Ngài Mahakassapa
(Ðại Ca-diếp)


Trong một chu kỳ một trăm ngàn kiếp trái đất về trước, Ðức Phật Tổ Padumuttara giáng trần, ngụ tại tịnh xá trong vườn Khemamigadàya, gần kinh đô Hamsavatì. Lúc bấy giờ, Ðại Ðức Mahàkassapa chuyển kiếp làm đại phú trưởng giả, tên vedcha, thừa hưởng gia tài 80 triệu.

Một buổi sáng, sau khi điểm tâm và phát nguyện thọ bát quan trai, Vedeha cầm tràng hoa, hương liệu đến chùa cúng dường Ðức Thế Tôn. Chiều hôm ấy, Ðức Thế Tôn trạch cử một vị thánh tỳ-kheo làm Ðệ Tam Ðại Ðệ Tử, pháp danh Mahà Nisabha và ấn chứng thánh vị Ðệ Nhất Ðầu Ðà. Ðược chứng kiến cuộc trạch cử và ấn chứng vô cùng trọng thể này, Vedcha lấy làm hoan hỉ. Sau khi đại chúng thính pháp ra về, Vedcha cung thỉnh Ðức Thế Tôn quang lâm tư gia thọ trai. Ðức Thế Tôn cho biết số Tỳ-kheo hiện diện là sáu triệu tám trăm ngàn vị (6.800.000). Vedcha yêu cầu cho mình được cung thỉnh toàn thể kể cả vị Sadi nhỏ nhất.

Ðức Thế Tôn và chư tăng hôm sau thọ trai tại tư gia Vedcha. Trong khi Ðức Thế Tôn đang thọ trai và Vedcha ngồi hầu thì Ðại Ðức Mahà Nisabha khất thực ngang nhà. Vedcha lập tức xin nhập bát, chính tay để thực phẩm vào bát và đem trở ra cúng dường Ðại Ðức. Chờ Ðại Ðức đi một đổi đường, bèn trở vào bạch Phật:

-- Bạch Ðức thế Tôn, có phải đạo hạnh của Ðại Ðức Mahà Nisabha cao hơn Thế Tôn? Trong khi cung thỉnh Ðại Ðức vào nhà đệ tử có bạch là Thế Tôn đang ngự trong này, mà Ðại Ðức vẩn không vào.

Ðức Thế Tôn tán thán Ðại Ðức Nisabha:

-- Này thiện nam, tăng chúng và Như-lai cần thực phẩm nên ngồi trong nhà còn vị ấy không ngồi chờ nhận thực phẩm trong nhà; tăng chúng và Như-lai tạm trú trong tư thất gần làng, còn vị ấy chỉ sống ở trong rừng; tăng chúng và Như-lai ở những nơi không tịnh. Ðó là đạo hạnh của Mahà Nisabha.

Vedcha vô cùng hoan hỉ và tự tâm đã có chủ định. Suốt bảy ngày cúng dường đại thí, Vedcha luôn thành kính, trong sạch và hoan hỉ. Ðến ngày thứ bảy, Vedcha cúng dường vải may y hảo hạng đến Ðức Thế Tôn và toàn thể tăng chúng rồi mọp sát chân Ðức Thế Tôn phát nguyện:

-- Bạch Ðức Thế Tôn, suốt bảy ngày, cúng dường tịnh thí, thân, khẩu, ý đệ tử hoàn toàn trong sạch. Ðệ tử xin phát nguyện được trở thành một vị thinh văn Ðệ Nhất về hạnh đầu-đà trong đạo tràng của một vị đương lai Phật Tổ.

Ðức Thế Tôn Padumuttara, với thiên nhãn thuần tịnh, nhận thấy lập nguyện của Vedcha sẽ được thành tựu, Ngài nghiêm từ thọ ký:

-- Một trăm ngàn kiếp về sau, sẽ có một vị Phật Tổ tôn hiệu Gotama, giáng trần hóa đạo, ngươi sẽ được làm Ðệ Tam Thinh-văn của Ngài và được chính thức ấn chứng pháp vị là Ðầu-đà Ðệ Nhứt.

