Ngài Sariputta
(Xá-lợi-phất)


Khoảng một A-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp về trước, có một đại phu trưởng giả, sau khi cha mẹ qua đời đã xuất gia làm đạo sĩ, cùng lúc có bảy mươi bốn ngàn người cũng xuất gia theo. Sau khi xuất gia, nhờ tích cực hành thiền, tất cả đều đắc ngũ thông, bát định.

Lúc bấy giờ Ðức Phật Anomadassì giáng trần. Tại kinh đô Camdavatì phụ vương là đức vua Yasavanta. Mẫu thân là Hoàng hậu Yasodharà. Cội bồ đề Ngài đắc đạo tên Ajjuna. Ðại Ðệ tử tay mặt là ngài Nisabha. Ðại Ðệ tử tay trái là ngài Anoma. Thị giả là ngài Varuna. Nhị vị nữ Ðại Ðệ tử là Ni-sư Sundarà và Sumana. Tuổi thọ Ðức Phật là 100.000 năm. Ngài cao 58 hắc tay. Hào quang cố định từ kim thân chiếu ra 12 do-tuần. Chúng Tỳ-kheo theo hầu 100.000 vị. Một buổi sáng, qua thiện nhãn thuần tịnh, Ðức Thế Tôn căn duyên của đạo sĩ Sarada và 74.000 đạo sĩ đệ tử, Ngài đắp y mang bát, một mình bay theo hư không đến tận chổ ở của vị đạo sĩ.

Ðược mục kích hào quang rực rở và sắc tướng phi phàm của Ngài, vị đạo sĩ biết ngay Ngài là Ðức Phật Tổ Như-lai, bèn đến gần, quì cuối đầu đãnh lễ và cung thỉnh Ðức Phật an tọa, trong khi tự mình ngồi hầu ở chổ rất thấp. Từ những đ�a điễm hái hoa quả trong rừng trở về, 74.000 đệ tử thấy Ðạo sĩ thầy của họ ngồi thấp, còn vị sa môn lạ mặt ngồi cao hơn, bèn đến gần bày tỏ:

-- Bạch thầy, chúng con nghĩ là trên đời này không còn ai lớn hơn thầy. Thế nhưng, vị này trông có vẽ lớn hơn thầy!

-- Các con ơi, tại sao các con lại có thể đem hạt củi so sánh với núi Tu-di -cao sáu triệu tám trăm ngàn do tuần? Các con chớ nên đem cá nhân nhỏ bé của thầy mà so sánh với Ðức Phật Tổ Như-lai.

Các đạo sĩ môn đồ lãnh hội được sự so sánh vô cùng quan yếu của Thầy bèn cùng nhau đệ đầu đãnh lễ Ðức Thế Tôn. Vì sắp đến giờ ngọ trai, nên các vị đạo sĩ sốt sắng lựa những trái cây hảo hạng và chính tay Ðạo-sĩ Sarada cúng dường Ðức Thế Tôn. Trong khi Ngài ngọ thực chư vị thiên thần bèn đem Thiên vị lòng vào các thứ trái cây ấy. Ðạo sĩ Sarada tự tay lượt nước cúng dường. Cảm ứng được nguyện lực của Ðúc Phật, nhị vị Ðại Ðệ Tử và một trăm ngàn Thánh tăng như những cánh chim cùng lúc bay đến bái kiến Ðức Phật.

Chứng kiến Phật lực và thần lực chư vị Thánh tăng, đạo sĩ Sarada vô cùng hoan hỉ, bèn hội các đệ tử lập tức sắp xếp nơi an tọa cho Ðức Phật cao thêm và chổ ngồi đầy đủ cho chư Thánh tăng. Mọi thứ nghi lễ được thành tựu như nguyện. Vì các vị đạo sĩ đều có ngũ thông, cộng thêm thần lực chư thiên yểm trợ nên mọi công tác được hoàn thành trong thời hạn kỷ lục.

Bảo tọa dành cho Ðức Phật hoàn toàn bằng các lọai hoa quí cao một do-tuần, nơi an vị dành cho Nhị vị Ðại Ðệ Tử cao 3 gàvut (3/4 do-tuần); dành cho chư Thánh Tăng cao nửa do tuần; dành cho chư vị tân thọ Tỳ-kheo cao 25 sải tay.

