát hại, loài vi tế chúng sinh và tất cả chúng sinh ra sức cày cấy và tất cả những người uống rượu bị say, phá làng xóm, chửi bới thiên hạ, đều sinh về Tịnh độ.

 

Như vậy mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục quyết định sinh về thế

 

giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp môn này dạy người bảo người thay nhau khuyến hóa, hiện đời khá dùng diệt tội mà thêm phước, đời sau ắt sinh về phẩm trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN KHAI THỰC ĐIẾM GIẢ

 

Người lập thực điếm (tiệm cơm) phải tự nghĩ rằng Ta dùng thịt các chúng sinh, bằm xắt, nấu, nướng, cầu lợi nuôi sống, ta có bà con, muốn an ổn khoái lạc, nghề làm ăn của ta, chính do sát các loài mà đặng, rất là ác nghiệp. Nếu thay đổi nghiệp ấy là bậc thượng bằng chưa đổi liền được, vả

 

bỏ bớt sự sát hại loài lươn, cá trễ, cua rạm, ốc, sò v.v…

 

Những vật đó khó chết, và bao nhiêu vật mạng vi tế, tùy phần dùng thịt, ấy là người bậc trung vậy. Nếu lại chưa được, thì cứ niệm Phật A Di Đà, còn khá hơn người không niệm.

 

Kế sám hối phát lời đại nguyện Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả chúng sinh bị ta sát hại từ đời trước đến đời sau và tất cả thịt chúng sinh chỗ ta cần dùng, đều được sinh về Tịnh độ, mỗi niệm không thôi, niệm tự thuần thục, cũng sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp môn này dạy người và bảo người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời khá tiêu diệt nghiệp tội, đời sau phước báo vô cùng.

 

KHUYẾN ĐỒ GIẢ

 

Người làm nghề đồ giả (hàng thịt) phải tự nghĩ rằng Người tham thịt kia, nên nuôi vật mạng. Ta tham lợi kia, nên giết vật mạng. Giết vật mạng kia nuôi dưỡng thân ta, nuôi sống bà con ta. Ta có bà con, muốn an vui không bệnh. Vật kia nó cũng có tánh mạng, nếu ta giết nó, thời mắc tội vô lượng.

 

Nếu hay dứt bỏ nghề hàng thịt, ấy là người bậc thượng vậy, bằng người nào chưa dứt bỏ được liền, vả cũng phải giảm bớt ấy là người bậc trung vậy.

 

Bằng lại chưa đổi nghiệp đặng, cũng thường niệm Phật A Di Đà còn khá hơn người không niệm.

 

Kế sám hối phát lời đại nguyện rằng Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả chúng sinh là đã bị ta sát hại, từ bao kiếp lại đây, đều được sinh về Tịnh độ. Như vậy mỗi niệm mỗi niệm không dứt, niệm tự

 

thuần thục, cũng đặng sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Bằng đem pháp này dạy người và bảo người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời khá tiêu trừ nghiệp ác, đời sau được phước báu vô cùng.

 

---o0o---

 

KHUYẾN TẠI PHONG TRẦN GIẢ

 

Người ở chốn phong trần (hoa nương) phải tự nghĩ rằng Ta làm người phụ nhân, đã là không phải thiện nghiệp rồi, huống chi ta lại ở chốn phong trần, nghiệp kia lại càng bất thiện nữa.

 

Nếu hay tỉnh ngộ được trừ dâm nghiệp, ấy là người bậc thượng vậy, bằng chưa đặng liền được, thì nên thường niệm Phật A Di Đà phát lời đại nguyện rằng Nguyện ta ác nghiệp này lần tiêu, thiện nghiệp mỗi ngày thêm lớn. Áo cơm vừa đủ, sớm bỏ nghề này. Sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ

 

hết tất cả người, nhân ta mà làm nghiệp dâm đều được sinh về Tịnh độ. Mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, quyết định sinh về thế giới Cực Lạc.

 

Nếu đem pháp niệm đây dạy người, và khuyên người thay nhau khuyến hóa, hiện đời ắt được tai trừ tội hết, thân đời sau cũng được phước báu vô cùng.

 

---o0o---

 

KHUYẾN TỘI ÁC NHN

 

Người có tội ác, phải tự nghĩ rằng Ta một đời bình sinh đã tạo nhiều tội ác. Một mai nhắm mắt lại rồi, thì biết làm sao cho đặng, chỉ bằng sớm lo sám hối niệm Phật A Di Đà, phát lời đại nguyện rằng Nguyện ta sau khi kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả những người mà bị ta sát hại từ bao kiếp lại đây đều được sinh về Tịnh độ. Mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, thời ác nghiệp cũng có thể bớt dần dần, thiện duyên càng thêm lớn, chắc sinh về

 

thế giới Cực Lạc.

 

Bằng hay đem pháp môn này dạy người và khiến người thay nhau khuyến hóa, chẳng những hiện đời khá dùng diệt tội, mà thân đời sau, cũng được phước báu vô cùng.

 

---o0o---

 

KHUYẾN BỆNH KHỔ GIẢ

 

Những người đời trước sát hại chúng sinh, nay mắc quả báo chết yểu, kẻ

 

thấy người sát vui mừng theo, mắc báo phiền não.

 

Như người bệnh khổ chính là dư báo sát sinh đời trước là chánh báo ăn thịt chúng sinh, cũng là chánh báo làm cho chúng sinh bị tổn hại. Quả báo thiện ác ở nơi người, như bóng theo hình không rời khỏi đặng. Cho nên người mắc bệnh khổ phải tự trách rằng Do ác duyên đời trước của ta, nên nay mắc báo như thế này.

 

Thường niệm Phật A Di Đà, phát lời đại nguyện không còn làm ác, không còn sát sinh, không còn làm tổn hại tất cả chúng sinh. Nguyện thân này sớm lìa bệnh khổ, sau khi kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả chúng sinh mà đã bị ta sát hại từ bao kiếp lại đây và tất cả kẻ oan người thân, cũng đều được sinh về Tịnh độ, mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, chắc sinh về

 

thế giới Cực Lạc.

 

Bằng đem pháp môn này dạy người và khuyên người thay nhau khuyến hóa. Khi làm công lực thiện báo tự đặng nhiều, thời bệnh khổ kia ắt lành mạnh, và thân đời sau cũng được phước báu vô cùng.

 

---o0o---

 

KHUYẾN TẬT ÁC DỤC VI THẦN GIẢ

 

Đời có người ganh ghét người ác kia. Nói người ác trong thế gian, sức ta không thể trị. Nguyện chết làm ông Thần để thống trị người kia, chớ ta không muốn sinh về Tây phương.

 

 

 

Xét trong kinh Phật nói Thần là một hạng còn ở trong lục đạo, còn là số

 

đọa lạc, còn cảnh Tây phương kia, chính là một cảnh đã siêu xuất lục đạo luân hồi.

 

Cho nên người tu Tây phương lấy tâm chính trực từ bi làm gốc, chỗ thấy làm đâu không phải là từ bi. Nếu người có gây tội ác, thời ta thương tâm ngu si kia, người có khốn khổ thời ta muốn cứu giúp kia, ấy là một sự không hệ

 

lụy đến ta, nhưng mà ta đối với tất cả chúng sinh, có duyên lành to lớn vậy.

 

Kẻ làm Thần kia, do tâm chính trực sân hận làm gốc, chỗ thấy cùng chỗ

 

làm, không đâu chẳng phải là sân hận. Nếu răn lỗi của người thời bắt người thêm tật bệnh, trị tội người, thời càng gia tâm nóng nảy. Ấy là có hại cho người mà đối với mình, thì chịu hưởng hết phước làm Thần.

 

Bởi tạo nghiệp sân hận, nên đọa trong địa ngục. Từ trong địa ngục ra, thời làm những loài mãng xà, bò cạp, không khi nào siêu thoát được vậy.

 

Xưa có hai ông thầy đồng tu hành một ông làm phước còn một ông ưa sân, ông thầy làm phước thường răn nhắc, mà ông sân kia chẳng nghe lời.

 

Sau ông hay sân ấy chết đi.

 

Còn ông răn nhắc một bữa quá giang ghe hành khách đi qua đất Giang Thượng, nơi cung đình ông Thần trong miếu kia rất linh hiển và nói tiếng người được. Khách lên bờ tế Thần. Thần bảo khách rằng Ông thầy đồng đi dưới ghe của nhà ngươi kia. Nên mời ông đến ra mắt ta. Ông thầy kia đến ra mắt, thì Thần mới nói rằng Ta là ông thầy đồng tu hành với ông, nhưng vì ta hay sân giận, nên nay bị đọa làm Thần ở miếu này.

 

Ông thầy kia muốn thấy hình Thần, nhưng mà Thần nép lánh không chịu, đến nỗi đôi ba phen ông thầy kia muốn thấy, túng thế Thần nọ mới bày một khúc hình rắn. Thần lại bảo rằng Có người cúng cho ta mười cây lụa, vậy ông nên vì ta, bàn làm việc siêu độ, rồi ông qua đất Hồng Châu, lên trên non phía Tây thì thấy ta. Ông thầy y lời nói, quả nhiên đến trên non phía Tây, thấy một con rắn mãng xà nằm chết, thân dài hai ba dặm. Than ôi! Quả

 

báo sân hận như thế.

 

Vả người có một tâm rỗng sáng vắng lặng như nước trong mát nhưng bị

 

một niệm sân giận nổi lên, thời khác nào cầm vật nhơ uế quăng vào, làm hư

 

nước trong mát lắm vậy. Nếu khởi một tâm từ bi, thời cũng như để hương chiên đàn trong ấy, giúp cho nước kia được thêm mát mẻ cũng lắm vậy.

 

 

 

Nước kia tánh vốn yên lặng mà gió càng thổi mạnh sóng càng sôi trào.

 

Gió sân giận không thổi nữa thì sóng lòng tất nhiên phải yên, mà nước lòng trở lại tánh lặng lẽ. Như thế thì sự an vui chắc chắn vĩnh viễn chính ở nơi lòng ta mà ta không tự thấy.

 

Than ôi! Người nhọc gì mà chẳng làm việc từ bi để tu về Tây phương.

 

Lại sân hận mà phải đọa làm Thần há chẳng lầm lắm ư.

 

---o0o---

 

KHUYẾN QUN TRUNG NHN

 

Phải nghĩ rằng Chúng ta chịu ơn quốc gia nuôi dưỡng, tiền lương, lụa vải mỗi tháng, đều nhờ sức của dân nhọc nhằn mà đặng. Chúng ta sở dĩ ngày ăn no đủ, áo mặc ấm mát. Trước đặng dâng cấp cha mẹ già, sau đặng nuôi dưỡng vợ con, dầu là ơn của quốc gia, dầu là sức của sinh dân, lúc không giặc giã cũng phải sửa sang đồ binh khí, tập luyện kỵ xa, dấy oai binh trận, binh quyền tướng dũng khiến nước ngoài khá sợ, tiêu giặc loạn trước khi chưa móng. Cầu cho quốc gia an thạnh, sinh dân an ổn.

 

Mỗi ngày thầm niệm nghìn tiếng danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện trong chỗ minh minh, giúp cho khí lực thân mình mạnh mẽ, có giặc nạn ra sức chống ngăn, tuy liều mình mà không đoái, lúc không giặc nạn thời canh phòng nghiêm ngặt, chẳng phải tham công danh mà xử hiếp giết oan. Cầu cho quốc gia thường an, sinh dân thường vui vẻ mà thôi. Ấy là tâm Bồ Tát ra làm hạnh tướng quân.

 

Lại hay đem pháp này dạy người và khuyên người thay nhau khuyến hóa. Như vậy thì thiện nghiệp thuần thục, phước lộc càng thêm, thân đời sau cũng được sinh về Tịnh độ, sinh lên phẩm thượng của bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN ÁC KHẨU GIẢ

 

Thân, Khẩu, Ý là ba nghiệp, trong kinh tạng nói Quả báo phần nhiều nhân nơi khẩu nghiệp, vì là khẩu nghiệp dễ phát ra vậy.

 

Kinh Báo n nói Xưa có người giận bà mẹ đem cơm đến trễ, bèn nói rằng Ta sinh trong bụng mẹ chẳng bằng sinh trong bụng con lừa, sau mắc quả báo đầu thai trong bụng con lừa.

 

 

 

Lại có người nữa, do mẹ đem cơm cho, nếu không vừa ý thời nói rằng Mẹ ta cho ta ăn, chẳng bằng cho chó. Sau rồi mắc báo sinh làm con chó.

 

Đây là quả báo của khẩu nghiệp cả. Nên có câu “Ác khẩu giả, nãi ác nợ

 

chi khẩu, vi ngôn ngữ bất ôn hòa nhi”. Nghĩa là Ác khẩu đó, là lời thịnh nộ

 

hung ác, chính là lời nói không ôn hòa vậy.

 

Người đời ít ai biết lý đây, bèn cho lời miệng ác, lời nhơ là thường.

 

Vậy tôi (Vương Nhựt Hưu) kính khuyên người đời gắng giữ gìn việc ấy, thường niệm Phật A Di Đà để súc rửa sự nhơ nhớp của khẩu nghiệp.

 

Nghe người miệng ác, lời nhơ, cũng thường niệm danh hiệu đây, đặng rửa sạch cái nhơ nhớp của lỗ tai. Nguyện đem thiện nghiệp niệm Phật đời nay, rửa sạch cái nhơ nhớp nhiều kiếp đến nay. Được như vậy thì thiện nghiệp ngày thuần thục, ác nghiệp ngày tiêu vong.

 

Lại hay đem pháp niệm dạy người, và khiến người thay nhau khuyến hóa, thì tai nạn khá tiêu phước lộc hằng được mãi mãi, và thân đời sau cũng được về Tịnh độ, sinh lên phẩm thượng của bậc trung vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN LÃO NHN

 

Người đến tuổi già, tấc bóng quang âm có chừng, lại không đường trước khá tới, chính nên tu hành, thiệt đáng tu hành, vì sao thấy đặng chính nên tu hành ? Người sinh ở đời đặng nhiều một ngày gây nhiều tội một ngày, tính đến sáu bảy, mươi tuổi, tội lỗi thật chứa bằng non.

 

Xưa ông Bá Ngọc tuổi đời năm mươi mà biết cái lỗi năm bốn mươi chín.

 

Huống chi những kẻ không bằng ông Bá Ngọc thì ai mà khỏi lỗi. Thử ở

 

trong đó hồi đầu tưởng xem, đâu chẳng hổ thẹn, đâu chẳng kinh sợ ?

 

Ta cả ngày dầm bùn lội nước đều vì con cháu, song đến khi hạ trường đầu (hấp hối) dù con thảo cháu thuận có thay thế cái chết cho ta đặng không

 

? Và có thể, sau khi ta chết rồi chịu tội thế đặng không ?

 

Hay là chỉ trơ trọi một mình, đến chỗ vua Diêm La, mặc dầu ngài phán đoán. Chi bằng lúc ta còn sống một ngày, một ngày ta niệm Phật A Di Đà, như vậy đem theo đặng, như thế nhờ cậy đặng, có cái đó thấy đặng chính nên tu hành.

 

Thế nào mới thật chánh đáng tu hành ?

 

Nghĩa là Khi còn đang tuổi trẻ mạnh khỏe, ai ai cũng lo kinh dinh sự

 

nghiệp. Hoặc người cầu vị quan, hoặc người lo gia tài, hoặc người buông lung tửu sắc, hoặc người làm thi văn, hoặc người mua danh tiếng, chỉ lo đua bơi đi tới, không nghĩ lúc sau.

 

Đến khi sương pha mái đầu, tuổi già xâm xâm áp đến, con đường chết gần kề, chỉ một mực giam hãm trong ngục lửa.

 

Dù cho chẳng bỏ, mặc dầu thiệt người ham muốn sự đời, nhưng đến chừng giờ đó, tâm niệm tự nhiên thôi hết. Tâm niệm đã thôi hết, thì niệm Phật liền tự chuyên nhất.

 

Trở mắt thấy cơn vô thường thì sự niệm Phật tự nhiên hăng hái. Sánh với tuổi trẻ tu hành, dường như việc ấy không hơn phân nửa, có cái đó thấy đặng thiệt đáng tu hành.