Vedcha mừng hơn bắt được vàng, hơn cả chết đi được sống lại. Một thời hạn dài kỷ lục là một trăm ngàn kiếp trái đất, vậy mà Vedcha không cảm thấy lâu, trái lại có cảm tưởng như mình sắp được chứng quả ngay ngày hôm sau. Từ đây, Vecha luôn luôn nghiêm trì giáo pháp, thực hiện hạnh bố thí không ngừng, và sau khi thân hoại mạng chung được hóa sanh thiên giới. Hết phước trời lại hưởng phước người tái tục nhiều lần như vậy ; cho đến kiếp thứ 91 ngàn thì chuyển kiếp sanh vào một gia đình thật nghèo, giai cấp Bà-la-môn.

Lúc bấy giờ nhằm thời kỳ giáo pháp Ðức Thế Tôn Vipassì (Tì-bà-Thi ). Ðng bảy năm, Ngài mới thuyết pháp một lần. Mỗi lần như vậy thì chư thiên bay đi khắp cỏi diêm -phù báo tin mừng, khiến cho trời, người vô cùng hân hoan phấn-khởI.

Vì gia cảnh quá nghèo, vợ chồng chỉ có một cái khố. Mỗi khi chồng hữu sự ra ngoài thì vợ phải ẩn mình trong chòi. Hôm được nghe lời rao truyền của chư thiên, chồng hỏi vợ:

-- Này em, em định đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm?

-- Thưa anh, phận em là nữ, vấn đề đi đứng đêm hôm bất tiện. Do đó, anh cho em đi nghe pháp ban ngày.

Người chồng đồng ý. Khi vợ trở về thì chồng lật đật quấn khố đến chùa trong công viên Khemamigadàya, gần thành nội Bandhumatì. Trong khi nghe pháp, chàng phát sanh phỉ lạc. Luồng điện phỉ lạc lưu chuyển khắp toàn thân, xuyên qua từng đường gân, thớ thịt, khiến chàng cảm thấy vô cùng an lạc. Suốt canh một, chàng đã nhiều lần quyết tâm đem cái khố cúng dường Ðức Phật, nhưng phiền não ma đà trở ngại đạo tâm, viện lý hai vợ chồng chỉ có một cái khố, nếu đem bố thí thì chắc chắn phải chết đói.

Sang canh hai, luồng điện phỉ lạc vận hành mạnh hơn nhưng chàng cũng không thực hiện được đạo tâm bố thí. Mãi đến canh ba, chàng mới dứt khoát, cuộn tròn cái khố cúng dường dưới chân Ðức Phật, rồi vổ tay lớn tiếng ứng khẩu 3 lần: "Ta thắng rồi, ta thắng rồi."

Câu ứng khẩu của chàng khiến Ðức Vua đang ngồi nghe pháp cảm thấy khó chịu. Vì danh từ - thắng, toàn thắng, đại thắng, v.v... - chỉ dành cho nhà vua sau những lần chiến thắng mới có quyền dùng khẩu hiệu ấy. Khi được hỏi, chàng thú thật vì quá hoan hỉ với chiến công tự thắng tâm lý sợ chết vì hai vợ chồng chỉ có một cái khố duy nhất. Thế nên phải phấn đấu quyết liệt suốt từ canh một đến giờ mới dứt khoát đem cúng dường được. Ðức vua vô cùng cảm động và hoan hỉ.

Ngài ban thưởng cho chàng, hai bộ y phục hảo hạng. Chàng đem hai bộ y phục ấy cúng dường Ðức Phật. Ðức vua lại ban cho bốn bộ. Chàng lại cũng đem cúng dường tất cả. Số y phục đức Vua ban cho được ghi nhận là cứ nhơn lên gấp đôi và, chàng đều cúng dường tất cả. Ðến khi số lượng y phục tăng lên con số 32 bộ, thì chàng cúng dường 30 bộ và chỉ dành lại 2 bộ đủ cho vợ chồng dùng mà thôi. Từ ấy về sau, đức vua rất có cảm tình với anh chàng nghèo này.