Chuẩn bị xong, đạo sĩ Sarada cung thỉnh Ðức Phật an tọa. Sau khi Ðức Phật và chư Thánh tăng an tọa, đạo sĩ đích thân đứng cầm lộng hoa hầu Phật. Ðể bồi đắp đức tin dõng mãnh và lòng trong sạch cao độ của thầy trò đạo sĩ, Ðức Thế Tôn nhập định. Nhị vị Ðại Ðệ Tử và chư Thánh Tăng cũng đồng nhập định. Suốt thời gian bảy ngày Ðức Phật và chư Thánh Tăng nhập định, các vị đạo sĩ luân phiên đi hái hoa trái về dùng, chỉ riêng đạo sĩ Sarada vì quá hoan hỉ nên phát sanh phỉ lạc, đứng bất động trong tư thế che lọng cúng đường Ðức Phật suốt bảy ngày.

Vừa xuất định, Ðức Thế Tôn Anomadassì chỉ định vị Ðại Ðệ Tử tay mặt là ngài Nisabha lược giảng công đức cúng dường bảo tọa bằng hoa. Ðức Thế Tôn lại cũng chỉ định vị Ðại Ðệ Tử tay trái giảng tiếp. Sau hai thời giảng của Nhị vị Ðại Ðệ Tử, không có một ai đắc đạo chứng quả. Lúc bấy gìơ Ðức Thế Tôn đích thân thuyết pháp. Dứt thời pháp 74.000 đạo sĩ đều chứng quả A-la-hán, ngoại trừ đạo sĩ Sarada. Ðức Thế Tôn biệt cách cho xuất gia theo phương thức "Thiện lai Tỳ-kheo" nghĩa là Ðức Phật chỉ gọi "Thiện lai tỳ kheo" thì lập tức các vị trở thành Tăng sĩ với viên mãn tăng tướng và đầy đủ giáo dụng. Ðạo sĩ Sarada sở dĩ không đắc đạo chứng quả vì tâm hồn đang hướng về một đối tượng, đó là Ngài Nisabha vị Ðaị Ðệ Tử tay mặt của Ðức Phật. Ðạo sĩ bạch Phật:

-- Bạch Ðức Thế Tôn, vị Trưởng lão an tọa tay mặt của Thế Tôn giữ chức vụ gì trong đạo tràng?

-- Vị này là Ðaị Ðệ Tử tay mặt của Như-lai, có khả năng chuyển bánh xe pháp như Như-lai, đã đạt được tuệ cao tột của hàng thinh văn, pháp danh là Nisabha.

-- Bạch Ðức Thế Tôn, suốt bảy ngày đứng che lộng cúng dường Ðức Thế Tôn đệ tử không cầu mong được bất cứ một quả vị nào khác mà chỉ cầu xin được làm Ðại Ðệ Tử tay mặt của một vị đương lai Phật Tổ.

Ðức Thế Tôn Anomadassì vị đạo sĩ Sarada sẽ được thành tựu, Ngài nghiêm từ thọ ký:

-- Ðúng một a-tăng kỳ và một trăm ngàn kiếp về sau, sẽ có một vị Phật Tổ xuất trần tôn hiệu Gotama, Phụ vương là đức vua Suddhodana, Phật mẫu là hoàng hậu Mahà Màyà, Thị giả là Tỳ kheo Ananda, Ðại Ðệ Tử tay trái tên Moggallàna, còn ngươi sẽ là vị Tướng quân pháp tên Sàrìputta tức Ðại Ðệ Tử tay mặt của Ngài.

Sau thọ ký cho đạo sĩ Sarada, Ðức Thế Tôn và chư Thánh Tăng bay trở về trú xứ.

Ðạo sĩ Sarada hỏa tốc nhờ một đệ tử tìm đến gặp ông bá hộ Tirivaddha - một người bạn chí thân - báo cho biết mọi diễn tiến và khuyến khích người bạn này hãy kịp thời phát nguyện làm Ðại Ðệ Tử tay trái. Riêng đạo sĩ thì tích cực hành thiền Tứ-vô-lượng-tâm và sau khi thân hoại mạng chung được hóa sanh Phạm-thiên-giới. Từ phạm-thiên-giới chuyển xuống thiên-giới và tại đây sống một trăm ngàn năm tuổi trờI. Ðược làm Thiên-vương Ðế Thích một ngàn lần. Từ cõi trời chuyển xuống cõi người và được làm Ðại Ðế chuyển-luân một ngàn lần. Trong những kiếp luân hồi, ngài luôn luôn trì hành Ba-la-mật hạnh.