 

---o0o---

 

KHUYẾN ĐỒNG NAM

 

Nhà người sinh con trai, 7 tuổi đã cho vào trường đọc sách. Số là muốn cho con hiểu biết chữ nghĩa, lớn khôn làm nên. Tâm cha mẹ ai ai chẳng như

 

vậy.

 

Đâu có biết đời người khó giữ, ít người đặng sống đến tuổi cao, hoặc mắc oan gia, đến nỗi chết yểu, hoặc đứa con cùng cha mẹ, có oan nghiệp đời trước, nay gá sinh trong nhà đó não hại cha mẹ phá hoại gia sản.

 

Tôi (Vương Nhựt Hưu) kính khuyên ai là người cha mẹ, khi đứa con trẻ

 

mới vừa biết nói, liền dạy nó mỗi ngày niệm bốn hiệu Thánh Tây phương (Di Đà, Quan m, Thế Chí, Thanh Tịnh) mỗi hiệu mười tiếng, niệm bài kệ

 

đức Đại Từ Bồ Tát một biến, và tụng lời chú chân ngôn Tịnh độ, chú này chỉ

 

có năm mươi chín chữ, rất dễ tụng trì.

 

Nếu ngày tụng đặng 500 biến, hoặc nghìn biến, không hạn một năm, cùng hai năm cũng có thể đủ ba mươi muôn biến.

 

 

 

Nghĩa là Từ sáu tuổi bắt đầu tụng đến bảy tuổi là rồi không ngăn gì sự

 

vào trường đọc sách.

 

Dù đứa con ấy đời này không có oan ác với cha mẹ, nhưng tụng chú này cũng là bậc đại thiện đó, ắt được tiêu tai tăng phước, bằng như hoặc có oan gia đời trước, nay nhờ trì tụng chú này, cũng được giải oan trừ nghiệp, chẳng cũng thiện ư ?

 

Nếu không tin lời này, đến chừng đó ăn năn cũng vô ích, nên đức Khổng Tử nói câu “Bất viết như chi hà, như chi hà giả, vị như chi hà, dã dĩ”. Nghĩa là Không biết nói làm sao, không biết làm sao đó, ta cũng không biết làm sao nói cho được, thôi vậy.

 

---o0o---

 

KHUYẾN THẤT NỮ

 

Ta (Vương Nhựt Hưu) thấy những người phụ nữ phần nhiều nhân khi sinh đẻ, mà đến nỗi bệnh nhiều, hoặc có khi hoạnh sinh nghịch sản làm cho thân mẹ phải tiêu vong. Đây chính là bà mẹ cùng với đứa con sinh kia, đời trước có mắc nợ oan gia, nên bây giờ có oan báo như thế.

 

Cứ trong kinh tạng nói Muốn dứt tất cả cội gốc nghiệp chướng và được vãng sinh về cõi Tịnh độ thì phải tụng lời chú chân ngôn này. Nghĩa là Người đọc tụng chú này, Đức Phật A Di Đà thường đứng trước đầu người ấy, không cho oan gia làm hại.

 

Hiện đời an ổn, khi mạng chung tự tại vãng sinh, nếu người nào tụng đủ

 

hai mươi muôn biến thì hột giống Bồ đề mộng sinh. Tụng ba mươi vạn biến thì quyết định trước mặt thấy Phật A Di Đà.

 

Tôi (Vương Nhựt Hưu) kính khuyên những người khi còn làm con gái ở

 

bên thân cha mẹ, lúc rảnh rang ít việc, nên mỗi ngày tụng bốn hiệu Thánh Tây phương, mỗi hiệu mười tiếng như trên đã nói và, tụng bài kệ đức Đại Từ

 

Bồ Tát một biến. Ngoài ra mỗi ngày tụng lời chú chân ngôn này 500 biến, hoặc nghìn biến. Một năm không đủ thì hai năm, thì cũng có thể đủ ba mươi muôn biến.

 

Hay khiến trọn đời khỏi mắc nạn hoạnh sinh nghịch tử. Bằng cha mẹ

 

nếu để con gái buông lung chơi đùa lơ lỉnh, hoặc không tin lời đây một mai oan trái gặp nhau, thời mắc hại lớn, bấy giờ ăn năn cũng không kịp.

 

 

 

Dù cho đứa con gái kia đời này không oan gia ở bên thân cha mẹ, trước tụng lời chân ngôn này ba mươi muôn biến. Trồng căn lành lớn ấy, làm duyên lành lớn ấy, có nào chẳng đặng. Đối ân ái đây, thật là thậm thiện mà phước cũng lớn đó vậy.

 

Vậy những người thiếu nữ nghe đến bài này khá chẳng gắng sức trì tụng ư ?

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

QUYỂN SÁU HẾT

 

---o0o---

 

QUYỂN BẢY - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI

 

Người tham thiền phần nhiều không tin Tịnh độ, nói tu Tịnh độ là chấp tướng. Muốn chỉ ngay tâm người thấy tánh thành Phật mà thôi.

 

Lời ấy rất hay, nhưng không dễ gì được, trở thành tệ đó lắm vậy. Nên nay tôi (Vương Nhựt Hưu) giảng rõ cái tệ của người tham thiền và dẫn sự

 

tích làm pháp chứng, cho các người tu hành, không biết chỗ cốt yếu của Tịnh độ, cũng xin giảng nói luôn đây, cho nên quyển này gọi là quyển “CHỈ

 

MÊ QUY YẾU”.

 

---o0o---

 

ĐỜI TỐNG ÔNG THANH THẢO ĐƯỜNG THN ĐỜI SAU CỦA

 

ÔNG, LÀ ÔNG TĂNG LỖ CÔNG

 

Triều nhà Tống, có ông Thanh Thảo Đường. Lúc ông còn sống tuổi ngoài chín mươi, có người đàn bà nhà họ Tăng, thường tới lui trai cúng và bố thí y, vật cho Hòa thượng. Hòa thượng Thanh Thảo Đường cảm ơn kia, bèn nói Lão tăng này sẽ làm con trai cho phu nhân.

 

Ngày qua tháng lại Xuân mãn Thu sang, một hôm người đàn bà ấy sinh đặng đứa con trai, nhớ lại lời trước kia, liền sai người đến thăm ông Thảo Đường thì ông ấy đã tọa hóa rồi vậy. Đứa con trai bà sinh kia bèn đặt tên Tăng Lỗ Công vậy.

 

Do đời trước Lỗ Công làm ông thầy, từng tu phước, tu huệ, nên nay tuy rằng tuổi nhỏ mà thi đỗ khoa cao, sau làm quan đến chức Tể tướng, thấy trong thế tục xem đó không ai hơn vậy.

 

Song tuy như vậy nhưng đó cũng là một sự sai lầm. Vì sao ? Vì trong thế

 

cuộc phú quý này không lâu dài, hưởng hết phước thì là không. Lại phải theo nghiệp duyên mà đi luân hồi không có khi nào dứt. Chẳng bằng niệm Phật sinh ngay về Tây phương, thấy Phật dứt sinh tử là việc lớn, rồi trở lại làm Tể tướng cũng không muộn gì.

 

Cho nên tuy vào trong thai bào thọ sinh, nhưng mà một tánh linh mình đây không muội. Sở dĩ tuy ở trong cảnh giới luân hồi, đã không chịu luân hồi, mà tới lui trong đường sinh tử vẫn được tự như vậy. Nay chưa đặng dứt sinh tử, bèn bo bo nhớ ơn nghĩa, vì người làm con, thời không khỏi tâm thân ái hằng ở luân hồi, thật là thất kế lắm vậy.

 

---o0o---

 

GIỚI THIỀN SƯ HẬU THN ĐÔNG PHA

 

Chùa Ngũ Tổ ngài Giới Thiền sư, là thân đời trước ông Đông Pha, việc ứng nghiệm chẳng phải một. Do đời trước của ông tu hành, nên đời nay được thông minh hơn người. Do vì tánh ưa quen năm món độc (ngũ dục lạc) chứa trừ, nên đời nay, ý hay diệu lời thi thơ, ngoài chịu sự đày trách (trấn nhậm xứ ngoài sáu năm). Đây cũng là một sự lầm to vậy.

 

Nếu đời trước làm ông thầy tham thiền mà gồm tu Tây phương nữa, thời ắt đặng sinh Tịnh độ thành tựu đại phước đại huệ đâu còn sinh lại cõi này, chịu nhiều khổ não ư ?

 

Song nghe ông Đông Pha một hôm đi trấn nhậm phía Nam có mang theo một bức tượng Phật A Di Đà. Người hỏi cớ chi vậy ? Ông đáp Bức tượng này là việc công cứ của ta sinh Tây phương vậy.

 

Nếu quả như thế, thời ông Đông Pha đến đây mới là đắc kế, đó cũng là thiện căn gieo trồng đời trước, nên nay sáng ngỏ hơn người, và mới ngộ

 

được lý này cớ vậy.

 

 

 

Ta (Vương Nhựt Hưu) nghe ông Lỗ Trực, đời trước làm người đàn bà tụng kinh Pháp Hoa. Do công đức tụng kinh, nên đời nay thông minh có chức quan. Đây cũng là theo nghiệp duyên mà đến cõi này vậy.

 

Nếu sinh về Tây phương thì đâu có như vậy mà thôi ư!

 

---o0o---

 

TRIẾT LÃO HẬU THN ĐA ƯU KHỔ

 

Có ông Triết Lão thiền sư, trụ trì chùa Đại Sát đất Kinh sư, bốn mươi năm không ngủ, ngồi thiền định khổ như thế. Khi qua đời cũng ngồi và thị

 

tịch, sau khi đem áo bằng giấy thiêu đốt, ra ngọc Xá lợi. Có ông quan trong triều đem 30 ngàn mua một cái áo giấy ấy. Vì áo kia có Xá Lợi cớ vậy.

 

Ôi! Sự hiệu nghiệm tham thiền của ông đã như thế, nếu ông tu Tây phương, thì chắc được bậc bất thối chuyển địa Bồ Tát, đường sinh tử vẫn tự

 

như. Rồi trở lại thế giới này tế độ chúng sinh, có chi chẳng đặng. Vì không biết tu pháp này, nên mới sinh trong nhà đại phú quý, một đời chịu nhiều sự

 

ưu khổ khá thương vậy ư. Dẫu cho hưởng đại phú quý, rốt cuộc có khi hết, y cựu luân hồi.

 

Hoặc có người hỏi Sự tu hành tinh tấn của ông Triết Lão như thế, vì lẽ gì mà đời nay phải chịu nhiều sự ưu khổ vậy ?

 

Ông Vương Nhựt Hưu đáp Đức Phật có nói

 

Dã linh bá thiên kiếp

 

Sở tác nghiệp bất vong

 

Nhân duyên hội ngộ thời

 

Quả báo hườn tự thọ

 

Nghĩa là

 

Dù cho trăm ngàn kiếp

 

Chỗ tạo nghiệp không mất

 

Khi nhân duyên gặp gỡ

 

 

 

Quả báo lại mình chịu.

 

Ngài Vĩnh Gia đại sư cũng nói Dứt sinh tử thời nghiệp chướng xưa nay không, bằng chưa dứt lẽ phải thường nợ trước. Do ông Triết Lão, chưa từng dứt được sinh tử là việc lớn, đời nay tuy sinh trong nhà đại phú quý, chính là tâm nguyện của ông đời trước vậy, cho nên phải chịu nhiều điều ưu khổ, đó chính là lúc nhân duyên gặp gỡ, và phải trả nợ đời trước tới nghìn trăm đời lận.

 

Nếu ông sinh Tây phương, thời nợ trước chẳng cần trả vậy. Vì sao ? Vì sinh tử tự như, cho nên tuy vào trong tất cả cõi sinh tử chúng sinh, làm việc tế độ to tát. Nhưng mà một chân tánh của ta không hề mê muội, được siêu thoát ngoài ba cõi, đâu còn phải trả nợ đời trước ư.

 

Vả luận ông Triết Lão tu hành tinh tấn, còn không thể siêu thoát ngoài ba cõi, đâu chẳng phải ba cõi quá cao, biển khổ kia quá rộng, lượng sóng ba đào kia quá gấp, cho nên không dễ gì siêu thoát được.

 

Tu Tây phương mà được siêu thoát ngoài ba cõi là nhờ sức Phật vậy. Đã có sức Phật hộ trì mà không nương tựa, khác nào người bần cùng đói rét, thấy bậc giàu sang mà không nương cậy.

 

Nhựt Hưu này thương lắm.

 

---o0o---

 

CỔ LÃO HẬU THN ĐAM PHÚ QUÝ

 

Có ông Huệ Cổ trưởng lão, trước trụ trì chùa Thái Bình đất Thư Châu, sau qua ở chùa Đại Sát đất Triết Đông, cũng là hàng tôn túc trong sơn môn vậy.

 

Sau khi chết đầu sinh trong nhà Tể tướng, tuy tuổi nhỏ mà đỗ khoa cao, đời rất là vinh hiển. Song đây cũng là một sự thất kế rất lớn. Vì sao ? Đời trước trai giới, đời nay ăn thịt, ắt nói sự ăn thịt là ngon a ? Đời trước thanh tu đời nay gần sắc dục, ắt nói sự sắc dục là đẹp nhỉ ? Đời trước thiền định, đời nay hưởng phú quý ắt cho phú quý là phải sao ? Ví như voi lớn sa lầy, bước một bước càng lún sâu một bước, khốn sao mà khốn thế!

 

Kinh Lăng Nghiêm nói Tai nghe và tiếng nghe hết, cái nghe hết cũng không trụ. Tâm giác và cảnh bị giác không, tánh giác không đã viên mãn.

 

 

 

Nghĩa là Sự bị nghe tột rồi, tâm nghe tột cũng không trụ, cho nên nói, tuy hưởng sự khoái lạc trong đời, khác nào cái không trụ nói trên. Cái không trụ trước, đã không trụ thời là quá khứ. Quá khứ thì không được lâu vậy.

 

Lại có tâm năng giác và cảnh trần bị giác, thì rốt cuộc cũng quy về nơi không. Không thời là chẳng thật vậy. Thiệt đặng nơi đây, không mà giác đó, thời tánh chân giác cực viên, mà không còn sa đọa vậy.

 

Giả sử ông Cổ Lão mà ngộ đặng lý này (chân giác) thì quyết không sinh trong nhà Tể tướng.

 

Dầu chưa đặng tỏ ngộ chân tánh, vả tu Tây phương mau thoát khỏi luân hồi cung đặng vậy.

 

Kinh Lăng Nghiêm nói Người tu hành trong thế gian như lóng nước đục.

 

Lóng đó tuy trong, nhưng chưa gạn bỏ cặn đục, khuấy đó đục lại, là nghĩa nói ông Cổ Lão vậy.

 

Bằng sinh Tây phương thấy Phật đắc đạo, trở lại sinh thế giới này, thì cũng như gạn bỏ cặn đục, thuần đặng một thứ nước trong, mặc dầu khuấy đó cũng không đục nữa, vậy cho nên dù là hàng tôn túc, mà chưa ngộ được nhân tánh, thời cũng chẳng khá chẳng tu Tây phương. Xem sự tích ông Cổ

 

Lão này cũng đủ làm gương cho lớp sau vậy.

 

---o0o---

 

TY PHƯƠNG NHƯ HIỆN THỌ QUAN

 

Ví như người có chức quan nhỏ mà không chịu, ắt muốn tu học làm quan to (trạng nguyên) chí kia vẫn tốt vậy. Song chức Trạng nguyên không thể chắc đặng, vẫn không bằng lãnh liền chức quan nhỏ, một mặt tu học, bằng thi đậu chức quan to thời như trên gấm thêu hoa. Bằng chẳng đặng đó, cũng không mất phần làm quan.

 

Người tu Tây phương dụ như người lãnh liền chức quan nhỏ vậy. Một mặt tu học là dụ cả tu Tây phương, gồm tu pháp tham thiền nữa vậy. Chẳng đặng chức quan to là dụ kẻ tham thiền chưa tỏ ngộ vậy. Không mất kia, người làm quan là dụ chóng khỏi luân hồi, hưởng sự khoái lạc lớn vậy.