Một hôm, mùa đông giá lạnh, đức vua đi chùa nghe pháp, thấy anh chàng nghèo không có áo lạnh, ngài bèn cởi chiếc áo ngự hàn màu đỏ ban cho và căn dặn từ nay hãy mặc nó mỗi khi đi chùa nghe pháp. Nhưng sau đó, anh chàng bèn căng ra làm trần che bụi trong hương thất Ðức Phật. Một hôm, đức vua có dịp bái kiến Ðức Thế Tôn và ngồi hầu Ngài trong hương thất. Ngay lúc ấy, hào quang sáu màu từ kim thân Ðức Thế Tôn tỏa ra phản chiếu khiến cho màu sắc tấm trần vô cùng rực rở. Nhìn biết ngự hàn của mình, nhà vua bạch hỏi. Ðức Thế Tôn cho biết, chính anh chàng nghèo đã làm trần cúng dường Ngài. Ðức vua tự nghĩ "Tại sao mình không biết tìm cách cúng dường cho được thích đáng như anh ta?". Thế là đức vua ban thưởng cho anh chàng nghèo nhiều trăm nhu yếu phẩm, mỗi thứ 8 phần. Chẳng hạn như ruộng 8 mẫu, bò 8 con, nam công nhân 8 người, nữ công nhân 8 người vân vân và vân vân. Ðồng thời đúc vua sắc phong cho chàng chức vị Thừa Tướng.

Bắt đầu từ ấy, tân Thừa Tướng giúp vua điều hành quốc sự rất đắc lực. Thừa Tướng xin cúng dường thực phẩm mỗi ngày đến chư tăng qua 64 lá thăm. Nghĩa là vị nào bắt được những lá thăm ấy thì đến thọ trai tại tư dinh của Thừa Tướng.

Sau khi mạng chung, Thừa Tướng được sanh làm trời. Hết phước trời lại hưởng phước người. Trước khi Ðức Phật Kassapa giáng trần, Thừa Tướng sinh vào một gia đình bá hộ. Tại Bàrànasì, lớn lên có gia đình. Một hôm, đang du ngoạn, ông bá hộ thấy một vị Phật Ðộc-giác đang ngồi may y gần bờ sông, nhưng thiếu vải. Ông lập tức tháo vuông khăn trắng quàng cổ cúng dường và phát nguyện:

-- Bạch ngài, do công đức cúng dường với tất cả lòng trong sạch hôm nay, xin cho tôi đừng bao giờ gặp điều bất hạnh.

Ðức Phật Ðộc giác phúc chúc cho chàng được đắc kỳ sở nguyện.

Sau đó không lâu, vợ ông có dịp cúng dường thực phẩm, hoa sen cho Ðức Phật Ðộc giác và phát nguyện:

-- Do phước cúng đường tịnh thí hôm nay, xin cho đệ tử có một sắc đẹp tươi thơm như đóa hồng liên.

Ðức Phật Ðộc giác phúc chúc cho nàng được đắc kỳ sở nguyện.

Vợ chồng tiếp tục thực hiện mọi thiện sự nhất là bố thí và, sau khi mạng chung đều được hóa sanh thiên giới.

Ðến thời kỳ Ðức Thế Tôn Kassapa xuất trần, người chồng được sanh làm đại-phú gia, tài sản 80 triệu và, người vợ cũng được sanh vào một gia đình triệu phú, cùng chung sinh quán là Bàrànasì. Lớn lên, hai người nên duyên chồng vợ.