Ðến kiếp cuối cùng - tức sau một A-tăng kỳ và một trăm ngàn kiếp - ngài sinh vào một gia đình Bà-la-môn, cũng gọi là Nàlika-thuộc làng Upatissa gần Ràjagaha (Vương xá), thân sinh là ông Vaniganta, thân mẫu là bà Sàrì. Ba người em trai là: Cunda, Upasena, Revata và ba người em gái là: Càlà, Upacàlà, Sìsupacàlà. Về phần người bạn tiền kiếp của ngài là ông bá hộ Sirivaddha cũng sinh vào một gia đình Bà-la-môn, làng Kolita, thuộc nước Vương-xá, thân sinh là ông Kolita, thân mẫu là bà Moggalì. Hai bạn chào đời cùng một ngày. Lớn lên, hai bạn nỗi tiếng uyên bác về các môn học nhất là giáo hệ Phệ-đà. Trong những cuộc giải trí hoặc du ngoạn, hai bạn lúc nào cũng đi chung. Mỗi lần đi như vậy, Upatissa thường dùng 500 chiếc võng, còn Kolita thì dùng 500 cổ mã xa.

Một hôm, hai bạn được mời dự kiến buổi trình diển văn nghệ công cộng, nhân dịp Tết Nguyên Ðán. Thông thường mỗi lần như vậy thì hai bạn tỏ ra rất hào hoa phong nhả, cười vui, tưởng thưởng. Lần này cũng vậy. Nhưng đến thứ ba thì đột nhiên hai bạn không cười vui, tưởng thưởng mà trái lại rất trầm tư và đâm chiêu. Thì ra hai bạn đang tắm mình trong lý tưởng hướng thượng:

"Ở đây có gì thích thú mà ta phải nhìn. Tất cả những người này rồi sẽ phải chết sau hạn định một trăm năm. Vậy, bằng mọi cách ta phải tìm cho ra đạo bất tử. "

Vì miên man trong lý tưởng đăm chiêu, nên hai bạn đều có chung một thái độ, một phản ứng. Thế rồi họ nhìn và hỏi nhau. Kolita lên tiếng trước:

-- Bạn Upatissa, tại sao hôm nay trông bạn không được vui như mọi khị dường như bạn không thỏa mãn một điều gì?

-- Bạn Kolita, tự nhiên mình thấy ngồi nhìn cảnh tượng này nó vô vị làm sao. Rồi mình tự nghĩ, tốt hơn hết là nên đi tìm môt con đường hướng thượng. Nhưng còn bạn, tại sao bạn cũng không vui.?

-- Mình cũng có ý nghĩ như bạn vậỵ

-- Hay, hai ý nghĩ chúng ta đồng nhất. Vậy, chúng ta nên cắt ái từ sở thân, đi tu làm đạo sĩ. Nhưng vị đạo sư nào có thể hướng dẩn chúng ta thực hiện hoài bảo?

Cuối cùng họ nhất trí mỗi người đem theo 500 gia nhân nhập môn làm đệ tử giáo chủ Sanjayavelatthaputta - một trong 6 vị giáo chủ nổi tiếng đương thời.

Một hôm, Upatissa thấy đại đức Assaji - một trong đoàn năm Kiều Trần Như - đang đi khất thực. Bị thu hút bởi thánh phong đạo cốt và nét mặt vô cùng trầm nghị của Ðaị Ðức, Upatissa theo chân Ðại Ðức đến địa điểm ngọ trai ở ven rừng, được Ðại Ðức nói cho nghe bài kệ về định lý Nhân-Duyên sinh. Câu kệ như vậy:

Ye dhammà hetuppabhavà
Tesam hotum tathàgato
Tesanca yo nirodho ca
Evam vàdì mahàsamano

Vạn pháp do duyên sinh
Duyên diệt vạn pháp diệt
Ðức Phật Ðại sa-môn
Hằng giáo huấn như vậy.

Nghe xong, Upatissa được đắc quả Tu-đà-hườn. Trở về tìm Kolita đọc cho nghe nguyên văn bài kệ. Vừa nghe xong Kolita cũng đắc quả Tu-đà-hườn. Sau khi chứng quả Tu-đà-hườn, cả hai quyết tâm đi bái kiến Ðức Phật, Upatissa bèn rủ 500 gia nhân cùng đi, nhưng chỉ có 250 người tình nguyện đi, còn 250 người xin ở lại.