 

Đã sinh Tây phương, thấy Phật nghe Pháp, đâu có lý nào không đại ngộ

 

ư. Cho nên cái thuyết Tây phương không nên bỏ vậy.

 

 

 

---o0o---

 

BA BỒ TÁT TU ĐU SUẤT

 

Trong bộ Thập Luận Nghi của ngài Trí Giả có dẫn sự tích ba vị Bồ Tát tu pháp niệm Phật cầu sinh về cung trời Đâu Suất.

 

1 - Vị tên Vô Trước

 

2 - Vị tên Thế Thân

 

3 - Vị tên Sư Tử Giác

 

Ba vị Bồ Tát đây, giao ước với nhau rằng Trong ba người chúng ta, hễ ai sinh về Đâu Suất trước thấy Phật Di Lặc rồi, lập tức trở về báo tin cho biết.

 

Khi đó vị Sư Tử Giác chết trước vài năm không nghe tin tức. Kế vị Thế

 

Thân tịch, ba năm mới về báo tin nói rằng Tôi sinh về Đâu Suất, lễ Phật Di Lặc, nghe Ngài thuyết pháp, mới được một ngày, lật đật trở về báo tin cho hay đây. Lạ thay cõi trời Đâu Suất một ngày, mà ở cõi nhân gian ba năm vậy.

 

Vị Vô Trước hỏi Còn ngài Sư Tử Giác thế nào ?

 

Thế Thân đáp Sinh ngoại viện Đâu Suất đắm trước nhạc trời, tức không thấy được Phật.

 

Vả chăng ba vị Bồ Tát, tu về Đâu Suất, còn có tham trước không được thấy Phật, ấy là cội gốc luân hồi. Cho nên biết rằng Đâu Suất khó tu và có sa đọa, không bằng Tây phương dễ tu, mà không sa đọa vậy.

 

Ngài Trí Giả lại nói Có người thấy Phật Thích Ca mà không đắc đạo, còn người tu Tây phương thấy Phật A Di Đà, không có một ai mà không đắc đạo. Thế thì đủ biết rằng Đức Phật Thích Ca, cùng Phật A Di Đà, nguyện lực, công đức, oai thần kia, lớn nhỏ vẫn không đồng vậy.

 

Cho nên đức Đại Từ Bồ Tát nói rằng Mười phương ba đời Phật A Di Đà là thứ nhất. Niệm danh hiệu Ngài, tiêu tất cả tội liền đặng sinh Tịnh độ là phải vậy.

 

---o0o---

 

 

 

PHÁP HOA NI HẬU THN TÁC QUAN KỶ

 

Ông u Dương tên Vĩnh Thúc làm chức Tri huyện đất Vĩnh Châu, có một con hát nhà quan trong miệng thường bay hơi thơm hoa sen. Khi ấy có ông Tăng biết túc mạng của cô mà rằng Cô này đời trước làm cô ni tụng kinh Pháp Hoa mười năm, vì một niệm tưởng lầm, bèn đến nỗi như thế này.

 

Ông Tăng lại hỏi Vậy cô có nhớ tụng Kinh Pháp Hoa không ?

 

Đáp rằng Từ khi thất thân đến nay có rảnh đâu mà tụng.

 

Ông Tăng lấy bộ Kinh Pháp Hoa đưa cho thì cô đọc tụng như nước chảy, lấy kinh khác đưa cho, thời cô đọc không đặng. Do đây mà biết lời nói của ông Tăng đáng tin vậy.

 

Giả sử, cô ni này biết tu pháp môn Tây phương thì thượng phẩm thượng sinh chắc đặng vậy. Vì không biết nên phải sa đọa đến nỗi làm con hát khá chẳng thương ư! Do đây mà biết, hay đem pháp môn Tây phương này dạy người tu tập, công cứu giúp kia rất lớn vậy, phước đức há dễ lường ư ?

 

---o0o---

 

PHẦN TỰ LUẬN

 

Từ lúc mới sinh cho đến khi xuống mồ, chúng ta chơi vơi như những cái bóng đi tìm chân lý, mà chúng ta tin rằng có. Vừa sinh ra đời chúng ta đã khóc và cũng còn khóc nữa khi ta phải lìa đời. Bị thúc đẩy bởi một sức mạnh vô hình, chúng ta chen vai thích cánh trên đời để làm những cử chỉ hời hợt.

 

Thế nên Phật dạy

 

Trên bước đường tìm lẽ thật, các ngươi chỉ tin cái gì mà chính các ngươi tự mình sau khi suy luận, nhận là đúng, là hợp với lẽ phải, không trái với lòng mình, và ăn khớp với hoàn cảnh hiện tại. Sử sách, thánh hiền không đủ

 

bảo đảm nếu chính lòng mình không cho, hoặc chưa cho là đúng.

 

Ngay đối với giáo lý của Phật cũng thế, cốt là các ngươi cố gắng tìm tòi mãi mãi, và một ngày mai kia, nếu các ngươi vỡ lẽ thêm ra, nhận thấu có điều gì đúng hơn, thì đừng ngại ngùng mà không dứt bỏ, những gì mà hôm nay các ngươi đã tin.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

 

 

QUYỂN BẢY HẾT

 

---o0o---

 

QUYỂN TÁM - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI

 

Thế giới Cực Lạc, tuy cách cõi này tới trăm vạn thế giới. Luận về sự

 

tích, thời không xiết kể sự xa. Song nói về Huệ tánh của Phật, vì trùm cả hư

 

không thế giới, không chỗ nào không có cho nên tất cả chúng sinh ý, tư

 

tưởng, hành vi cử động, đều là ở trong tánh Phật cả. Nên người chí tâm khẩn thiết, không có một việc nào mà chẳng ứng nghiệm, cho nên quyển này đặt là quyển “HIỆN THẾ CẢM ỨNG”.

 

---o0o---

 

KIẾN SÁT SINH NIỆM PHẬT ĐẮC PHƯỚC

 

Trong bộ Quan m cảm ứng có chép rằng Đất Nhiêu Châu người trong số lính là người Trịnh Lân, chết hồi đến âm phủ, Diêm Vương chiếu bộ

 

nghiệm tra, do bắt lầm lại tha về. Vua Diêm Vương bảo rằng Ngươi trở về

 

nhân gian gắng sức làm lành, thấy ai sát sinh, ngươi phải niệm Phật A Di Đà cùng Quan Thế m Bồ tát, con vật kia đặng đầu thai, ngươi cũng đặng phước lớn, và cũng một phần giúp cho ta khỏi mất công trị người ác. Do đây suy xét đủ thấy người niệm Phật A Di Đà đã siêu độ được vong giả lại được tăng thêm phước thọ, chẳng những thế thân sau lại đặng sinh Tây phương vậy.

 

---o0o---

 

ÔNG TRẦN KHÍ NIỆM PHẬT TRỪ QUỶ

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ông Trần Khí ở đất Vọng Giang là người đồng quận với ta, thường giết oan mạng người. Sau thấy quỷ hiện. Khí sợ

 

hãi, lật đật niệm Phật A Di Đà, quỷ không dám gần. Trần Khí niệm Phật không thôi, quỷ bèn không hiện. Sau thường niệm Phật, lúc lâm chung ngồi mà quá vãng.

 

 

 

Sau nửa năm, dựa nhập đứa cháu gái tên Diệu Quang trong nhà, nói rằng Ta nhờ niệm Phật A Di Đà, đã sinh về thế giới Cực Lạc, cử động nói năng y như lúc còn sống, bà con kẻ quen biết đều đến viếng thăm cả hai ba ngày.

 

Người trong gia quyến nói Tiếc vì lúc nó còn sống, không vẽ được chân dung của nó để thờ cúng. Trần Khí nghe nói, liền hiện nguyên hình như lúc còn sống, nhưng cái nét mặt có phần tươi trẻ hơn. Bởi người sinh Tây phương sống hoài không chết, tóc đầu người ấy giống như tóc Phật, số là người ấy đã gần thành Phật vậy.

 

Sự tích này do kẻ sĩ nhân ở đất Vọng Giang là ông Châu Hiến Thúc, vì ta thuật lại.

 

---o0o---

 

TRƯU TN VƯƠNG NIỆM PHẬT MỘNG GIÁC

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ta từng khuyên kẻ sĩ nhân đất Trấn Giang, là ông Trưu Tân Vương, thuyết tu Tây phương.

 

Ta nói Nếu không rảnh rang, thì cứ mỗi bữa sớm mai chắp tay quay mặt về hướng Tây, niệm Nam Mô A Di Đà Phật mười biến cũng đặng.

 

Tân Vương tin đó, một hôm nọ nằm chiêm bao, thấy cùng với một sĩ

 

nhân, đang dẫn ông đi đến pháp trường. Tân Vương trong cơn sợ hãi, liền niệm Phật A Di Đà đến mười tiếng, bèn thức dậy.

 

Đâu chẳng phải là Phật dùng đây, làm cho người kia tín tâm kiên cố ư.

 

---o0o---

 

TRƯƠNG KẾ TỔ NIỆM PHẬT CẦU SIÊU VONG

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ta từng cùng kẻ sĩ nhân đất Trấn Giang là ông Trương Kế Tổ, nói việc Tây phương. Kế Tổ tin đó, bà nhũ mẫu của ông chết, ông thường vì niệm Phật A Di Đà cầu siêu.

 

Một hôm ông nằm chiêm bao thấy nhũ mẫu ông về, mượn y Bạch Điệp mặc, đến tạ ơn Kế Tổ mà từ biệt đi về Tây phương.

 

Xem đây nên biết phép niệm Phật cầu siêu vong giả thật rất linh vậy.

 

---o0o---

 

 

 

LƯU HUỆ TRỌNG NIỆM PHẬT AN GIẤC

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ông Lưu Huệ Trọng là bạn tri thức ta ngày trước, người làng Trường Hưng quận Hồ Châu. Do mỗi hôm nằm mộng thường sợ sệt, ta khuyên niệm Phật A Di Đà.

 

Huệ Trọng chí thành cao tiếng niệm 108 biến, đêm đó bèn ngủ yên.

 

Ngày sau cũng niệm như ngày trước, từ đây đều đặng ngủ yên. Do đây ta thấy Phật lực rộng lớn không chỗ nào mà Ngài không che chở.

 

Sự tích này ta đã kể bày quyển trước nơi bài niệm Phật “An tịnh hình thân” rồi vậy.

 

---o0o---

 

BÀ NGUYỄN TẨU NIỆM PHẬT MẮT SÁNG

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Có bà Nguyễn Niệm Tam Tẩu ở tỉnh Điền Trang, huyện Hoài Ninh đồng quận với ta, đau hai con mắt gần mù, thường niệm Phật A Di Đà và cặp mắt bà đặng sáng lại.

 

Sự tích này chính ta được thấy đó.

 

---o0o---

 

VUA DIÊM VƯƠNG KHUYÊN TƯƠNG BÀ NIỆM PHẬT

 

Đất Trấn Giang huyện Kim Đàng, làng Chu Lâm có bà Tương Bà tuổi cỡ

 

70, chết đến âm phủ, song mạng chưa hết, được vua Diêm La cho về và hỏi Ngươi có tụng kinh chăng ? Đáp rằng Tụng không được.

 

Vua nói Không tụng kinh thời ngươi cứ niệm Phật A Di Đà cũng được.

 

Đã tha về bấy giờ bà Tương Bà thuật chuyện vua Diêm La dạy ta niệm Phật, ta không còn nghi nữa, cho nên bà thường niệm danh hiệu Phật đây gần trăm hai tuổi mới qua đời.

 

Bà sinh Tịnh độ chắc chắn quyết định vậy. Đâu chẳng phải do bà niệm Phật, mà lại sống dai ư! Nếu không phải thì vì lẽ gì mà bà sống được lâu vậy ?

 

Sự tích này do kẻ sĩ nhân, huyện Kim Đàng là ông Trương Duyên Chi, vì ta thuật lại.

 

 

 

---o0o---

 

THIỆU AN PHỦ NIỆM PHẬT THOÁT NẠN

 

Đất Tấn Giang, ông Thiệu Bưu tên Hi Văn. Hồi còn làm học trò, một hôm nằm mộng thấy mình đi đến một chốn quan phủ người đều kêu ông là ông quan An phủ, Thiệu Bưu tự mừng và rằng Điềm này đâu không phải ta thi đậu, sẽ lãnh chức An phủ ư ? Rồi ông đi tới trước, thấy một vị quan hỏi rằng Ngươi có biết tại do ngươi thi chưa đậu không ? Đáp rằng Không biết.

 

Vị quan ấy sai người dẫn Thiệu Bưu đi xem, thấy một chảo lớn nấu loài ốc sò. Ốc sò biết nói tiếng người, thấy Thiệu Bưu đi ngang qua liền kêu rằng Thiệu Bưu. Bưu sợ bèn niệm Phật A Di Đà, mới niệm một tiếng ốc sò liền biến thành chim Huỳnh tước (se sẻ) bay đi.

 

Quả thật sau rồi Thiệu Bưu thi đỗ khoa cao làm quan đến chức An phủ

 

sứ. Do đây thấy người sát sinh, ngăn đường trước của người, chẳng khá chẳng răn! Lại thấy Phật lực quảng đại chẳng khá chẳng kính. Quan chức tự

 

có định phần chẳng khá tham cầu đặng.

 

---o0o---

 

NIỆM PHẬT BỆNH PHONG KHÔNG SINH

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Tôi quá giang ghe người gần đi đến giữa sông, đất Trấn Giang, nước cạn đi không được, bèn ghé lại chùa Kim Sơn mượn bốn bộ kinh, tức Kinh A Di Đà vậy.

 

Muốn so sửa khắc bản rộng truyền. Khi cầm viết tay bên phải có phong, mấy ngón tự run lia viết chữ không được, tôi bèn giơ ngón niệm danh hiệu Phật A Di Đà và Quan Thế m vài tiếng, khẩn cầu xin cho tôi hết chứng bệnh phong, đặng viết cho rồi bộ kinh đây.

 

Nguyện vái xong ngón liền hết run, cho đến rồi quyển cũng không đau.

 

Do đây thấy Phật cùng Bồ Tát, vẫn ở trước mặt, chỉ vì tín tâm của người không chí thiết vậy.

 

---o0o---

 

MỘNG TRUNG NIỆM PHẬT THOÁT KHỦNG CỤ

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Tôi ở trong cơn mê mộng, có khi sợ sệt, niệm danh hiệu Phật A Di Đà cùng Quan Thế m Bồ tát, chưa từng có lúc nào mà chẳng đặng yên ổn, hoặc có khi liền thức dậy.

 

 

 

Thì đủ thấy Phật cùng Bồ tát oai thần mau chóng như thế, những người đủ tín tâm chỗ hiệu nghiệm. Ngài đâu không chứng.

 

---o0o---

 

NIỆM PHẬT NHÀ KHỎI ĐÈ CHẾT

 

Có một bà già bị mù hai con mắt, mượn thằng nhỏ dắt đi thường niệm Phật A Di Đà. Một bữa nọ nghỉ ở trong nhà cũ, nhà bỗng đổ sập. Thằng nhỏ

 

bỏ chạy, bà già còn ở trong. Bèn có hai cây chống nhau, đỡ phía trên bà già đặng khỏi đè chết. Đây phép niệm Phật rất linh nghiệm như vậy đấy.

 

Sự tích này do ông Diệu Định Cư sĩ vì tôi thuật lại.

 

---o0o---

 

NIỆM PHẬT BỆNH SỐT RÉT ĐƯỢC LÀNH

 

Có vị Viên quan tên Lý Tử Thanh, ở ngụ đất Tú Châu, ham mộ đạo Tiên, thường theo học Phật với ta (Vương Nhựt Hưu), mấy năm trước mắc chứng bệnh rét bảo rằng Chỉ e lòng ông không tin, nếu tin đó bệnh ắt lành.