Sau khi Ðức Thế Tôn Kassapa nhập Niết bàn, người chồng đặt thợ làm hoa sen vàng, lớn bằng bánh xe cúng dường bảo tháp, còn vợ thì cúng dường bằng 8 đóa hồng liên tươi. Sau khi mạng chung cả hai đều được sanh thiên. Hết phước trời, hai người cùng chuyển kiếp làm người. Chồng làm đại tướng. Vợ là công chúa. Lớn lên hai người được nên nghĩa vợ chồng. Khi vua thăng hà, phò mã được kế vị. Có một điều rất lạ là ngay ngày Phò-mã đăng quang thì trong vườn thượng uyển bổng mọc lên 8 cây Như-ý-Thọ ở tám hướng. Ðức vua thường đem những quí kim, quí vật tự sanh từ những cây Như-ý-Thọ này ban cho dân chúng. Mỗi ngày, tại hoàng thành, đức vua và Hoàng hậu đều có cúng dường thực phẩm đến 500 vị Phật Ðộc giác. Ðến khi lớn tuổi, Nhị vị cùng xuất gia và tích cực hành thiền Tứ-vô-lượng-tâm. Sau khi thân hoại mạng chung, Nhị vị đều được hóa sanh Phạm Thiên giới.

Ðến thời kỳ Ðức Bổn Sư Thích-ca giáng trần, người chồng sanh vào một gia đình Bà-la-môn, tại thị trấn Mahàtittha, xứ Magadha, tên Pipphali. Còn người vợ thì sanh vào một gia đình Bà-la-môn, giòng Kosiya, tại thị trấn Sàgala, cũng xứ Magadha, tên Bhaddàkàpilànì.

Khi chàng được 20 tuổi, cha mẹ quyết định cưới vợ cho chàng, nhưng chàng quyết sống độc thân phụng dưỡng Hai Thân và, sẽ đi tu sau khi cha mẹ mãn phần. nhưng cha mẹ chàng tỏ ý không được vui và cứ nhắc chuyện ấy mãi. Một hôm, cha mẹ chàng lại đem chuyện cưới vợ ra nói nữa. Chàng bèn lấy một ngàn lượng vàng thuê thợ đúc một tượng kiều nữ tuyệt trần và nói rằng nếu có thiếu nữ nào đẹp như vậy thì sẽ ưng ý.

Cha mẹ chàng bàn bạc: "Con mình có phước lớn, biết đâu chẳng có một thiếu nữ kiều diễm xứng đôi vừa lứa với nó." Sau khi nhất trí, ông bà bèn giao phó trọng trách cho 8 vị bô lão Bà-la-môn có danh vị và uy-tín, mang tượng vàng trên xe đi tìm người đẹp. Nhờ có phương tiện đầy đủ, một hôm tám vị đến thị trấn Sàgala, cho đem tượng vàng dựng gần một ao nước công cộng chờ xem phản ứng. Tượng vàng đã đẹp lại thêm được phục sức toàn những thứ y trang thượng hảo hạng nên thoáng nhìn tưởng là tiên nữ giáng phàm.

Chiều hôm ấy, một số thị nữ của nàng Bhaddàkàpilànì, được phân công đi đội nước. Vua trông thấy tượng vàng ngở là tiểu thơ của mình, bèn đến cung kính, quì cúi đầu chờ sai bảo. Ngay lúc ấy, tám vị bô lão xuất hiện gạn hỏi thì được các thị nữ cho biết là tiểu thơ của họ còn đẹp hơn tượng nhiều. Thế là Tám vị theo chân các thị nữ đến gặp cha mẹ nàng Bhaddàkàpilànì, trân trọng trao tặng tượng vàng làm sính lễ.

