Lương Hoàng Sám
Lương Hoàng Sám (P1)
QUYỂN THỨ NHỨT
SÁM PHÁP TỪ BI ÐẠO TRÀNG
Từ bi Ðạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy.
Nhơn vì cảm thấy Ðức Phật Di Lặc, dủ lòng từ bi, thương đời hiện tại và đời vị lai, ứng mộng dạy bảo, đặt tên như thế, đúng như sự thật, không dám đổi thay.
Nay vâng lời dạy bảo của Ðấng Từ Bi ấy là vì muốn hộ trì Tam bảo: làm cho ma quân ẩn hình, khiến người tự cao tự đại và người tăng thượng mạn phải tự chiết phục; khiến người chưa trồng căn lành phải trồng căn lành; người đã trồng rồi, thì làm cho căn lành thêm lớn; khiến người hay chấp lấy chỗ sở đắc (đắm trước tà kiến, phải phát tâm xả bỏ chấp trước; khiến người ưa tiểu thừa không nghi đại thừa ; người ưa đại thừa sanh tâm hoan hỷ tiểu thừa.
Vả lại, pháp sám từ bi nầy lớn hơn tất cả các việc lành khác. Pháp nầy là chỗ quy y của hết thảy chúng sanh; như mặt trời sáng ban ngày; như mặt trăng chiếu ban đêm. Pháp này là tròng con mắt, là đạo sư, là cha mẹ, là anh em, là chơn thiện tri thức của người tu hành, đồng đi đến đạo tràng.
Pháp sám nầy thân thích hơn huyết nhục; đời đời theo nhau, dầu đến chết cũng không rời nhau. Vì thế nên gọi Pháp sám nầy là Từ Bi Ðạo Tràng.
Hôm nay Ðại chúng ẩn thân hay hiện hình trong Ðạo tràng, lập ra Pháp sám nầy đều phát đại tâm, vì có mười hai nhơn duyên lớn.
Những gì là mười hai?
1.- Một là nguyện hóa độ sáu đường ([6]) chúng sanh không có hạn lượng.
2.- Hai là chuyện báo đáp tứ ân không có hạn lượng.
3.- Ba là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến chúng sanh thọ cấm giới của
Phật, không sanh tâm hủy phạm.
4.- Bốn là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối với các bậc
tôn trưởng không sanh tâm kiêu mạn.
5.- Năm là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, sanh ra nơi nào
cũng không khởi tâm giận hờn.
6.- Sáu là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh đối với sắc thân
người khác, không khởi tâm ghen ghét.
7.- Bảy là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối với các
pháp trong thân, ngoài thân, không sanh tâm keo rít, mến tiếc.
8.- Tám là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, hễ làm được
phước thiện gì, đều không phải vì mình mà làm, chỉ vì những người không có ai ủng
hộ, không có ai giúp đỡ mà làm.
9.- Chín là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh không vì mình
mà tu pháp tứ nhiếp ([7]) mà chỉ vì hết thảy chúng sanh.
10.- Mười là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, thấy người
cô độc tù tội, tật bệnh thì sanh tâm cứu giúp, cho họ an vui.
11.- Mười một là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến người tu hành, thấy có
chúng sanh nào đáng chiết phục thì chiết phục, đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ.
12.- Mười hai là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, sanh ra
nơi nào, cũng tự nghĩ nhớ đến sự phát tâm bồ đề hôm nay, làm cho tâm bồ đề tương
tục mãi mãi không bị gián đoạn.
Ngưỡng mong Ðại chúng hoặc phàm hoặc thánh, hoặc ẩn thân hay hiện hình trong Ðạo Tràng nầy, đồng gia tâm phù hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên . . . . sám hối được thanh tịnh, thệ nguyện được thành tựu, tâm đồng tâm chư Phật, nguyện đồng nguyện chư Phật. Chúng sanh trong bốn loài ([8]), sáu đường do đó mà được mãn bồ đề nguyện.
CHƯƠNG THỨ NHẤT
QUY Y TAM BẢO
Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng mọi người đều nên sanh tâm giác ngộ; biết đời là vô thường, thân không sống lâu, trẻ mạnh rồi phải già yếu; chớ ỷ hình dung tốt đẹp mà không tự giữ gìn tịnh hạnh.
Vạn vật cũng vô thường thảy đều tiêu diệt. Trên trời dưới đất, không có vật gì tồn tại mãi mãi. Lúc còn trẻ, nhan sắc tốt đẹp, da thịt mịn màng, thơm tho trong sạch. Nhưng thân nầy cũng vô thường. Người sống có hợp có tan. Sanh già bệnh chết không hẹn mà đến, ai sẽ trừ khử khổ ấy cho ta. Tai họa thình lình đưa đến biết đâu mà tránh, không thể thoát được. Sang, hèn, giàu, nghèo, thảy đều nhơn vậy mà chết. Chết rồi thân thể sình chương, thối không chịu nổi. Vậy luyến tiếc thân nầy nào có ích gì. Nếu không lo tu nghiệp lành thù thắng, thì do đâu mà thoát ly sanh tử.
Ðệ tử chúng con tên . . . tự nghĩ rằng: Hình tợ sương mai, mạng như nắng chiều: đời sống mong manh; chưa biết chết lúc nào. Lại thêm nghèo thiếu, không có phước đức đáng xưng; không có trí tuệ sáng suốt, không có hiểu biết như đại nhơn thần thánh; lời nói không tốt đẹp, không trung hòa, nhơn nghĩa, hạnh kiểm tiến thối không có lễ độ, tôn ty. Nếu lầm lập chí như vậy, càng thêm mệt nhọc cho sự tu hành.
Ngưỡng mong Ðại chúng sanh lòng hổ thẹn, sợ hãi. Pháp hội nầy lập có kỳ hạn, nếu không lo sám hối sau luyến tiếc, hối hận cũng không thể được.
Từ nay trở đi nguyện phải nỗ lực, sớm tối chuyên tâm, phụng sự cúng dường càng thêm tinh tấn . Chỉ có việc ấy là khoan khoái, cần làm hơn hết.
Ngưỡng mong Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng, nên phải ân cần, thận trọng, phát tâm dõng mãnh, tâm không buông lung, tâm an trú, tâm quảng đại, tâm thù thắng, tâm đại từ bi, tâm lạc thiện, tâm hoan hỷ, tâm báo ơn, tâm tế độ, tâm giữ gìn hết thảy chúng sanh; tâm cứu hộ hết thảy chúng sanh, tâm đồng tâm Bồ Tát; tâm đồng tâm chư Phật! nhất tâm nhất ý, chí thành đảnh lễ Tam Bảo.
Nguyện xin thay thế quốc vương, đế chúa, thổ địa, nhơn dân, thế cho cha mẹ, sư trưởng thượng, trung, hạ tòa, thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ([9]), và hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận, trong mười phương, có tâm linh, có thần thức, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên khô, hoặc ở giữa hư không; nguyện thế cho hết thảy chúng sanh ấy mà quy y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật. (1lạy)
- Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp. (1lạy)
- Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy hiền Thánh Tăng. (1lạy)
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nên biết vì cớ gì mà phải quy y Tam Bảo.
Vì các Ðức Phật, các vị Bồ tát, có lòng đại từ vô lượng độ thoát thế gian, có lòng đại bi vô lượng, an ủy thế gian, thương hết thảy chúng sanh như con đỏ.
Lòng đại từ đại bi ấy thường không biết mỏi mệt, hằng cầu việc lành lợi ích cho tất cả: thề dập tắt lửa tham sân si cho tất cả, giáo hóa khiến cho tất cả đều được quả vô thượng bồ đề. Nếu chúng sanh không chứng quả bồ đề. Phật thề không thành chánh giác, vì duyên cớ ấy nên đại chúng cần phải quy y Tam Bảo.
Vả lại các đức Phật thương xót chúng sanh quá hơn cha mẹ thương con.
Trong kinh dạy rằng: “Cha mẹ thương con chỉ một đời. Phật thương chúng sanh tâm không cùng tận. Lại nữa cha mẹ thấy con vong ân bội nghĩa, thì sanh lòng giận hờn, tình thương giảm xuống. Phật và Bồ tát thương chúng sanh, lòng không như vậy. Thấy chúng sanh bội nghịch lòng thương của Phật và Bồ tát càng tăng lên mãi.
Các Ngài còn vào trong địa ngục hỏa luân, địa ngục vô gián mà chịu vô lượng khổ, thế cho chúng sanh.
Vì thế nên biết rằng chư Phật và Bồ tát thương xót chúng sanh hơn cha mẹ thương con. Vậy mà chúng sanh vì vô minh ([10]) che lấp trí huệ, phiền não che lấp tâm tánh, đối với Phật và Bồ tát không biết quay đầu lại mà quy y, không biết ngưỡng mộ. Thuyết pháp giáo hóa, chúng sanh cũng không tin, không chịu mà còn thô lỗ, phỉ báng, chưa từng phát tâm niệm ơn chư Phật.
Vì chúng sanh không tin nên đọa vào đường ác: địa ngục, ngã quỷ, súc sanh; khắp trong ba đường ác ấy, chịu vô lượng khổ.
Tội hết được ra, tạm sanh làm người, tai mắt không đủ, thân thể xấu xa, không tu thiền định, không tu trí huệ.
Chúng sanh có những quả báo chướng ngại như vậy là do không có lòng tin.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng biết tội không tin nặng hơn các tội, khiến người tu hành lâu không thấy Phật.
Hôm nay đại chúng tự phải cùng nhau khẳng khái tu hành, chiết ý tỏa tình sanh tâm tăng thượng, khởi lòng hổ thẹn, cúi đầu cầu xin sám hối tội cũ. Nghiệp lụy hết rồi, trong ngoài thanh tịnh, sau mới vận tâm quay về đức tín, phát lòng tin tưởng Tam Bảo. Nếu không khởi tâm như vậy, vận tưởng như vậy, sợ lòng tin phải cách tuyệt, chướng ngại khó thông. Một khi đã mất nẻo xu hướng, thì mờ mịt không biết về đâu! Vậy thì chúng con không thể không tin mà phải đầu thành đảnh lễ quy y Tam Bảo, không dám nghi ngờ.
Ðệ tử chúng con tên . . . nay nhờ sức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát mới mong hiểu biết, rất lấy làm hổ thẹn. Những tội đã làm nguyện xin trừ diệt. Những tội chưa làm không dám làm nữa.
Từ nay trở đi, cho đến ngày thành Phật, khởi lòng tin kiên cố, không dám thối lui.
Xả thân nầy hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh vào ngã quỷ, hoặc sanh vào súc sanh, hoặc sanh làm người, hoặc sanh làm trời, ở trong ba cõi, hoặc thọ nam thân, hoặc thọ nữ thân, hoặc thọ phi nam phi nữ thân v.v. . . hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc lên hoặc xuống chịu đủ khổ não, không thể chịu nổi, chúng con xin thề: không vì khổ ấy mà thối mất lòng tin ngày nay.
Thà chịu bao nhiêu khổ lụy trong muôn ngàn ức kiếp, chúng con xin thề: không vì khổ mà thối mất lòng tin hôm nay.
Nguyện xin chư Phật, chư đại Bồ tát, đồng gia tâm cứu hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên . . . tín tâm được kiên cố, đồng như tâm của chư Phật, đồng như nguyện của chư Phật, tà ma ngoại đạo không thể phá hoại tín tâm của chúng con.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, quy y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật.
Quy y mười phương tận hư không giới, hết thảy Tôn Pháp.
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng hãy lắng lòng mà nghe.
Than ôi! Cõi Trời, cõi người đều huyễn hoặc, thế giới là giả dối.
Do vì huyễn hoặc, không chơn thật, nên kết quả cũng không chơn thật. Giả dối mong manh nên biến hóa vô cùng.
Kết quả không chơn, sở dĩ phải chìm đắm mãi trong vòng sanh tử. Biến hóa không cùng, sở dĩ phải trôi lăn hoài trong biển ái khổ đau. Thấy chúng sanh đau khổ như vậy, Phật rất thương xót.
Kinh Bi Hoa dạy rằng: “Các vị Bồ tát thành Phật đều có bổn nguyện”.
Ðức Thích Tôn không hiện thân sống ở đời lâu dài, thọ mạng Ngài ngắn ngủi là vì thương chúng sanh ở cõi nầy, sống yểu uổng trong nháy mắt rồi chết, như biến hóa, chìm mãi trong biển khổ không ra được. Vì thế nên Phật ở cõi nầy cứu chúng sanh tệ ác, phải tạm dùng lời cứng rắn khổ khắc, thiết tha mà dạy bảo.
Ngài ở trong biển khổ, cứu độ chúng sanh, chưa từng khi nào không lưu tâm đến sự hoằng hóa, tế độ, lợi ích cho chúng sanh, bằng cách ứng dụng thiện pháp làm phương tiện.
Sở dĩ kinh Tam muội dạy rằng: “Tâm chư Phật là tâm đại từ bi; chỗ tâm từ bi của Phật soi đến là chỗ chúng sanh đau khổ”.
Phật thấy chúng sanh chịu khổ não như tên bắn vào lòng Phật, như phá tròng mắt Phật. Thấy rồi thương xót, tâm không tạm yên. Cho nên Phật muốn diệt khổ ngay cho chúng sanh được an vui.
Lại nữa, trí huệ của chư Phật là trí huệ bình đẳng, nên Phật hóa độ chúng sanh cũng bình đẳng. Như đức Thích Tôn ai cũng xưng Ngài là Ðấng Bình đẳng. Ngài dõng mãnh, chịu khổ độ thoát chúng sanh, cho nên biết ân đức Bổn sư rất nặng.
Ngài hay ở trong khổ não thuyết pháp, lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Ngày nay chúng sanh không được giải thoát là về trước kia không nghe được âm thanh vi diệu của Phật thuyết pháp; về sau không thấy được Phật niết bàn. Chúng sanh vì nghiệp chướng ngăn che nên xa cách lòng thương của Phật.
Bây giờ chúng con hãy cùng nhau sanh tâm thương tiếc. Vì thương tiếc nên thiện tâm nồng hậu, ở trong đau khổ chúng con nhớ ơn chư Phật , kêu cầu thảm thiết, ảo não khóc lóc, chí thành đảnh lễ, năm vóc sát đất, nguyện vì quốc vương và quyến thuộc của quốc vương, thổ địa nhơn dân, phụ mẫu, sư trưởng, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư thiên . . . . chư tiên, thông minh, chánh trực, thiên địa hư không, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ, cùng khắp hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận trong mười phương mà quy y mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật. (1lạy)
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp. (1lạy)
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1lạy)
(Toàn thể đều quỳ chắp tay tâm niệm và tiếp tụng) :
Chư Phật đại thánh tôn,
Thấu rõ hết thảy pháp,
Ðạo sư của Trời người
Cho nên nguyện quy y.
- Tôn pháp tánh thường trú,
Thanh tịnh tu đa la ([11])
Hay trừ bệnh thân tâm,
Cho nên nguyện quy y.
- Ðại địa chư Bồ tát ([12])
Vô trước tứ sa môn ([13])
Hay cứu hết thảy khổ
Cho nên nguyện quy y.
- Tam Bảo cứu thế gian
Vì sáu đường chúng sanh,
Con nay xin đảnh lễ,
Quy y thế tất cả.
- Từ bi che hết thảy
Khiến đồng được an vui.
Thương xót cả muôn loài
Chúng con đồng quy y.
(Mọi người đều đảnh lễ sát đất và tự niệm rằng) :
Nguyện xin hết thảy mười phương Tam Bảo đem từ bi lực, bổn thệ nguyện lực, bất tư nghị lực, vô lượng tự tại lực, độ thoát chúng sanh lực, phú hộ chúng sanh lực, an ủy chúng sanh lực. Ðem những năng lực ấy khiến các chúng sanh đều giác ngộ, chúng con tên . . . ngày nay vì các chúng sanh ấy mà quy y Tam bảo.
Chúng con xin nhờ công đức nầy có năng lực khiến các chúng sanh ấy đều được mãn nguyện.
Nếu các chúng sanh ấy hoặc ở trong loài trời, loài tiên thì được hết nghiệp hữu lậu. ([14])
Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài a tu la thì khiến họ xả bỏ tánh kiêu mạn.
Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài người thì khiến cho hết khổ đau.
Nếu các chúng sanh ấy ở trong các loài địa ngục, ngã quỷ, súc sanh thì khiến cho liền được giải thoát.
Lại nữa, ngày nay người nào nghe được danh hiệu của Tam bảo, và người không nghe được cũng đều nhờ được thần lực của Phật mà được giải thoát, hoàn toàn thành tựu vô thượng bồ đề, đồng với các đại Bồ Tát thành bậc chánh giác.
CHƯƠNG THỨ HAI
DỨT NGHI NGỜ
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng lắng lòng mà nghe. Luận rằng: nhơn quả ảnh hưởng, lẫn nhau cảm ứng tương sanh ([15]) nhau; đạo lý tự nhiên như vậy không sai lầm. Nhưng về hạnh nghiệp ([16]) của chúng sanh, mỗi người một khác không giống nhau, nên quả báo cũng không giống nhau; hoặc tinh thô, hoặc sang hèn, hoặc thiện hoặc ác sai khác muôn vàn. Ðã có sai khác thì không rõ nguyên nhơn sự sai khác ấy do đâu. Vì không rõ nên sanh ra nghi ngờ, lầm lạc. Hoặc nói người tinh tấn tu hành, giữ giới trong sạch, đáng lẽ được sống lâu, sao lại chết sớm. Người hàng thịt (đồ tể), đáng lẽ chết sớm sao lại sống lâu. Người thanh liêm đáng lẽ được giàu sang, sao lại thấy nghèo thiếu. Người tham lam trộm cướp, đáng lẽ nghèo thiếu khốn khổ, sao lại giàu có phong lưu!
Nghi ngờ sai lầm như vậy ai cũng có nghĩ đến không tránh khỏi. Do vì không rõ việc của mình đã làm từ bao kiếp trước, hột giống của mình đã gieo không thuần, nên ngày nay đem lại kết quả bất nhất như vậy.
Kinh Bát nhã dạy rằng: “Nếu người nào đọc tụng kinh nầy, bị kẻ khác khinh chê, là vì người ấy đời trước có tội nghiệp nặng, đáng đọa vào đường ác. Ngày nay nhờ người khinh chê nên tội nghiệp đời trước được tiệu diệt.
Bởi chúng sanh không hết lòng thâm tín lời Phật dạy, mới có tâm nghi ngờ. Chúng sanh bị vô minh cho hoặc, cho lấp tâm tánh nên luống sanh tâm nghi ngờ điên đảo như vậy.
Chúng sanh lại cũng không tin: còn ở trong ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là vui. Những người thường say đắm thế gian đều cho đời là vui.
Chúng ta thử hỏi:
Nếu đời thật là vui, cớ sao trong tâm biết vui ấy lại có tâm biết khổ.
Ăn uống quá độ liền sanh tật bệnh: ban sởi, ho hen, khí tức, cổ trướng, đau đớn, khó chịu.
Nói đến y phục, càng thấy khổ nhiều. Lạnh được áo mỏng thì bạc ơn người cho, lòng nghĩ nông nổi.
Nắng được áo kép, lông chiên, khổ não càng nhiều. Nếu y phục là vui, cớ sao lại sanh khổ não.
Nếu cho gia đình quyến thuộc là vui, lẽ ra cùng nhau vui mãi, hoan lạc ca cười không dứt, cớ sao thoặc vậy vô thường, qua đời trong nháy mắt! Vừa có đó liền không đó. Sớm cón tối mất, kêu trời vang đất, can trường đoạn đoạn! Chúng sanh lại cũng không tự biết mình từ đâu đến đây? Chết rồi đi đâu. Người còn khóc kẻ mất, ôm lòng thương xót, tống táng đưa nhau, thẳng đến sơn cùng, chắp tay vĩnh biệt, nhất từ vạn kiếp, đau đớn biết bao? Những điều như vậy, sầu khổ vô lượng, chúng sanh mê chấp cho đó là vui.
Trái lại, gây nhơn vui xuất thế, chúng sanh đều cho việc ấy là khổ.
Thấy người trai giới tương dưa, nuôi thân qua buổi, không mặc lục là, quen bận phấn tảo ([17]) ăn mặc nâu sồng, chúng sanh đều cho các việc ấy là tự ép xác, khốn khổ, không biết làm như thế là gây nhơn giải thoát, gieo giống an vui.
Hoặc thấy người bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, kinh hành lễ bái, tụng tập chuyên cần, chúng sanh đều cho là khổ; không biết làm như vậy là tu tâm xuất thế, để được an vui.
Thoảng hoặc thấy có người tật bệnh mà chết, liền sanh tâm nghi rằng: người ấy bắt buộc thân tâm nầy làm việc quá độ, trọn ngày không được tạm nghỉ. Sức lực con người không thể nào kham nổi. Nếu người tu hành không siêng năng khó nhọc thì đâu đến nỗi luống mất thân mạng với việc làm vô ích như vậy.
Hoặc có người chấp chặt lý thuyết của mình, tự cho mình là đúng, chứ không biết suy quả tầm nhơn, luống sanh tâm mê chấp, luống làm việc sai lầm.