 

Ta trao cho một phương thuốc, dạy tới giờ bệnh phát, chuyên chú niệm A Di Đà Phật, rồi uống thuốc này. Ông Tử Thanh nghe lời làm theo ngày đó bệnh bớt 8 phân, ngày kế cũng bớt 8 phân, như vậy cho đến ngày chót là được lành mạnh. Ông Tử Thanh từ đấy rất tin Phật lý, thường dùng văn Tịnh độ để trong tay áo, đem theo tụng niệm.

 

---o0o---

 

THÊU TƯỢNG PHẬT THƯỜNG CÓ XÁ LỢI

 

Ông Chung Ly Trạch làm chức Thiếu sư ở đất Chân Châu, cho bà Nhậm thị phu nhân, tu Tây phương, chạm tượng Phật A Di Đà, bề cao bốn tấc tám phân, làm khám chạm trổ rất tốt, lúc đi đâu thường đội theo để chiêm bái, tượng kia ở giữa chân mày, thường tuôn ra ngọc Xá lợi, lớn như hột gạo, ánh sáng chiếu ngời.

 

Sự tích này rút trong bộ Bửu Châu tập.

 

---o0o---

 

 

 

MỘNG THẤY PHẬT LIỀN ĐẶNG THÔNG BIỆN

 

Đợi nhà Tùy, ông Huệ Tư thiền sư, nhân chiêm bao thấy Phật A Di Đà, thuyết pháp cho ông nghe. Lúc sau ông thông biện hơn người, điềm lành không phải một.

 

Sự tích này rút trong bộ truyện Vãng sinh.

 

---o0o---

 

NIỆM PHẬT TRỊ BỆNH ĐƯỢC LÀNH

 

Năm gần đây đất Tú Châu có ông thầy thường niệm Phật A Di Đà, vì người trị bệnh, có người bệnh rước ông đến niệm Phật, thường đặng lành mạnh. Người trong xứ Tú Châu, ai cũng khen ngợi ông cả.

 

---o0o---

 

NIỆM PHẬT THẰNG CHÁU KHỎI NẠN

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Trong làng ta, có một ông cụ già mỗi khi có việc liền chắp tay chí tâm niệm Phật A Di Đà.

 

Thằng cháu ông mới ba tuổi, nhân theo mẹ đến đồng ruộng thoạt mất đi, ông già tìm hỏi chẳng thấy, sau vài ngày có người mách bảo cho hay rằng Tôi thấy dấu chân thằng nhỏ ở ngoài suối kia!

 

Quả nhiên ra ngoài đó tìm đặng, thấy dấu chân đầy cả trên bãi. Không biết vì lẽ gì suối kia rất sâu mà thằng nhỏ này qua bên kia được và lâu mà không hề chi.

 

Người ta nói, đó là do ông nội nó có tâm chí thành niệm Phật A Di Đà, mới cảm được quả phúc như vậy.

 

---o0o---

 

PHẦN TỰ LUẬN

 

Thật ra đạo Phật là một chân lý cần phải tự mình kinh nghiệm, về một mặt khác, suy nghĩ và hiểu biết chưa thật đã đúng đường, khi nhận xét không thấu đáo.

 

Đối với đời sống hằng ngày, đạo Phật khuyên ta những gì ?

 

 

 

Nên dung hòa cuộc đời thục tế với lý tưởng vị tha, điều thuận hành vi và ý nghĩ, bác bỏ những sự tương vi, cảm thông cho sâu sắc định lý vô thường của hết thảy các pháp.

 

Nói tóm lại, hướng cuộc đời theo gương Đức Phật và cố gắng thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

QUYỂN TÁM HẾT

 

---o0o---

 

QUYỂN CHÍN - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI

 

Trong Kinh Thập Lục Quán nói Người cầu về thượng phẩm thượng sinh, cần nên đọc tụng kinh điển Đại thừa, hiểu nghĩa đệ nhất thế thì người tu thượng phẩm, thâm ý của Phật chẳng khá chẳng biết. Nhưng nói thiển ý còn không biết đặng, huống chi thâm ý ư! Cho nên quyển này gọi là quyển “TỪ

 

THIỂN CHÍ THM” rất cần dùng trong mỗi ngày, đều biên chép ra đây, gọi rằng Để giúp ích cho người tu thượng phẩm.

 

---o0o---

 

TẬP THUYẾT

 

Đức Khổng tử dạy ba nghìn đồ đệ, song chỗ yếu chỉ kia chẳng ngoài một bộ sách Luận Ngữ, mà đầu bộ sách ấy chỉ một câu “Học nhi thời tập chi”.

 

Nghĩa là Học thời thường tập đó.

 

Ý nghĩa một câu này đâu chẳng phải việc cần gấp trước ư. Luận rằng Học là gì? Học là làm người quân tử, làm vị thánh nhân. Tập là chi? Tập là tập nghề bắn, tập lễ nghi.

 

Học làm quân tử, làm thánh nhân, không thể vội gấp mà được, cho nên ắt phải theo thời, mà lần lần tập đó.

 

- Nếu học pháp rộng lớn, thì ngay trong thời chật hẹp mà tập đó.

 

 

 

- Nếu học tính cách ôn hoà, thì ngay trong thời nóng giận tập đó.

 

- Nếu học tư dung cung kính, thì ngay trong thời khinh dễ tập đó.

 

- Nếu học theo bậc lương thiện, thì ngay trong thời dữ tợn tập đó.

 

- Nếu học theo lễ độ khiêm nhường thì ngay trong thời kình chống tập đó.

 

- Nếu học theo phẩm hạnh siêng năng, thì ngay trong thời biếng nhác tập đó.

 

Thế thì câu nói “Học nhi thời tập chi” là chính trong thời của việc đó, mà tập luyện. Thì sự tập luyện của ta không luống uổng vậy. Sự tập kia ắt thành, thành thời tự có chỗ khá mừng.

 

Cho nên sách Luận Ngữ lại nói thêm câu “Bất diệc duyệt hồ”. Nghĩa là Học đặng như thế chẳng cũng vui ư! Nếu ai ngộ đặng lý này, thời toàn trong bộ Luận Ngữ, lời nói thiện căn đều khá dùng tới.

 

Cho nên người học, dùng một câu này “Học nhi thời tập chi” trùm cả

 

đầu một bộ sách, thật có ý nghĩa thâm thúy vậy.

 

Người tu Tây phương mà tấn nơi đạo là rất nhờ ở sự tu tập, cho nên người tu Tây phương xem đây chẳng khá dùng chẳng biết vậy. (Phải tu tập cho cần mẫn).

 

---o0o---

 

CÁC THÚ LỢI NHN THUYẾT - THUYẾT NÓI VỀ ÔNG CÁC PHIỀN

 

THÁI THÚ LỢI ÍCH NGƯỜI ĐỜI

 

Trong niên hiệu Đại Hoán đời nhà Đường, có một ông Viên Quân, vào trong chợ kinh sư mua giày, thấy một đôi giày rất lớn, in như đôi giày hồi liệâm cha mình đem chôn, mới hỏi Giày đây do đâu mà có? Người bán giày đáp rằng Một ông cụ già đem cậy tôi sửa còn để đây.

 

Hỏi Chừng nào ông ấy lại lấy, ta hãy đến hầu chuyện.

 

Quả thấy cha ông, xuống ngựa trả tiền lấy giày. Ông con lễ bái, cha không ngó lên ngựa mà đi. Ông con chạy theo cỡ hai ba dặm nhưng không kịp bèn kêu to rằng

 

 

 

Cha ôi! Tôi với cha khi sống, làm cha con vì lẽ gì hôm nay không có một lời lành chi để dạy tôi?

 

Người cha ngoái lại đáp Nên học với ông Các Phiền.

 

Hỏi Các Phiền là người thế nào?

 

Đáp Người trong thế gian.

 

Bấy giờ ông con tìm hỏi chỗ ở ông Các Phiền, thì lúc đó Phiền đang làm quan Thái Thú trấn nhậm đất Trấn Giang. Bèn đến ra mắt và thuật lại duyên cớ đó, lại hỏi ông Các Phiền rằng Do đâu cảm động đến người ở chốn u minh như thế?

 

Vì tôi khi trước, mỗi ngày làm một việc lợi ích cho người, ngày kế làm hai việc, lại ngày sau làm ba việc, hoặc mười việc cho đến tuổi này nay đã bốn mươi, chưa từng có một ngày nào bỏ.

 

Hỏi Làm sao gọi là làm việc ích cho người?

 

Các Phiền chỉ cái ghế trong chỗ ngồi mà rằng - Như cái này đây, để

 

không ngay thẳng, người đi vấp té trật chân, ta sửa lại cho ngay thẳng, cũng là việc lợi ích cho người vậy. Lại nữa Nếu người khát nước, ta có thể cho một gáo nước người uống cũng là việc lợi ích cho người vậy.

 

Chẳng những thế thôi, cho đến lời nói nhỏ nhẹ, tính cách ôn hòa, làm cho người cảm mộ, làm việc phước thiện cũng là việc lợi ích cho người. Cứ tuy theo mỗi việc nào có lợi ích ta đều làm đó. Trên thì bậc khanh tướng, dưới nhẫn đến kẻ ăn xin ta đều có thể làm cả.

 

Duy ở nơi lâu mà không bỏ thôi.

 

Người con nghe nói rồi lễ tạ mà lui. Ông Các Phiền sau đặng tuổi cao mới qua đời.

 

Xem đây thời biết, việc lợi ích cho người chẳng khá chẳng gắng, việc tổn hại cho người đâu nên làm ư?

 

Nên có câu Ái nhân lợi vật vị chi nhân giả. Nghĩa là Thương người lợi vật, mới đặng gọi là người nhân.

 

 

 

Ông Các Phiền đặng đó. Các Phiền gồm tu Tịnh độ lấy việc làm phước đây hồi hướng về Tây phương. Sau có ông thầy tham thiền nhập định, xuất thần qua bên cõi Tịnh độ, thấy ông Các Phiền ở bên ấy.

 

---o0o---

 

THÍ BÁO THUYẾT - THUYẾT NÓI PHƯỚC BÁO BỐ THÍ

 

Đạo nhà Nho nói Bố thí đặng phước báu, cũng như đạo Phật nói Bố thí đặng quả báo.

 

Kỳ thật hai đạo cũng đồng một lý vậy. Phật nói Muốn đặng lúa ăn, phải siêng năng cày cấy, muốn cho có trí huệ, phải cần học vấn, muốn đặng thượng thọ, phải cần đừng sát sinh, muốn đặng giàu sang, phải cần bố thí.

 

Bố thí có bốn phép 1- Tài thí, 2- Pháp thí,

 

3- Vô úy thí, 4- Tâm thí.

 

Tài thí là gì? - Lấy của cho người.

 

Pháp thí là gì? - Lấy lời nói lành dạy người.

 

Vô úy thí là gì? - Người và tất cả chúng sinh đang khi sợ hãi, ta an ủi họ, khiến họ khỏi sợ hoặc dạy họ lìa khỏi tâm sợ hãi, khiến họ hết sợ.

 

Tâm thí là gì? - Sức tuy không thể cứu người, nhưng thường giữ tâm cứu người.

 

Phật nói Hiếu dưỡng cha mẹ cũng là bố thí, còn thí cho người ngoài, cũng gọi là bố thí. Cho nên, ai là người làm kẻ dưới, phải cần trung thờ bề

 

trên. Làm người lớn bề trên phải đủ tâm nhân từ an chúng. Làm thầy phải cần dạy bảo. Làm bạn phải thành thật với nhau. Trong một lời một câu, ắt cầu có lợi. Lúc một khi đi một khi đứng, ắt muốn khỏi phạm. Mỗi việc phương tiện lợi người, đừng cho có chỗ tổn hại, đều là bố thí cả. Sự làm như

 

vậy, giữ tâm cũng như vậy, đời sau đâu chẳng đặng báo giàu sang.

 

Lời cổ ngữ nói Ai ai cũng biết nói có đời sau. Vì sao không tu để phước đời sau. Đời nay phước ta hưởng đây, chính là công tu đời trước. Cũng như

 

lúa ta ăn năm nay, là sự làm ruộng năm ngoái. Người không thể buổi mai cấy lúa, mà buổi chiều đặng ăn, cũng như không thể mới làm phước, mà liền đặng hưởng phước. Sở dĩ lúa ắt nửa năm, phước cũng phải cách đời vậy.

 

Đức Khổng Tử nói

 

 

 

Hóa ố kỳ khí ư địa, bất tất tàng ư kỷ.

 

Lực ố kỳ bất xuất ư thân, bất tất vị kỷ.

 

Nghĩa là

 

Ghét ai có của đem chôn dưới đất, không dám để trong mình.

 

Ghét người có sức không ra xuất thân (lập thân) chẳng phải vì mình.

 

Ông Lão Tử nói

 

Ký dĩ vị nhân, kỷ dũ hữu.

 

Ký dĩ dữ nhân, kỷ dũ đa.

 

Nghĩa là

 

Đã đem của vì người, mình càng có.

 

Đã đem của cho người, mình càng nhiều.

 

Đều là nghĩa bố thí.

 

Ông Tăng Tử nói Xuất hồ nhĩ dã phản hồ nhĩ. Nghĩa là Ra ở nơi người, trở lại cũng nơi người.

 

Ông Lão Tử lại nói Thiên đạo hảo hườn. Nghĩa là Đạo công bằng của trời đất, ưa trả lại những thiện hoặc ác.

 

Đây đều là nghĩa quả báo cả. Đạo Nho, đạo Lão, hai đạo, đều nói Thí báo, nhưng không nói cách đời thôi.

 

Sở dĩ có câu

 

Ái nhân giả, nhân thường ái chi.

 

Kính nhân giả, nhân thường kính chi.

 

Tai nhân giả, nhân tất phản tai chi.

 

Nghĩa là

 

Thương người, người thường thương lại.

 

Kính người, người thường kính lại.

 

Hại người, người ắt sẽ hại lại.

 

Các việc đây đều là việc thí báo hiện đời cả. Nếu người biết đặng như

 

thế, nên tu Tịnh độ để vun trồng thiện căn cho nhiều vậy.

 

---o0o---

 

 

 

BẬC CHÍ NHN NÓI THUYẾT SỐNG LU

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Tôi từng nghe bậc chí nhân nói Người đời áo cơm tài lộc, chốn âm ti (cân nhân quả) đều có định số.

 

Nếu cần kiệm không tham, thời được lâu dài, xa xí quá tham cầu, hưởng hết thời mạng chung. Ví như người có tiền một ngàn, mỗi ngày xài một trăm, thời được mười ngày, mỗi ngày xài năm chục thì hai mươi ngày. Nếu buông lung xa xí, liền thấy bại vong, còn như số một ngàn, một ngày xài hết, khá chẳng sợ ư. Kinh Dịch nói

 

Thiên địa chi số, ngũ thập hựu ngữ.

 

Sở dĩ thành biến hóa, nhi hành quỷ thần.

 

Nghĩa là

 

Số trời đất, năm mươi lẻ năm.

 

Thành số biến hóa, mà làm quỷ thần.

 

Thế là trời đất rất lớn, biến hóa rất hay, quỷ thần rất nhiệm, còn không trốn được kiếp số huống nữa người ư.

 

Kẻ hoặc hỏi Người thanh liêm cần kiệm sao mạng chết yểu, kẻ tham lam xa xí sao lại được sống lâu?

 

Ông Vương Nhựt Hưu Kẻ thanh liêm cần kiệm mà mạng chết yểu là số

 

đương đời ít vậy. Nếu tham lam xa xí thời càng mau hơn nữa. Người tham lam xa xí mà được sống lâu là Số đương đời nhiều vậy, nếu lại thanh liêm cần kiệm thì càng lâu hơn nữa.

 

Vả chăng trời đất không riêng cho ai, lẽ nào lại nói số đương đời có nhiều có ít ư?

 

Đó chẳng qua là đều chỉ cho lý (cân) nhân quả đời trước của mỗi người gây tạo vậy thôi.

 

Cho nên kinh nói

 

Yếu tri tiền thế nhân kim sinh thọ giả thị.

 

Yếu tri lai thế quá, kim sinh tác giả thị.

 

Nghĩa là

 

Muốn biết nhân đời trước, coi đời nay ta thọ những gì.