Sau khi được nhà gái ưng thuận, Tám vị bô lão lập tức trở về hồi báo tin mừng. Cha mẹ chàng vô cùng sung sướng, nhưng tâm trạng chàng hoàn toàn trái ngược vì đã tự chọn cho mình một lý tưởng xuất gia ly dục rồi. Trước sự kiện trái nghịch này, chàng viết cho nàng một lá thơ:

"Cô Bhaddà quí mến,
Thú thật với cô, tôi đã quyết chí đi tu, không thích đời sống gia đình. Xin cô thông cảm cho chí nguyện của tôi. cầu mong cô gặp được một người chồng thực sự lý tưởng.
Một người bạn của cô,
Pipphali "

Riêng tâm trạng cô Bhaddà cũng vô cùng khó xử. Hơn nửa, gia giáo Ấn-độ rất nghiêm khắc với nữ giới. Không còn biện pháp nào khác, nàng cũng viết cho chàng một lá thư, đại ý giống hệch lá thư chàng gởi cho nàng. Thật là một sự trùng hợp kỳ thú.

Hai người đi thơ gặp nhau giữa đường. Vì là thân tín của chủ, nên hai người cũng rất thương chủ. Nhận thấy có sự bất ổn trong hai lá thơ, hai người quyết định tìm hiểu để kịp thời đói phó. Thì quả thật họ đoán không sai. Hai người bèn mạo thơ với ý nghĩa tương phản và, do đó, hôn lễ được cử hành vô cùng trọng thể. Ðêm động phòng hoa chúc, chàng lấy một tràng hoa thật to ngăn giữa hai ngườI. Mỗi người đều lo sợ có sự đụng chạm xác thịt nên luôn luôn cảnh giác, lại thêm một tư tưởng trùng hợp. Cuộc sống như vậy trôi đi trong bình lặng, hòa hài và nghiêm cẩn, không có bất cứ sơ hở nào để cha mẹ phải buồn lòng.

Sau khi cha mẹ qua đời, chàng phải trực tiếp quản lý, đìều hành gia tài. Chỉ riêng cặn vàng được lọc ra từ 60 cái, mạch nước mỗi ngày cũng lên đến số lượng 12 lít. Riêng nhà cửa dành cho công nhân ở chiếm một chu vi rộng 12 do-tuần tức diện tích 12 gần cây số vuông. Ngoài ra, chàng còn có 140 thớt voi, 140 con ngựa tốt, 140 chiếc xe và trâu bò nhiều gấp mười.

Một hôm, chàng cởi ngựa tham quan cơ sở nông nghiệp, nhìn thấy cảnh chim chốc dành nhau cắn mổ trùng dế theo các luống cày, chàng bèn hỏi nhuũng cộng sự viên:

-- Các bạn này, trường hợp chim chốc dành nhau cắn mổ trùng dế theo các luống cày thì tội về phần ai chịu?

-- Thưa ông chủ, tất cả điền sản này là của ông chủ, nên tội cũng về phần ông chủ chịu.

Ngồi trên lưng ngựa, chàng miên man suy nghĩ: "Ta thụ hưởng bất quá vật thực một bụng, quần áo một thân, giường nệm một lưng, sống không quá 100 năm. Trong khi tất cả tội lỗi thì ta phải gánh chịu riêng mình. Luân hồi khổ sẽ xô đảy ta vào vô cùng của sinh tử. Ta sẽ tặng tất cả gia tài này cho Bhaddàkàpilàn rồi ta đi tu."

Riêng nàng Bhaddàkàpilànì ở nhà, ngồi coi các thị nữ phơi lúa, phơi đău và các loại ngũ cốc. Những sinh vật nhỏ bò ra bị những sinh vật lớn xúm nhau dành dựt sát hại. Trước cảnh tượng bất công ấy, nàng hỏi các thị nữ:

-- Này các em, những con vật nhỏ trong lúa, đậu bò ra bị những con vật lớn sát hại thì ấy về phần ai?

-- Thưa cô chủ, tất cả tài vật ở đây là của cô chủ. Cho nên tội ấy cũng về phần cô chủ.

Nàng suy nghiệm: "Phải chi cuộc sống mình thực sự vô sản, chỉ cần một bộ y để mặc, một phần cơm để ăn và một thảo lư để ở thì sung sướng, tiêu dao biết mấy. Thôi thì chờ chàng về, mình sẽ xin phép đi tu."