Nếu may gặp được Thiện tri thức thì có thể hết mê lầm. Nếu không may. gặp phải bạn ác thầy tà thì si mê càng lắm.
Nhơn vì nghi ngờ mê hoặc nên đọa vào ba đường ác, ở trong ấy, ăn năn không kịp.
Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên hiểu rõ.
Phàm nghi ngờ như vậy có vô lượng nhơn duyên.
Vả chăng hột giống nghi ngờ lầm lạc ấy, tu hành thoát ra khỏi ba cõi luân hồi còn chưa hết, huống gì thân phàm phu nầy làm sao trừ ngay cho được. Ðời nầy không lo đoạn trừ, đời sau càng thêm.
Ðại chúng cùng nhau vừa mới tu tập, đường hãy còn dài, tự tu khổ hạnh, nên căn cứ vào lời Phật dạy, đúng pháp mà tu, không nên nghi ngờ, từ chối sự mệt nhọc.
Chư Phật thánh nhơn, sở dĩ ra được khỏi sanh tử, đến bờ giải thoát bên kia, là nhờ công tích thiện, nên được quả giải thoát vô ngại tự tại.
Chúng con ngày nay chưa lìa khỏi sanh tử, nghĩ cũng tự đáng thương; làm sao còn ham muốn ở trong đời ác trược nầy nữa. Nay đây may được tứ đại chưa suy dồi; ngũ phước còn thạnh, tới lui thong thả, động chuyển tự do mà không nỗ lực tu hành, còn đợi gì nữa. Ðời trước đã không thấy đạo; đời nầy cũng luống qua, không chứng ngộ gì, thì đời sau làm sao tế độ chúng sanh.
Xem lại tự tâm, thật cũng đau lòng. Ngày nay đại chúng chỉ nên khuyên nhau nỗ lực xiêng tu, không nên nói rằng, phải có tin tức chứng ngộ gì mới chịu tu tập; vì Phật đạo lâu dài, không thể một mai mà làm xong được. Nếu cứ chờ tin tức, như vậy một mai rồi lại một mai thì biết bao giờ chứng quả.
Nay hoặc có người nhơn tụng kinh, ngồi thiền, siêng tu khổ hạnh, hơi có chút tật bệnh liền nói: Vì tụng tập siêng năng, khổ hạnh quá nhiều nên sanh bệnh hoạn. Người nói như thế là vì họ không tự biết. Nếu họ không làm như vậy thì cũng đã chết sớm mất rồi. Nhờ tu hành có phước đức mới mong sống đến hôm nay.
Vả lại, bốn đại tăng giảm tật bệnh là thường, cho đến già chết còn không thể tránh. Sanh ở thế gian nầy chung cuộc rồi ai cũng tận số. Nếu muốn được đạo, phải y lời Phật dạy mà tu. Trái lời Phật mà đắc đạo thì không có lẽ ấy.
Chúng sanh vì trái lời Phật nên xơay chuyển trong ba đường, chịu đủ thống khổ. Nếu đúng như lời Phật dạy mà tu hành không thôi nghỉ, siêng năng tinh tấn, như cứu lửa cháy đầu, thì đâu đến nỗi một đời luống qua, không có lợi ích gì. Mọi người cùng nhau nhất tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ như Thái sơn đổ, nguyện vì những người sau đây mà đảnh lễ thế cho họ.
Kể từ khi có tâm thức cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp, Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng, thượng trung hạ tòa, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ thế tứ thiên vương chủ thiện, phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ khắp đến 10 phương vô cùng vô tận, hết thảy chúng sanh mà quy y Thế gian đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Duy Vệ Phật
Nam mô Thi Khí Phật
Nam mô Tùy Diếp Phật
Nam mô Câu lưu Tôn Phật
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Thích Ca mâu ni Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện xin Tam bảo dùng sức Từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ; dùng sức thần thông che chở cứu vớt chúng con; khiến chúng con từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tứ vô lượng tâm ([18]) lục ba la mật ([19]) thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí ([20]), lục thần thông lực ([21]), được như ý tự tại; tu đạo Bồ tát, vào trí huệ Phật, hóa độ mười phương, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng lại khéo nhiếp tâm, suy nghĩ cho kỹ:
Ðã được cùng nhau sanh lòng tin rồi thì nên giữ ý thanh tịnh, lấy điều ấy làm nẻo xu hướng đối với các pháp trong thân ngoài thân chớ cho trở ngại.
Nếu không biết rõ việc làm hay tự mình không thể làm thì lúc thấy người làm việc phước thiện, chỉ nên khuyến khích, chắp tay tán thán công đức của người, không nên sanh tâm trở ngại, khiến người tu hành phải thối chí.
Nếu người không thối chí họ cứ tinh tấn như thường việc người không giảm, chỉ mình bị tổn phước, luống gây thị phi, đối với bản thân nào có ích gì? Nếu đối với việc lành mình không trở ngại thì có thể gọi là hợp đạo, hữu lực đại nhơn. Nếu đời nầy mình hay trở ngại việc phước thiện của người thì đời sau làm sao thông đạt được Phật đạo.
Cứ lý mà suy, tổn hại ấy rất nặng. Trở ngại thiện căn của người, tội ấy rất lớn.
Như kinh hộ khẩu dạy rằng:
“Có một ngã quỷ thân hình xấu ác, thấy phải rùng mình, không ai không sợ. Thân xuất lửa dữ như đám cháy lớn. Trong miệng có sâu dòi rúc ra mãi mãi, máu mủ tanh hôi, đầy cả thân hình, mùi thối bay ra, không ai có thể đến gần. Miệng khạc ra lửa, thân phần lửa đốt, cất tiếng kêu khóc, tuông chạy cùng khắp.
Bấy giờ có ngài Mãn Túc La hán hỏi Ngã quỷ rằng:
“Xưa kia ngươi mắc phải tội gì mà nay chịu khổ như thế?”
Ngã quỷ đáp rằng:
Tôi ngày xưa đã từng làm sa môn, tham đắm sự nuôi sống, xan tham không bỏ, không giữ oai nghi, nói lời thô ác.
Nếu thấy người giữ giới tinh tấn lại liền mắng nhiếc, liếc mắt háy nguýt, ỷ mình giàu mạnh, tưởng sống lâu không chết, tạo ra vô lượng tội ác căn bản. Ngày nay nhớ lại, hối hận cũng không ích gì. Thà cầm dao bén tự cắt lưỡi mình, kiếp nầy sang kiếp khác, cam tâm chịu khổ, không nên nói một lời phỉ báng việc làm của người.
“Nguyện xin ngài trở về đường thế, đem hình trạng xấu ác của tôi răn dạy các thầy Tỳ kheo và các Phật tử, khéo giữ gìn lỗ miệng, chớ buông lời nói ác. Dầu thấy người giữ giới hay không giữ giới cũng nên tuyên dương công đức của người.
Tôi làm quỷ đói đã vài ngàn kiếp, trọn ngày thâu đêm chịu đủ điều đau khổ. Quả báo này hết rồi lại vào địa ngục”.
Bấy giờ Ngã quỉ nói lời ấy rồi, cất tiếng kêu khóc, tự gieo mình xuống đất như núi Thái Sơn sụp đổ.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi.
Chỉ vì lỗi của miệng mà mang tội nhiều kiếp, luống nữa là còn bao nhiêu điều ác khác. Xả thân này thọ thân khác mà chịu khổ điều do nghiệp ác của mình đã làm. Nếu không gây nhơn thì tại làm sao lại có chịu quả. Ðã gây nhơn quyết định phải chịu trả quả. Tội phước không xa, mình làm mình chịu, như bóng theo hình, không thể rời nhau. Do vô minh mà sanh thì cũng do vô minh mà diệt. Ðời này đời sau, bao giờ cũng vậy, chưa từng thấy người tu hành buông lung, lười biếng mà được giải thoát. Trái lại, người hay tinh tấn giữ gìn tu hành, được phước đức vô lượng.
Ngày nay Ðại chúng đều nên biết hổ thẹn rửa sạch thân tâm, sám hối tội cũ. Tội cũ hết rồi, không gây thêm tội mới nữa thì được các đức Phật khen ngợi. Cùng nhau từ nay trở đi, nếu thấy người làm thiện, chớ nói thành hay không thành, lâu hay không lâu. Dầu cho họ chỉ làm lành trong một niệm, một thời, một khắc, một ngày, một tháng, nửa năm, hy một năm cũng đã hơn người không làm.
Sở dĩ kinh Pháp Hoa dạy rằng:”Hoặc có người tâm tán loạn vào trong tháp miếu, xưng một câu Nam mô Phật, người ấy cũng đã thành Phật đạo”. Huống nữa có người phát tâm rộng lớn, siêng làm phước thiện. Nếu chúng ta không tùy hỷ thì thánh nhơn rất thương xót.
Chúng con tên . . . tự nghĩ mình từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay lẽ ra cũng đã có vô lượng ác tâm trở ngại việc lành tốt đẹp của người. Vì sao mà biết? Nếu không như vậy, cớ sao ngày nay việc lành của chúng con phần nhiều hay bị trở ngại. Thiền định không hay tập, trí thức không hay tu. Vừa mới lễ bái liền nói khổ lắm. Vừa cầm đến kinhliền sanh nhàm chán. Trọn ngày chỉ ưa khó nhọc làm các nghiệp ác khiến cho thân này không được giải thoát, như tầm kéo kén, tự ràng, tự buộc, như phù du vào lửa, tự thiêu tự đốt. Những chướng ngại ấy vô lượng vô biên, chướng Bồ đề tâm, chướng Bồ đề nguyện, chướng Bồ đề hạnh, chướng ngại như vậy đều do ác tâm, Phỉ báng việc thiện của người. Nay mới giác ngộ, rất là hổ thẹn, cúi đầu xin sám hối tội ấy.
Nguyện xin xhư Phật chư Ðại Bồ tát, đem lòng từ bi, đồng gia thần lực khiến đệ tử tên . .. những điều sám hối đều được trừ diệt, những điều hối đều được thanh tịnh. Vô lượng chướng ngại , Vô lượng tội nghiệp đều nhờ sám hối này mà được sạch hết.
Mọi người cùng nhau nhất tâm thống thiết năm vóc sát đất, quy y thế gian Ðại Từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Thiện Ðức Phật
Nam mô Vô Ưu Ðức Phật
Nam mô Chiên Ðàn Ðức Phật
Nam mô Bảo Thí Phật
Nam mô Vô Lượng Minh Phật
Nam mô Hoa Ðức Phật
Nam mô Tưởng Ðức Phật.
Nam mô Tam Thừa Hạnh Phật
Nam mô Quảng Chúng Ðức Phật
Nam mô Minh Ðức Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại xin quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
(Cùng nhau quỳ gối chắp tay, tâm niệm và tụng niệm):
Ðệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, chưa thể đắc đạo, thọ lấy báo thân nầy vì tham bốn món cúng dường chưa từng xả bỏ. Tham sân tật đố, ba độc hừng hẫy sanh ra các ác nghiệp. Thấy người bố thí, trì giới, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Thấy người nhẫn nhục tinh tấn, tự mình không thể làm. Không hay tùy hỷ. Thấy người tọa thiền, tu nghiệp trí huệ, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Những tội như vậy, vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thấy người làm lành, tu các công đức không hay tùy hỷ, đi đứng nằm ngồi, trong bốn oai nghi ấy không biết hổ thẹn, không nghĩ vô thường, không biết xả thân này phải vào địa ngục.
Ðối với sắc thân người khác, khởi ra điều ác. Chướng ngại người xây dựng và cúng dường Tam bảo, chướng ngại người tu tập hết thảy công đức.
Tội chướng như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay không tin Tam bảo là chỗ quy y, chướng ngại người xuất gia, chướng ngại người trì giới, chướng ngại người bố thí, chướng ngại người nhẫn nhục, chướng ngại người tinh tấn, chướng ngại ngưởi tọa thiền, chướng ngại người tụng kinh, chướng ngại người làm chay, chướng ngại người tạo tượng, chướng ngại người cúng dường, chướng ngại người khổ hạnh, chướng ngại người hành đạo, cho đến mảy may việc thiện của người chúng con cũng chướng ngại. Không tin xuất gia là pháp viễn ly, không tin nhẫn nhục là hạnh An lạc, không biết bình đẳng là đạo Bồ đề, không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất thế. Vì những tội ấy cho nên ngày nay sanh ra nơi nào cũng gặp nhiều chướng ngại. Tội chướng như vậy, vô lượng vô biên, chỉ có chư Phật, chư Ðại Bồ tát mới thấy hết biết hết.
Như chỗ chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết, tội lượng nhiều ít, ngày nay hổ thẹn , tỏ bày sám hối, tất cả tội nhơn, khổ quả, nguyện xin trừ diệt. Từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo tu đạo Bồ tát, không biết nhàm chán. Tài thí, pháp thí không cùng, không tận, trí huệ phương tiện làm gì cũng được. Hết thảy người thấy, người nghe đều được giải thoát.
Chúng con cùng nhau chí tâm, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất nguyện xin mười phương hết thảy chư Phật, chư Ðại Bồ tát hết thảy Hiền Thánh, dủ lòng từ bi, đồng gia thần lực, làm cho hết thảy chúng sanh trong sáu đường, nhờ sức sám hối nầy mà đoạn trừ được hết thảy tội khổ, xa lìa được hết thảy duyên điên đảo, không sanh ác tâm, xả nghiệp bốn thú ([22]) phát sanh trí huệ, tu đạo Bồ đề không thôi không nghỉ; hạnh nnguyện chóng viên mãn, mau lên ngôi Thập địa, vào tâm kim cang thành đẳng chánh giác.
CHƯƠNG THỨ BA
SÁM HỐI
Ngày nay Ðại chúng đồng ngiệp trong đạo tràng lắng tai nghe kỹ lời kinh dạy sau đây:
“Còn phàm phu thì gọi là buộc. Ðã chứng quả Thánh thì gọi là giải”.
Buộc tức là kết quả ác của hành động bạo ác của ba nghiệp ác đã gây ra. Giải tức là quả báo lành vô ngại giải thoát của ba nghiệp lành đã gây ra.
Hết thảy Thánh nhơn đều để lòng nơi đạo giải thoát, và nhờ thần thông trí huệ, vô lượng pháp môn, nên Thanh nhơn thấy hết thảy nghiệp báo thiện hay ác của tất cả chúng sanh.
Các Ngài hay dùng một thân hiện ra vô lượng thân, hay dùng một hình hiện ra vô lượng hình; có thể rút ngắn một kiếp làm một ngày; có thể kéo dài một ngày làm một kiếp. Muốn đình thọ mạng thì vĩnh viễn không diệt độ; muốn thị hiện vô thường thì nhập niết bàn; thần thông trí huệ, vào ra tự tại, bay đi tùy ý, ngồi nằm trên không. Ði đứng dưới nước như ở trên khô, không thấy nguy hiểm. Lấy cảnh vắng lặng , viên tịch niết bàn làm chỗ nghỉ ngơi thông đạt vạn pháp, có không điều rõ biết, biện tài thành tựu, trí huệ vô ngại.
Những pháp lành ấy không phải từ trong nghiệp ác mà ra, không phải từ trong tham sân tật đố mà ra; không phải từ trong ngu si tà kiến mà ra; không phải từ trong lười biếng mà ra, không phải từ trong kiêu mạn, tự cao tự đại mà ra. Các pháp lành ấy chỉ trừ trong sự thận trọng không làm ác mà ra; các pháp lành ấy đều do các nghiệp lành mà ra.
Không nơi nào có người tu các nghiệp lành, vâng lời Phật dạy mà mắc phải ác báo, bần cùng xấu xa tàn tật, bệnh hoạn, không được tự do, thấp hèn bị kẻ khác khinh chê, lời nói không ai tin dùng bao giờ.
Nay đem thân tôi để làm chứng (lời tác giả). Nếu có người nào vâng lời Phật dạy, tu các công đức, không ích kỷ hại nhơn mà bị quả báo xấu ác thì thà để tôi bị đọa vào a tỳ địa ngục chịu thống khổ, chớ để cho người làm lành kia chịu quả báo xấu ác thì phi lý.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng muốn bỏ phàm làm Thánh thì nên y lời Phật dạy, như lý mà tu hành. Không nên từ chối một việc khổ nhỏ mà sanh tâm lười biếng nên tự nỗ lực cố gắng sám hối cho tiêu tội lỗi.
Trong kinh Phật dạy: “Tội do nhơn duyên mà sanh thì cũng do nhơn duyên mà diệt”.
Ðang còn thân phàm thì gặp cảnh sanh mê tâm. Vậy ngoài phương pháp sám hối ra, không có phương pháp nào hơn nữa để mong giải thoát.
Ngày nay Ðại chúng phải cùng nhau phát khởi tâm dõng mãnh, phát khởi ý sam hối.
Sức mạnh của pháp sám hối không thể nghĩ bàn. Vì sao mà biết? – Vì vua A xa Thế phạm đại tội ngũ nghịch ([23]), nhưng sau vua biết sanh tâm hổ thẹn, tự trách, tự ăn năn, nên tội nặng thành nhẹ.
Vả lại pháp sám hối nầy khiến người tu hành được an vui. Nếu có người nào tự mình hay định thời khóa, nỗ lực hết lòng, khấu đầu lễ bái, sám hối, quy y cho đến khi hoàn toàn trong sạch mà không cảm được mười phương Phật thì không có lý.
Ác nghiệp và quả báo theo nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không sai mảy may, cho nên phải hết lòng sợ hãi, cố gắng chịu khổ mà sám hối.
Mọi người đều nên một lòng tha thiết gieo mình xuống đất như núi Thái sơn sụp đổ, tâm niệm miệng nói lời nầy: để cầu thỉnh mười phương chư Phật gia tâm thương xót.
Nguyện xin chư Phật cứu chúng con ra khỏi khổ ách; dủ lòng đại bi che khắp tất cả. Phóng hào quang thanh tịnh, soi khắp mười phương; diệt sạch mê mờ và trừ si ám. Nghĩ đến chúng con và các chúng sanh đang bị đọa đầy, trong địa ngục đau khổ. Xin Phật đến đây, cứu vớt chúng con. Ban bố hạnh phúc cho chúng con được thoát khổ.
Chúng con nhất tâm đầu thành đảnh lễ, Ðấng Ðại từ bi nghe tên liền cứu khổ. Nay chúng con nhất tâm quy y Ðấng Thế gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích ca Mâu Ni Phật
Nam mô Kim cang bất hoại Phật
Nam mô Bảo Quang Phật
Nam mô Long Tôn vương Phật
Nam mô Tinh Tấn Quân Phật
Nam mô Tinh Tấn hỷ Phật
Nam mô Bảo Hỏa Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật
Nam mô Hiện vô Ngu Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Phật.
Nam mô Vô Cấu Phật
Nam mô Ly Cấu Phật
Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo quyết định đến đây cứu vớt chúng con, đang bị đọa đày bởi tham sân si, làm đau khổ, nguyện cho chúng con được an vui và được đại Niết bàn; nguyện xin lấy nước đại bi tẩy trừ tội lỗi cho chúng con được thanh tịnh mau chứng quả bồ đề. Bốn loài chúng sanh trong sáu đường, nếu có một chúng sanh nào mắc phải tội lỗi, đều được nhờ Tam bảo mà thanh tịnh; đều được thành tựu quả vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác, hoàn toàn giải thoát.
Ðại chúng cùng nhau một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng nói lời nầy:
Ðệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, bị vô minh che lấp tâm tánh, bị ái nhiễm ràng buộc, nên tinh thần sa vào lưới ngu si, loanh quanh ba cõi, cùng khắp sáu đường, chìm đắm bể khổ, không có ngày ra; không thể biết được nghiệp đời trước của mình, không thể hiểu được nhơn duyên đã qua. Hoặc mình tự phá tính mạng và phá tính mạng của người. Mình tự phá phạm hạnh và phá phạm hạnh của người. Mình tự phá tịnh giới và phá tịnh giới của người.
Tội ác như vậy vô lượng vô biên, ngày nay hổ thẹn sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệt tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ sát đất, cầu xin sám hối, những tội lỗi từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân khẩu ý tạo ra mười ác nghiệp.
Thân sát đạo, dâm, miệng nói láo, nói lời thêu dệt, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, ý tham sân si. Mình tự làm mười điều ác dạy người làm mười điều ác, khen ngợi người làm mười điều ác. Như vậy trong một khoảnh khắc trong một niệm tâm, khởi ra bốn mươi điều ác.
Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí tâm đảnh lễ sat đất, cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay.