 

 

 

Muốn biết quả đời sau, xem ngay cái nhân hiện đời.

 

Nhưng hiện đời làm nhiều điều lành tốt, cũng có thể tăng thêm phước thọ. Nên có câu Thần chi thính chi, giới nhĩ cảnh phước. Nghĩa là Thần nghe đó, ban cho nguồn phước lành.

 

Song hiện đời làm nhiều điều tội ác, thì cũng có thể giảm bớt phước thọ

 

nên nói Đa hành bất nghĩa, tất tự tệ. Nghĩa là Làm nhiều việc bất nghĩa, ắt phải chết non.

 

Vả như người tu Tịnh độ, vẫn chẳng những số nhiều phước thọ nói trên.

 

Song việc tổn phước thọ, thời là ít đức vậy, đâu khá chẳng răn ư! Còn việc tăng thêm phước thọ, thời là nhiều đức vậy, đâu khá chẳng gắng ư!

 

---o0o---

 

THỰC NHỤC THUYẾT- THUYẾT ĂN THỊT

 

Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật Thích Ca, Ngài kêu ông Đại Huệ Bồ

 

Tát mà bảo rằng

 

Có vô lượng nhân duyên, cho nên chẳng nên ăn thịt vậy. Ta nay vì ông lược nói Này Đại Huệ! Tất cả chúng sinh từ xưa đến nay, nhân duyên xoay vần, thường làm bà con. Do vì ta tưởng bà con, cho nên chẳng nên ăn thịt.

 

Do vì khí phần bất tịnh chỗ sinh tưởng, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì chúng sinh nghe hơi thảy đều khủng bố, cho nên chẳng nên ăn thịt Do vì khiến người tu hành, từ tâm bất sát, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì kẻ

 

phàm ngu thèm ăn, món hôi hám bất tịnh, danh đồn không tốt, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì tụng kinh trì chú không được linh nghiệm, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì người sát sinh thấy hình khởi thức, ưa thèm vị ngon, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì kẻ ăn thịt chư Thiên ghét bỏ, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì hơi hôi trong miệng bay ra, cho nên không nên ăn thịt. Do vì nhiều ác mộng, cho nên không nên ăn thịt. Do vì trong rừng vắng vẻ, hổ

 

lang beo sói nghe hơi đến bắt, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì khiến người uống ăn không tiết độ, cho nên chẳng nên ăn thịt. Do vì khiến người tu hành không sinh tâm nhàm chán, cho nên chẳng nên ăn thịt.

 

Này Đại Huệ! Phàm những người sát sinh vì cớ tham tài lợi cho nên sát sinh bán thịt. Những người ngu si ăn thịt chúng sinh kia, đem tiền làm lưới, mà bắt mấy con thịt. Người sát sinh kia, nếu dùng tài vật, nếu dùng câu lưới bắt các loài bay trên không, lội trong nước, đi trên bờ, món món sát hại, bán thịt cầu lợi.

 

 

 

Này Đại Huệ! Nếu trong thế gian, không ai bảo sát, không ai cầu mua, không ai tưởng ăn, mà có cá thịt bao giờ! Do vì cớ ấy cho nên chẳng nên ăn thịt. Phật lại nói bài kệ. Kệ rằng

 

Vì lợi sát chúng sinh.

 

Đem tiền mua những thịt.

 

Hai người đồng nghiệp ác.

 

Chết đọa ngục Khiếu hô (kêu la)

 

Thật vậy nếu trong thế gian không ai bảo sát, không ai tưởng ăn, không ai cầu mua, thời không ba món tịnh nhục. Song trong thế gian kia, đâu không phải nhân có người bảo giết, có người cầu mua, có người tưởng ăn, vì ba nguyên nhân ấy, cho nên chẳng nên ăn thịt uống rượu, ăn hành, hẹ, tỏi, đều là ngăn thánh đạo.

 

Ăn thịt thời không có tâm từ bi, hằng trái con đường chánh giải thoát, lại bỏ lời Phật để lại, thế cho nên chẳng nên ăn, vì thịt chúng sinh vốn chẳng phải vật ta ăn. Vì do tai nghe mắt thấy hằng quen, xưa nay không biết ăn thịt là tội.

 

Bằng người tu hành, dứt được sự ăn thịt, người ấy vốn là bậc thượng vậy. Bằng không đoạn được, vả ăn ba món tịnh nhục mà giảm bớt.

 

Thí dụ như Bữa ăn có nhiều món giảm bớt còn một. Như hai bữa ăn đều có thịt phải một bữa ăn chay.

 

Người đời bổng lộc có chừng, nếu thực hành được như đây tự khá đặng diên thọ. Như sớm mai ăn chay lợi kia rất nhiều 1- Bớt nghiệp duyên, 2-

 

Đặng thanh tịnh, 3- Chẳng hại nghiệp lành, 4- Đến buổi chiều ăn mặn, chẳng đến nỗi nhàm chay, mà muốn ăn mặn (mạng). Như thế tự đặng sống lâu.

 

Bằng cho sự ăn chay là khó, đâu có biết ăn mặn còn tốn phí hơn. Vì sắm đồ

 

ăn chay thì dễ làm mà để lâu được, nếu buông lung sự thèm muốn của miệng bụng, thì việc thèm muốn ấy có khi nào dứt. Cổ ngữ có câu rằng Thế thượng dục vô đao binh kiếp.

 

Tu thị chúng sinh bất thực nhục.

 

Nghĩa là

 

Trên đời muốn khỏi kiếp đao binh.

 

Cần phải mọi người đừng ăn thịt.

 

Lại có câu

 

 

 

Dục tri thế thượng đao binh kiếp.

 

Đản thính đồ môn dạ bán thinh!

 

Nghĩa là

 

Muốn biết trên đời kiếp đao binh.

 

Chỉ nghe tiếng rên rỉ đêm khuya nơi cửa hàng thịt!

 

Và câu

 

Nhất thế chúng sinh vô sát nghiệp.

 

Thập phương hà xứ khởi đao binh.

 

Gia gia hộ hộ thường tu thiện.

 

Thiên hạ hà sầu bất thái bình.

 

Nghĩa là

 

Tất cả chúng sinh không nghiệp sát.

 

Mười phương xứ nào khởi đao binh,

 

Trăm họ người người đều tu thiện,

 

Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.

 

Song người thế gian không ai tránh khỏi, không ăn ba món tịnh nhục, nhưng sau ngày đó, ta phải vì những thịt chúng sinh mà bị ta ăn thường ngày niệm bốn hiệu Thánh Tây phương, và lời chân ngôn thần chú để cầu siêu độ

 

cho chúng nó được vãng sinh, thì họa may có thể giải được oan gia dứt tội.

 

Cứ theo lời vua Diêm La dạy ngươi Trịnh Lân thời ta nên chí thành niệm bốn hiệu Thánh để cầu siêu độ chắc đặng vãng sinh.

 

(Sự tích này đã nói trong quyển thứ tám).

 

Ba món tịnh nhục là 1- Không thấy sát, 2- Không nghe sát, 3- Không nghi người vì mình mà sát, 4- Tự nó chết và 5- Là chim rũ. Là năm món tịnh nhục.

 

---o0o---

 

GIỚI SÁT ĐẠO DM THUYẾT

 

Kinh Lăng Nghiêm Phật nói Tướng ưa sắc gái kết chặt trong tâm, nên có sự dâm dục. Thời các người thế gian cha mẹ con cháu sinh nhau không dứt.

 

Những việc đây đều là do lòng tham muốn làm gốc.

 

 

 

Tham mến huyết nhục, tâm thích chẳng thôi, nên có sự ăn thịt, thời cả

 

trong thế gian loài sinh trứng, loài sinh con, loài sinh nơi ướt, loài hóa sinh, tùy sức mạnh yếu ăn nuốt lẫn nhau.

 

Những việc như đây đều là do tâm tham sát làm gốc. Do người ăn thịt dê, dê chết làm người, người chết làm dê. Ăn các loài chúng sinh khác, cũng lại như thế, chết chết sinh sinh, trở lại ăn nhau, ác nghiệp đeo theo, tột đời vị

 

lai. Như thế đều là do lòng tham trộm làm gốc.

 

Người thiếu mạng ta, ta trả nợ người, do nhân duyên đây cả trăm nghìn kiếp thường ở trong đường sinh tử.

 

Má mày yêu tâm ta, ta thương sắc má mày, do nhân duyên đây, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng buộc.

 

Như thế thì Sát, Đạo, Dâm ba món đây căn bản do nhân duyên, ác nghiệp quả báo đây, nối chuyền không dứt.

 

Bằng sinh về Tây phương Tịnh độ, thọ thân thanh tịnh, không nhân nơi dâm dục mà sinh, ăn cơm thanh tịnh, không nhân nơi sát hại mà có. Người bạn được thanh tịnh không phải đắm trước mà kết. Đây, đều là những người đã thoát ly cõi này rồi vậy. Song người tu thượng phẩm, đối với câu chuyện Sát, Đạo, Dâm nói trên đâu chẳng khá chẳng biết?

 

---o0o---

 

ẨM THỰC NAM NỮ THUYẾT

 

Câu chuyện ẩm thực và nam nữ người đời ai cũng rất thích lắm. Song người nào kiềm chế và thôi luôn, người ấy là vị Thánh nhân, còn kẻ tiết độ

 

không buông lung cũng có thể làm vị Hiền nhân, còn người buông lung, không tiết độ thiệt là kẻ hạ ngu!

 

Luận rằng Hai món ẩm thực và nam nữ đây đều là nguyên nhân gây tạo các nghiệp Sát sinh để no miệng bụng, chẳng phải tạo tội chớ chi! Dâm dục hao mòn trí huệ (mất tánh thiện chân) chẳng phải tạo tội chớ gì?

 

Huống chi hai món đây thay nhau trợ phát Bởi ăn uống ngon thời huyết khí thạnh, huyết khí thạnh, thời dâm dục lung (nhiều). Dâm dục lung, thời tổn huyết khí, huyết khí tổn, thời lại nhờ ẩm thực tu bổ. Hai món đây đều là nguyên do thay nhau tạo tội vậy.

 

 

 

Nếu bớt được và dứt luôn, thời dù món ăn hẩm húc cũng tự ngon vậy.

 

Bằng buông lung thời người đời số thọ dụng có chừng, số hết thời chết sớm vậy.

 

Ngài Từ Giác thiền sư làm bài thi ẩm thực như vầy Ẩm thực ư nhân nhật nguyệt trường,

 

Tinh thô tùy phận tắc cơ thương,

 

Tài quá tam thốn thanh hà vật,

 

Bất dụng tương tâm tế giảo lương.

 

Nghĩa là .

 

Ăn uống nơi người ngày tháng doi (dài),

 

Ngon dở miễn sao lấp ghẻ dòi,

 

Nuốt vô khỏi cổ thành vật khác,

 

Sao chẳng để lòng chín chắn coi!

 

Nếu nghĩ xét được như thế, thời tự nhiên bớt được phần miệng bụng vậy.

 

Ông Vu Thật giả phu làm bài thi nữ sắc như vầy

 

Bì bao cốt nhục tinh niểu phấn,

 

Cượng tác kiều nghiêu cuống hoặc nhân,

 

Thiên cổ anh hùng giai tọa thử,

 

Bách niên đồng tác nhất khanh trần.

 

Nghĩa là

 

Da bọc thịt xương cùng đái, phẩn,

 

Cưỡng làm nũng nĩu khuỷnh gạt nhân, (người)

 

Nghìn thuở anh hùng đâu bị nó,

 

Trăm năm vùi dập dưới hầm trần!

 

Nếu nghĩ xét được như thế, thì tự nhiên bớt được việc dâm dục vậy.

 

Quả dứt được hai việc này rồi ở đời do đâu có tật bệnh và chết non, thân sau do đâu có địa ngục và súc sinh. Dù không khỏi hai việc này, nhưng chuyên tu Tịnh độ cũng mau thoát khỏi luân hồi. Thế thì người tu Tịnh độ, chẳng khá răn việc này ư !

 

---o0o---

 

 

 

THAM CHIẾT TIỀN TRÌNH THUYẾT - VÌ THAM, BỚT ĐƯỜNG

 

TRƯỚC

 

Có hai vị quan viên, cầu mộng với ông Thần ở nơi miếu, đất Kinh sư, hỏi thăm việc đường trước.

 

Đêm đó một vị nằm chiêm bao thấy, có một người cầm cuốn sổ bộ lật ra chỉ và nói Người có biết đường trước của ông quan đống đi với người kia không? Xem coi trong sổ thấy biên ông kia từ chức tiểu quan thăng lên đến chức Tể tướng, nhưng có một vòng. Vị quan viên kia hỏi Vòng đây là nghĩa là làm sao? Người cầm sổ đáp Do ông quan này vì tham của thế gian, mỗi một lần lấy của bất nghĩa, thời trong cuốn sổ này có vòng một vòng. Nếu ông quan ấy biết mau cải quá, thời còn khá làm được chức Giám Tư.

 

Lúc thức dậy thuật lại điềm mộng. Ông kia nghe đó, từ đây không dám lấy của phi nghĩa, quả nhiên sau làm đến chức Giám Tư.

 

Lại một sự tích nữa. Bà Hà Tiên Cô ở trong thế gian. Có một ông quan Chủ Bộ trước nhà, bỗng có một quyển Thiên thơ (sách trời) rơi xuống. Vì ông không biết nét chữ, bèn tới ra mắt bà Tiên Cô cậy bà đọc giùm. Bà Tiên Cô lập bàn hương án lạy Thiên thơ, rồi mới khai khán, xem xong bà mỉm cười, ông quan Chủ Bộ hỏi Thành thật đến cầu hỏi thăm, duyên cớ chi Tiên Cô lại cười?

 

Tiên Cô đáp Trong Thiên thơ nói Chủ Bộ thọ kim thập lượng chiết lộc ngũ niên. Nghĩa là Quan Chủ Bộ lãnh mười lượng vàng hối lộ, nên trời bớt lộc ông năm năm.

 

Do đây xem đó, của bất nghĩa thật khá ghê sợ, nếu bỏ tâm này, tu Tịnh độ, thì duyên lành trọn vẹn vậy.

 

---o0o---

 

PHƯỚC HUỆ THUYẾT

 

Người đời chẳng khá chẳng gồm tu phước và huệ, mỗi việc lợi người thường làm phương tiện, làm tất cả việc lành, chứa tất cả việc ác, chỗ gọi là tu phước vậy.

 

Biết nhân quả, biết tội phước, xem sách Thích thị (kinh Phật) trong rõ lý tánh, xem sách Nho gia ngoài hiểu đạo thế, chỗ gọi là tu huệ vậy.

 

 

 

Tu phước đặng giàu sang, tu huệ đặng sáng ngỏ. Tu huệ không tu phước, sáng ngỏ mà cùng khổn. Tu phước không tu huệ, đời sau giàu sang mà ngu si, phước huệ nếu gồm tu vừa được giàu sang vừa được sáng ngỏ. Cả hai món đều không tu, đã ngu si mà lại cùng khổn! Phật sở dĩ phước huệ gồm tu, cho nên mới nói Ngài là bậc Lưỡng Túc Tôn, nghĩa là Phước và Huệ hai món đều đủ vậy.

 

Xưa có hai người đồng tu hành, một người chuyên tu phước, một người chuyên tu huệ, qua mấy kiếp sau người chuyên tu phước nhân hưởng phước mà tạo ác, đọa trong loài con tượng (voi), do có phước dư đời trước, quân nhân cỡi đi đánh giặc, có công thắng trận, vị quốc vương ban cho đeo chuỗi Anh Lạc.

 

Còn người chuyên tu huệ kia sau đặng quả A La Hán nhưng vì trước không tu phước nên nay làm ông Tăng đi khất thực, nhiều chỗ không cho cơm ăn. Cho nên Phật nói bài kệ như vầy

 

Tu phước bất tu huệ.

 

Tượng thân quải Anh Lạc.

 

Tu huệ bất tu phước.

 

La Hán ứng cúng bạc.

 

Nghĩa là

 

Tu phước không tu huệ

 

Làm voi đeo Anh Lạc

 

Tu huệ không tu phước

 

Chứng quả mà đói ngặt.