Lại thêm một lần nữa hai người cùng có chánh niệm trùng hợp một cách kỳ diệu.

Về đến nhà, chàng tắm rửa và ăn cơm trưa. Ăn xong, hai người rủ nhau qua ngồi phòng khách. Chàng lên tiếng:

-- Bhaddà thân mến, khi về chung sống với anh, Bhaddà đem theo bao nhiêu của hồi môn?

-- Thưa anh, em đem theo chỉ có 5 muôn 5 ngàn cổ xe mà thôi.

-- Bhaddà mến, hiện kim 87 tỷ và tất cả động sản, bất động sản hiện có, anh xin giao hết cho Bhaddà trọn quyền sử dụng.

-- Còn anh?

-- Anh sẽ đi tu.

-- Thưa anh, khi anh chưa về đến, em ở nhà cũng có ý nghĩ đó và em đã dứt khoát, chỉ đợi anh về để xin phép mà thôi.

Ngay lúc ấy, tam giới đói với hai người chẳng khác nhà lá đang bị lửa cháy. Cả hai tìm vải màu đà, bát đất rồi ầm thầm thí phát, đấp y, mang bát và lập tức rời lâu đài bảy tầng, nhắm hướng đường rừng thẳng tiến. Hai người băng đường ruộng hy vọng đừng ai nhìn biết, nhưng một vài người nhận thấy tướng mạo khác phàm và họ để ý nhìn kỷ thì ra là cô, cậu chủ của họ. Thế là họ kéo nhau đến, một đồn mười, mười đồn trăm, tất cả đều quì mọp dưới chân hai người, khóc kể thật là bi ai thống thiết. Họ đồng loạt yêu cầu hai người đừng bỏ họ bơ vơ không nơi nương tựa. Trước nay, họ đã được sống an vui, đầm ấm trong tình thương yêu, đùm bọc của hai người. Giờ, nếu hai người bỏ họ ra đi thì đời sống họ sẽ vô cùng lầm than cơ cực.

Chàng khuyên họ nín khóc, im lặng nghe chàng nói:

-- Này các anh chị, thú thật với anh chị, hiện tại tam giới đói với chúng tôi như nhà lửa. Nếu chúng tôi trì hoản thì số phận sẽ vô phương cứu vản. Còn đời sống anh chị chúng tôi đã có dự liệu. Sẳn có mặt đông đủ tại đây, tôi xin long trọng tuyên bố hiến tặng tất cả động sản và, bất động sản cho anh chị toàn quyền sử dụng. Chúng tôi nghĩ, với số tài sản chia được đồng đều này, anh chị đủ so6’ng sung sướng một đờI. Anh chị hãy đứng lên, tắm rửa sạch sẽ, thành lập ủy ban phân phối tài sản và chính thức hưởng quyền thủ đắc vĩnh viển các tài sản ấy. Xin tất cả anh chị nhận chút tình của chúng tôi. Tạm biệt tất cả. Hẹn tái ngộ trong ánh đạo từ bi cứu khổ.

Hai người tiếp tục hành trình. Ði được một đoạn đường khá xa, chàng quay nhìn lại thấy nàng vẫn khoan thai nối gót, bèn tự nghĩ: "Sắc đẹp Bhaddà đáng giá ngang cỏi Diêm-Phù, nếu nàng đi theo ta thì tránh sao cho khỏi dư luận đàm tiếu, không khéo họ phải mang tôi, hoặc vì phát sanh dục niệm muốn chiếm hữu nàng, hoặc có ý muốn làm hại mình thì tội lỗi ấy càng thêm nặng nề. Chi bằng, hai người nên chia tay nhau". Trong khi chàng dứt khóat với ý nghĩ ấy thì hai người cũng vừa đến ngã rẻ. Chàng dừng chân, quay mặt chờ nàng. Khi đói diện, chàng lên tiếng:

-- Sư muôi, nếu có ai thấy chúng ta đã xuất gia mà cò đi chung nhau thì họ sẽ nghĩ quấy và nói quấy về chúng ta. Tiện đây có hai con đường, vậy muội hãy chọn một.