Nương nơi sáu căn rồi phát ra sáu thức, chấp lấy sáu trần. Mắt đắm sắc, tai ưa tiếng, mũi trước hương, lưỡi ưa vị, thân ưa trơn láng, mịn màng, ý ưa pháp trần. Sáu căn ấy sanh ra bao nhiêu tội nghiệp, mở cửa cho tám vạn bốn ngàn trần lao. Tội ác như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ, cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân, khẩu, ý gây ra nhiều nỗi bất bình, như chỉ biết có thân mình, không biết có thân người, chỉ biết có mình khổ, không biết có người khổ, chỉ biết có mình cầu an vui, không biết có người cầu an vui, chỉ biết có mình cầu giải thoát, không biết có người cầu giải thoát. Chỉ biết có gia đình mình, có quyến thuộc mình, không biết có gia đình người, có quyến thuộc người, chỉ biết thân mình hơi ngứa một chút, hơi đau một chút đã chịu không nổi, thế mà khi làm cho thân người khác đau thì sợ họ không đau, ít đau, không thấm thía, chỉ biết sợ khổ một chút nơi đời hiện tại mà không biết sợ khổ vô lượng kiếp nơi đời vị lai. Bởi vì làm ác chết rồi phải đọa vào địa ngục, chịu đủ thống khổ, cho đến không biết sợ khổ vô lượng trong đời ngã quỉ, trong đường súc sanh, trong đường a tu la.
Cõi người và cõi trời cũng có vô lượng thống khổ mà không tự biết, chỉ vì tâm không bình đẳng, có phân bỉ ngã, có niệm oán thân, làm cho oán thù tràn khắp lục đạo.
Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do tâm điên đảo, nên thường xa lìa bạn lành (thiện tri thức) gần gũi bạn ác, trái nghịch bát chánh đạo, tu theo bát tà đạo, phi pháp nói chánh pháp, chánh pháp nói phi pháp, bất thiện nói là thiện, thiện nói là bất thiện, dựng cờ kiêu mạn, giăng buồm ngu si, theo dòng vô minh vào biển sanh tử.
Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay vì tham sân si khởi ra bốn điên đảo ([24]) tạo nên năm tội nghịch làm đủ mười ác, ba độc hừng hẫy, tám khổ càng nhiều, gieo giống địa ngục bát hàn, bát nhiệt; gieo giống 84.000 ngăn cách địa ngục, gieo giống súc sanh, gieo giống ngã quỷ, gieo giống sanh già bệnh chết, ư bi khổ não ở cõi trời cõi người để chịu quả báo đau khổ, không thể kể xiết, không thể chịu được, không thể thấy được, không thể nghe được.
Những tội ác như vậy, vô lượng vô biên, bgày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì ba độc tham sân si ở trong ba cõi, trải khắp hai mươi lăm loài ([25]) khởi ra các tội ác, cùng khắp mọi nơi, thuận chiều gió nghiệp mà . . . không tự biết. Hoặc chướng ngại người trì giới, tu định, tu huệ, tu các công đức, tu các thần thông. Những tội chướng như vậy vô lượng vô biên, chướng bồ đề tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ đề hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì tâm tham sân si, phát khởi ra sáu thức ([26]), duyên theo sáu trần ([27]), gây tội cho chúng sanh. Hoặc đối với chúng sanh mà khởi tội; hoặc đối với phi chúng sanh mà khởi tội, hoặc đối với người vô lậu ([28]) mà khởi tội, hoặc đối với pháp vô lậu ([29]) mà khởi tội.
Những tội ác như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, chúng con vì tâm ngu si mà khởi hạnh điên đảo, tin theo thầy tà, thọ lời tà giáo, chấp đoạn ([30]) chấp thường ([31]) trước ngã ([32]), trước kiến ([33]) làm theo si mê, khởi ra vô lượng tội lỗi.
Những nhơn duyên ấy chướng bồ đề tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ đề hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, thân ba nghiệp ác, miệng bốn nghiệp ác, ý ba nghiệp ác, vô thỉ vô minh trú địa phiền não, hằng sa thượng phiền não , chỉ thượng phiền não, quán thượng phiền não, tứ trú địa phiền não, tam độc ([34]), tứ thủ ([35]), ngũ cái ([36]), lục thọ ([37]), thất lậu ([38]), bát cấu ([39]), cửu kiết ([40]), thập sử ([41]). Những phiền não ấy vô lượng vô biên, hay chướng bồ đề tâm, hay chướng bồ đề nguyện, hay chướng bồ đề hạnh, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt. Ðệ từ chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, không hay tu tâm từ bi, không hay tu tâm hỷ xả, không hay tu tâm bố thí, không hay tu tâm trì giới, không hay tu tâm nhẫn nhục, không hay tu tâm tinh tấn, không hay tu tâm thiến định, không hay tu tâm trí huệ, không hay tu hết thảy pháp, trợ bồ đề.
Vì thế nên không có phương tiện, không có trí huệ, làm chướng ngại bồ đề tâm, chướng ngại bồ đề nguyện, chướng ngại bồ đề hạnh, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệt tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp cho đến ngày nay, vì tội nghiệp nên cứ xoay vừng trong ba cõi, trải khắp sáu đường, thọ thân bốn loài, hoặc nam hoặc nữ, hoặc phi nam phi nữ, cùng khắp mọi nơi tạo vô lượng tội. Hoặc làm chúng sanh thân hình to lớn ăn nuốt lẫn nhau; hoặc làm chúng sanh thân hình bé nhỏ ăn nuốt lẫn nhau. Những tội sát hại như vậy vô lượng vô biên hay chướng bồ đề tâm, hay chướng bồ đề nguyện, hay chướng bồ đề hạnh. Ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ khi có tâm thức trở lại cho đến ngày nay, ở trong sáu đường, thọ thân bốn loài. Ở trong bốn loài ấy tạo ra vô lượng vô biên tội ác.
Những tội ác như vậy, chỉ có hết thảy chi Phật chư đại Bồ tát trong mười phương mới thấy hết biết hết. Tội lượng nhiều ít hoặc khinh hoặc trọng như chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết. Ngày nay chí thành, cúi đầu đảnh lễ, hổ thẹn cầu xin sám hối.
Những tội đã làm, nguyện tiêu diệt hết, những tội chưa làm, không dám phạm.
Ngày nay chúng con nguyện xin hết thảy chư Phật trong mười phương dủ lòng đại từ cho đệ tử chúng con tên . . . thành tâm sám hối, nguyện xin đem nước đại bi rửa sạch tội lỗi sai lầm cho chúng con được hoàn toan thanh tịnh, thẳng đến đạo tràng không bị chướng ngại nữa.
Lại nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật dùng bất tư nghị lực, bổn thệ nguyện lực, độ thoát chúng sanh lực, phù hộ chúng sanh lực, khiến đệ tử tên . . . ngày nay khởi thệ nguyện, phát tâm bồ đề.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật kiến lập đạo tâm được kiên cố, hoàn toàn không trở lại sa đọa nữa.
Những lời thệ nguyện của chúng con cũng đồng như lời thệ nguyện của chư Phật, chư đại Bồ tát đã thật hành thệ nguyện. Nguyện xin hết thảy mười phương chu Phật, chư đại Bồ tát đồng dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ cho chúng con tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện. Hết thảy chúng sanh cũng đều được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.
CHƯƠNG THỨ TƯ
PHÁT BỒ ÐỀ TÂM
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã cùng nhau rửa sạch tâm ô uế rồi, thập ác, ([1]) trọng chướng ([2]) không còn, nghiệp lụy dã hết, trong ngoài đều thanh tịnh.
Thứ lại xin học các vị Bồ tát tu hành trực đạo, công đức trí huệ do đó mà sanh. Bởi vậy, chư Phật thường khen ngợi sự phát tâm là đạo tràng, vì hay thành tựu được đạo quả vậy.
Nguyện xin đại chúng đều nên kiên tâm trì chí, chớ tưởng sống lâu mà đợi ngày lậu tận ([3]) chớ luống qua, sau ăn năn không kịp.
Bây giờ dà cùng nhau gặp thời buổi tốt, ngày đêm chớ để phiền não che lấp tâm tánh, phải nên nỗ lực phát tâm bồ đề.
Tâm bồ đề tức là tâm Phật công đức trí huệ vô lượng, không thể nghĩ bàn.
Phát tâm một niệm còn được công đức như vậy huống gì phát tâm luôn luôn.
Giả sử lịch kiếp tu hành vô lượng phước đức, làm đủ hết thảy việc làm, không bằng một niệm phát tâm bồ đề trong muôn một. Toàn số thí dụ cũng không thể so lường được công đức, phát tâm bồ đề.
Lại như có người chỉ làm việc phước đức chớ không phát tâm vô thượng bồ đề; người ấy cũng như kẻ cầy ruộng không gieo giống. Mầm mống đã không gieo thì làm sao có lúa thóc.
Vì lý do ấy nên phải phát tâm bồ đề làm nhơn duyên cho việc chứng quả; trước là báo ơn chư Phật, sau là cứu vớt muôn loài.
Sở dĩ Phật khen ngợi các thiện tử rằng:
“Lành thay! Lành thay! Như lời các ngươi nói là vì muốn lợi ích cho hết thảy chúng sanh”.
Phát tâm Bồ đề là cách cúng dường lớn hơn tất cả.
Phát tâm bồ đề, không phải là chỉ phát qua một phen mà phải phát luôn luôn; làm cho tâm bồ đề tương tục rộng lớn mãi mãi. Vì thế trong kinh Phật dạy rằng:
“Ở nơi chỗ na do tha hằng hà sa số đức Phật phát đại thiện nguyện”.
Vậy nên biết số phát tâm ấy là vô lượng.
Lại nữa tâm bồ đề chỉ gặp thiện tri thức liền phát, vị tất phải gặp Phật xuất thế.
Như Ngài Văn Thù Sư lợi Bồ tát, lúc đầu hướng về bồ đề là nhờ gặp được nữ nhân mà phát.
Nhưng phát sơ tâm huệ thức không phải kẻ phàm dung, tâm chí hạ liệt mà phát được. Phải là người có thật tâm khát ngưỡng Ðại thừa, tham cầu Phật pháp, y ỷ các kinh, xem thường thế sự, oán thân bình đẳng, lục đạo như nhau. Nguyện cho hết thảy chúng sanh nhờ sự phát tâm ấy mà được giải thoát, đều đồng tín giải. Nên biết sự phát tâm không phải là việc nói chơi, người tầm thường mà phát tâm được.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng đã phát bồ đề tâm thì quyết phải quán tưởng. Trước hết tưởng đến thân nhơn. Trong lúc trì niệm, chuyên tâm tưởng đến cha mẹ, sư trưởng của mình; rồi niệm tưởng đến địa ngục, ngã quỉ, súc sanh; Lại niệm tưởng đến chư Thiên, chư Tiên, hết thảy thiện thần.
Lại nghĩ đến nhơn đạo, hết thảy nhơn loại, có người đang chịu khổ làm sao mà cứu.
Thấy rồi lại tưởng, nên nghĩ thế nầy: Chỉ có cách phát tâm rộng lớn, tâm bồ đề mới có thể cứu được. Nếu tưởng đến một người thành rồi thì nên tưởng đến hai người. Hai người thành rồi thì tưởng đến ba người. Ba người thành rồi thì tưởng đầy một nhà. Một nhà thành rồi thì tưởng đến một do tuần. Một do tuần thành rồi thì tưởng đến đầy cõi diêm phù đề. Diêm phù đề thành rồi thì tưởng đến cả bốn châu thiên hạ.
Quán tưởng như vậy lần lần rộng khắp mười phương thế giới.
Thấy chúng sanh ở phương Ðông là cha mình.
Chúng sanh ở phương Tây là mẹ mình,
Chúng sanh ở phương Nam là anh mình,
Chúng sanh ở phương Bắc là em mình,
Chúng sanh ở phương dưới là chị em mình.
Chúng sanh ở phương trên là sư trưởng mình.
Chúng sanh ở bốn phương góc ([4]) kia là sa môn, bà la môn.
Thấy rồi nghĩ rằng:
“Nếu lúc nào những người ấy chịu khổ, tưởng ta phải đến nơi các người ấy mà thoa bóp thân thể cho họ, thề diệt hết đau khổ cho họ được giải thoát, rồi ta sẽ nói pháp cho họ nghe, bằng cách tán thán công đức của Phật, Pháp, Tăng.
Tán thán rồi, sanh lòng vui mừng, thấy họ an vui như ta không khác.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng phát Bồ đề tâm đều phải làm như vậy; ở trong đau khổ mà độ chúng sanh. Mọi người đều phải nhất tâm thống thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng nói, phát lời thệ nguyện như thế nầy:
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, trong khoản thời gian ấy, sanh ở chỗ nào, cũng thường gặp được thiện tri thức, phát tâm vô thượng bồ đề. Nếu chúng con đọa trong ba đường ác, hay lâm phải tám nạn ([5]) thường khiến chúng con nhớ tưởng phát tâm bồ đề; làm cho tâm bồ đề tương tục không gián đoạn.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên phát tâm dõng mãnh, tâm ân trọng, tâm bồ đề; nhất tâm yha thiết, đầu thành đảnh lễ quy y Thế gian Ðại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Dõng Thí Phật
Nam mô Thanh Tịnh Phật
Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật
Nam mô Ta lưu na Phật
Nam mô Thủy Thiên Phật
Nam mô Kiên Ðức Phật
Nam mô Chiên đàn công đức Phật
Nam mô Vô lượng Cúc quang Phật
Nam mô Quang đức Phật
Nam mô Vô Ưu Ðức Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô Công đức Hoa Phật
Nam mô Kiên dõng tinh tấn Bồ tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy, mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Ðệ tử chúng con tên . . . ngày nay ở trước mười phương Tam bảo, phát tâm Bồ đề, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tu đạo Bồ tát, thề không thối lui; hằng sanh tâm độ thoát chúng sanh, hằng sanh tâm an lập chúng sanh, hằng sanh tâm che chở chúng sanh; chúng sanh không thành Phật, chúng con xin thề không chịu chứng quả niết bàn trước chúng sanh.
Nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật chư Ðại Bồ tát, hết thảy thánh hiền, hiện tiền chứng minh cho chúng con, khiến chúng con tên . . . hết thảy hạnh nguyện đều được viên mãn.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng, dầu trải qua nhiều kiếp làm nhiều điều thiện mới được phước báu ở cõi người, cõi trời, chứ chưa chứng được quả xuất thế; chết rồi hết phước, trở lại đọa vào đường ác. Thân hình tan rã, tự mình chưa khỏi khổ não, chưa khỏi bức bách.
Nếu không lập thệ nguyện rộng lớn, không phát tâm bồ đề thì phước đâu mà trang nghiêm Pháp thân để xa lìa được khổ não.
Ngày nay cùng nhau nhất tâm nhất ý . . . tưởng nhớ chư Phật, khởi lòng tin kiên cố, phát tâm đại bồ đề.
Công đức phát tâm rất rộng lớn sâu xa, không thể so lường. Chư Phật và Bồ tát nói cũng không thể hết. Thiện lực như vậy, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.
Thế nên chúng con đâu được không hết lòng chuyên tâm chú ý mà phát quảng đại bồ đề tâm.
Kinh Ðại Tập dạy rằng:
“Ví như trong một cái nhà tối trăm năm, chỉ thắp một ngọn đèn, cùng có thể phá tan mờ ám. Vậy nên chớ cho một niệm phát tâm là nhỏ, là không quan trọng, mà không nỗ lực.
Ðại chúng cùng nhau quỳ gối chắp tay nhất tâm tưởng nhớ đến hết thảy mười phương Tam bảo tâm niệm miệng nói lời nầy:
“Ðệ tử chúng con tên . . . nay đối trước hết thảy mười phương chư Phật, trước hết thảy mười phương tôn pháp, trước hết thảy mười phương Hiền Thánh , lòng ngay dạ thẳng, khởi tâm ân cần, trịnh trọng, tâm không buông lung, tâm an trú, tâm ưa điều thiện, tâm độ thoát hết thảy, tâm che chở hết thảy, tâm như tâm Phật, tâm phát tâm bồ đề.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật tâm không đắm trước cõi trời, cõi người, tâm không cầu chứng tiểu quả thanh văn, duyên giác mà chỉ phát tâm đại thừa, phát tâm cầu được nhất thế chủng trí, tâm cầu thành tựu quả vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.
Nguyện xin mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật, Ðịa địa Bồ tát, hết thảy thánh hiền, đem sức bổn nguyện hiện tiền chứng giám cho chúng con, đem sức từ bi, gia tâm hộ trợ, nhiếp thọ chúng con, cho chúng con tên . . . ngày nay phát tâm, tại chỗ sở sanh, kiên cố không thối lui.
Nếu chúng con bị đọa vào ba đường ác, hoặc lâm phải tám nạn, ở trong ba cõi, chịu đủ thân hình, chịu đủ khổ sở không thể chịu được. Chúng con xin thề, không vì khổ ấy mà thối mất tâm bồ đề ngày nay. Thà chúng con chịu vào trong Ðại hỏa luân, vô gián địa ngục, chịu các thống khổ; chúng con không vì khổ mà thối mất tâm đại bồ đề ngày nay.
Tâm ấy, nguyện ấy đồng với tâm của chư Phật, đồng với nguyện của chư Phật.
Lại xin chí thành đảnh lễ Tam bảo, chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật không bỏ hai pháp sau đây:
- Một là biết tự tánh các pháp vốn không.
- Hai là độ thoát hết thảy mười phương chúng sanh”.
Cùng nhau chí thành nhất tâm tha thiết năm vóc sát đất, tâm niệm miệng nói:
Ðệ tử chúng con tên . . . không vì mình mà cầu vô thượng bồ đề, chính vì muốn cứu độ hết thảy chúng sanh, cho nên cầu vô thượng bồ đề. Từ nay trở đi cho đến ngày thành Ðạo, chúng con sẽ nâng đỡ hết thảy vô lượng vô biên chúng sanh; chúng con sanh lòng đại bi, cùng tận đời vị lai đối với tất cả chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào bị các ách nạn, trọng tội, trong ba đường, sáu nẻo, chúng con tên . . . thề không lánh khổ mà lại đem thân ra cứu hộ, làm cho các chúng sanh ấy được an ổn.
Nguyện xin mười phương cùng tận hư không giới, hết thảy Tam bảo chứng minh cho chúng con.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Liên Hoa Quang Phật
Nam mô Du Hý Thần thông Phật
Nam mô Tài Công đức Phật
Nam mô Ðức Niệm Phật
Nam mô Thiện danh xưng công đức Phật
Nam mô Hồng diệm đế tràng vương Phật
Nam mô Thiện du bộ công đức Phật
Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa thiện trụ Ta La Thọ Vương Phật
Nam mô Ðấu Chiến Thắng Phật
Nam mô Thiện Du Bộ Phật
Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Ðức Phật
Nam mô Khí Ấm Cái Phật
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Vô Biên thân Bồ tát
Nam mô Quán thế Âm Bồ tát
Nguyện xin chư Phật, đem đại từ bi lực, hiện tiền chứng giám cho chúng con tên . . . ngày nay phát tâm bồ đề, tu đạo bồ tát, tại chỗ sở sanh, thành tựu được hết thảy điều thệ nguyện.
Chúng con đi đến đâu hết thảy chúng sanh đều được giải thoát. Chúng con lại xin đầu thành đảnh lễ hết thảy mười phương Tam bảo.
Chúng con tên . . . không vì tự thân mà cầu đạo vô thượng bồ đề. Chỉ vì hết thảy chúng sanh trong mười phương mà cầu chứng quả vô thượng bồ đề.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành phật nếu có chúng sanh nào ngu si, ám độn không biết chánh pháp sanh tâm tà kiến và có chúng sanh nào tuy tu đạo hạnh mà không thông đạt pháp tướng. Những chúng sanh như vậy cho đến cùng tận đời vị lai, chúng con tên . . . xin thệ nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực và bao nhiêu phương tiện khác, khiến các chúng sanh ấy đều được nhờ Phật lực hoàn toàn đầy đủ thành tựu nhất thế chủng trí.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ quy y mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phổ Quang Phật
Nam mô Phổ Minh Phật
Nam mô Phổ Tịnh Phật
Nam mô Ða ma la bạt chiên Ðàn Hương Phật
Nam mô Chiên đàn Quang Phật
Nam mô Ma ni tràng Phật
Nam mô Hoan Hỉ tạng ma ni Bảo Tích Phật
Nam mô Nhất thế thế gian nhạo kiến thượng đại tinh tấn Phật
Nam mô Ma ni Tràng Ðăng Quang Phật
Nam mô Huệ Cự chiếu Phật
Nam mô Hải Ðức Quang minh Phật
Nam mô Kim cang Lao cường Phổ tán Kim quang Phật
Nam mô Ðại Cường Tinh Tấn Dõng mãnh Phật
Nam mô Ðại Bi Quang Phật
Nam mô Từ Lực Vương Phật
Nam mô Từ Tạng Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô biên Thâm Bồ tát
Nam mô Quán thế Âm Bồ tát
Nguyện xin chư Phật chư đại bồ tát đem đại từ bi lực, đại trí huệ lực, bất tư nghị lực, vô lượng tự tại lực, hàng phục tứ ma ([6]) lực, đoạn trừ ngũ cái ([7]) lực, diệt trừ phiền não lực, vô lượng thanh tịnh nghiệp trần lực, vô lượng khai phát quán trí lực, vô lượng khai phát vô lậu huệ lực, vô lượng vô biên thần thông lực, vô lượng độ thoát chúng sanh lực, vô lượng phú hộ chúng sanh lực, vô lượng an ổn chúng sanh lực, vô lượng đoạn trừ khổ não lực, vô lượng giải thoát địa ngục lực, vô lượng tế độ ngã quỉ lực, vô lượng cứu bạt súc sanh lực, vô lượng nhiếp hóa a tu la lực, vô lượng nhiếp thọ nhơn đạo lực, vô lượng tận chư thiên chư tiên lậu lực cụ túc trang nghiêm thập địa lực.