 

Thế nên cả hai món phước và huệ đây chẳng khá chẳng gồm tu vậy.

 

Nhưng sự bất đắc dĩ thà rằng Dẫu tu huệ hơn nơi tu phước, chớ đừng cho tu phước hơn tu huệ vậy. Vì sao? Nếu huệ hơn nơi phước, thời biết tội phước mà răn dè cho khỏi trụy đọa, bằng phước hơn huệ, thời nhân hưởng phước mà tạo ác, nên có nạn đọa sa!

 

Kinh Lăng Già nói Hưởng chút vui hiện tại mà trồng quả khổ vị lai phải vậy.

 

Phật nói bài kệ rằng

 

Gồm tu phước cùng huệ

 

Lại niệm Phật A Di Đà

 

Trong hoa sen chín phẩm

 

 

 

Phẩm nhất lại nhường ta.

 

Người trai giới tỏ ngộ, tu đó, ắt sinh lên phẩm thượng cớ vậy.

 

Phật lại nói kệ nữa rằng

 

Tuy tu phước cùng huệ

 

Không biết niệm Di Đà

 

Chưa đặng La Hán quả

 

Luân hồi chẳng hẹn ra.

 

Song người ở trong thế giới này tu hành, đặng quả A La Hán mới khỏi luân hồi cố vậy.

 

---o0o---

 

TẬP TỪ THUYẾT

 

Đức Quan Thế m Bồ Tát bảo rằng Muôn việc lành đều do nơi tâm từ sinh ra. Ông Lão Tử nói Ba ngôi báu của nhà đạo Tiên, cũng lấy tâm từ làm đầu dọc, ba ngôi báu 1.Thượng Thanh, 2. Ngọc Thanh, 3. Thái Thanh. Đạo nhà Nho nói Trong phép ngũ thường cũng lấy tâm nhân trước nhất. Ba đạo ý cũng đồng một.

 

Người đời có nhiều kẻ sân nộ (nóng giận) không biết ý đây. Chưa nói đến sự hại vật tạo nghiệp, trước tự tổn khí lực và hại tánh ôn hòa của mình.

 

Song nếu có người đạt đến cảnh nhân từ mới biết, nóng giận là việc không tốt, chính người kia, ngay trong khi đang nóng giận, thời họ không biết cái khổ của sự nóng giận, cũng như người đi trong chông gai, đến một chỗ nhà rộng yên ở, mới biết tánh nóng giận kiêu ỷ tích trữ trong tâm trước kia, dường như đi trong chông gai.

 

Đến khi tập thành tâm từ nhân, thời cũng như vào trong một nhà lớn vậy. Song tâm nhân từ đây, chẳng khá dùng nói cho hết nhưng phải đương trong lúc nóng giận mà tập đó (tâm nhân từ) lâu lâu tự có chỗ khá mừng.

 

Đạo Thích, đạo Tiên, hai đạo vẫn đã răn việc sân, đạo Nho cũng thế. Coi như người Hoàng Đồi muốn hại đức Khổng Tử, đức Khổng Tử đâu từng sân ư? Người Trang Thương chê bai thầy Mạnh Tử, Mạnh Tử đâu từng sân ư?

 

Người Hàn Tín không trả thù cái nhục lòn trôn đứa nhỏ! Thầy An Quốc Sư

 

chẳng oán lời nói uống nước tiểu của đứa học trò! Các đấng đây dầu là bậc đáng làm gương cho ta bắt chước. Huống kẻ phàm thị bần hạ kẻ tôi đòi, xúc phạm đến mình, dễ sinh nóng giận, rất nên thận trọng và hoan hỷ vì rằng Chúng nó cũng là một loài người như ta vậy.

 

 

 

Song bởi chúng nó ít phước nên mới phụng thờ ta, lẽ nào ta buông lung tánh tình, mà tạo ác nghiệp ư? Nhưng xét cho đúng lý mà nói Người tâm từ

 

hòa đối với mình cả đặng tiện lợi.

 

Trong Đại Tạng Kinh nói Đời nay người ta thấy ta hoan hỷ, do vì đời trước ta thấy người hoan hỷ vậy, song sự hoan hỷ đây, cũng do một tâm từ

 

hòa mà sinh ra cả.

 

Người tu Tịnh độ, đâu khá chẳng lấy đây làm tâm mình ư? Như tất cả

 

chúng sinh, làm tội ác lớn, cũng đừng sinh tâm sân dấy nhơ tâm trong sạch của mình. Vì thương người kia ngu si, nên mới như vậy. Phải chi người kia có trí huệ, ắt họ không làm như thế. Ta phải sinh lòng thương xót người ngu si kia vậy. Cho nên thầy Tăng Tử nói Như đặng tình kia, thì thương xót mà chớ mừng. Như thế rồi chuyên tu Tịnh độ, thời căn lành viên thục lắm vậy.

 

---o0o---

 

VI QUN TỬ THUYẾT

 

Người đời ai cũng có thể làm quân tử, mà chẳng chịu là quân tử. Chẳng nên làm tiểu nhân, mà ắt muốn làm tiểu nhân. Nếu người thành tín cung kính, hoặc ôn hòa chánh trực, hoặc tôn người hiền, khen người tài, hoặc tùy cơ lợi vật, những việc như đây. Đều là việc của người quân tử cả. Làm đó cũng chẳng khó chi, mà người chẳng chịu làm là sao ư?

 

Còn như dối trá khinh dễ, hoặc dữ tợn, dua vạy, hoặc nói xấu, bươi móc việc ác, hoặc lung tình hại vật. Những việc như đây, đều là việc của kẻ tiểu nhân vậy. Làm đó lại có ích chi, mà người làm mãi là sao ư?

 

Làm quân tử thời người mừng đó. Thần giúp đó, họa hoạn chẳng sinh, phước lộc khá thêm, chỗ đặng nhiều vậy.

 

Tuy có khi cũng thất nhưng đó là mạng, chớ chẳng phải nhân làm quân tử mà thất, dù không làm quân tử cũng thất, vì mạng có định phần, cớ vậy.

 

Làm tiểu nhân, thời người oán đó, Thần giận đó, họa hoạn toan đến, phước thọ vắn bớt, chỗ thất cũng nhiều.

 

Tuy có khi cũng đắc, nhưng đó là mạng chớ chẳng do làm tiểu nhân mà đắc, dù không làm tiểu nhân cũng đắc. Bởi vì mạng có định phần cớ vậy.

 

 

 

Đức Khổng Tử nói Người không biết mạng, không đủ làm quân tử, kẻ

 

tiểu nhân không biết thiên mạng, nên ngài lại dạy cho biết rằng, dù đắc dù thất, cũng đều là mạng cả (nhân quả), người thấu đặng lý đây, đáng gọi là quân tử, càng đặng làm quân tử. Bằng không xét đặng lý này, thời tiểu nhân, bao giờ cũng vẫn làm tiểu nhân.

 

Như thế mà tu Tịnh độ, thời quyết định chẳng sinh ở phẩm hạ vậy.

 

---o0o---

 

VI THÁNH VI PHẬT THUYẾT - LÀM THÁNH LÀM PHẬT

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ta từng luận rằng Đức Khổng Tử sở dĩ làm bậc Thánh nhân vốn chẳng phải một mối. Song xét chỗ cốt yếu của ngài ở nơi câu Tam nhân đồng hành,

 

Tất hữu ngã sư yên.

 

Nghĩa là

 

Ba người đồng đi,

 

Ắt có thầy ta vậy.

 

Người thiện đành rằng thầy ta. Nhưng người ác cũng là thầy ta nữa. Vì sao? Vì người lành ta nên bắt chước, người ác ta phải cải răn. Chỗ kiến thức như thế, đâu đặng chẳng là bậc Thánh nhân.

 

Lại nữa ta từng nói Đức Phật Thích Ca sở dĩ Ngài làm Phật là vốn chẳng phải một mối. Song chỗ cốt yếu của Ngài là ở nơi câu Sơn trung tu hành thời, quốc vương xuất lập vấn thú sở tại. Nghĩa là Khi Ngài làm ông nhẫn nhục Tiên ở trong núi tu hành, gặp vị quốc vương (Ca Lợi Vương) đi săn, hỏi con thú ở đâu. Nếu Ngài bảo thật thì thú kia phải chết, bằng không bảo thật, thời là phạm vọng ngữ. Trong khi đang ngẫm nghĩ, bị quốc vương nổi giận, chặt đứt một cánh tay. Lại hỏi lần thứ hai, Ngài cũng ngẫm nghĩ chưa trả lời, lại bị chặt đứt một cánh tay nữa. Tiên nhân phát nguyện rằng Khi ta thành Phật trước độ người này, đừng để người trong thiên hạ bắt chước kia làm ác. Giữ tâm như vậy đâu chẳng đặng làm Phật.

 

Sau khi, Ngài ra đời thành Phật trước độ ông Kiều Trần Như, Kiều Trần Như chính là vị quốc vương thuở đó vậy. Nếu người giữ tâm được như đây, mà chuyên tu Tịnh độ, thời mau cùng với các vị đại Bồ Tát đồng bậc vậy.

 

 

 

---o0o---

 

A LA HÁN THUYẾT

 

Đức Phật dạy rằng Bậc A La Hán tuy đặng hưởng nhân thiên cung, nhưng phước cho người cũng ít. Giả sử có người, trăm năm cúng dường các vị A La Hán đầy cả bốn châu thiên hạ, nhưng chẳng bằng phát tâm Bồ đề

 

cũng dường cho Phật một ngày. Vì sao? Bởi Phật Ngài từ vô lượng kiếp đến nay, tiếp độ chúng sinh, đâu chẳng phải đặng phước, mà phước lợi người cũng nhiều vậy.

 

Vị A La Hán, dứt đường sinh tử được chứng Niết Bàn (Tiểu thừa) cũng còn lối độc thiện kỳ thân (tự lợi) cho nên phước lợi kịp người ít vậy.

 

Phật lại nói rằng Nếu người có phước từng cúng dường Phật, nhưng cũng đừng nói rằng Cúng Phật là việc phước đời sau.

 

Năm gần đây đất Tú Châu có một ông Tăng chuyên niệm Phật A Di Đà, vì người cầu bệnh, bệnh được mạnh lành. Như thế đâu nên nói rằng Cúng dường Phật, chẳng lợi ích cho đương đời ư? Đã nói rằng Cầu bệnh được lành, thời cầu phước cũng có thể được! Nhưng chỉ sợ người tâm tin chẳng chí thú, nếu người tâm chí thành, cầu Phật thời không có một người nào mà Phật chẳng chứng.

 

Nếu chuyên tu Tịnh độ, nguyện trở lại cõi này hóa độ chúng sinh, rất chẳng phải là không phước, cho nên người tu Tịnh độ, đối với đây chẳng khá chẳng biết vậy!

 

---o0o---

 

NHỊ THIÊN NHN THUYẾT

 

Trong Kinh Hoa Nghiêm nói Người đời có hai vị Thiên nhân theo người 1. Đồng sinh, 2. Đồng danh. Hai vị Thiên nhân thường thấy người, mà người chẳng thấy hai vị Thiên nhân. Hai vị Thiên nhân này, đâu chẳng phải chúng Thiện ác nhi bộ đồng tử.

 

Người khi mống ý thốt lời, động thân cất bước thường nghĩ hai vị Thiên nhân đó thấy người lẽ nào người làm ác mà không hổ thẹn hay sao?

 

 

 

Như vậy mà chuyên tu Tịnh độ thời chắc sinh lên bậc thượng phẩm.

 

Hoặc người hỏi nạn rằng Mỗi một người có hai vị Thiên nhân thì tất cả

 

người trong thế gian vô số, vậy chớ vị Thiên nhân ở đâu mà nhiều lắm thế?

 

Ông Vương Nhựt Hưu đáp Một mặt trăng phổ hiện (chiếu khắp) trong tất cả vũng nước, vậy thử hỏi trăng kia ắt có nhiều ư?

 

---o0o---

 

TIỂU NHN QUẢ THUYẾT

 

Ông Vương Nhựt Hưu nói Có người bắt cầu có người vỡ cầu, đây là cái nhân nhỏ thiên đường, địa ngục vậy. Có người ngồi trên kiệu, có người khom lưng khiêng kiệu, đây là cái quả nhỏ thiên đường, địa ngục vậy. Còn nhiều việc khác nữa, so sánh đây nên thấy.

 

Thường giữ tâm như thế, mà tu Tịnh độ, vãng sinh về bậc thượng phẩm, chắc chắn không còn nghi gì nữa.

 

---o0o---

 

PHẦN TỰ LUẬN

 

Người đời vì mê lầm, nên không thể sống nhịp nhàng với chân tâm thường trú, rồi luôn luôn quay cuồng theo vọng thức phân biệt, là chấp ảnh tượng hào nhoáng ấy là tâm của mình, vì nhận sự lầm vô ý thúc ấy, nên phải đau khổ khi nó luôn luôn sinh diệt và đổi mới.

 

Bởi tâm là chủ động của mọi sự hành động ở nơi thân thể, và ý nghĩ bất lương ở nội tâm.

 

Khi quan niệm được thuần thục nghĩa là Tâm không còn vọng niệm phân biệt đắn đo theo với tiền trần giả ảnh, thì tâm được an nhiên tụ tại.

 

Người tu hành cũng thế, một khi tâm tu đã an tịnh, nhờ định lực tu hành, thì chân tu được hiển lộ, thể nhập với chân lý, nghĩa là Trí giác đồng với chư

 

Phật, thì Giới, Định, Huệ là con đường duy nhất, là tư tưởng bất hữu của mười phương các Đức Phật là thuyền Bát nhã đem chúng sinh đến cảnh giới Niết Bàn, là nơi kỳ ngộ của các đấng Chí Tôn chói rạng, cái hạnh phúc hoàn toàn vĩnh viễn.

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

 

 

QUYỂN CHÍN HẾT

 

---o0o---

 

QUYỂN MƯỜI - CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

 

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

 

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI :

 

Người mà đạt lý chí thâm rồi, dù ở cảnh đời ngũ trược này, cũng như ở

 

bên cõi Tịnh độ kia nào có khác ư ? Cho nên quyển này, biên những lý chí thâm gọi là : TỊNH TRƯỢC NHƯ NHẤT.

 

Song cũng không nên ỷ nơi đây, mà không tu nghiệp Tịnh độ, e dễ lạc về lời nói không đàm, chẳng khác như cái tệ nói suông của người tham thiền kia vậy !

 

---o0o---

 

TÌNH THUYẾT

 

Mừng, giận, yêu, ghét, thèm, muốn đều thuộc về chữ tình.

 

Nuôi tình là ác, lung tình là giặc, bẻ tình là thiện, dứt tình là Thánh.

 

Ăn uống đồ ngon, bận mặc đồ tốt, ở nhà rộng lớn, những việc như đây, thế gọi là nuôi tình.

 

Ăn uống ngoã nguê, bận mặc loè loẹt, nhà ở không nhàm, những việc như đây, thế gọi là lung tình.

 

Người phạm ta, ta không kể, người hiếp ta, ta không giận, người hại ta, ta không oán, thế gọi là bẻ tình.

 

Người phạm đó, hiếp đó, hại đó, ta coi như không và lại có tâm thương xót người ngu si kia nữa, thế gọi là dứt tình.

 

Nếu ngộ lý đây, thời lòng dạ thường thanh tịnh, cũng như ở bên cõi Tịnh độ kia. Nên Kinh Tịnh Danh nói : Kỳ tâm thanh tịnh tức Phật độ tịnh. Nghĩa là : Tâm này thanh tịnh, tức cõi Phật tịnh vậy.

 

---o0o---

 

 

 

THỌ DỤNG TỨC THỊ KHÔNG

 

Đức Phật Thế Tôn có dạy rằng : Tất cả sự thọ dụng tức là không (hết).

 

Như thọ bao nhiêu món ăn ngon, lúc buông đũa rồi tức là không, khi đi ra nhiều người theo hầu, nhưng lúc đã đến chỗ rồi, tức là không, cả ngày chỉ đi dạo xem trên non dưới bể, nhưng lúc đã về nhà rồi, tức là không.