-- Thưa sư huynh, lời Sư-huynh dạy rất phải. Muội cũng nhận thấy sự bất ổn ấy. Hơn nữa, nhi nữ là phiền não của phạm hạnh. Do đó, chúng ta nên chia tay tại đây.

Nói xong, nàng chấp tay đi nhiễu ba vòng quanh chàng và quì lạy ở bốn phía: tay mặt, tay trái, phía sau và phía trước, rồi đứng chấp tay nói lời sinh biệt:

-- Thưa Sư huynh, giờ phút chia tay đã điểm. Chúng ta hoan hỉ và tình nguyện chấp nhận cuộc sống sinh biệt này. Nếu thân, khẩu, ý muội có điều sơ sót, xin Sư huynh hãy từ bi hỉ xã. Là nam nhơn, Sư-huynh nên chọn tay mặt. Còn muội là nữ nhi, thì muội xin chọn con đường tay trái.

Nói xong nàng quay mặt đi thẳng và không một lần nhìn lại.

Ngay lúa ấy, quả địa cầu rung chuyển, đại dương nổi phong ba, núi Tu-di chuyển động, sét trời chớp nổ tứ giăng. Vũ trụ dường như không chịu nõi trước cuộc chia tay mang tính chất ly dục hi hữu của hai người.

Thấy hiện tượng lạ, Ðức Bổn Sư đang ngự tại Trúc-lâm, dùng thiên nhãn thuần tịnh quán chiếu, biết được chí nguyện thoát ly cao cả của hai người, Ngài đấp y, mang bát, một mình rời hương thất, đi bộ khoảng 10 cây số và ngồi dưới gốc dừa lâu năm mọc ngay giáp giới thị trấn Nàlandà và Ràjagaha. Hào quang từ kim thân Ngài tỏa rộng 80 hắc tay, khiến như có nhiều mặt trăng, mặt trời phản chiếu ánh sáng.

Nhờ căn lành tiền kiếp trợ duyên Pipphali vừa nhìn thấy Ðức Thế Tôn thì biết ngay là Ðức Bổn Sư của mình, nên lập tức chấp tay, cuối đầu đến gần quì mọp đảnh lễ và nghiêm túc ứng khẩu ba lần:

-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là Bổn Sư của đệ tử. Ðệ tử là đệ tử của Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn nghiêm từ:

-- Này Kassapa, nếu ngươi chấp tay cung kính trái đất thì trái đất cũng phải rung chuyển vì không chịu nổi phúc lực của ngươi. Nhưng đối với Như-lai thì hoàn toàn trái ngược, vì Như-lai có nhiều đạo lực. Ngồi xuống đi Kassapa! Như-lai sẽ trao truyền kho tàng chánh pháp cho ngươi.

Khích lệ xong, Ðức Thế Tôn cho Kassapa thọ tỳ-kheo giới bằng phương thức Thiện-Lai Tỳ-kheo và, hướng dẫn Kassapa trở về Trúc-lâm tịnh xá. Ðức Thế Tôn uy nghi và sáng chói với 32 Ðại Trượng Phu, tướng thì Ðại Ðức Kassapa cũng được 7 phần mười. Ðại Ðức theo sau Ðức Thế Tôn trông đẹp như thuyền vàng kéo chiếc thuyền hoa. Ði một đổi đường, Ðức Thế Tôn rời đường mòn đến gốc cây da tỏ ý muốn ngồi. Ðại Ðức lập tức lấy y tăng già lê bốn lớp của mình trải cho Ðức Thế Tôn an tọa. Khi an tọa, Ngài lấy tay rờ tăng già lê của Ðại Ðức, khen thịt y mềm và mịn. Ðại Ðức lãnh hội thánh ý, bèn cẩn bạch:

-- Bạch Ðức Thế Tôn, xin Thế Tôn từ mẫn sử dụng lá y này cho đệ tử được phước.