Cụ túc trang nghiêm tịnh độ lực,
Cụ túc trang nghiêm đạo tràng lực,
Cụ túc trang nghiêm Phật quả công đức lực,
Cụ túc trang nghiêm Phật quả tri huệ lực,
Cụ túc trang nghiêm Pháp thân lực,
Cụ túc trang nghiêm vô lượng bồ đề lực
Cụ túc trang nghiêm đại niết bàn lực.
Vô lượng vô tận công đức lực,
Nguyện xin mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật, chư đại Bồ tát, đem những năng lực vô lượng vô biên tự tại không thể nghĩ bàn ấy, không trái với thề xưa, không trái với nguyện xưa mà bố thí cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường cùng khắp mười phương và cho tất cả chúng sanh đồng đang phát tâm hôm nay.
Quyết định khiến cho tất cả chúng sanh ấy hoàn toàn đầy đủ các công đức lực, hoàn toàn thành tựu bồ đề nguyện lực, hoàn toàn thành tựu bồ đề hạnh lực.
Ngày nay hết thảy chúng sanh trong mười phương cùng tận đời vị lai, hoặc ẩn, hoặc hiện, hoặc oán, hoặc thân, hoặc không phải oán, thân ở trong bốn loài sáu đường có duyên hay vô duyên với Phật pháp, hết thảy đều nhờ pháp sám nầy hằng được thanh tịnh. Các chúng sanh ấy ở nơi nào cũng đồng được như sở nguyện; một lòng kiên cố, tâm không thối chuyển; đồng như chư Phật, đồng thành chánh giác; cho đến những chúng sanh đời sau, dầu trái với lời nguyện nầy cũng đều khiến các chúng sanh ấy được vào trong bể đại nguyện liền được đầy đủ, hoàn thành tựu công đức, trí huệ các chúng sanh ấy đồng với chư Bồ tát, viên mãn hạnh thập địa ([8]) hoàn toàn nhất thế chủng trí ([9]) trang nghiêm vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.
CHƯƠNG THỨ NĂM
PHÁT NGUYỆN
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng, đã được cùng nhau phát đại bồ đề tâm rồi, vui mừng vô lượng. Bây giờ nên phát đại nguyện như sau nầy và nhất tâm tha thiết đầu thành đảnh lễ qui y Thế gian Ðại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Chiên đàn khốt trang nghiêm thắng Phật
Nam mô Hiền thiện Thủ Phật
Nam mô Thiện ý Phật
Nam mô Quảng trang nghiêm vương Phật
Nam mô Kim Hoa Quang Phật
Nam mô Bảo cái chiếu không Tự Tại Lực Vương Phật
Nam mô Hư không Bảo Hoa Quang Phật
Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật
Nam mô Phổ hiện sắc thân Quang Phật
Nam mô Bất động trí Quang Phật
Nam mô Hàng Phục chúng ma vương Phật.
Nam mô Tài Quang minh Phật
Nam mô Trí Huệ Thắng Phật
Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật
Nam mô Dược Vương Bồ tát
Nam mô Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nguyện xin Tam bảo đem sức bất khả tư nghị lực gia tâm che chở cho chúng con tên . . . . có những thệ nguyện gì, đều được thành tựu. Chúng con sanh ra ở đâu thường cũng không quên mất các lời nguyện hôm nay, và được viên mãn vô thượng bồ đề, thành đẳng chánh giác,
Chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi thường tưởng nhớ sự phát tâm bồ đề, khiến tâm bồ đề tương tục không đoạn.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp mọi nơi thường được phụng sự vô lượng vô biên hết thảy đức Phật, thường được cúng dường chư Phật, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi thường được hộ trì hết thảy kinh điển đại thừa phương đẳng, lễ phẩm cúng dường kinh điển, đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi, thường gặp được hết thảy mười phương vô lượng vô biên chư vị Bồ tát, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp mọi nơi thường gặp được hết thảy mười phương vô lượng vô biên hiền thánh; lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi thường được phụng dưỡng báo bổ ơn sâu của cha mẹ, muốn dâng cúng gì cũng không thiếu.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi, cũng thường gặp được hết thảy chư vị Hòa thượng A xà lê và muốn dâng cúng gì cũng có đầy đủ tùy tâm sở nguyện.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện xin đời đời kiếp kiếp cùng khắp mọi nơi thường được cung phụng và gặp gỡ hết thảy vị quốc chủ có đại thế lực cùng với chúng con hưng hiển Tam bảo, làm cho Phật Pháp không đoạn tuyệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp mọi nơi thường được trang nghiêm cõi nước của chư Phật các cõi ấy không có những danh từ tam ác, bát nạn.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi, bốn vô ngại trí, sáu sức thần thông hằng được hiện tiền, thường không quên mất, dùng để giáo hóa hết thảy chúng sanh.
Chúng con cùng nhau nhất tâm thống thiết năm vóc sát đất, đảnh lễ quy y thế gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thế Tịnh quang Phật
Nam mô Thiện tịch nguyệt âm diệu tôn trí vương Phật
Nam mô Long chưởng thượng Tôn vương Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang Phật
Nam mô Nhật nguyệt châu quang Phật
Nam mô Huệ tràng thắng vương Phật
Nam mô Sư tử hống tự tại lực vương Phật
Nam mô Diệu âm thắng Phật
Nam mô Thường quang tràng Phật
Nam mô Quang Thế Ðăng Phật
Nam mô Huệ oai đăng vương Phật
Nam mô Pháp Thắng vương Phật
Nam mô Tu Di Quang Phật
Nam mô Tu ma na hoa quang Phật
Nam mô Ưu Ðàm bát la Hoa Thù thắng Vương Phật
Nam mô Ðại Huệ Lực Vương Phật
Nam mô A Súc Tỳ hoan hỷ Quang Phật
Nam mô Vô Lượng âm thanh vương Phật
Nam mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật
Nam mô Ðại Thông quang Phật
Nam mô Tài Quang Phật
Nam mô Kim Hải Quang Phật
Nam mô Nhất thế Pháp tràng mãn vương Phật
Nam mô Ðại Thế chí Bồ tát
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin nhờ sức oai đức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát và hết thảy Hiền Thánh Tăng khiến chúng con tên . . . sanh ra nơi nào những thệ nguyện đã phát ra, đều được tùy tâm tự tại.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi lại nguyện xin đời đời kiếp kiếp cùng khắp mọi nơi, nếu có chúng sanh nào thấy sắc thân của chúng con liền được giải thoát. Nếu chúng con vào Ðịa ngục, hết thảy Ðịa ngục đều biến thành Tịnh độ; hết thảy khổ não biến thành an vui. Khiến các chúng sanh sáu căn thanh tịnh, thân tâm an lạc, vui như ở đệ Tam thuyền, dứt sạch nghi ngờ, phát sơ vô lậu huệ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi, nếu có chúng sanh nào nghe được âm thanh của chúng con, tâm liền được an ổn, diệt trừ tội cấu, được đà la ni ([10]) giải thoát tam muội, đầy đủ đại nhẫn, biện tài vô cùng, vào Pháp vân địa, thành bậc Chánh giác.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi hết thảy chúng sanh nghe được tên chúng con thảy đều hoan hỷ, như được việc chưa từng có.
Nếu chúng con đến tam đồ thì tam đồ dứt hết khổ não; nếu chúng con ở các cõi trời cõi người thì các cõi ấy dứt hết các pháp hữu lậu, đến đâu cũng được tự do, không có gì ràng buộc, thảy đều được giải thoát.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi, đối với hết thảy chúng sanh, không có tâm cho và lấy, không có tưởng oán và thân; đoạn trừ tham, sâm, si là ba gốc độc ác; lìa ngã và ngã sở, tin ưa pháp đại thừa, Ðồng tu hạnh từ bi, hòa hiệp với hết thảy như các thánh chúng.
Ðệ tử chúng con tên . . . ngày nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi, đối với hết thảy chúng sanh tâm thường bình đẳng như hư không, khen chê không động lòng; oán thân như nhau, đi sâu vào tâm địa rộng lớn, học trí huệ chư Phật, xem chúng sanh đều như La hầu La đầy đủ nghiệp thập trú, xa lìa tâm chấp có, xả bỏ tâm chấp không, thường tu theo trung đạo.
Cùng nhau chí tâm một lòng tha thiết. đầu thành đảnh lễ, quy y thế gian Ðại từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Bảo Hải Phật
Nam mô Bảo Anh Phật
Nam mô Bảo Thành Phật
Nam mô Bảo Quang Phật
Nam mô Bảo Tràng Phan Phật
Nam mô Bảo Quang Minh Phật
Nam mô A Súc Phật
Nam mô Ðại Quang minh Phật
Nam mô Vô lượng âm Phật
Nam mô Ðại danh xưng Phật
Nam mô Ðắc đại an ổn Phật
Nam mô Chánh âm thanh Phật
Nam mô Vô hạn Tịnh Phật
Nam mô Nguyệt âm Phật
Nam mô Vô lượng danh Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang Phật
Nam mô Vô cấu quang Phật
Nam mô Tịnh quang Phật
Nam mô Kim cang Tạng Phật
Nam mô Hư không Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Chúng con tên . . . nguyện xin nhờ công đức nhơn duyên phát nguyện sám hối hôm nay, mà bốn loài chúng sanhtrong sáu đường, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật tu đạo Bồ tát không biết mỏi mệt, nhàm chán; tài thí không cùng, pháp thí không tận, trí huệ phương tiện làm gì cũng được; tùy căn cơ của chúng sanh, cho uống thuốc pháp, người thấy người nghe, đều được giải thoát.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại nguyện xin từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tu đạo Bồ tát, không bị các chướng nạn trở ngại. Chúng con đến đâu cũng thường kiến lập đạo tràng, làm các đại Phật sự; tâm được tự tại, pháp được tự tại, hay vào được hết thảy các môn thiền định, mở cửa tổng trì, rõ bày Phật quả, ở pháp vân địa, rưới nước cam lồ, trừ bốn ma oán cho các chúng sanh; khiến các chúng sanh được pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu.
Ðệ tử chúng con tên . . . xin có bao nhiêu thệ nguyện nguyện nào cũng như nguyện của người ở phương chư Phật, chư Ðại Bồ tát đã phát ra trong lúc tu hành, rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không.
Ðệ tử chúng con tên . . . xin đều được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện. Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều theo đó, đều được như sở nguyện. Nguyện xin mười phương hết thảy chư Phật, hết thảy chư Bồ tát và hết thảy Thánh Hiền đều đem sức từ bi, hiện tiền chứng giám cho chúng con.
Lại nguyện xin cho chúng sanh thảy thiên chủ, hết thảy tiên chủ, hết thảy thiện thần, hết thảy long thần đem từ thiện căn
lực, vì ủng hộ Tam Bảo mà hiện tiền chứng giám cho chúng con khiến chúng con hết thảy hạnh nguyện đều được viên mãn, tùy theo ý muốn.
CHƯƠNG THỨ SÁU
PHÁT TÂM HỒI HƯỚNG
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã phát bồ đề tâm rồi, đã phát đại thệ nguyện rồi, bây giờ lại nên phát tâm hồi hướng.
Cùng nhau chí thành đảnh lễ, nhất tâm tha thiết, năm vóc sát đất, quy y Thế gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật,
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Nhật Quang Phật
Nam mô Vô lượng Bảo Phật
Nam mô Liên Hoa Tối Tôn Phật
Nam mô Thân Tôn Phật
Nam mô Kim Quang Phật
Nam mô Phạm tự tại vương Phật
Nam mô Kim Quang minh Phật
Nam mô Kim Hải Phật
Nam mô Long tự tại vương Phật
Nam mô Thọ vương Phật
Nam mô Nhất thế Hoa Phật
Nam mô Hương tự tại vương Phật
Nam mô Hương tự tại vương Phật
Nam mô Dõng mãnh chấp trì lao trượng khí xả chiến đấu Phật
Nam mô Nội phong châu quang Phật
Nam mô Vô lượng Hương Quang minh Phật
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Nam mô Diệu Âm Bồ tát
Nam mô Vô Biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo, đem sức từ bi hiện tiền chứng giám cho chúng con.
Chúng con tên . . . quá khứ đã khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp, hiện tại đang khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp, và vị lai sẽ khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc khinh hoặc trọng, thảy đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, trong bốn loài, sáu đường, làm cho các chúng sanh ấy đều được đại đạo tâm, không hướng về nhị thừa, không hướng về ba cõi, cùng nhau hướng về vô thượng bồ đề.
Lại nguyện xin cho tất cả chúng sanh ấy đã khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai đều không hướng về nhị thừa, đều không hướng về ba cõi, mà cùng nhau hướng về vô thượng bồ đề.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã cùng phát tâm bồ đề rồi, đã phát đại thệ nguyện rồi đã phát tâm hồi hướng rồi rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không.
Hết thảy chư Phật, chư Ðại Bồ tát cùng chư vị thánh hiền quá khứ, hiện tại và vị lai đều chứng minh cho chúng con. Chúng con lại chí thành đảnh lễ Tam bảo.(1lạy)
Chúng con tên . . . phát tâm, phát nguyện việc ấy đã rồi, vui mừng vô lượng. Nay chúng con lại chí tâm đầu thành đảnh lễ thế cho: quốc chủ, nhân dân, phụ mẫu, sư trưởng bà con nhiều đời, quyến thuộc nhiều kiếp, thiện ác tri thức, chư thiên chư tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, nhũ phương long vương, long thần, bát bộ hết thảy linh kỳ, quá khứ, hiện tại cùng vị lai hết thảy người oán kẻ thân và không phải oán thân, hết thảy chúng sanh trong bốn loài, sáu đường mà quy y thế gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Sư Tử Hưởng Phật
Nam mô Ðại cường tinh tấn Dõng Lực Phật
Nam mô Quá khứ kiến trú Phật
Nam mô Cổ âm vương Phật
Nam mô Nhật nguyệt anh Phật
Nam mô Siêu xuất chúng Hoa Phật
Nam mô Thế đăng minh Phật
Nam mô Hưu đa dị Ninh Phật
Nam mô Bảo Luân Phật
Nam mô Thường diệt độ Phật
Nam mô Tịnh giác Phật
Nam mô Vô lượng bảo hoa minh Phật
Nam mô Tu Di Bộ Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa Phật
Nam mô Nhất thế chúng bảo phổ tập Phật
Nam mô Pháp luân chúng bảo phổ tập phong doanh Phật
Nam mô Thọ vương phong trường Phật
Nam mô Vi nhiễu đặc tôn Ðức Tịnh Phật
Nam mô Vô cấu Quang Phật
Nam mô Nhật Quang Phật
VÀ QUY Y KÍNH LỄ
Quá khứ vô số kiếp chư Phật. Ðại Sư Hải Ðức Như Lai.
Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới vô sanh pháp thân Bồ tát.
Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới vô lậu sắc thân Bồ tát
Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới phát tâm Bồ tát.
Kính lễ hưng chánh pháp Mã Minh đại sư Bồ tát,
Kính lễ hưng Tượng pháp, Long Thị Ðại Sư Bồ tát
Kính lễ mười phương tận hư không giới vô biên thân Bồ tát.
Kính lễ mười phương tận hư không giới cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát.
TÁN THÁN PHẬT VÀ CHÚ NIỆM.
Ðại Thánh Thế Tôn.
Uy nghiêm rực rỡ
Thần trí nhiệm mầu,
Lớn hơn các Thánh
Thân khắp lục đạo
Thể cùng mười phương
Ðảnh có nhục kế,
Tráng tỏa hào quang
Mặt như trăng tròn
Thân vàng sắc đẹp,
Nghi dung đĩnh đạt
Ði đứng khoan thai,
Oai vang pháp giới,
Ma quân kinh hoàng.
Tam đạt ([11]) sáng tỏa
Chúng tà tiềm tàng.
Thấy ác liền cứu
Tế khổ tư lương ([12])
Ðộ thoát sanh tử,
Tế khổ tư lương ([13])
Nên hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật Thế Tôn, độ chúng vô lượng diệt khổ sanh tử.
Chúng con nguyện xin nhờ công đức nhơn duyên phát tâm này mà quốc chủ hiện tại và gia thân quyến thuộc của Người từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật quên mình vì đạo như:
Tát đà bà luân Bồ tát
Ðại Bi diệt tội như:
Hư Không Tạng Bồ tát
Hay ở xa nghe pháp như:
Lưu ly quang Bồ tát
Hay khéo giải đáp vấn nạn như:
Vô câu Tạng Bồ tát.
Lại nguyện xin cho đệ tử chúng con tên . . . thân sanh phụ mẫu, nhiều kiếp bà con, xa gần nội ngoại, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, biến thân ra giữa hư không thế giới như Ngài:
Vô Biên thân Bồ tát
Có đủ mười công đức như:
Ngài Cao quý Ðức Vương Bồ tát.
Nghe pháp sanh tâm vui mừng như:
Ngài Vô Úy Bồ tát.
Lại nguyện xin các Hòa Thượng, A Xà Lê, những bà con đồng tu đồng học, thượng, trung hạ tọa, hết thảy tri thức của chúng con, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, mọi người đều được phép vô úy như:
Ngài Sư Tử Vương Bồ tát
Giáo Hóa đuợc ảnh hưởng lớn như:
Ngài Bảo Tính Bồ tát.
Nghe tiếng liền cứu khổ như:
Ngài Quán Thế Âm Bồ tát.
Hay khéo thưa thỉnh giáo pháp như:
Ngài Ðại Ca Diếp Bồ tát.
Lại nguyện xin những người xuất gia, tại gia, tín thí đàn việt thiện ác tri thức và quyến thuộc của các người ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật cởi mở ngay được nguy ách, như Ngài Cứu Thoát Bồ tát.
Tướng mạo trang nghiêm như:
Ngài Văn thù Bồ tát.
Hay xả nghiệp chướng như:
Ngài Khí ấm Cái Bồ tát.
Hiếu tối hậu cúng như:
Ngài Thuần Ðà Bồ tát.
Lại nguyện xin chư Thiên, chư Tiên Hộ thế tứ vương, thông minh chánh trực, Thiên địa Hư không, chủ thiện phạt ác, Thủ hộ trì chú, ngũ phương Long vương, Long Thần Bát bộ, U hiển Linh kỳ và bà con quyến thuộc của các vị ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, có lòng Ðại từ che khắp chúng sanh như Ngài A Dật Ða Bồ tát.
Tinh tấn Hộ pháp như
Ngài Bất Hưu Bồ tát.
ở xa mà chứng minh cho sự đọc tụng như:
Ngài Phổ Hiền Bồ tát.
Vì Phật pháp mà thiêu thân như:
Ngài Dược Vương Bồ tát.
Lại nguyện xin hết thảy chúng sanh và quyến thuộc của các chúng sanh, hoặc oán, hoặc thân hay không phải oán thân trong bốn loài, sáu đường cùng khắp mười phương từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tâm không ái nhiễm như Ngài Ly Ý Nữ Bồ tát.
Nói lời nhiệm mầu khôn khéo như lời của
Thắng man Phu Nhơn.
Tu hành tinh tấn như đức Thích Ca văn.
Có thiện nguyện lớn như Phật vô lượng Thọ.
Có oai thần như các Thiên Vương.
Bất khả tư nghị như Ngài Duy ma Cật.
Thành tựu hết thảy chúng sanh, trang nghiêm hết thảy Phật độ.
Nguyện xin mười phương tận hư không giới vô lượng vô biên chư Phật, chư Ðại Bồ tát, và hết thảy Hiền Thánh đều đem lòng từ bi, đồng gia tâm che chở phù hộ cứu vớt chúng con, và chúng sanh, cho chúng con được mãn nguyện, tín tâm được kiên cố, phước đức ngày một cao dày, có từ tâm, nuôi dưỡng chúng sanh như nuôi đứa con một.
Khiến các chúng sanh ấy được bốn vô lượng tâm (9) sáu ba la mật (10) thập thọ tu thiền (11) tam nguyện đầy đủ (12) móng tâm liền được thấy Phật như bà Thắng man Phu nhơn. Hềt thảy hạnh nguyện hoàn toàn thành tựu, đồng như chư Phật, đồng đến Ðạo Tràng, thành bậc Chánh giác.
CHƯƠNG THỨ BẢY
NÓI RÕ QUẢ BÁO
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng trước đã thuật rõ tội báo của ác nghiệp. Vì hoạn lụy của ác báo cho nên trái với nghiệp thù thắng tốt đẹp. Vì ác nghiệp nên phải đọa trong ba đường dữ trải khắp ác thú và sanh ra ở nhơn gian để chịu trả quả báo đau khổ. Quả báo đau khổ như thế đều do nhơn duyên tức đối đời trước đem lại. Bây giờ xả thân nầy chịu thân khác để chịu trả quả báo mãi mãi không thôi.