 

Lại nữa : Như ta ra làm việc lành đã xong, thì sự làm mệt nhọc kia tức là không, nhưng nghiệp lành vẫn còn. Làm việc ác cũng thế, lúc giận làm cho vừa ý, làm cho vừa ý rồi tức không, nhưng nghiệp ác vẫn còn.

 

Nếu thâm ngộ được lý đây, thời nên ăn chay lạt, khỏi mắc tội oan trái sát hại. Khi ra đi khá tùy phận, khỏi phiền não lao tâm khổ người, việc dạo chơi nên dứt, khỏi tội lỗi buông lung phế việc làm lành nên gắng, khỏi lỗi trễ nãi nhân lần. Việc ghét nên răn, khỏi tội buông lung thù oán.

 

Ta (Vương Nhựt Hưu) mừng đặng lý này, cho nên ta muốn ai cũng đều biết cả. (Thọ dụng có ba nghĩa : 1. Khổ thọ. - 2. Lạc thọ. 3. Xả thọ, tức bất khổ, bất lạc, phải vậy. Xả thọ tuy bất khổ bất lạc, nhưng cũng còn ở trong vòng tương đối Khổ với Lạc).

 

---o0o---

 

LỤC CĂN THUYẾT

 

Ngàn món trang điểm, chỉ vì hào nhoáng con mắt nửa tấc. Trăm món âm nhạc, chỉ vì vui thú lỗ tai một hột đậu. Hương trầm, hương Long não, hương Tốc xạ, chỉ vì thơm ngát cái mũi hai lỗ. Cỗ ăn trước nhà phương trượng, chỉ

 

vì ngon cái lưỡi ba tấc, xinh đẹp nõn nà chỉ vì tấm thân hôi rữa. Thuận theo chào đón, chỉ vì cái y tình trìu mến.

 

Nếu hay biết thấu lý này, mời thật là người khoái lạc không phiền não.

 

Đức Phật dạy : Sở dĩ chúng sinh luân hồi từ vô thỉ nhẫn đến ngày nay, nhận sáu thằng giặc làm con, tự cướp lấy của báu nhà mình. Nghĩa là : Thằng giặc lục căn, dối gạt, làm mất chân tánh vậy.

 

Thầy Mạnh Tử nói : Duy có bậc Thánh nhân, vậy sau khá dùng noi hình.

 

Nghĩa là : Ngài không lầm thằng giặc ấy vậy.

 

Có người dâm nữ tu chứng đạo quả. Đức Văn Thù hỏi : Thế nào là không sân ? Đáp rằng : Thấy tất cả chúng sinh không phải chúng sinh. Đức Văn Thù lại hỏi : Thế nào thấy 18 giới ? Đáp rằng : Như thấy kiếp hỏa đốt cả thế gian.

 

Đức Văn Thù khen rằng : Mầu thay lời nói ấy. Luận rằng : Tất cả chúng sinh xưa nay không có, chỉ nhân trong tâm vọng tưởng mà sinh, lại có chi gọi là sân ? 18 giới là : 6 căn, 6 trần, và 6 thức. Nhân 18 món đây cho nên sinh sự vô lượng, tạo ác vô lượng. Thế nên nói như hỏa thiêu cả thế gian.

 

Nếu ngộ lý đây, tuy chưa sinh Tịnh độ, nhưng cũng như đã sinh về cõi Tịnh độ rồi, mà đã về Tịnh độ rồi, tìm vô lượng kiếp cũng không nghe tiếng sân huống chi có thật.

 

---o0o---

 

CHN TÁNH THUYẾT

 

Kinh Kim Cang, đoạn 27 nói chỗ đại ý : Luận “Chân Tánh” ngoài không có chi, dụ như hư không, song hư không đây thuộc về ngoan không. Ngoan không là cái không, không thật có. Nay nói chân tánh mà dụ như hư không, là vì trong cái Không lại có cái Có, cho nên nói câu : Chân không bất không.

 

Còn ngoan không, thời không thiệt có.

 

Bởi cái không này còn ở trong vòng tạo tác vì bị tạo tác nên có thể hoại diệt như : Một chỗ đất cứng chắc đây, đào ra một thước đất thời té ra một thước không đào ra một trượng đất, thời trống một trượng không v.v… Thế là ngoan không còn ở trong vòng tạo tác.

 

Lại nữa : Như dùng một cái chén không, để cơm vô đầy một chén, thời cái không hoại mất và trong một cái nhà không, bấy giờ rinh các vật liệu để

 

vô đầy một nhà, thời cái không kia không còn nữa, thế là ngoan không có thể hoại diệt.

 

Bằng cái không của chân tánh, không ai tạo tác được ! Không ai phá hoại được ! Bỏ trong lửa, lửa không cháy, bỏ vào nước, nước không trôi, trời đất sập thế gian tan tành, chớ cái không của chân tánh nó vẫn độc lập từ vô thỉ, nhẫn đến vô chung xưa nay chưa từng biến động, trùm cả mười phương thế giới hư không giới, cái không của chân tánh như thế, có cái gì làm cho nó hoại diệt ư ?

 

Nay nói cái không của chân tánh, không có vật chi để so sánh, cho nên sự bất đắc dĩ, tạm mượn cái ngoan không để so sánh đỡ đỡ thôi.

 

 

 

Thế nên trong Bát Nhã Tâm Kinh nói câu : Thị chư pháp không tướng.

 

Nghĩa là : Các pháp đều không, tức là cái không của chân tánh vậy. Kế câu : Không trung vô sắc và câu : Vô tận, diệc vô đắc, đều là nêu cái tướng không của chân tánh cả, song trong chân tánh không có chi nữa, như trong ngoan không đều không có chi cả. Trong chân tánh đã không có chi nữa. Thế mà có tất cả chúng sinh là do một món vọng duyên, trong chân tánh hiện ra, ví như một bóng bọt nổi trên mặt nước. Nước là chân tánh, bóng bọt là chúng sinh, bóng bọt tan, trả về cho nguyên chất của nước, không còn bóng bọt, cũng như chúng sinh hết vọng, trở về chân tánh không còn chúng sinh.

 

Lại nữa, chân tánh dụ như gương sáng, chúng sinh dụ như hình tượng.

 

Tượng có tới có lui nhưng gương thường sừng sững, chúng sinh có sinh có diệt, nhưng chân tánh vẫn như như. Sinh diệt đã trừ, chân tánh bèn hiện, sinh diệt là vọng, chân tánh là chân vậy.

 

Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói : Chư vọng, tiêu vọng, bất chân hà đãi.

 

Nghĩa là : Các vọng tiêu rồi, chẳng chân chớ chi nữa ?

 

Tánh chân đây, trên từ chư Phật, dưới đến loài xuẩn động hàm linh, tất cả đều có đủ, vốn không hề sai khác, nhưng khác, tức là vọng vậy.

 

---o0o---

 

CHN TM VÀ VỌNG TƯỚNG

 

Kinh Lăng Nghiêm quyển thứ nhất : Phật cùng ông A Nan bảy phen luận tâm. Nhưng rốt cuộc ông A Nan chỉ cái tâm tầm thường, cho là tâm, là vọng tưởng, chớ chưa phải là chân tâm, chân tâm tức là tánh (tịnh giác viên minh).

 

Kinh Viên Giác nói : Chúng sinh vọng nhận bóng duyên sáu trần cho là tâm tưởng của mình, đó là tầm thường, đó là bóng duyên của sáu trần, tâm vọng vốn không nhưng do ngoại cảnh có sáu món trần duyên cho nên trong hiện vọng tâm.

 

Như ngoại cảnh có sắc tốt, thời nội tâm khởi ra tâm ái sắc. Nhân ngoại cảnh có tiếng hay, thời nội tâm ái thính, cho đến nhân ngoại cảnh có : Hương, vị, xúc, pháp, thời nội tâm khởi ra tâm ái : Hương, vị, xúc, và pháp.

 

Luận rằng : Chân tánh như tấm gương, sáu trần như hình, vọng tâm như

 

bóng. Nếu ngoài không cảnh sáu trần, thời trong cũng không có tâm vọng.

 

 

 

Tâm vọng bị bóng duyên sáu trần. Hình đến bóng hiện, hình đi bóng diệt, mà tánh gương vẫn bất động.

 

Cho nên Kinh Kim Cang nói : Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, song ba tâm này đều gọi là tâm vọng tưởng cả, vì vọng tưởng cho nên có quá khứ, vì vọng tưởng cho nên có hiện tại, vì vọng tưởng cho nên có vị lai. Nếu chân tâm thì vô thỉ vô chung, chưa từng biến động nào có quá khứ, vị lai và hiện tại.

 

Câu “bất khả đắc” là nghĩa không vậy. Như lúc đói muốn ăn, khi được ăn, thời tâm muốn kia đã quá khứ (qua rồi). Chính khi đương ăn biết ngon dở, là tâm hiện tại. Trước khi chưa muốn ăn thời tâm này chưa có, tức là tâm vị lai. Ba tâm này đều theo thời gian hoại diệt, cho nên nói “Bất khả đắc”.

 

---o0o---

 

NGŨ UẨN GIAI KHÔNG

 

Trong Bát Nhã Tâm Kinh nói : Đức Quán Tự Tại Bồ tát ngài dùng Bát nhã trí, thấy rõ năm uẩn đều không, nên khỏi được tất cả sự khổ ách.

 

Năm uẩn là : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là : Sắc thân. Thọ là : Thọ

 

dụng. Tưởng là : Tư tưởng. Hành là : Hành vi tạo tác nghiệp lành nghiệp dữ.

 

Thức là : Phân biệt rõ biết.

 

Năm món đây chứa nhóm, kết chặt, ngăn che chân tánh cho nên gọi

 

“Ngũ Uẩn” hay gọi là “Ngũ Ấm” cũng đồng một nghĩa che tối chân tánh vậy.

 

Song sắc thân, chung quy về một định luật là hoại diệt. Thọ dụng cũng thế tùy thời liền qua. Thế thời Sắc, Thọ hai món đây đâu chẳng phải là không ư ? Vả như ta tư tưởng một vật chi, khi đã đặng rồi, thì là không tư

 

tưởng nữa vậy, thế thì tư tưởng đây đâu chẳng phải là không ư ?

 

Những hành vi tạo tác quày tâm xét lại, dường như mộng như huyễn thế

 

thì hành vi đây đâu chẳng phải là không ư ?

 

Thức ta phân biệt biết hết nhiều món sự vật nhưng sinh lại đời sau không còn biết nữa, thế thời vọng thức đây đâu chẳng phải là không ư ?

 

Câu tất cả sự khổ ách đều từ năm món này sinh ra. Nếu ta nay có thể dùng Bát nhã trí, soi thấu thấy rõ. Sắc thân là không, thời chẳng chấp nơi sắc thân mà sợ chết mất. Thế là độ khỏi một món khổ ách của Sắc uẩn. Thấy rõ thọ dụng là không, thời không cố thọ dụng, mà tham phụng dưỡng thân này, thế là độ khỏi một món khổ ách của Thọ uẩn. Thấy rõ tư tưởng là không, thời không đắm mê tư tưởng mà ý thường thanh tịnh, thế là độ khỏi một món khổ ách của Tưởng uẩn. Thấy rõ hành vi tạo tác tất cả là không, thời chẳng chấp chỗ sở hành mà được yên lặng thế là độ khỏi một món khổ ách của Hành uẩn. Thấy rõ chỗ phân biệt hiểu biết rốt cuộc vốn không, thời chẳng chấp sự hiểu biết và phân biệt, mà thường được chánh định thế là độ khỏi một món khổ ách của Thức uẩn vậy.

 

Cho nên trước đầu kinh có câu : “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” là vậy.

 

Song năm uẩn đây, đều là không phải lý chân thật, chính là bóng duyên vọng tưởng trong chân tánh hiện ra, cho đến 6 căn, 6 trần, 6 thức, 12 nhân duyên, 4 Đế cũng đều như thế cả.

 

---o0o---

 

PHẾ TM DỤNG HÌNH

 

Lời ông Vương Nhựt Hưu nói : Ông Bồ Tát “Tự lợi, lợi tha”.

 

Sách Liệt Tử nói : Đức Khổng Tử phế tâm dụng hình. Phế tâm là : Tâm không nhiễm với muôn vật. Dụng hình là : Ứng thân với muôn vật. Ta (Vương Nhựt Hưu) rất yêu lời ấy, cho nên dù lao khổ tiều tụy mà không lấy làm thất ý. Dù vinh hoa phụng dưỡng cũng chẳng lấy làm đắc ý. Bởi tâm không dính mắc với muôn vật vậy.

 

Nhân thương Bồ Tát đã dứt sinh tử, mới gá sinh trong tất cả chúng sinh, thi thiết giáo hóa, tâm không trước nhiễm muôn vật, hình ứng với muôn vật để giáo hóa vậy.

 

Thế thì đức Khổng Tử phát tâm như đây chính là bậc Bồ tát vậy.

 

---o0o---

 

DỤNG HÌNH HÀI THUYẾT

 

Bài kệ của vị Thiên nhân lễ xương khô.

 

Kệ rằng :

 

Người là đời trước của ta.

 

Ta tu nay chứng Thiên nhãn đà.

 

 

 

Y báu tùy tâm niệm hiện đến.

 

Cơm ngọc tự nhiên có hóa ra.

 

Nhờ ngươi kiếp trước tu hành khổ.

 

Khiến ta nay đặng ta khoái ta.

 

Rải hoa thành thật cúng dường đó.

 

Người đời thấy vậy chớ kinh la.

 

Lại bài kệ ngạ quỷ đánh tử thi (thây chết). Kệ rằng : Nhân tại đãy da hôi thối này.

 

Lăng xăng lít xít chạy liền quay.

 

Chỉ biết ham ăn ưa khoái lạc.

 

Chẳng chịu tạm hồi xét nghĩ thay.

 

Chút mảy nghiệp lành không tu tập.

 

Huỳnh tuyền tạo tội năm, tháng, ngày.

 

Hôm nay roi đánh đau tới nước.

 

Giận này khó nỗi quên tới mầy.

 

Hai bài kệ đây, để dạy người đời thời được, chớ không nên chấp chặt có đúng sự thật như vậy. Vì sao ? Bởi thần thức gá trong xác thân này, do thần thức sai khiến. Thần thức ví như người thợ, xác thân dụ như rìu búa. Người thợ biết dùng rìu búa khéo, thời làm món đồ tốt, dùng không khéo, thời món đồ phải xấu. Vị Thiên nhân đời trước biết dùng thân tu hành, nên nay được phước làm vị Thiên nhân. Còn loài ngạ quỷ đời trước không biết dùng thân tu hành cứ làm ác, nên nay mắc báo làm loài ngạ quỷ đó cũng tại chỗ khéo dùng, cùng không khéo dùng, đắc, thất cũng tại đời trước, mà nay phải thọ

 

báo đó thôi. Chớ dù lễ dù đánh, cũng nào có ích ?

 

---o0o---

 

TỀ SINH TỬ THUYẾT - DỨT SINH TỬ

 

Tưởng ngón chân cái bên phải, sưng rữa chảy nước nhơ, lần lần rữa tới ống chân, tới gối, tới lưng, chân bên trái cũng thế. Dần dần rữa khỏi trên lưng, đến bụng, đến ngực, cho đến cổ, đến đầu, cả mình đều rữa ráo, chỉ còn xương trắng.

 

Kế phân rành từng cái, quán xem xương trắng ấy, mỗi mỗi thấy hết.

 

Tịnh tâm quán xem xương trắng thật lâu, mới nghĩ : Người quán xương trắng này là ai ? Và xương trắng kia là ai ? Mới biết thân thể với thần thức ta, vẫn là hai vật. Lại lần lần tập quán xương trắng lìa ta, trước lìa một trượng, rồi đến 5 trượng, 10 trượng cho đến 100 trượng, 1000 trượng, thời biết xương trắng cùng ta rõ ràng không ăn thua chi cả. Thường tưởng như

 

thế thời thần thức cùng thân thể ta vốn là hai vật.

 

 

 

Thần thức tạm ở trong thân thể, thân thể dụ như cái nhà. Thần thức dụ

 

như chủ nhà, chủ đi nhà sập, cũng như thức thần ra, thân này phải rã.