Khi được bái kiến và nghe Ðức Bổn Sư thuyết pháp, tất cả đều đắc quả A-la-hán và được Ðức Bổn Sư cho xuất gia bằng thắng duyên "Thiện-lai-Tỳ-kheo". Riêng Upatissa mãi 15 ngày sau, trong khi đứng qụat hầu Ðức Bổn Sư được nghe bài pháp Vedanàpariggahasutta (định lý của mọi cảm thọ ) do Ðức Bổn Sư thuyết cho cháu trai Ðại Ðức tên Dìghanakha lúc bấy giờ còn là một du sĩ ngoại đạo nghe và chính nhờ nghe bài pháp này mà đắc được quả vị A-la-hán bậc có bốn tuệ vô ngại giải. Sau đó, không lâu, Ðại Ðức được Ðức Phật chính thức ấn chứng thánh vị Ðệ Nhất Trí Tuệ.

Trong kinh Ðại Niết Bàn kể rằng, sau khi mãn mùa an cư tại làng Veluva, Ðức Thế Tôn trở về Kỳ-viên Tịnh-xá. Ðại Ðức đến bái kiến và đi tìm một chổ vắng nhập thiền. Sau khi xuất thiền, Ðại Ðức dùng thiên nhãn tìm hiểu về thời gian Niết bàn của các vị Ðaị Ðệ Tử thì được biết theo thông lệ các vị Ðại Ðệ Tử nhập diệt trước Ðức Phật.Tự thấy thời gian sống của mình chỉ còn bảy ngày, Ðại Ðức liền tìm hiểu về địa điểm Niết bàn. Ngay khi ấy, Ðại Ðức cũng biết thêm rằng: Ðại Ðức Ràhula (Ra hầu la) tịch diệt tại cõi trời Tam Thập Tam (Tàvattimsa), Ðại Ðức Annàkondanna tịch diệt tại hồ Chaddanta gần chân núi Hi-mã-lạp. Ðại Ðức liên tưởng đến thân mẫu, lúc bấy giờ vẫn còn giữ tín ngưỡng Bà-la-môn giáo, mặc dù bà là thân mẫu của bảy vị A-la-hán - cá nhân Ðại Ðức, ba vị bào đệ và ba vị bào muội. Trong những ngày cuối cùng, nhận thấy thắng duyên thánh đạo của thân mẫu đã đến thời kỳ chứng ngộ do chính Ðại Ðức trực tiếp khai thị, Ðại Ðức quyết định chọn căn phòng lúc xưa mình chào đời làm địa điểm Niết bàn.

Ðại đức hướng dẫn thầy Cunda - bào đệ của Ðại Ðức - và 500 vị tỳ kheo đồng sự đến bái biệt Ðức Bổn Sư. Trong phần xin phép Ðức Bổn Sư để Niết bàn, Ðại Ðức nói rất cảm động:

-- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn cho phép đệ tử được tán dương ân đức của Thế Tôn, vì thời hạn niết bàn của đệ tử đã đến, đệ tử phải từ bỏ cuộc sống phù du này: "Cao cả thay ! Ðức Thế Tôn, một đấng cứu thế, một thánh nhân vĩ đại ! Nhờ Thế tôn mà đệ tử được giải thoát, không còn đi, lại trong cỏi trầm luân đầy khổ lụy này." Cuộc sống giai đoạn của đệ tử chỉ còn có bảy ngày ngắn ngủi. Rồi đây ngũ uẩn đệ tử sẽ rả tan trở về bốn đại và, đó là biểu hiệu gánh nặng luân hồi đã được quăng xuống.

Bạch Ðức Thế Tôn, bạch Ðại Ðức Hồng ân, trong giây phút sau cùng, đệ tử được ca ngợi ân đức vô lượng của Thế Tôn và, đệ tử xin đệ đầu bái biệt. Ðức Thế Tôn cho phép đệ tử được từ bỏ cái sắc tướng ràng buộc hiện hữu để được trở về với thể tánh chơn thường bất tử.

Ðức Thế Tôn nghiêm từ:

-- Này Sàrìputta, ngươi sẽ Niết bàn tại đâu?

-- Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử sẽ Niết bàn ngay tại căn phòng mà ngày xưa đệ tử sanh ra.

-- Hãy liệu lấy thời cơ thích hợp. Sau lần tiếp xúc này, các pháp hữu của ngươi sẽ không còn cơ hội gặp lại một mẫu Tỳ-kheo như ngươi nữa, vậy ngươi nên ban bố cho họ một thời pháp cuối cùng.