Bởi thế chư Phật và chư Đại Bồ tát dùng sức thần thông thiên nhãn, thấy hết thảy chúng sanh trong ba cõi khi hết phước rồi, cứ theo nghiệp báo mà đọa vào các chỗ khổ. Thấy chúng sanh từ cõi trời vô sắc giới do tâm đắm trước thiền định. Thoạt vậy mạng chung, hết phước đọa xuống cõi trời dục giới.Vì hết phước nên cũng có khi đọa làm cầm thú. Những chúng sanh ở cõi trời sắc giới, khi hết phước cũng phải sa đọa như vậy. Từ chỗ thanh tịnh đọa xuống dục giới là chỗ không thanh tịnh vì ở chỗ không thanh tịnh nên trở lại thọ lấy dục lạc. Chúng sanh ở sáu cõi trời dục giới khi hết phước đọa xuống địa ngục chịu vô lượng khổ.
Chư Phật và Bồ tát lại thấy chúng sanh ở trong nhơn đạo, nhờ sức tu thập thiện được sanh làm người. Ngay trong thân người cũng có lắm khổ khi mạng chung phần nhiều lại đọa vào các đường ác.
Lại thấy chúng sanh trong đường súc sanh chịu lắm khổ não, bị đánh đập xua đuổi, chở nặng, đi xa, đau đớn khốn khổ, trày vai trợt cổ, sắt nóng thiêu thân.
Lại thấy chúng sanh trong đường ngã quỉ thường bị đói khát khổ sở, bị lửa thiêu thân nhưở thời mạt kiếp. Nếu không nhờ một mảy căn lành để cứu vớt thì vĩnh kiếp không thể giải thoát. Nếu có được chút phước thì được sanh lên làm người nhưng thân hình ốm yếu, nhiều tật bệnh và sống yểu chết non.
Vậy Đại chúng nên biết thiện ác như hai bánh xe theo nhau chưa từng tạm nghỉ thì quả báo cũng do đó mà liên tiếp không thôi, xoay vần như sợi dây xích chuyền nối mãi mãi.
Sang hèn giàu nghèo đều tùy hạnh nghiệp của mỗi người mà chịu trả quả báo.
Không phải sang hèn như vậy mà không có nguyên nhơn, không lẽ vô cớ mà có quả báo sang hèn như vậy, thì rất phi lý.
Trong kinh Phật dạy rằng:
- Làm người, giàu sang, quốc vương, trưởng giả là do cái nhơn đời trước lễ bái phụng sự Tam bảo mà ra.
- Làm người giàu có to lớn là do cái nhơn đời trước bố thí mà ra.
- Làm người sống lâu là do cái nhơn đời trước không sát sanh mà ra.
- Làm người đoan chánh là do cái nhơn đời trước nhẫn nhục mà ra.
- Làm người siêng tu là do cái nhơn đời trước không biếng nhác mà ra.
- Làm người có tài ba sáng suốt, hiểu rộng thấy xa là do cái nhơn đời trước tu trí huệ mà ra.
- Làm người có âm thanh trong trẻo là do cái nhơn đời trước ca vịnh tán thán Tam bảo mà ra.
- Làm người sạch sẽ không tật bệnh là do cái nhơn đời trước từ tâm mà ra.
- Làm người thân hình cao lớn tốt đẹp là do cái nhơn đời trước kính nhường người mà ra.
- Làm người thân hình thấp hèn nhỏ bé là do cái nhơn đời trước khinh khi người mà ra.
- Làm người thân hình xấu xa là do cái nhơn đời trước hay giận hờn mà ra.
- Làm người vô tri, không hiểu biết gì hết là do cái nhơn đời trước không học hỏi mà ra.
- Làm người ngu xuẩn đần độn là do cái nhơn đời trước không dạy bảo người mà ra.
- Làm người câm ngọng là do cái nhơn đời trước hay hủy báng người mà ra.
- Làm người hay bị kẻ khác sai khiến là do cái nhơn đời trước mắc nợ người không trả mà ta.
- Làm người da đen xấu xí là do cái nhơn đời trước che ánh sáng quang minh của Phật mà ra.
- Làm người sinh vào nước lõa hình là do cái nhơn đời trước ăn mặc quần áo mỏng manh suồng sã, cho mình là hơn người mà ra.
- Làm người sanh vào nước móng ngựa là do cái nhơn đời trước đi giầy dép tưởng mình là hơn người, dành đi trước mà ra.
- Làm người sanh vào nước xuyên ngực là do cái nhơn đời trước bố thí làm phước, rồi sanh tâm hối hận tiếc của mà ra.
- Làm người sanh trong loài hưu nai là do cái nhơn đời trước dọa nạt người, làm người khiếp sợ mà ra.
- Làm người sanh trong loài rồng là do cái nhơn đời trước ưa dỡn cợt múa nhảy mà ra.
- Làm người thân hình sinh lở ghẻ dữ là do cái nhơn đời trước ưa đánh đập chúng sanh mà ra.
- Làm người được người thấy mình liền sanh tâm hoan hỷ là do cái nhơn đời trước mình thấy người cũng sanh tâm hoan hỷ.
- Làm người hay bị quan bắt giam cầm là do cái nhơn đời trước hay bắt giam cầm chúng sanh trong lồng trong chậu mà ra.
- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm loạn động tâm người khác, sau sẽ đọa trong loài chó trập tai.
- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà không để ý nghe cho hiểu sau sẽ đọa trong loài lừa dài tai.
- Làm người tham ăn một mình, keo rít, bỏn xẻn, sau sẽ đọa loài quỉ đói. Hết kiếp quỉ đói sanh ra làm người bần cùng đói khát.
- Làm người đem đồ ăn dở cho kẻ khác, sau sanh làm heo lợn loài bọ hung.
- Làm người hay cướp giựt của kẻ khác, sau đọa làm dê, bị kẻ khác lột da ăn thịt.
- Làm người ưa trộm cướp của kẻ khác, sau đọa làm trâu ngựa, bị người sai khiến.
- Làm người ưa nói vọng ngữ, tuyên truyến điều xấu của kẻ khác, sau đọa địa ngục, bị quỉ sứ rót nước đồng sôi vào miệng, kéo dài lưỡi ra cho trâu cày. Tội hết rồi, người ấy sanh làm chim cù dục, chim cú, người nghe tiếng nó kêu, ai cũng sợ hãi, cho là yêu quái, đều nguyền rủa cho nó chết.
- Làm người ưa uống rượu say, sau đọa vào địa ngục phất sí (nước phẩn sôi trào). Tội hết rồi người ấy sanh vào loài tinh tinh. Hết nghiệp tinh tinh, được sanh làm người, ngoan độn, ngu si, không ai đếm sỉa đến.
- Làm người tham lường sức mạnh của kẻ khác, sau sẽ đọa làm voi.
Than ôi! Ở địa vị giàu sang, làm người trên trước mà đánh đập kẻ dưới. Kẻ dưới không biết thưa kiện với ai. Những người như thế, chết vào địa ngục, kể cả ngàn vạn năm, chịu quả báo đau khổ.
Từ địa ngục ra, lại đọa làm trâu, bị xâu xỏ mũi miệng dắt thuyền kéo xe, roi gậy to lớn đánh đập khổ sở, để đền lại nợ oan trái ngày xưa.
Lại nữa, người ăn ở dơ bẩn là từ trong loài heo mà đầu thai ra.
Người xan tham keo kiết, không tự xét mình là từ trong loài chó mà đầu thai ra.
Những người gầm gừ, tự dụng một mình là từ trong loài dê mà ra.
- Người có tánh táo bạo, nóng nảy, không hay nhẫn nhục là từ trong loài khỉ, vượn, hầu mà đầu thai ra.
- Người có thân hình tanh hôi là từ trong loài cá trạnh mà đầu thai ra.
- Người có tâm thâm hiểm, độc ác là từ trong loài rắn độc mà đầu thai ra.
- Người không có từ tâm tàn nhẫn, bạo hại, là từ trong loài hổ báo, sài lang mà đầu thai ra.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, đã sanh ra làm người trong thế gian bị nhiều bệnh, chết sớm, biết bao thống khổ không thể kể xiết, như thế là do ba nghiệp gây ra, nên khiến người “tu hành” phải mắc lấy quả báo trong ba đường dữ.
Sở dĩ có ba đường dữ là vì có tham sân si. Vả lại cũng vì có ba độc tham sân si ấy mà người tự thiêu đốt lấy mình, miệng thường nói ác, tâm thường nghĩ ác, thân thường làm ác.
Do các điều ác ấy làm cho thân người thường chịu các khổ não, không cùng tận. Đến khi mạng chung, hồn côi bơ vơ. Mình làm mình chịu, cha mẹ vợ con không thể cứu được.
Thoạt vậy trong nháy mắt, đến chốn Diêm vương, ngưu đầu, ngục tốt ở trong địa ngục không kể tôn ti, chỉ xét sổ tội phước, kiểm điểm nặng nhẹ, thiện ác nhiều ít, trong lúc sanh tiền đã làm thế nào thì thần thức tự thú tội, không dám che giấu. Do vì nhơn duyên ấy nên phải theo nghiệp mà chịu trả quả báo, đến chỗ khổ hay vui là do mình làm mình chịu mờ mờ mịt mịt ly biệt lâu dài, đường ai nấy đi, không bao giờ gặp nhau trở lại.
Vả lại, các vị thiên thần ghi chép thiện ác của người không thiếu sot mảy may. Người thiện làm lành được phước thêm tuổi, người ác làm dữ, giảm thọ thêm khổ. Cứ xoay vần như vậy, mãi mãi rồi lại đọa làm quỉ đói. Hết kiếp quỉ đói, thoát ra làm súc sanh. Tội khổ vô lượng không thể chịu nổi, không bao giờ cùng.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên phải tự tỉnh ngộ mà sanh tâm hổ thẹn.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ”. Nhưng trong đời ngũ trược ác thế, chúng ta không nên làm ác; làm lành không mất quả lành, làm ác tự rước lấy tai họa.
Chớ cho khinh thoát lập ra pháp sám nầy.
Kinh dạy rằng: “Chớ khinh điều thiện nhỏ cho là không phước, giọt nước tuy nhỏ, chảy lâu cũng đầy bát to”.
Không chứa thiện nhỏ lấy gì có phước to để thành Thánh thành Phật, chớ khinh ác nhỏ mà nói là không có tội. Ác nhỏ chứa lại lâu ngày cũng đủ mất thân.
Đại chúng nên biết: Lành dữ họa phước đều do tâm tạo. Nếu không tạo nhơn thì không có kết quả. “Ương họa chứa lại, tội thành to lớn”. Chúng ta mắt thịt không thể thấy. Đó là lời Phật dạy ai dám không tin.
Chúng con đã cùng nhau vô phước, sanh vào đời mạt pháp, nếu không siêng năng học tập tu hành, không tự sức mình làm lành đến phút cuối cùng, tắt thở, khi ấy ăn năn đã muộn. Tuy vậy bây giờ đã cùng nhau thấy biết hết thảy tội lỗi như trong kinh đức Phật đã dạy: Người đã biết tội mình há lại không biết bỏ ác theo lành hay sao?
Đời nay nếu không dụng tâm xả thân cầu đạo quyết phải đọa địa ngục. Vì sao mà biết?
Vì trong lúc làm tội ôm lòng độc ác, mạnh mẽ nóng nảy, giận hờn, gắt gao, sâu sắc. Như giận một người nào quyết muốn cho người ấy chết. Nếu ghét một người nào, không ưa thấy điều tốt của người ấy. Nếu hủy báng một người nào, quyết khiến cho người ấy lâm cảnh vào cảnh khổ. Nếu đánh một người nào, quyết khiến cho người ấy đau đớn thấu trời thấu đất.
Khi giận hờn tàn bạo tai hại thì không kể tôn ti thượng hạ, dùng lời xấu hổ, mắng nhiếc đủ điều; có khi la vang như sấm dậy, mắt như lửa đổ. Còn khi làm phước thì thiện tâm rất yếu ớt. Lúc đầu muốn làm nhiều, sau lần lần giảm ít lại.
Lúc đầu muốn kinh doanh cho mau chóng, sau lại thả lỏng buông trôi.
Tâm đã không chí quyết ngày tháng trôi qua, lần lượt tới lui cho đến khi quên mất việc thiện là xong. Xét như thế thì biết lúc làm tội tâm lực rất mãnh liệt cường thạnh; lúc làm phước thì chí ý bạc nhược yếu hèn.
Nay đem cái nhơn làm phước yếu hèn ấy mà cầu xa lìa quả báo làm ác mãnh liệt cương cường kia thì không thể được.
Kinh dạy rằng: “Sám hối thì tội gì cũng tiêu diệt hết”.
Nhưng than ôi! Đến lúc sám hối, quyết phải đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như núi Thái sơn sụp đổ, không tiếc thân mạng mới mong diệt được tội.
Vì diệt được tội nên phải ân cần, thành khẩn cùng nhau xét mình từ khi sanh ra cho đến ngày nay đã gây ra bao nhiêu tội lỗi. Phải tự xét trách như thế mới không tiếc thân mạng, chịu khó nhọc mà sám hối.
Nếu tạm thời nhiễu Phật liền sanh tâm mỏi mệt, chán nản, tạm thời lễ bái liền nói sức lực không kham; hoặc tạm thời ngồi ngay tỉnh niệm, liền nói nên phải có tin tức chứng ngộ gì. Hoặc nói không nên làm cho thân thể quá mỏi mệt, phải cần dưỡng, không được làm khổ thân.
Vừa nằm xuống ngủ liền mê man như chết, không bao giờ tưởng nhớ đến việc ta phải lễ Phật quét tháp, quét chùa làm những việc khó làm.
Vả chăng, kinh có dạy rõ ràng:
“Chưa từng có một mảy may thiện nào từ sự giải đãi lười biếng mà sanh ra; chưa từng có một chút phước nào từ sự kiêu mạn, tự do tự đắc mà được”.
Đệ tử chúng con tên . . . tuy được làm thân người, nhưng tâm hay trái đạo, vì sao mà biết? Vì từ sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng. Cho đến không có một thời giờ một khắc, một niệm, một khoảnh nào mà chúng con để tâm nhớ tưởng Tam bảo, nghĩ nhớ lý tứ đế, cũng không có một chút tâm nào nghĩ nhớ báo ơn cha mẹ, không có một chút tâm nào nghĩ nhớ báo ơn Sư trưởng; Không có một chút tâm nào muốn bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, không có một chút tâm nào muốn học thiền định, muốn tu trí huệ.
Nay thử đem kiểm điểm lại các pháp thanh bạch thì chúng con không có một pháp nào đáng kể.
Trái lại những phiền não trọng chướng thì không biết bao nhiêu mà kể, đầy tai đầy mắt.
Nếu không kiểm soát như thế thì chúng con cũng tự hào rằng: công đức của chúng ta rất nhiều. Nếu có làm được chút việc thiện gì thì nói ta hay làm người khác không hay làm; ta hay tu người khác không hay tu; ý chí cao ngạo, xem như “mục hạ vô nhơn”, quanh mình không còn ai nữa.
Xét lại mà nghĩ, thật là đáng xấu hổ.
Nay đối trước Đại chúng, chúng con xin sám hối các tội lỗi ấy, mong Đại chúng hoan hỷ bố thí cho, tương lai không còn chướng ngại nữa.
Đại chúng cũng nên tự rửa sạch thân tâm. Theo sự trình bày quả báo như trước đã thuật đủ thì không thể tự khoan dung mà không cầu xả bỏ tội lỗi.
Đại chúng chớ nói ta không có các tội ấy, ta đã vô tội, cần gì sám hối. Nếu Đại chúng có nghĩ như thế, nguyện xin từ bỏ ngay tâm niệm ấy đi. Phải chăng bao nhiêu lầm lỗi vi tế đã kết thành tội lớn đại.
Thoạt vậy giận, hờn, sân tâm liền khởi tập thành tánh quen, khó có thể sửa đổi mau chóng, không thể buông tâm phóng ý mà không ngăn ngừa.
Nếu hay đè nén nhẫn nhịn thì phiền não có thể trừ. Người nào giải đãi lười biếng, buông lung thì không thể tế độ được.
Đệ tử chúng con tên . . . ngày nay mong nhờ sức từ bi hộ niệm của chư Phật, chư đại Bồ tát sức bổn thệ nguyện lực mà nói kinh: ‘TỘI NGHIỆP, BÁO ỨNG, ĐỊA NGỤC’ nên chúng con hết lòng lắng nghe.
“Ta nghe Đức A Nan thuật lại như thế nầy: Một hôm Phật ở tại thành Vương xá, trong núi Kỳ xà quật, cùng với chư Đại Bồ tát ma ha tát, các vị Thanh văn và quyến thuộc của các Ngài đông đủ; cũng có các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư thiên, quỉ thần, thảy đều đến dự hội đông đủ”.
Lúc bấy giờ có Ngài Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn hôm nay có đủ chúng sanh ở các đường địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, sang, hèn, giàu, nghèo không biết bao nhiêu chủng loại . . . Phảm có chúng sanh nào nghe được Phật thuyết pháp thì cũng như con thơ gặp mẹ, như bệnh gặp thuốc, như lạnh có áo, như tối có đèn. Thế Tôn thuyết pháp lợi ích cho chúng sanh cũng như thế ấy”.
Lúc bấy giờ Phật thấy thời cơ đã đến; biết các vị Bồ tát khuyến mời Phật thuyết pháp rất ân cần; Phật liền phóng đạo hào quang trắng giữa hai chặn mày, soi khắp mười phương vô lượng thế giới, địa ngục không còn, thống khổ cũng hết.
Lúc bấy giờ hết thảy chúng sanh đang chịu tội, tìm ánh sáng quang minh của Phật mà tới; Nhiễu quanh Phật bảy vòng nhất tâm lạy Phật khuyến mời Phật thuyết pháp, rộng giáo hóa chúng sanh, khiến chúng sanh mong nhờ nghe pháp mà được giải thoát.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng cũng nên chí thành khuyến mời chư Phật thuyết pháp như vậy; nguyện cho chúng sanh đều được giải thoát.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đảnh lễ Thế tôn, năm vóc sát đất như núi Thái sơn đổ mả khuyến thỉnh mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật thuyết pháp. Nguyện Phật đem sức từ bi, cứu các khổ não cho chúng sanh được an vui.
Lại xin khuyến thỉnh quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Thiên Phật
Nam mô Bất thối chuyển Luân thành thủ Phật
Nam mô Đại hưng quang vương Phật
Nam mô Pháp chủng Tôn Phật
Nam mô Nhật Nguyệt đăng minh Phật
Nam mô Tu Di Phật
Nam mô Đại Tu Di Phật
Nam mô Siêu Xuất Tu Di Phật
Nam mô Dụ như Tu Di Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Vi nhiễu Hương Huân Phật
Nam mô Tịnh quang Phật
Nam mô Pháp Tối Phật
Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật
Nam mô Đại Tập Phật
Nam mô Hương Quang Minh Phật
Nam mô Đại Quang Minh Phật
Nam mô Vô Lượng Quang Minh Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bố Tát
Nam mô Sư Tử Phấn tấn Bồ Tát
Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ Tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Phật Đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo cứu hộ hết thảy chúng sanh; diệt trừ hết thảy khổ não, khiến các chúng sanh liền được giải thoát, bỏ ác theo lành, không làm ác nữa; Từ nay trở đi không còn đọa địa ngục, ngã quỉ, súc sanh nữa; thân khẩu ý đều thanh tịnh; không nghĩ đến việc ác của người; xa lìa các nghiệp chướng; được các nghiệp thanh tịnh; hết thảy tà ma không thể lay chuyển; thường tu bốn món vô lượng tâm ([1]); tinh tiến dõng mãnh, trồng các căn lành vô lượng vô biên; xả thân nầy thọ thân khác đều được thường sanh nơi phước địa; nhớ ba đường khổ, phát tâm bồ đề tu đạo Bồ tát không thôi không dứt. Lục độ ([2]) tứ đẳng ([3]) thường được hiện tiền. Tam minh ([4]) lục thông, thường được như ý tự tại. Ra vào cảnh giới của chư Phật, chơi dỡn tự do cùng các vị Bồ tát thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên sanh tâm sợ hãi, sanh tâm từ bi nhất tâm nhất ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn phóng đạo bạch hào tướng quang ở giữa hai chặn mày soi sáng khắp hết thảy chúng sanh trong sáu đường. Khi ấy Ngài Tín Tướng Bồ tát vì thương sót hết thảy chúng sanh, liền từ tòa ngồi đứng dậy đến trước Phật quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Nay có chúng sanh bị các ngục tốt cắt chặt bằm chém thân thể từ đầu đến chân. Chúng sanh ấy bị chặt và chết ngất thì có gió xảo phong thổi sống lại. Sống rồi lại bị chặt, chịu khổ báo như thế vô cùng vô tận không bao giờ ngừng là vì tội gì vậy”.