 

Đâu nên nói rằng : Hình hài này chết lâu không hoại và thần thức ở mãi trong đó ư ?

 

Tu hành quán tưởng như thế, thời mới ngõ hầu dứt được đường sinh tử.

 

Huống chi, thức thần bỏ thân này, thời được vãng sinh về Tịnh độ. Mỗi ngày cứ tu như thế, tự nhiên có chỗ đặng, chỗ đặng ai tu nấy biết, như người uống nước, lạnh nóng người khác không thể biết đặng. Tu được như thế, thời thân thể tráng kiện, và tinh thần thường được sáng ngỏ vậy.

 

---o0o---

 

NGÃ THUYẾT

 

NÓI VỀ SỰ : Còn cái hữu ngã, không nên chấp rằng vô ngã, nếu chấp vô ngã thời sa theo vật dục.

 

LUẬN VỀ LÝ : Do tứ đại giả hiệp, tuy rằng : Hữu ngã, nhưng không nên chấp hữu ngã. Nếu chấp hữu ngã, thì lùm mây đen (vật dục) che lấp mặt nhật Huệ (chân tánh).

 

Cho nên đức Khổng Tử làm thi tứ tuyệt có câu : “Vô ngã” thật vậy. Ông Bồ Tát thời “Vô ngã tướng”.

 

Nếu ta hiểu thấu đặng lý này, thời tâm lượng ta cũng như hư không, thênh thang vô biên tế, há còn cái phân biệt. Trược với thanh nữa ư ? Nhưng chỉ sợ, là sợ không dễ gì đạt thấu lý : Tâm Vô ngã thôi !

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MU NI PHẬT

 

QUYỂN MƯỜI HẾT

 

 

 

 

 

---o0o---

 

LỜI BẠT - CHỨC THAM CHÁNH ÔNG CHU ĐẠI TƯ VIẾT (LỜI

 

ÔNG CHU ĐẠI TƯ)

 

Ông Long Thơ, Vương Nhựt Hưu là người học lực thâm chí, thông hiểu sáu kinh : Luận, Mạnh, Lão, Trang, những chỗ cốt yếu của tiền nhân, ông không bỏ một lời một chữ, chỗ dụng chí rất cần.

 

Thế mà, một bữa nọ, ông bỏ ráo, chuyên tu theo giáo môn Tây phương, làm văn Tịnh độ, sắp đặt chỗ dở, hay, cao, thấp, có lớp lang để ấn thí cho những kẻ hữu duyên với quyển này. Ông lại qua đất Triết Giang và các quận, thân hành khắc bản để trong nhà bán sách nơi tỉnh Kiến An (bên Trung Hoa) lòng từ băn khoăn hình như không có bữa mô rảnh.

 

Tôi, (Đại Tư) nghe trong Kinh Vô Lượng Thọ nói : Chúng sinh nghe đặng danh hiệu Phật, tín tâm hoan hỷ nhẫn đến một niệm nguyện sinh nước kia, liền được vãng sinh, đặng bậc Bất thối chuyển.

 

Bất thối chuyển theo tiếng Phạm “A dung việt trí”, Kinh Pháp Hoa nói : Đức Di Lặc Bồ Tát đã chứng đặng bậc này. Nay chúng ta, nếu nhất tâm niệm Phật, được sinh về Tây phương liền đồng đức Di Lặc. Lời Phật nói không dối, ta nên tín thọ.

 

Niên hiệu Thiệu Hưng ngày mùng 7 tháng tư nhuần, năm Nhâm Ngọ, ông Duy Tâm cư sĩ ở đất Kinh Khê, họ Châu tên Quỳ, hiệu Đại Tư viết lời bạt này.

 

---o0o---

 

LỜI BẠT - CHỨC TRẠNG NGUYÊN ÔNG LƯU THỊ CHẾ VIẾT

 

Trước nghe đức Lục Tổ cùng ông Di Sử Quân luận tướng trạng Tây phương, lời giản dị, ý rất rõ ràng. Đông (Ta bà), Tây (Tịnh độ) không hề xa cách, nhưng không lấy gì mô tả tướng trạng để thuật lại cho lớp sau, kịp xem văn Tịnh độ của ông Vương Nhựt Hưu ai dè rành rành vậy !

 

 

 

Số là, pháp không đốn, tiệm, nhưng căn có lợi và độn, cho nên đức Lục Tổ vì bậc người thượng trí, thuyết pháp đệ nhất nghĩa. Nên dời Tây qua Đông ở trong giây phút nói rồi tỉnh ngộ, không chờ nghĩ nghị, còn ông Vương Nhựt Hưu toan muốn khai ngộ cho kẻ hạ căn, luận làm bộ này, chỉ

 

đường lối đi về Tây phương, nên lật đật khắc bản ấn hành mà sợ hành không được rộng, cũng bởi một tâm thương người, khá gọi rằng : đã Cần lại Thiết vậy.

 

Có người nhân được văn ông Vương Nhựt Hưu mà ngộ nhập ấy đâu chẳng phải. Đặng chim bẻ ná, được cá quên (phá) nôm ư !

 

Niên hiệu Thiệu Hưng, năm Nhâm Ngọ tháng sáu ngày mùng sáu, ông Mộc Nọp, tên Lưu Chương, biệt hiệu Lưu Thị chế viết lời bạt này.

 

---o0o---

 

LỜI BẠT - CỦA NGÀI DIỆU HỶ TỨC NGÀI ĐẠI HUỆ THIỀN SƯ

 

VIẾT (LỜI NGÀI ĐẠI HUỆ NÓI)

 

Ông Long Thơ Vương Hư Trung Nhựt Hưu, sau khi bác lãm quần thư, lại để tâm xem kinh Phật, lấy việc lợi người làm nhiệm vụ mình, thật đáng gọi ông là bậc “Hỏa trung liên giả” (Sen mọc trong lửa) hay là tức tục nhi chân, cư trần bất nhiễm. Phật nói : Tự mình chưa độ, trước lo độ người là : Bồ tát phát tâm. Tự giác đã viên, lại hay giác người là : Như Lai ứng thế.

 

Ta (Diệu Hỷ) khen chí ông Long Thơ nên đề lời bạt sau đây. Nếu bậc đã thấy tánh mình là Di Đà, tức rõ Tịnh độ tại nơi tâm, bằng người chưa đặng như thế, thời quyển văn ông Long Thơ này, công chẳng luống uổng vậy.

 

Năm Canh Thìn, tháng 8, ngày 20, chùa Song Kinh, ngài Diệu Hỷ hiệu Tôn Hạo viết lời bạt này, tại nhà sách của Lưu Cảnh Văn (xứ Trung Hoa).

 

---o0o---

 

LỜI MỘNG KÝ NGƯỜI LÝ THỊ Ở ĐẤT LÔ LĂNG (xứ Trung Hoa)

 

Người Ngạn Bật, là người con nhà họ Lý. Trong niên hiệu Càng Đạo, năm Quý Tỵ, trong nhà mắc chứng bệnh dịch. Ngày mùng 5 tháng 4, Ngạn Bật cũng bệnh, cơm thuốc không nạp, đến sớm mai ngày 19, nằm mộng thấy một người mặc áo rộng hình dạng thanh bai, lấy tay rờ trên mình Ngạn Bật và nói ta cho Ngạn mau mạnh. Ngạn Bật sợ nói : Ông là người nào ?

 

 

 

- Ta là Long Thơ.

 

- Tôi có bệnh dậy không nổi, có phương chi cứu tôi lành mạnh chăng ?

 

- Ngươi có nhớ chàng Quan Trọng dạy ngươi niệm Phật không ?

 

- Nhớ và mỗi ngày tôi vẫn tụng niệm Phật A Di Đà không thôi.

 

- Ngươi dậy ăn cháo trắng, bệnh liền mạnh.

 

Bấy giờ Ngạn Bật thức dậy ăn cháo trắng bệnh liền mạnh. Sau thấy tượng vẽ ông Long Thơ, giống in như người thấy trong mộng, Ngạn Bật có nghe, cư

 

sĩ là người lão thông 6 kinh, lại rành bộ kinh Dịch dạy người không mỏi, kẻ tới học rất đông đảo. Người Tạ Quân cất nhà Tịnh Dật cúng cho ông, kẻ lương gia tử đệ dập dìu đầy ngoài ngõ. Ngày 11 tháng giêng, Ngạn Bật cho con đến học, chẳng bao lâu về nói : Cư Sĩ đêm nay giảng sách xong, tụng kinh lễ Phật như

 

thường, nhưng đến canh ba, niệm vài tiếng Phật thật to và nói Phật đến rước ta, nói rồi đứng qua đời !

 

Đêm đó người trong nước có kẻ mộng thấy 2 người mặc áo xanh dẫn ông đi về hướng Tây. Truyền ra điềm tốt này, kẻ quen biết cùng người không quyến thuộc biết, rủ nhau đến lễ kính đầy nhà, nhưng tiếc vì không được nghe ông thuyết pháp luận.

 

Nhắc lại trước ba ngày chưa thị tịch, ông dặn cả các người gắng tấn đạo nghiệp, có nghe ông nói : “Sau này không còn thấy tôi nữa”. Trước 10

 

ngày đến viếng cụ Triệu Công, qua tịnh thất người bạn Hàng Tá nói rằng : Đạo nghiệp của tôi đã xong, giờ đi tốt. Rồi liền cộng số niệm Phật mỗi ngày tính kể : Chín trăm mười hai vạn năm trăm câu, dán trên vách nhà ông cụ

 

Triệu Công Trưởng Lão.

 

Ôi! Nếu ta chưa phải là người căn tánh sáng ngỏ thấu lý tử sinh, thời không dễ gì đến bậc này ! Ngạn Bật một phen bệnh gần chết, quan quách áo chăn đã bày ra ở trước, nhờ Cư sĩ ban ơn cứu giúp, bèn đặng mạnh lành, khá gọi là : “Cốt nhục tử sinh” vậy ! Kẻ hoặc hỏi : Ngạn Bật mộng thấy là nhân tư tưởng mà thấy ! Song việc hiệu nghiệm ăn cháo trắng đâu khá dối ư

 

?

 

Chỉ biết Cư sĩ lòng bi nguyện thậm thâm, công muốn kịp người. Tuy ở

 

trong cõi Thường Tịch Quang, nhưng không quên niệm lực, ngài khuyến tu Tịnh độ, kết duyên thành Phật, khá chẳng gắng vó và tiến tới hay sao ?

 

 

 

Kính khắc tượng ngài và chép sự tích cảm ứng để rộng truyền không dám trôi lời, vì sợ lầm truyền người sau, cho nên thấy sao thuật vậy, chép đủ

 

ra đây. Trong mong kẻ thấy người nghe kính tín, đồng nhờ lợi ích. Thần linh sáng ngỏ của ông Vương, thật chứng lời này !

 

Ông họ Vương tên Nhựt Hưu, tự Hư Trung hiệu Long Thơ Cư sĩ, năm này : ngày Hạ ngươn, đất Lô Lăng ngươi Lý Ngạn Bật kỉnh ghi lời bạt này.

 

---o0o---

 

TỰ LỢI LỢI THA

 

Kinh nói : Chưa đặng độ mình, trước lo độ người là Bồ Tát phát tâm. Tự

 

giác đã viên, lại hay giác tha là Như Lai ứng thế.

 

Chúng ta đáng bắt chước theo chí nguyện của ngài Long Thơ Vương Nhựt Hưu. Sau khi bác lãm quần thơ, để tâm qua đạo Phật, lấy việc lợi người làm nhiệm vụ mình, thật là một “Hỏa trung liên giả” hay là tức tục nhi chân cư trần bất nhiễm. Nếu thấy tánh mình là Di Đà, liền rõ nơi tâm là Tịnh độ. Bằng chưa như thế thời bộ Long Thơ Tịnh độ này giá trị càng thêm giá trị.

 

---o0o---

 

TỰ LỢI LỢI THA

 

Thế nào tự lợi, lợi tha ? Kinh Hoa Nghiêm nói : Một tức tất cả, tất cả tức là một, thật vậy. Tất cả giữa này không có cái gì một mình nó, mà đứng vững và tồn tại, như một chén cơm ta ăn đây không phải một mình ta làm ruộng mà có cơm ăn. Lại còn nhờ người thợ rèn, rèn phản, rèn cuốc mới có thể làm ruộng được, nhưng thợ rèn không thể tụ lực rèn phản, rèn cuốc đặng, lại còn phải nhờ người đi tìm mỏ sắt nữa kia v.v…

 

Trái lại, người làm ruộng, có cơm ăn nhưng không thể ăn cơm lạt, cần có người làm muối, nhưng người làm muối chẳng lẽ ăn muối không ! Cần phải đem đổi gạo nấu cơm ăn. Nhưng cơm ăn không lẽ đổ dưới đất ăn ! Cần phải có người làm chén, mà người làm chén, không lẽ ăn chén được, cần phải bán chén lấy tiền mua gạo nấu cơm ăn trở lại, cho đến người có tiền, cũng chẳng lẽ ăn tiền, mà cần nhất phải đem tiền mua vật này vật khác để

 

ăn nữa.

 

Xem như thế thời trong vũ trụ này, từ loài người cho đến loài thảo mộc, không có một loài nào, riêng một mình mình mà được sinh trưởng và tồn tại.

 

Ta không nên tự phụ rằng : Ta làm ta ăn không cần đến ai. Đừng nói đâu xa chính trong mâm cơm ta ăn đây thì biết, bao nhiêu công nghệ của bao nhiêu người rồi ! Đức Phật dạy chúng Tăng khi ăn cơm phải tưởng phép “Tam Đề, Ngũ Quán” là nghĩa này. Khi sắp ăn, trước cúng dường mười phương Phật, cầu nguyện cho thí chủ, sau “Xuất sinh” (thí) cho quỷ thần ăn no đủ.

 

Là không quên nghĩa tự lợi, lợi tha, và biết ơn tất cả. Chẳng những ở gần bên cạnh mà người ở đâu đâu, bấy lâu ta không quen biết, cũng đều là ân nhân với ta cả.

 

Ví như ta đau, tiêm một mũi thuốc, chẳng những ơn một ông thầy thuốc tiêm cho ta, mà là biết ơn bao nhiêu tất cả bậc tiền nhân đã có công lao chế

 

tạo và làm sách để lại. Ta quán được như thế, thì tất cả đồng bào là ruột thịt, tương thân, tương ái. Khi ta ra đi, thấy tất cả người làm công này nghề

 

khác. Người làm việc người, tức là làm việc cho ta. Ta làm việc ta, tức là làm việc cho người, vì rằng : Làm riêng mà ăn chung vậy.

 

Bộ Long Thơ Tịnh độ này từ đầu chí cuối, chỉ mục đích tự lợi, lợi tha.

 

Ông Vương Nhựt Hưu sau khi thi đậu Tấn sĩ xem qua giáo lý Phật Đà cao thượng mà phát tâm, chớ không phải là kẻ “chán đời” và đem món thuốc cam lồ của đạo Phật giúp ích một phần trị an cho hội, chớ không phải ký sinh trùng. Như trong bộ sách này đã nói : Đạo Phật không khác như đạo Nho.

 

Đạo Nho dạy phép Tam cang, Ngũ thường, cũng như đạo Phật dạy tín đồ

 

phép Tam quy, Ngũ giới đều là chủ nghĩa giúp ích nhân quần xã hội tự lợi lợi tha cả.

 

Vậy rất mong quý đạo hữu đồng tu, đồng học gắng tìm xem đạo lý, giáo lý Phật Đà cho chín chắn, hầu mong cải tạo thế giới bất lương, thường niệm Phật A Di Đà, để sửa chữa cho được một tâm hồn trong sạch. Giúp đỡ và đoàn kết tương thân liên ái, con thảo cha lành, hòa thuận yêu thương, đừng đánh đập nhau, đừng hà hiếp nhau, mạnh được yếu thua và nguyện cùng nhau thoát ly sinh tử và nguyện đồng cùng nhau sinh lên cõi Tịnh độ một nhà, khá vậy.

 

---o0o---