-- Còn Kassapa sẽ dùng y nào?

-- Nếu được Thế Tôn đặc ban y của Thế Tôn cho đệ tử, thì đệ tử sẽ vô cùng hoan hỉ.

-- Này Kassapa, ngươi có thể dùng phấn tảo y cũ của Như-lai được sao? Ngươi biết không, ngày Như -lai sử dụng phấn tảo y này, quả địa cầu đã phải rung chuyển, bốn biển nổi phong ba. Người thiểu phước, kém đức không thể sử dụng lá y tuy cũ nhưng nhiều oai lực của Như-lai được. Trừ phi người có đủ đạo lực, ý lực và nghiêm trì hạnh đầu đà phấn tảo y thì mới sử dụng được.

Huấn thị xong, Ðức Thế Tôn nghiêm từ trao y tăng già lê của Ngài cho Ðại Ðức Kassapa. ngay lúc ấy, địa cầu lại rung chuyển, vì Ðức Thế Tôn chưa từng trao đổi y tăng già lê với bất cứ vị thinh văn nào. Trước đặc ân này, Ðại Ðức Kassapa đã lập nguyện thọ trì toàn bộ 13 hạnh đầu đà. Ðến ngày thứ tám, Ðại Ðức chứng quả A-la-hán bậc có bốn tuệ vô ngại giải.

Một thời gian sau, Ðức Thế Tôn chính thức ấn chứng pháp vị Ðại Ðức là Ðầu-đà Ðệ Nhất. Ngay trong cuộc lễ này, Ðức Thế Tôn tán dương Ðại Ðức:

-- Này các tỳ-kheo, Kassapa cũng như mặt trăng. Thân, khẩu, ý, Kassapa hoàn toàn trong sạch. Ðối với dục niệm và bất thiện pháp, tâm hồn Kassapa vô nhiễm như hư không. Ðối với thiện pháp thì tâm hồn Kassapa cũng vô cầu như hư không.

Sau khi Ðức Thế Tôn nhập Niết bàn, chính Ðại Ðức đứng ra triệu tập đại hội Kết Tập thánh giáo thành Tam Tạng Thánh điển và là tọa chủ trong kỳ Kết Tập vì ngài là vị Trưởng lão tôn túc, được toàn thể Tăng già tôn xưng là Tăng Trưởng, là Tăng Chưởng, là Thượng Thủ của Tăng già. Lúc bấy giờ tuổi đời ngài cũng đã lên đến con số 120.

Cuối thời điểm của 120, tức sau khi hoàn thành công trình kết tập Tam Tạng Thánh điển, Ngài nhập Niết bàn giữa ba ngọn núi nhỏ có tên là Kukutasampàta, gần chùa Trúc-lâm, xứ Ràjagaha, nước Magadha.

Ðệ tử kính lễ ngài Ðại Ðức Trưởng lão Mahà Kassapa, vị thánh tăng A-la-hán có bốn tuệ vô ngại giải, bậc thừa hưởng đặc ân Ðức Thế Tôn trao đổi y Tăng già lê, vị thánh đại Ðệ-tử được Ðức Bổn Sư chính thức ấn chứng pháp vị là Ðệ Nhất đầu đà.

Cầu mong đức hạnh đầu đà thù thắng của Ngài nhiếp phục Phiền-não-ma đang ngự trị trong tâm hồn chúng sanh và đệ tử. Cầu cho đệ tử luôn luôn được tắm gội trong dòng suối thanh tịnh của Ngài.

Hòa thượng Hộ Giác
Texas, Hoa Kỳ

Chân thành cám ơn Tỳ kheo Giác Ðẳng đã gửi tặng phiên bản điện tử (Bình Anson, 01/2000).