Phtậ bảo: “Những chúng sanh ấy ở các đời trước không tin Tam bảo, không biết cúng dường bất hiếu với cha mẹ, sanh tâm ác nghịch; làm nghề hàng thịt, cắt chặt chúng sanh, vì các nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
– Lại có chúng sanh, thân thể sần sượng tê cứng cả người, mày râu rụng hết, toàn thân bầm đỏ, bạn với chim muông, vắng vẻ bóng người bà con xa bỏ, không ai muốn thấy. Ác báo như thế là bệnh phong hủi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước người ấy không tin Tam bảo, bất hiếu với cha mẹ, phá tháp hủy chùa, bóc lột người tu hành, chém bắn Thánh Hiền, tổn thương Sư trưởng, chưa từng biết quấy; vong ơn bội nghĩa, hành động như cẩu khuyển (chó) làm xấu người trên, không kể thân sơ, không biết hổ thẹn, vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
– Lại có chúng sanh thân hình dài lớn, tai điếc, chân không có, quắn quại, bò lết mà đi, chỉ ăn đất cát mà sống; bị các sâu trùng nhỏ nhiệm cắn rức; ngày đêm chịu khổ vô cùng không gián đoạn; vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật dạy: “Vì đời trước làm người chỉ biết có mình, không tin lời hay, lời lành của kẻ khác. Bất hiếu với cha mẹ, trái ý phản nghịch, hoặc làm địa chủ hay làm quan to, trấn nhậm bốn phương, hoặc làm châu trưởng cai tri đốc suất dân chúng mà cậy oai ỷ thế, xâm đoạt của người cách vô lý, không đạo đức, làm cho dân chúng cùng khổ. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.”
– Lại có chúng sanh đui cả hai mắt, không thấy biết gì, hoặc bị cây đè, hoặc sa hầm hố mà chết, chết rồi sống lại; sống lại rồi chết, cứ như thế mãi. Vì nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước không tin tội phước, che ánh sáng của Phật, may bít mắt người, giam nhốt chúng sanh, lấy bao lấy đẫy bao đầu chúng sanh, không cho trông thấy. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất dáng sợ hãi.
Chúng con cũng có thể đã làm những tội như thế. Nhưng vì vô minh che lấp tâm tánh nên không tự nhớ biết đó mà thôi.
Những tội như vậy vô lượng vô biên đến đời sau sẽ chịu khổ báo.
Ngày nay chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như núi Thái sụp đổ, cầu xin sám hối, hổ thẹn ăn năn, cải đổi tâm tánh. Những tội đã làm rồi nhờ sám hối mà trừ diệt. Những tội chưa làm, từ nay thanh tịnh. Nguyện xin quy y hết thảy mười phương chư Phật.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Khai quang minh Phật
Nam mô Nguyệt đăng quang Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang Phật
Nam mô Nhật nguyệt Quang minh Phật
Nam mô Đạo hảo Quang minh Phật
Nam mô Tập âm Phật
Nam mô Tối oai nghi Phật
Nam mô Quang minh tôn Phật
Nam mô Liên hoa quân Phật
Nam mô Liên hoa hưởng Phật
Nam mô Đa Bảo Phật
Nam mô Sư tử hống Phật
Nam mô Sư tử âm vương Phật
Nam mô Tinh tấn quân Phật
Nam mô Kim cang dõng dược Phật
Nam mô Độ nhất thế thuyền tuyệt chúng nghi Phật
Nam mô Bảo đại thị tùng Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Địa Lực Trì dõng Phật
Nam mô Tối dõng dược Phật
Nam mô Sư tử tác Bồ tát
Nam mô Khí ấm cái Bồ tát
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo , nguyện xin Tam bảo dũ lòng đại từ đại bi, gia hộ cứu vớt, khiến các chúng sanh liền được giải thoát. Vì các chúng sanh mà diệt trừ những nghiệp địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, khiến các chúng sanh rốt ráo không chịu các quả báo dữ nữa, khiến các chúng sanh bỏ khổ trong ba đường ác, đồng đến chỗ trí huệ, đều được yên ổn, hoàn toàn an vui.
Nguyện xin Tam bảo đem ánh sáng đại quang minh diệt trừ mê mờ rất si ám cho chúng sanh; phân biệt rộng rãi, giải thích rõ ràng pháp môn vi diệu, thậm thâm nhiệm mầu cho chúng sanh nghe, khiến chúng sanh đều được chứng quả vô thượng Bồ đề, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nên chí thành nhất tâm mà nghe, suy nghĩ cho kỹ:
Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn:
Lại có chúng sanh ngọng lịu ấm á, miệng không thể nói, dầu có nói cũng không rõ ràng. Vì nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước người ấy phỉ báng Tam bảo khinh hủy Thánh đạo, bàn luận việc xấu tốt của người, tìm việc hay dở của người, vu oan cho kẻ lương thiện, ghen ghét người hiền. Vì nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh bụng lớn như trống, cổ nhỏ như kim, không thể ăn nuốt được. Nếu có đồ ăn, đồ ăn biến thành máu mủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước, người ấy trộm cắp đồ ăn của chúng. Khi có đại hội, sắm các thức ăn ngon, người ấy riêng lấy mà ăn, hoặc lấy mè muối, gạo cơm ra chỗ khuất mà ăn. Lại thêm keo rít, tiếc của mình, tham của người, thường ôm lòng độc ác, cho người uống thuốc độc, nghẹt thở không thông. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường bị ngục tốt thiêu đốt, dội nước sắt nóng vào thân, đóng đinh sắt vào thân; đóng rồi tự nhiên hỏa bốc thiêu cháy thân thể thảy đều phỏng đỏ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm thầy châm, lể, tổn thương thân thể của người. Châm chích không lành, gạt người lấy của, làm cho người đau khổ. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở trong cái vạc (cái chảo nấu) nước sôi ngưu đầu ngục tốt, tay cầm xoa sắt, móc bỏ vào vạc nấu chín rục, rồi thổi cho sống lại. Sống lại rồi nấu nữa. Vì nhơn duyên gì nên mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước người ấy làm nghề hàng thịt, giết chúng sanh, trụng nước sôi, nhổ sạch lông, giết hại rất nhiều không thể kể xiết. Vì nhơn duyên ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi.
Chúng con không biết ở trong đường ác nào đã từng làm vô lượng tội nghiệp như thế. Đời sau quyết phải mắc quả báo ác nghiệt ấy. Ngay trong đời hiện tại chúng con cũng có thể mắc phải quả báo ác nghiệt ấy. Ấm cúng, ngọng lịu, miệng không thể nói, hoặc bụng lớn cổ nhỏ, không thể ăn nuốt, mạng sống vô thường. Ngày nay tuy an vui ngày mai thế nào không thể biết được.
Thình lình gặp phải quả báo đến, không thể thoát được.
Mọi người đều nên hiểu rõ ý ấy, nhất tâm chánh niệm, chớ tư tưởng gì nữa, chỉ một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh ở khắp trong bốn loài sáu đường, ngày nay đang chịu khổ, đã chịu khổ, hay sẽ chịu khổ mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Tự tại vương Phật
Nam mô Vô lượng âm Phật
Nam mô Định Quang minh Phật
Nam mô Bảo Quang minh Phật
Nam mô Bảo Cái chiếu không Phật
Nam mô Diệu Bảo Phật
Nam mô Đế Tràng Phật
Nam mô Phạm Tràng Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Thù Thắng Phật
Nam mô Tập Âm Phật
Nam mô Kim cang bộ Tinh tấn Phật
Nam mô Tự tại vương Thần thông Phật
Nam mô Bảo Hỏa Phật
Nam mô Tịnh nguyệt tràng xưng quang Phật
Nam mô Diệu Lạc Phật
Nam mô Vô lượng tràng phan Phật
Nam mô Vô lượng phan Phật
Nam mô Đại quang Phổ chiếu Phật
Nam mô Bảo Tràng Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện xin chư Phật, chư Bồ tát, đem sức đại từ đại bi, cứu hộ hết thảy chúng sanh đang chịu khổ, dùng sức thần thông diệt trừ ác nghiệp cho các chúng sanh, hoàn toàn không đọa trở lại trong ba đường khổ, đến được chỗ an vui thanh tịnh, sanh ra chỗ nào cũng được thanh tịnh, công đức đầy đủ, không thể cùng tận. Xả thân thọ thân hằng gặp chư Phật, đồng với các vị Đại Bồ tát thành đẳng chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại gia tâm lực, lắng tai nghe kỹ.
Tín Tướng Bồ tát lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng sanh ở trong hỏa thành tâm can bị thiêu đốt, bốn cửa thành tuy mở, nhưng chạy đến thì cửa liền tự đóng, chạy khắp đông tây cũng không ra được, bị lửa thiêu sạch. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm người thiêu đốt rừng núi, phá vỡ bờ đê, chiên rán các thứ trứng gà vịt làm cho chúng sanh bị thiêu, bị đốt mà chết nên phải mắc tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở núi Tuyết sơn bị gió lạnh thổi, da thịt nức nở, cầu chết không được, cầu sống không được, khổ sở vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Người ấy đời trước làm giặc, đón đường bóc lột áo quần người khác để tự tư dưỡng; mùa đông giá lạnh, lột truồng hình người khác làm cho họ phải chết lạnh và lột da xẻ thịt trâu dê, làm cho chúng sanh đau khổ vô lượng. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở trên núi dao, rừng kiếm, rờ đụng vào đâu thì liền bị cắt đứt đó, thân thể tay chân đều bị chặt nát, đau đớn khổ sở, không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp; Vì người ấy đời trước làm nghề sát sanh, phanh thây xẻ thịt chúng sanh, cắt xẻo bóc lột, cốt nhục chia lìa, đầu mình tan rã, treo lên trên cao, cân lường mà bán, hoặc treo sống mà bán đau đớn vô cùng chúng sanh không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh tai mắt v.v... năm căn không đủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước nuôi chim bay chó chạy để đi săn bắn. Bắn chim bắn thú, hoặc bắn bể đầu, hoặc bẫy đứt chân, nhổ sống lông cánh, làm chúng sanh đau khổ vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên ấy nên phải mắc tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh trong mười phương, hoặc đã chịu khổ, hoặc đang chịu khổ, hoặc sẽ chịu khổ mà quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Tịnh Quang Phật
Nam mô Bảo Vương Phật
Nam mô Thọ căn Hoa vương Phật
Nam mô Duy Vệ trang nghiêm Phật
Nam mô Khai Hóa Bồ tát Phật
Nam mô Kiên vô khủng cụ Phật
Nam mô Thừa nhất độ Phật
Nam mô Đức nội phong nghiêm vương Phật
Nam mô Kim cang Kiên cường tiêu phục hoại tán Phật
Nam mô Bảo Hỏa Phật
Nam mô Bảo nguyệt quang minh Phật
Nam mô Hiền Tối Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa Bộ Phật
Nam mô Hoại ma la võng độc bộ Phật
Nam mô Sư tử Hống lực Phật
Nam mô Bi Tinh tấn Phật
Nam mô Kim bảo quang minh Phật
Nam mô Vô lượng tôn phong Phật
Nam mô Vô lượng Tôn ly cấu vương Phật
Nam mô Đức Thủ Phật
Nam mô Dược vương Bồ tát
Nam mô Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo đem lòng đại từ, đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh trong mười phương khiến các chúng sanh hiện đang chịu khổ liền được giải thoát; chúng sanh sẽ chịu khổ hoàn toàn, đoạn trừ phiền não, rốt ráo không sa đọa trỉ lại trong ba đường ác nữa.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật trừ sạch ba nghiệp chướng diệt hết năm sợ hãi; hoàn toàn đầy đủ công đức trang nghiêm; nhiếp hóa hết thảy chúng sanh hướng về vô thượng đạo, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại lắng lòng mà nghe:
Tín Tướng Bồ tát bạch Phật. Bạch đức Thế Tôn: Lại có chúng sanh què trệt, lưng cong, tay chân co quắp, không thể cầm nắm , không thể đi đứng. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm người độc ác, để binh khí giữa đường, đặt súng đặt gươm, đào hầm đào hố, hãm hại chúng sanh. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh bị các ngục tốt trói buộc thân thể, gông cùm khổ ách, không thể thoát được. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước người ấy chài lưới chúng sanh, buộc nhốt lục súc, hoặc làm chủ tể, quyền hành địa phương, cai trị dân chúng, tham lam vơ vét, giam oan ngưởi vô tội, lương thiện, oán hận không biết kêu ai.
– Lại có chúng sanh hoặc điên, hoặc si, hoặc cuồng, hoặc sợ, không phân biệt được tốt xấu. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm người uống rượu say sưa, loạn trí loạn tâm, phạm ba mươi sáu lỗi nên đọa làm người ngu si, cũng như người say không phân biệt được tốt xấu, thượng hạ tôn ty. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thân lùn, hình nhỏ, âm tạng rất lớn, thả xuống thì thân đau, phải vắc ra sau lưng mà đi, đi đứng nằm ngồi đều bị trở ngại. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước buôn bán vàng ngọc, khen vật báu của mình, chê vật báu của người, thay đổi thăng đấu, vặn cân bẻ móc, (gian lận thước tấc). Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau nhất tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh đã chịu khổ, hết thảy chúng sanh sẽ phải chịu khổ trong sáu đường; và nguyện vì cha mẹ, sư trưởng, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh khắp trong mười phương mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Vô số Tinh tấn hương phong Phật
Nam mô Vô Ngôn Thắng Phật
Nam mô Vô Ngu Phong Phật
Nam mô Nguyệt anh phong Phật
Nam mô Vô Dị quang phong Phật
Nam mô Nghịch không quang minh Phật
Nam mô Tối thanh tịnh vô lượng tràng Phật
Nam mô Hiếu đế trú duy vương Phật
Nam mô Thành tựu nhất thế chư sát phong Phật
Nam mô Tịnh Huệ Đức Phong Phật
Nam mô Tịnh Luân Phan Phật
Nam mô Lưu Ly quang tối phong Phật
Nam mô Bảo Đức Bộ Phật
Nam mô Tối thanh tịnh đức bảo trú Phật
Nam mô Độ bảo quang minh thắng Phật
Nam mô Vô lượng Tàm quý kim tối phong Phật
Nam mô Văn Thù Sư lợi Bồ tát
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Đệ tử chúng con tên . . . ngày nay mong nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, nguyện vì hết thảy chúng sanh mà đành lễ quy y cầu xin sám hối.
Những chúng sanh đã chịu khổ rồi, xin nhờ sức đại từ bi của chư Phật, chư Bồ tát, liền được giải thoát.
Những chúng sanh chưa chịu khổ, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, rốt ráo không đọa trở lại trong các đường ác, xa lìa tám nạn khổ; bẩm thọ tám phước sanh; được các căn lành, thành tựu bình đẳng, đầy đủ trí huệ, thành tựu biện tài, thanh tịnh tự tại, cùng với chư Phật thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên biết dụng tâm, lắng lòng mà nghe, Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng sanh, hình trạng rất xấu, thân đen như mực, hai tai lại xanh, hai vai nổi lên, mặt phẳng, mũi dẹp, mắt đỏ vàng ngầu, răng nướu sua sún, hơi miệng tanh hôi, vế ngắn và ủng thủng; bụng lớn, lưng nhỏ, tay chân co quắp; xương sườn, xương sống nổi lên, tốn vải; ăn nhiều; ghẻ dữ tanh hôi, máu mủ nhơ nhớp; bệnh thủy thủng, càn tiêu, phung hủi ung thư, bao nhiêu điều ác độc hung dữ đều dồn vào thân. Dầu muốn thân cận người không để ý. Nếu người khác làm tội, vô cớ mình cũng liên can mang họa. Hằng không được thấy Phật, nghe pháp, không biết Bồ tát không biết Thánh Hiền. Ra vào nơi đau khổ, không bao giờ cùng. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật dạy: Vì đời trước làm con bất hiếu với cha mẹ; làm tôi không trung chánh với vua, làm người trên không thương kẻ dưới, làm người dưới không biết kính kẻ trên, không thành thật, không thủ tín với bạn bè, không nhơn nghĩa với làng xóm; không chức tước với triều đình; không đạo đức trong sự xử đoán, không có độ lượng mà lòng dạ đảo điên, sát hại quân thần; khinh khi tôn trưởng, bán nước buôn dân, phá thành phá lũy, cướp giựt trộm cắp, ác nghiệp vô lượng.
Lại khen mình chê người, xâm lấn già nua, lấn hiếp cô độc; báng bổ người hiền, khinh mạn sư trưởng; khi dối kẻ hà tiện.
Tóm lại là phạm hết thảy tội. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải ác báo, tội nghiệp như vậy.
Lúc bấy giờ những người bị tội nghe Phật dạy như vậy, khóc lóc động địa, nước mắt trào như mưa, bèn bạch Phật rằng: Nguyện xin Thế Tôn sống mãi ở đời, thuyết pháp giáo hóa cho chúng con mong được giải thoát.
Phật đáp: Nếu ta ở mãi ở đời, những người bạc phước; không trồng căn lành. Họ bảo ta còn sống mà không lo nghĩ đến vô thường, tự do tạo ra vô lượng tội ác, sau ăn năn không kịp.
Thiện nam tử ôi! Ví như con thơ, mẹ thường ở bên mình thì con không nghĩ đến sự gặp mẹ là khó. Lúc nào mẹ đi vắng, con mới liền sanh tâm nhớ tưởng, khao khát luyến mẹ. Lúc ấy mẹ trở lại con mới vui mừng.
Thiện nam tử ôi! Ta nay cũng như vậy Ta biết chúng sanh không tìm cầu sự thật, thường trú chơn tâm, cho nên ta nhập Niết bàn.
Lúc bấy giờ Phật đối trước những chúng sanh đang chịu tội đó mà nói bài kệ rằng:
Nước chảy không thường đầy,
Lửa mạnh không thường đốt,
Mặt trời mọc rồi lặn,
Mặt trăng tròn rồi khuyết,
Sự tôn trọng giàu sang,
Càng vô thường hơn nữa,
Nghĩ lại phải siêng năng,
Đảnh lễ ngôi Tam bảo.
Lúc bấy giờ Phật nói lời kệ ấy rồi, các người bị tội kia thảy đều buồn rầu mà bạch Phật rằng: Hết thảy chúng sanh làm những việc lành gì mà xa lìa được những tội khổ ấy?
Phật dạy: Nầy, thiện nam tử! Phải siêng năng hiếu dưỡng cha mẹ; phụng sự sư trưởng, quy y Tam bảo, siêng tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, từ bi, hỷ xả, xem kẻ oán người thân như nhau, không có thân sơ, không khinh người già nua, cô quả; không khinh kẻ nghèo hèn; ủng hộ người như giúp đỡ mình, không có tâm ác đối với người.
Nếu các người hay tu hành được như vậy thời cũng đã là báo được ơn chư Phật; hằng xa lìa ba đường ác, không còn đau khổ nữa. Phật dạy kinh nầy rồi các vị đại Bồ tát liền được quả vô thượng bồ đề. Các hàng Thanh văn Duyên giác liền chứng được lục thông, tam minh và tám pháp giải thoát. Còn các đại chúng khác đều được pháp nhãn tịnh. ([5])
Nếu có chúng sanh nào, nghe được kinh nầy thì không đọa vào ba đường ác, và không mắc phải tám nạn, địa ngục trống rỗng, thống khổ không còn.
Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, kinh nầy gọi là kinh gì? Bồ tát ma ha tát phải phụng trì bằng cách nào?”
Phật bảo Tín Tướng Bồ tát: “Thiện nam tử, kinh nầy gọi là Báo ứng Giáo hóa Địa ngục kinh”. Các ngươi nên phụng trì, và lưu truyền cùng khắp, công đức vô lượng”.
Bấy giờ Đại chúng nghe Phật dạy lời ấy rồi hết lòng vui mừng, đảnh lễ vâng lời làm theo.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy, rất đáng sợ hãi, sanh tâm từ bi, nương nhờ thần lực của Phật, tu đạo Bồ tát nhớ địa ngục khổ, phát tâm Bồ đề, vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ, ở đường địa ngục, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường ngã quỉ, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường súc sanh; rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh cùng khắp mười phương hiện đang chịu khổ ở trong sáu đường; nhất tâm nhất ý, vì những chúng sanh ấy mà sám hối, khiến chúng sanh được giải thoát.
Nếu đại chúng không siêng làm phương tiện, chuyển họa thành phước, thì ở trong mỗi mỗi địa ngục, đại chúng đều có tội phần.
Cùng nhau chí tâm nghĩ đến cha mẹ, sư trưởng, bà con thân thích, sẽ chịu khổ báo về sau và cũng nghĩ đến tự thân đại chúng hiện tại và vị lai cũng phải chịu khổ báo như vậy. Cho nên đại chúng phải cùng nhau nhất tâm tha thiết, năm vóc sát đất, chí thành ân cần vận dụng tư tưởng, nguyện xin một niệm cảm thấu mười phương Phật; một lạy đoạn trừ vô lượng tội khổ. Những chúng sanh đã chịu khổ trong sáu đường, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát. Nếu trong sáu đường chúng sanh nào chịu khổ, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực làm cho các chúng sanh ấy vĩnh viễn đoạn trừ sáu đường đau khổ. Từ nay trở đi rốt ráo không đọa trở lại trong các đường ác; trừ ba nghiệp chướng, tùy ý vãng sanh diệt trừ năm điều sợ hãi, tự tại giải thoát siêng tu đạo nghiệp, không thôi không nghỉ. Diệu hạnh trang nghiêm quá Pháp vân địa ([6]), vào Kim cang tâm ([7]), thành đẳng chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nhất tâm lưu ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ:
Kinh Tạp Tạng chép: Bấy giờ có một con quỉ bạch với Ngài Mục Liên rằng:
“Thân tôi hai vai có mắt, ngực có mũi có miệng mà không có đầu. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm học trò nhà hàng thịt, khi giết trâu bò thì ngươi vui mừng, lấy dây trói buộc mà lôi kéo. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội báo mới nụ hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ khác bạch Ngài Mục Liên rằng: “Thân hình tôi như một khối thịt, không có tay chân, tai, mắt, mũi, lưỡi v.v... Thân thường bị trùng rúc chim mổ, cắn rức mà ăn, đau đớn vô cùng, không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi cho người uống thuốc độc đọa thai, phá sản khiến chúng sanh mạng sống không hoàn toàn. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy?”
– Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Bụng tôi thật lớn, yết hầu như kim. Cùng năm mãn kiếp không hề ăn uống. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm chủ hàng xóm, tự ỷ mình hào quý, say sưa tung hoành, khinh khi kẻ khác, cướp giựt thức ăn uống của người làm cho đói khát, khốn khổ hết thảy nhơn dân. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là quả báo mới đơm hoa, nó sẽ kết quả ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, có hai vành sắt ở dưới hai nách, toàn thân cháy rụi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi chia bánh cho chúng, ngươi trộm lấy hai cái, kẹp dưới hai nách. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội mới đơm hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ, bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi thường lấy đồ tự bao bọc đầu lại, sợ người đến giết, sanh tâm sợ hãi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi dâm phạm ngoại sắc, thường sợ người thấy, hoặc sợ chồng con người bắt được, trói trăn, đánh chết, thường ôm lòng sợ hãi, cho nên mắc phải tội nầy. Đó là tội mới đơm hoa, nó sẽ kết quả ở địa ngục”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy, đâu được không sợ hãi.
Từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay chúng con cũng đã làm vô lượng tội ác như thế. Những tội ấy đều do vì không có tâm từ bi, ỷ mạnh hiếp yếu, tổn hại chúng sanh, cho đến tội trộm cắp của người, mê đọa, sa đọa, nịnh hót bài báng người hiền lành, gây biết bao tội lỗi.
Những tội báo như vậy ở trong địa ngục, quyết phải chịu thống khổ trong ba đường dữ.
Ngày nay chí tâm một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, thay thế cho hết thảy chúng sanh khắp mười phương, đã chịu khổ báo trong sáu đường, đang chịu khổ trong sáu đường mà cầu xin sám hối.
Cũng nguyện xin thay thế vì cha mẹ, sư trường và hết thảy bà con quyến thuộc mà cầu xin sám hối và cũng tự vị bản thân mà cầu xin sám hối. Những tội đã làm, nguyện xin trừ diệt hết. Những tội chưa làm, không dám làm nữa.
Nguyện xin quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Liên Hoa Tôn Phong Phật
Nam mô Tịnh Bảo Hưng Phong Phật
Nam mô Điện đăng Phan vương Phật
Nam mô Pháp không đăng Phật
Nam mô Nhất thế chúng đức thành Phật
Nam mô Hiền phan Tràng vương Phật
Nam mô Nhất Thế Bảo Trí Sắc trì Phật
Nam mô Đoạn nghi Bạt dục trừ minh Phật
Nam mô Ý vô khủng cụ oai mao bất thọ Phật
Nam mô Sư tử Phật
Nam mô Danh xưng Viễn vặn Phật
Nam mô Pháp danh Hiệu Phật
Nam mô Phụng Pháp Phật
Nam mô Pháp Tràng Phật
Nam mô Tu Di Đăng quang minh Phật
Nam mô Bảo Tạng trang nghiêm Phật
Nam mô Chiên Đàn ma ni quang Phật
Nam mô Kim Hải Tự Tại vương Phật
Nam mô Đại bi quang minh vương Phật
Nam mô Ưu bát la liên hoa thắng Phật
Nam mô Liên Hoa Tu trang nghiêm vương Phật
Nam mô Kim cang kiên cường Tự tại vương Phật
Nam mô Thù thắng Nguyệt vương Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang vương Phật
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát
Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo dủ lòng đại từ đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh, hiện đang chịu khổ, và sẽ chịu khổ trong sáu đường, khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát, đem sức thần thông diệt trừ ba đường ác và nghiệp địa ngục, khiến các chúng sanh ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật hoàn toàn không đọa trở lại trong đường ác, xả thân khổ báo, được thân kim cang, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền; tứ vô ngại biện, sáu sức thần thông như ý tự tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, cho đến khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.
CHƯƠNG THỨ BẢY
NÓI RÕ QUẢ BÁO
(tiếp theo)
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại phải chí thành đảnh lễ, nhất tâm lắng nghe.
Lúc bấy giờ Phật ở thành Vương Xá, trong vườn trúc Ca lan đà, Ngài Mục Kiền Liên từ thiền định đứng dậy đi dạo trên bờ sông Hằng thấy các ngã quỉ chịu tội không đồng nhau.
Khi ấy các ngã quỉ đồng sanh lòng cung kính đến hỏi Ngài Mục Liên về nhơn duyên đời trước. Một ngã quỉ hỏi rằng: “Tôi một đời lại đây, thường bị đói khát, muốn vào nhà xí, lấy phẩn mà ăn; trên nhà xí đã có con đại quỉ lấy gậy đánh tôi; tôi không đến gần nhà xí được. Vì cớ gì mà tôi mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng: Đời trước lúc làm người, ngươi làm chủ chùa, có khách Tỳ kheo đến xin ăn. Ngươi keo kiết không đãi khách ăn. Chờ khách đi rồi ngươi mới cho các thầy thường ở trong chùa ăn.
Vì ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng; do nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
Đó là hoa báo, quả báo sẽ ở địa ngục.
– Lại có một ngã quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, trên vai có cái bình đồng lớn, đựng đầy nước sôi. Tôi tự lấy gáo múc xối từ trên đầu xuống, đau khổ vô cùng, không thể chịu được. Tôi vì tội gì mà phải như thế?”
Ngài Mục Liên đáp rằng:
Lúc làm người, ngươi làm duy na trong chùa, xem việc trong Đại chúng. Có một bình sữa, ngươi dấu chỗ kín; đúng giờ không đem chia cho chúng đợi khách đi rồi, mới đem chia cho các người trong chùa. Sữa là vật chiêu đề ([1]), thuộc của chúng tăng trong mười phương, mọi người đều có phần vì ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng. Do nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như vậy. Đó là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa ngục.
– Lại có quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời trở lại đây, thường nuốt những hàn sắt nóng. Vì những tội gì mà phải như vậy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng:
Lúc làm người ngươi làm một vị Sa di nhỏ, lấy nước trong sạch quấy đường phèn cho chúng. Đường phèn cứng rắn, ngươi sanh tâm trộm cắp, đập nhỏ lấy chút ít. Đại chúng chưa uống, ngươi đã uống trộm trước một hớp. Do vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa ngục.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe những việc Ngài Mục Liên đã nghe đã thấy, rất đáng sợ hãi.
Chúng con có thể làm những tội ấy. Vì vô minh ngăn che chúng con không tự nhớ biết. Giả sử như chúng con đã tạo vô lượng tội nghiệp như vậy, đời sau quyết phải thọ lãnh quả báo đau khổ ấy. Vậy nên bây giờ phải chí tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ hổ thẹn cầu xin sám hối. Nguyện trừ diệt sạch những tội lỗi ấy và nguyện xin sám hối thế cho hết thảy ngã quỉ khắp mười phương tận hư không giới.
Lại nguyện xin sám hối thế cho các cha mẹ và các sư trưởng nguyện xin sám hối thế cho các bậc đồng đàn tôn chứng: thượng trung hạ tòa.
Nguyện xin sám hối thế cho tất cả thiện ác tri thức rộng ra cho đến khắp cả mười phương tận không giới, vô cùng vô tận hết thảy chúng sanh trong tứ sanh lục đạo.
Những tội đã làm, nhơn nay sám hối mà được trừ diệt. Những tội chưa làm thề không dám làm.
Nguyện xin mười phương chư Phật chứng biết cho chúng con.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Sư Tử Phật
Nam mô Minh Viêm Phật
Nam mô Mâu Ni Phật
Nam mô Diệu Hoa Phật
Nam mô Hoa Thị Phật
Nam mô Thiện Túc Phật
Nam mô Đạo sư Phật
Nam mô Đại Tý Phật
Nam mô Đại Lực Phật
Nam mô Túc Vương Phật
Nam mô Tu Dược Phật
Nam mô Danh tướng Phật
Nam mô Đại minh Phật
Nam mô Viêm Kiên Phật
Nam mô Chiếu Diệu Phật
Nam mô Nhật Tạng Phật
Nam mô Nguyệt thị Phật
Nam mô Chúng Viêm Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Sư tử Du Hý Phật
Nam mô Sư tử Phấn tấn Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già
Lại quy y như mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo dủ lòng đại từ bi cứu vớt hết thảy chúng sanh khắp mười phương hiện đương chịu khổ trong đường ngã quỉ.
Lại nguyện xin cứu vớt hết thảt chúng sanh khắp mười phương hiện đương chịu khổ vô lượng trong đường địa ngục; trong đường súc sanh và trong nhân loại; làm cho các chúng sanh ấy liền được giải thoát đoạn ba nghiệp chướng ([2]) trừ năm sợ hãi ([3]) chứng tám giải thoát ([4]) dùng bốn hoằng thệ ([5]) độ thoát chúng sanh đảnh lễ Thế Tôn, thưa thỉnh giáo lý vi diệu; không rời đương xứ sạch hết hữu lậu, tùy tâm tự tại, dạo khắp cõi Phật, hạnh nguyện viên mãn, chóng thành chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, lại chí thành lắng lòng mà nghe.
Lúc bấy giờ Phật ở thành Vương xá, phía đông nam có một hồ nước bao nhiêu tiểu dãi ô uế đều thẩy vào hồ ấy, hôi thúi không thể đến gần được. Có một con trùng lớn sanh ở trong hồ ấy. Thân dài mấy trượng; không có tay chân, quằn quãi lăn lóc, hằng ngàn người đến xem. Ngài A Nan thấy vậy về bạch Phật. Phật và Đại chúng cùng nhau đến hồ ấy xem. Đại chúng nghĩ rằng:
“Nay đây đức Như Lai sẽ nói rõ đầu đuôi việc con trùng ấy cho mọi người nghe”.
Phật bảo Đại chúng: “Sau khi đức Phật Duy Vệ nhập Niết bàn rồi, có năm trăm thầy Tỳ kheo đi qua một ngôi chùa. Lúc ghé vào chùa, chủ chùa rất hoan hỷ vui mừng, mời Đại chúng ở lại để cúng đường. Ông hết lòng thết đãi không tiếc món gì”.
Sau đó có năm trăm người đi buôn vào biển lấy ngọc, lúc về cũng ghé lại chùa. Các người ấy thấy 500 Tỳ kheo tu hành tinh tấn liền hân hoan, phát tâm cúng dường, mới cùng nhau nghĩ rằng: “Phước điền khó gặp chúng ta nên cúng dường lễ mọn”.
Mỗi người cúng một viên ngọc; cộng được năm trăm ma ni châu, đem gửi chủ chùa. Sau đó chủ chùa sanh tâm không tốt, lập mưu muốn đoạt lấy một mình, không đem ra cúng dường chúng tăng.
Đại chúng mới hỏi: Ngọc châu của khách buôn bố thí nên đem ra cúng dường Đại chúng?
Chủ chùa đáp rằng: “Ngọc châu ấy cúng cho ta, nếu các người muốn đoạt, thì có phẩn uế cho các ngươi. Nếu các ngươi không đi ngay bây giờ, ta sẽ chặt tay chân các người quăng vào hầm phẩn”.
Đại chúng nghĩ thương người ấy quá ngu si, bèn làm thinh bỏ đi.
Vì tội ác ấy nên nay chủ chùa kia phải làm thân trùng nầy; sau sẽ vào địa ngục chịu vô lượng đau khổ.
– Lại nữa, khi ấy Phật ở thành Vương xá, thấy một chúng sanh có cái lưỡi rất dài lớn. Có đinh sắt đóng vào lưỡi lửa phát cháy hừng hực, chịu đau khổ suốt ngày đêm.
Ngài Mục Liên bèn hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà chịu khổ như vậy?
Phật đáp:
Người ấy xưa kia từng làm chủ chùa, hay mắng nhiếc, xua đuổi các thầy Tỳ kheo; ở lâu trong chùa hay khách tăng mới đến cũng vậy và không cho ăn uống, không bình đẳng cúng dường. Vì nhơn duyên ấy nên nay mắc phải tội như vậy.
– Lại có một chúng sanh thân thể dài lón, trên đầu có cái vạc nước đồng sôi, bốc lửa cháy hừng hực, nước đồng sôi chảy tràn ra tứ phía, chảy khắp thân thể, chúng sanh ấy nương hư không mà đi mãi không nghỉ.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như thế
Phật đáp
Người ấy đời xưa làm Tri sự ở chùa, Đàn việt cúng dầu thắp, Tri sự không chia cho khách tăng. Đợi các thày khách tăng đi rồi sau đó mới chia cho các thày thường ở trong chùa.
Vì nhơn duyên ấy nên nay người ấy mắc phải tội như vậy.
– Lại có một chúng sanh bị các hoàn sắt cháy đỏ hừng hực, từ trên đầu mà vào, từ dưới chân mà ra; nương hư không mà đi người ấy đau khổ vô cùng, không thề chịu được.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như vậy?
Phật đáp rằng:
Người ấy đời trước làm ông Sa di có trộm bảy trái me ([6]) trong vườn chúng tăng. Sau khi chết rồi, Sa di ấy đã chịu vô lượng khổ trong địa ngục. Nay nghiệp báo chưa hết, hãy còn dư ươn, nên phải chịu khổ như vậy.
– Lại có một con cá lớn, một thân trăm đầu, mỗi đầu một khác, bị sa vào lưới người.
Thế Tôn thấy vậy bèn nhập định “Từ tâm Tam muội” gọi con cá ấy. Cá ấy tức thời ứng khẩu trả lời.
Thế Tôn hỏi cá:
– Mẹ ngươi ở đâu?
– Mẹ tôi làm con trùng rúc trong nhà xí!
Phật bảo các tỳ kheo: Lúc Phật Ca Diếp ra đời, con cá lớn nầy làm vị Tam tạng Tỳ kheo; vì ác khẩu nên chịu quả báo nhiều đầu. Mẹ nó bấy giờ thọ hưởng lợi dưỡng của nó, nên đọa làm con trùng rúc trong cầu tiêu.
Phật dạy tiếp rằng: – Mắc phải báo ấy đều do chúng sanh ác khẩu, nói lời thô tháo cứng xẳng, tuyên truyền bỉ thử, làm cho hai bên tranh đấu loạn lạc lẫn nhau. Chết rồi vào địa ngục, bị ngục tốt đốt đỏ cái bề sắt (?) trong ngoài nóng đỏ như nước đồng sôi để nung cái lưỡi người có tội. Quỉ lại đốt đỏ móc sắt, móc có ba lưỡi sắt bén như mũi nhọn để đoạn cái lưỡi của tội nhơn. Lại kéo dài cái lưỡi ra như trâu kéo cày.
Lại đốt đỏ cái chày sắt dộng vào yết hầu, trải qua ngàn vạn kiếp. Tội hết mới ra khỏi địa ngục, làm loài chim muông.
Phật dạy: “Nếu có chúng sanh nào đàm luận việc vua chúa, chánh trị, cha mẹ và sư trưởng, thì tội lại còn nặng hơn.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật dạy lời ấy, rất đáng sợ hãi. Bấy giờ Đại chúng đã thấy rõ ràng: thiện ác hai đường không sai, tội phước và quả báo chắc thật, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa.
Vậy nên hết lòng hổ thẹn, siêng năng tu hành, cầu xin sám hối. Đại chúng đã cùng nhau xem kinh, đã đồng thấy những việc như trên, nếu không cố gắng, lười biếng muốn thối lui thì việc tu hành không do đâu có kết quả.
Ví như người nghèo thiếu lòng thèm khát các vị cao lương mà thật tế không có một vị nào rốt cuộc cũng không có ích gì cho sự thèm khát khổ não kia.
Cho nên biết rằng: người nào muốn cầu có pháp môn nhiệm mầu thù thắng, muốn độ thoát hết thảy chúng sanh, người ấy không thể nói suông rằng: tôi chỉ tu tâm mà được. Người ấy cần phải có tâm mà cũng cần phải thật hành bằng sự tướng nữa mới được. Cần phải có sự có lý. Sự lý đi đôi công việc mới có kết quả hoàn toàn, thành tựu viên mãn.
Vậy nên Đại chúng phải nỗ lực tinh tấn tu hành cầu xin sám hối. Cùng nhau chí tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ Tam bảo. Nguyện xin thay thế hết thảy chúng sanh trong đường địa ngục, đường ngã quỉ, đường súc sanh và đường nhơn loại mà cầu xin sám hối.
Lại nguyện vì cha mẹ, sư trưởng thiện ác tri thức và cùng hết thảy bà con mà cầu xin sám hối. Những tội đã làm rồi nguyện xin trừ diệt. Những tội chưa làm thề không dám làm.
Nhất tâm đảnh lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Đề Sa Phật
Nam mô Minh Diệu Phật
Nam mô Trì man Phật
Nam mô Công đức minh Phật
Nam mô Thị Nghĩa Phật
Nam mô Đăng Diệu Phật
Nam mô Hưng Thịnh Phật
Nam mô Dược Sư Phật
Nam mô Thiện Nhu Phật
Nam mô Bạch Hào Phật
Nam mô Kiên cố Phật
Nam mô Phước oai đức Phật
Nam mô Bất khả hoại Phật
Nam mô Đức Tướng Phật
Nam mô La Hầu Phật
Nam mô Chúng chủ Phật
Nam mô Phạm Thanh Phật
Nam mô Kiên Tế Phật
Nam mô Bất Cao Phật
Nam mô Tác Minh Phật
Nam mô Đại Sơn Phật
Nam mô Kim Cang Phật
Nam mô Tương chúng Phật
Nam mô Vô úy Phật
Nam mô Trân Bảo Phật
Nam mô Sư tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư tử Tác Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương, tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo dùng đại từ bi lực, đại trí huệ lực, vô lượng tự tại thần lực không thề tư nghị; độ thoát nhất thế chúng sanh lực, trong lục đạo, diệt trừ hết thảy đau khổ cho chúng sanh trong lục đạo; khiến các chúng sanh ấy đoạn trừ hết tội nghiệp trong ba đường ác; rót ráo không tạo năm tội nghịch; không tạo mười ác nghiệp nữa. Từ nay trở đi các chúng sanh ấy không sanh vào chỗ khổ báo, được sanh về Tịnh độ; bỏ mạng sống khổ báo được mạng sống trí huệ; bỏ thân khổ báo được thân kim cang; bỏ khổ ác thú được vui Niết bàn; nhớ khổ trong ác thú, phát tâm Bồ đề. Bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật thường được hiện tiền. Bốn vô ngại biện, sáu sức thần thông được tự tại như ý, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, và thắng tấn tu hành đến khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.
CHƯƠNG THỨ TÁM
RA KHỎI ĐỊA NGỤC
Ngày nay Đại chúng trong đồng nghiệp Đạo tràng nên biết rằng: Vạn pháp không đồng, công dụng bất nhất, như sáng và tối đối đãi nhau. Tuy nhiên chỉ có thiện và ác là gồm thâu tất cả.
Làm thiện được quả báo tốt đẹp ở các cõi trời, cõi người. Làm ác thời mắc quả báo xấu xa, đau khổ kiệt liệt trong ba đường ác.
Đó là hai sự thật rõ ràng trên đời, không phải giả dối. Nhưng người ngu si lầm lạc phần nhiều sanh tâm nghi ngờ; hoặc cho cõi trời là chuyện bịa đặt; địa ngục là lời nói dối, không có. Những người ấy không biết suy nhơn nghiệm quả; không biết xét quả tìm nhơn. Người không biết phân biệt nhơn quả thì cứ chấp lấy sự hiểu biết sai lầm của thế gian. Không những chấp không, chấp có mà còn làm thơ làm bài để biếm xích. Tâm họ trái với điều thiện lợi mà không hề tự biết sai lầm. Giả như có người chỉ bảo cho thì họ càng chấp chặt lấy thiên kiến; sai lầm còn kiên cố hơn nữa. Những người như thế là họ tự gieo đầu vào đường ác. Trong nháy mắt liền thẳng xuống địa ngục, từ thân hiếu tử không thể cứu được. Họ đi vào hầm lửa, vạc dầu trước hơn ai hết. Họ đi thiêu thân trong lửa nóng vạc dầu sôi mà không tự biết. Thân tâm tan nát, tinh thần thống khổ, khi ấy ăn năn không kịp.
Ngày nay Đại chúng trong Đạo tràng thấy rõ thiện ác nương nhau như bóng theo hình, như vang theo tiếng.
Tội phước hai đường tuy khác nhau nhưng cũng phải đợi kỳ trã quả báo nghiêm nhặt, mong sau mọi người đều sáng suốt tin tưởng không sanh tâm nghi ngờ.
Sao gọi là địa ngục?
Kinh dạy rằng:
Trong tam thiên đại thiên thế giới, ở giữa khoảng hai núi Thiết vi. chỗ tối tăm nhất gọi là Địa ngục. Thành bằng sắt, dài rộng một ngàn sáu trăm vạn dặm. Trong thành chia ra tám vạn bốn ngàn ngăn. Dưới lấy sắt làm đất, trên lấy sắt làm lưới. Lửa đốt thành ấy trong ngoải cháy đỏ chảy ra nước. Lửa trên cháy suốt xuống dưới, lửa dưới cháy suốt bốc lên trên.
Tên riêng của mỗi ngục là:
Ngục nhóm họp
Ngục tối tăm
Ngục xe dao
Ngục rừng kiếm
Ngục máy sắt
Ngục rừng gai
Ngục võng sắt
Ngục hang sắt
Ngục hoàn sắt
Ngục đá nhọn
Ngục hầm than
Ngục rừng cháy.
Ngục hổ lang
Ngục kêu la.
Ngục nước sôi
Ngục than nóng
Ngục núi dao
Ngục rừng kiếm
Ngục đá mài lửa
Ngục thành lửa.
Ngục cột trụ đồng
Ngục giường sắt
Ngục xe lửa.
Ngục bánh xe lửa
Ngục uống nước đồng sôi
Ngục khạc ra lửa
Ngục hết sức nóng
Ngục hết sức lạnh,
Ngục rút lưỡi,
Ngục đóng đinh vào thân
Ngục trâu cày
Ngục chém chặt
Ngục đao binh
Ngục mổ xẻ
Ngục sông tro.
Ngục tiểu dãi trào lên
Ngục giá lạnh
Ngục bùn lầy
Ngục ngu si
Ngục khóc lóc
Ngục đui điếc
Ngục câm ngọng
Ngọng lưỡi câu sắt
Ngục mổ sắt nhọn.
Lại có những đại tiểu tiện nê lê a tỳ địa ngục.
Phật bảo đức A Nan:
Sao gọi là A tỳ địa ngục?
– A : nghĩa là vô
– Tỳ : nghĩa là già
– A : nghĩa là vô
– Tỳ : nghĩa là cứu.
Nói chung lại A Tỳ nghĩa là vô già, vô cứu: không ngăn dứt, không cứu vớt được.
Lại nữa:
– A là không gián đoạn.
– Tỳ là không lay động.
– A là hết sức nóng nhiệt.
– Tỳ là hết sức khổ não.
– A là không an nhàn.
– Tỳ là không an trú.
Tóm lại: A tỳ nghĩa là hết sức hành hạ, không tạm nghỉ, không gián đoạn, không lay chuyển; hết sức khổ não, như nung như nấu, không an nhàn, không chấm dứt, cứ hành phạt mãi mãi nên gọi là A tỳ.
Lại nữa:
– A là đại diện: là lửa dữ.
– Tỳ là mãnh liệt, là nóng dữ.
Lửa dữ nhập tâm, gọi là a tỳ địa ngục.
Phật dạy Ngài A Nan: Địa ngục A tỳ dài rộng bằng nhau ba mươi hai vạn dặm. Bảy lớp thành sắt, bảy lớp lưới sắt bao bọc ngục a tỳ. Dưới có mười tám ngăn, xung quanh có bảy lớp thành, đều có đặt rừng dao.
Trong bảy lớp thành lại có rừng gươm. Dưới mười tám ngăn, ngăn có tám vạn bốn ngàn lớp. Bốn góc đều có bốn đại đồng cẩu, thân dài lớn đến một vạn sáu ngàn (16.000) dặm, mắt như điện chớp, răng như cây gươm, nanh như núi dao, lưỡi như mũi sắt nhọn toàn thân chân lông phun lửa dữ, hơi bay như khói, hơi thúi khó chịu, thế gian không có vật gì thúi bằng.
Lại có mười tám ngục tốt đầu như đầu la sát miệng như miệng dạ xoa. Chó có sáu mươi bốn con mắt, mắt tung ra xa những hoàn sắt nóng: như xe chạy xa mười dặm. Răng phía trên cao một trăm sáu mươi dặm. Trên đầu răng tuông ra lửa dữ, đốt cháy xe sắt phía trước, làm cho bánh xe kia mỗi lỗ lưỡi tròn hóa làm một ức con dao lửa , kiếm kích sắc bén; những lưỡi nhọn đều từ trong lửa dữ ấy lưu xuất. Lửa ra như suối chảy đốt cháy ngục thành a tỳ. Thành cháy đỏ như nước đồng sôi.
Bọn ngục tốt kia đẩu có tám đầu trâu, mỗi mỗi đầu đều có mười tám cái sừng. Trên đẩu mỗi sừng tuông ra một đống lửa lớn. Đống lửa lớn lại hóa ra bánh xe dao lớn. Như bao nhiêu bánh xe, mỗi mỗi bánh xe thứ lớp theo nhau chạy trong lửa dữ ghê gớm, đầy cả a tỳ địa ngục.
Ở dưới đất thì có chó đại đồng cẩu hà miệng le lưỡi. Lưỡi như đòn xóc nhọn; le ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy cả a tỳ địa ngục.
Ở trong bảy lớp thành có bảy lớp cờ. Ở đầu mỗi cờ lửa tuôn ra như suối trào vọt, nước sắt chảy cả a tỳ địa ngục.
Bốn cửa thành ngục a tỳ, ở trên mỗi ngưỡng cửa có mười tám chảo nước đồng sôi trào ra rồi chảy tràn đầy cả thành a tỳ.
Trong mỗi ngăn. Địa ngục lại có tám vạn bốn ngàn rắn mãn xà sắt, phun độc, phun lửa thân hình lớn đầy thành, kêu la như sấm dậy, mưa xuống những hoàn sắt nóng lớn đầy cả thành a tỳ.
Nỗi khổ trong thành kể đến tám vạn ức thiên. Bao nhiêu thống khổ trong những thống khổ đều tích tụ ở trong thành nầy.
Lại có năm trăm ức con trùng ở trong thành, mỗi con trùng có tám vạn bốn ngàn mỏ nhọn. Đầu mỗi mỏ nhọn có lửa tuôn như mưa xối, đầy cả thành a tỳ.
Mỗi khi trùng ấy rơi xuống thì lửa dữ trong thành a tỳ bốc ngọn lên dữ dội, hừng hực sáng choang. Lửa mạnh ấy chiếu đến ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Từ a tỳ ngục xông lên biển cả dưới núi ốc tiêu nước biển cả giọt xuống, mỗi giọt lớn bằng trục bánh xe to, thành ra những mũi nhọn sắt lớn, đầy cả thành a tỳ.
Phật bảo Ngài A Nan: Như chúng sanh nào giết cha hại mẹ, nhục nhã sáu giòng bà con, người ấy khi mạng chung chó sắt hả miệng, hóa làm mười tám bánh xe, giống như xe vàng, có bảo cái che trên. Hết thảy mũi lửa nhọn kia hóa làm ngọc nữ. Người có tội kia xa trông thấy, sanh tâm vui mừng. Nghĩ rằng: “Ta muốn đến đó chơi, Ta muốn đến đó chơi”. Khi đến rồi, thì bị gió phong đao xẻ thân, lạnh quá chừng. Tội nhơn lại nghĩ: Há được lửa tốt, ngồi trên xe đốt lên mà hơ! Nghĩ như thế rồi thì liền chết. Trong giây phút lại thấy mình ngồi trên xe vàng ngắm xem ngọc nữ. Nhưng bị ngọc nữ cầm búa sắt chém thân. Dưới thân lửa bốc hừng hực, mau như chớp nhoáng, trong nháy mắt lại rơi vào a tỳ địa ngục.
Từ ngăn trên, chớp mắt đọa xuống ngăn dưới. Thân lớn đầy ngăn. Chó đồng cẩu lớn tiếng sủa lên và nhai xương nuốt tủy. Ngục tốt la sát cầm xoa sắt lớn xoa đầu bắt đứng dậy; lửa cháy khắp thân, cháy luôn thành a tỳ. Lưới sắt tuông mưa dao. Dao theo lỗ chân lông vào trong thân thể, hóa làm vua Diêm Vương. Vua lớn tiếng bảo rằng: “Kẻ ngu si, giống ngục tốt kia, ngươi ở dương thế, bất hiếu với cha mẹ, tà mạng không đạo đức nên phải đọa vào chỗ nầy, gọi là a tỳ Địa ngục. Ngươi là người không biết ơn, không hổ thẹn. Ngươi chịu khổ não như thế có sướng không?” Nói rồi, biến mất.
Bấy giờ ngục tốt lại đuổi tội nhơn từ ngăn dưới lên ngăn trên. Phải trải qua tám vạn bốn ngàn ngăn giữa mới qua khỏi lớp lưới sắt cuối cùng một ngày một đêm mới khắp a tỳ địa ngục. Một ngày một đêm ở địa ngục bằng sáu chục tiểu kiếp ([7]) ở dương gian. Tội nhơn sống như vậy trong địa ngục một đại kiếp ([8]).
Người phạm tội ngũ nghịch không biết hổ thẹn nên gây tội ấy. Vì tội ngũ nghịch nên lúc lâm chung có mười tám thứ phong đao như xe lửa sắt cắt xẻ thân thể. Tội nhơn vì nóng bức nên nói thế này: “Nếu ta có các thứ hoa sắc đẹp ấy, cây đại thọ mát mẻ kia, ở đó dạo chơi há không vui sao!”
Nghĩ như thế rồi thì có tám vạn bốn ngàn rừng ác kiếm hóa làm cây báu, hoa quả tốt tươi, sắp bày ra trước mắt lửa nóng hừng hực hóa làm hoa sen nơi gốc cây kia. Tội nhơn thấy vậy liền nghĩ thầm: “Ta đã mãn nguyện”.
Trong nháy mắt, tội nhơn liền ngồi trên hoa sen. Trong khoảnh khắc, các trùng mỏ nhọn, từ trong hoa lửa sanh ra rúc ráy cốt tủy, thấu suốt tâm can. Tội nhơn phải vịn cây đứng dậy. Các nhành cây hóa thành lưỡi kiếm, róc thịt chẻ xương, vô lượng rừng đao từ không trung rơi xuống. Những lò hổng xe lửa mười tám điều đau khổ nhất thời đưa đến.
Những cảnh tượng nầy hiện ra thì tội nhơn bị hãm xuống địa ngục từng dưới; rồi từ từng dưới lên từng trên. Thân hình lột hết như hoa nở. Trải khắp ngăn dưới, rồi lên ngăn trên, bị lửa mạnh thiêu đốt dữ dội.
Đến ngăn trên rồi, thân hình tràn khắp ngăn ấy, bị khổ não nung nấu vô cùng. Tội nhơn phải trợn mắt le lưỡi. Vì phạm tội ngũ nghịch, nên bị vạn ức đồng sôi, trăm ngàn đao luân, từ trên không rơi xuống, vào trên đầu, ra dưới chân; đau khổ còn gấp bội hơn trước nữa một trăm , một ngàn vạn phần. Người phạm đủ năm nghịch tội phải chịu tội đủ năm kiếp .
Lại nữa nếu người nào phá cấm giới của Phật, luống ăn dùng của tín thí, phỉ báng Tam bảo, tà kiến, không biết nhơn quả, không học trí huệ Bát nhã, khinh chê mười phương Phật, trộm cắp của pháp, làm việc ô uế bất tịnh hạnh, không hổ thẹn, hủy nhục bà con, tạo các điều ác, người ấy khi sắp lâm chung, tội báo bị phong đao xẻ thân, nằm ngửa bất tỉnh, như bị đánh đập.
Tư tưởng hoang mang, si mê lầm lẫn. Thấy nhà cửa và con cái nam nữ, và lớn nhỏ, cùng tất cả sự vật của mình đều bất tịnh. Tiểu dãi hôi thối, tràn đầy thân thể. Bấy giờ người ấy nghĩ rằng:
“Sao đây không có thành quách và núi rừng tốt đẹp, để ta dạo chơi mà lại ở giữa đám bất tịnh ô uế nầy ư?”
Nghĩ như thế rồi, liền bị ngục tối la sát lấy cái xoa sắt lớn đánh ngục a tỳ, và các rừng đao hóa làm cây báu, và ao hồ mát mẻ, lửa dữ hóa làm hoa sen lá vàng; những con trùng sắt mỏ nhọn hóa làm chim phù nhan. Những tiếng thống khổ trong địa ngục như âm thanh ca vịnh.
Tội nhơn trông thấy tốt đẹp như vậy liền nghĩ rằng: “Ta mau đến đó mà dạo chơi”. Nghĩ xong kiền thấy mình ngồi trên hoa sen lửa. Các trùng sắt mỏ nhọn từ các lỗ chân lông trong thân rúc ra, cắn rức thân thể. Trăm ngàn bánh xe sắt từ trên đánh vào thân; hằng hà sa số xoa sắt, khiêu múc tròng mắt. Chó đồng cẩu trong địa ngục hóa làm trăm ức chó sắt dành nhau cấu xé thân hình tội nhơn, lấy trái tim mà ăn. Trong nháy mắt, thân thể đã thành cánh hoa sắt, tràn khắp mười tám ngăn ngục, mỗi mỗi hoa có tám vạn bốn ngàn lá, mỗi mỗi lá, đầu mình tay chân chi tiết đều ở trong một ngăn; địa ngục không lớn thân nầy không nhỏ cho nên biến khắp địa ngục.
Những tội nhơn nầy đọa vào địa ngục ấy tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Ngục nầy tiêu diệt rồi lại vào trong mười tám ngăn ngục khác, chịu khổ như trên. A tỳ ngục nầy về phương Nam cũng có 18 ngăn; phương Tây cũng có mười tám ngăn, phương Bắc cũng có mười tám ngăn.
Hủy báng các kinh Phương đẳng Đại thừa tạo đủ năm tội nghịch; phá hoại Hiển Thánh, đoạn các căn lành. Những người như vậy chịu đủ tội lỗi. Thân lớn khắp A tỳ địa ngục; tứ chi trải khắp cả mười tám ngăn A tỳ địa ngục nầy chỉ thiêu đốt những chúng sanh tạo giống địa ngục như trên. Khi kiếp địa ngục sắp hết thì thấy cửa địa ngục phương Đông liền mở. Tội nhơn nhìn thấy ngoài cửa ấy có dòng nước trong chảy mát mẻ; có rừng cây hoa quả tốt tươi hiện ra những tội nhơn ở ngăn dưới nhìn thấy thì mắt tạm bớt đổ lửa. Từ ngăn dưới vươn mình lên quằn quại bò đi, tuột cả thân hình mà chạy lên ngăn trên, tay vịn bánh xe đao. Bấy giờ trên không trung mưa xuống những hoàn sắt nóng. Tội nhơn chạy đến cửa phương Đông. Vừa đến cổng thì ngục tốt la sa tay cầm xoa sắt đâm ngược vào tròng mắt của tội nhơn.
Chó đồng cẩu nhai ngầu trái tim; tội nhơn phải chết ngất. Chết rồi sống lại, thấy cửa phương Nam mở như cửa phương trước kia không khác.
Cửa phương Tây, phương Bắc cũng đều như vậy. Trải qua thời gian nửa kiếp, tội nhơn phải chết trong A tỳ địa ngục.
Chết rồi sống lại sanh vào địa ngục giá lạnh rồi chết trong địa ngục hàng băng này. Chết rồi lại sống; sống rồi lại sanh vào địa ngục hắc ám, một trăm, một ngản vạn năm mắt không trông thấy, thân làm con đại trùng, quằn quại bỏ đi; các căn ([9]) ám độn, không hiểu biết gì phải quấy lại bị một trăm một ngàn hổ lang lôi kéo dành ăn. Chết rồi lại sanh vào loài súc sanh, năm ngán vạn năm làm thân chim muông. Khổ sở như thế cho đến khi hết tội, được sanh làm người. Nhưng lại phải đui, điếc, ngọng, lịu, phung hủi, ung thư, bần cùng hạ tiện. Bao nhiêu suy đồi khổ sở mình phải tự rước lấy. Làm thân hèn hạ như vậy năm trăm lần sống thác. Lại sanh vào loài quỉ đói. Ở trong ngã quỉ gặp được thiện tri thức các vị đại Bồ tát quở trách nói rằng:
“Người ở trong vô lượng đời về trước đã tạo ra vô lượng tội, phỉ báng Tam bảo, không tin nhơn quả nên đọa trong A tỳ địa ngục chịu nhiều khổ não không thể kể xiết. Nay ngươi nên phát tâm từ bi”.
Bấy giờ các ngã quỉ nghe lời ấy rồi liền xưng Nam mô Phật.
Nhờ sức hồng ân của chư Phật, liền được mạng chung, sanh lên cõi trởi tứ thiên. Sanh lên đó rồi , ăn năn tự trách, phát tâm Bồ đề.
Tâm quang của các chư Phật không bỏ những người phát tâm nầy, thâu nhiếp những người phát tâm như vậy và thương mến như La Hầu La. Dạy bảo tránh xa địa ngục, không cho thân xa đọa như quý tròng con mắt.
Phật bảo Đại vương: “Muốn biết hào quang chư Phật thường chiếu nơi nào thì hãy xem hào quang ấy thường chiếu những nơi chúng sanh đau khổ như vậy không gián đoạn, không người cứu vớt. Tâm Phật thường biết nơi đâu? Thường biết những nơi chúng sanh chịu hành phạt cực hình, cực ác như vậy. Vậy đem tâm Phật mà trau dồi tâm mình, trải qua nhiều số kiếp, khiến các người ác kia phát tâm Bồ đề”.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật Thế Tôn nói các thống khổ như trên thì gia tâm giữ ý, chớ sanh lòng buông lung. Nếu Đại chúng không siêng năng lập phương tiện tu hành Bồ tát đạo thì ở trong mỗi địa ngục đều vô tội phần.
Ngày nay Đại chúng nên vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu thống khổ trong A tỳ đaị ngục, vì hết thảy chúng sanh sẽ chịu thống khổ trong A tỳ địa ngục, và rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh hiện chịu, và sẽ chịu vô cùng vô tận thống khổ trong hết thảy địa ngục ở mười phương mà đầu thảnh đảnh lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Quá khứ thất Phật
Nam mô Thập phương thập Phật
Nam mô Tam Thập Ngũ Phật
Nam mô Ngũ Thập Tam Phật
Nam mô Bách Thất Thập Phật
Nam mô Trang nghiêm kiếp thiên Phật
Nam mô Hiền kiếp thiên Phật
Nam mô Tinh tú kiếp thiên Phật
Nam mô Thập phương Bồ tát Ma ha tát
Nam mô Thập Nhị Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại xin quy y mười phương tận hư không giới vô lượng hình tượng:
Tượng vàng và tượng chiên đàn của vua Ưu Điển.
Tượng đồng của vua A Dục.
Tượng đá của Ngô Trung.
Tượng ngọc của Sư tử.
Tượng vàng, tượng bạc, lượng lưu ly, tượng san hô, tượng hổ phách, tượng xa cừ, tượng mã não, tượng trân châu, tượng ma ni, tượng vàng từ ma thương sắc diêm phù đàn ở trong các quốc độ.
Lại quy y hết thảy các tháp thở tóc của mười phương Phật:
Quy y hết thảy các tháp thờ hàm răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ móng tay.
Quy y hết thảy các tháp thờ xương trên đảnh.
Quy y hết thảy các tháp thờ xá lợi trong thân.
Quy y hết thảy các tháp thờ cà sa.
Quy y hết thảy các tháp thờ muổng, bình bát.
Quy y hết thảy các tháp thờ bình tắm rửa.
Quy y hết thảy các tháp thờ tích trượng.
Quy y hết thảy các nơi làm Phật sự như vậy.(1 lạy)
Lại quy y nơi tháp Phật giáng sanh, quy y tháp Phật đắc đạo:
Quy y tháp Phật chuyển pháp luân.
Quy y tháp Phật nhập Niết bàn.
Quy y tháp trên trời, tháp ở nhân gian và tất cả bảo tháp ở trong cung Long Vương.(1lạy)
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật:
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp.
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
Nguyện xin Tam bảo đồng đem từ bi lực an ủi chúng sanh lực, vô lượng đại tự tại lực, vô lượng đại thần lực, thâu nhiếp thọ lãnh chúng con ngày nay sám hối thế cho hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong A tỳ đại địa ngục, sám hối thế rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh trong tất cả địa ngục ở mười phương, nhiều không thể kể xiết; sám hối thế cho cha mẹ, sư trưởng và tất cả bà con quyến thuộc nguyện xin Tam bảo dùng nước đại bi tẩy trừ tội lỗi cho hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong A tỳ địa ngục và trong những địa ngục khác, khiến chúng sanh được thanh tịnh.