Lãnh hội được ý Ðức Thế Tôn muốn Ðại Ðức hiển lộng thần thông, rồi sau sẽ thuyết pháp, Ðại Ðức đệ đầu đảnh lễ xong bèn bay lên hư không cao khỏan một cây thốt nốt rồi đáp trở xuống lễ Phật. Lần thứ hai, bay cao gấp đôi rồi trở xuống. Lần thứ ba, bay cao gấp ba. Lần thứ tư, cao gấp bốn. Lần thứ năm, cao gấp năm. Lần thứ sáu, cao gấp sáu. Trong sáu lần, Ðại Ðức đều bay trở xuống lễ Phật. Ðến lần thứ bảy, bay lên cao khoản bảy cây thốt nốt Ðại Ðức bèn an vị trên hư không thuyết pháp, và kẻ xa người gần đều nghe rỏ pháp âm của Ðại Ðức. Thời pháp kéo dài tương đối lâu. Dân chúng trong thành Xá - vệ hay tin, ùn ùn kéo nhau đổ sô đến Kỳ-viên Tịnh xá như nước tràn bờ.

Sau khi kết thúc bài pháp, Ðại Ðức bay trở xuống quì mọp dưới chân Ðức Thế Tôn, cẩn bạch:

-- Bạch Ðức Thế tôn, phút vĩnh biệt của đệ tử đã điểm.

Ðức Thế Tôn khoan thai rời hương thất đến đứng trên một tảng đá ngọc ma-ni phía trước hương thất. Ðại Ðức chấp tay, vai mặt hướng vào Ðức Thế Tôn, cung kính đi nhiễu ba vòng, quì đảnh lễ ở bốn phía: sau lưng, tay trái, tay mặt và phía chính diện Ðức Thế Tôn, nói lời vĩnh quyết:

-- Bạch Ðức Thế Tôn, lần đầu tiên, đệ tử được quì mọp dưới chân Ðức Phật Tổ Anomadàssì cách nay hơn một a-tăng-kỳ kiếp, mục đích để được bái kiến và làm đệ tử Ðức Thế Tôn nay nguyện ước ấy đã viên thành. Từ nay, Ðệ Tử không còn được bái kiến Thế Tôn nữa.

Bái biệt xong, Ðại Ðức đứng chấp tay đi lùi, đến khuất tầm mắt Ðức Thế Tôn, bèn quì đảnh lễ lần cuối cùng rồi mới quay mặt đi luôn. Ngay lúc ấy, địa cầu rung chuyển, như không ngăn được niềm thương tiếc và đại dương nổi phong ba như đồng vọng thét gào xúc cảm. Ðức Thế Tôn dạy các thầy tỳ kheo hiện diện: -- "Các thầy hãy đi tiển đ�a huynh trưởng các thầy đi!"

Chư vị tỳ kheo bèn theo tiển chân Ðại Ðức. Khi đến tam quan, Ðại Ðức dừng lại và khuyên các vị hãy trở về tiếp tục cuộc sống tinh cầnvà nhớ phục dịch Ðức Thế Tôn thập phần cẩn trọng. Nói xong, Ðại Ðức tiếp tục hành trình. Phật tử tại gia kéo nhau theo sau vừa đi vừa khóc than kể lể, Ðại Ðức phải dừng chân an ủi:

-- Này các đạo hữu ; các đạo hữu chớ quá khóc than bi lụy. Hãy lo tinh tiến tu hành. Các hữu vi pháp đều vô thường, biến hoại. Chỉ có Niết-bàn mới là cảnh giới tịnh lạc, chơn thường. Các đạo hữu hãy trở về đi.

Nhờ các Phật tử trở lui, Ðại Ðức mới lên đường. Ngày đi, đêm nghĩ. Suốt con đường định mệnh này, Ðại Ðức đều khuyến nhắc, sách tấn phật tử, tích cực tu thân hành thiền để hưởng phúc lạc hiện tại và vị lai.

Vào buổi chiều ngày thứ bảy, Ðại Ðức về đến làng, ngồi nghĩ chân dưới một góc cây gần cổng làng. tình cờ, ngay lúc ấy, người cháu trai của Ðại Ðức tên Uparivata hữu sự đi ngang, thấy Ðại Ðức, bèn đến gần đãnh lễ, Ðại Ðức hỏi:

-- Bà ngoại con có nhà không?

-- Bạch ngài, có.

-- Làm phiền con thông báo dùm, bần đạo đã về đến và con nhớ thưa bà rằng: "bần đạo sẽ lưu lại một ngày, xin Bà dọn chổ cho bần đạo ngay trong căn phòng mà bần đạo đã chào đờI. Ðồng thời, sắp đặt chổ nghĩ cho 500 vị tỳ kheo đồng hành với bần đạo".

Uparivata trở về tường thuật đúng như lời dặn của Ðại Ðức.

Nghe xong Bà ngẩm nghĩ: tại sao con ta lại trở về và yêu cầu cung cấp chổ nghĩ cho nhiều người quá vậy? Sao lại muốn ở ngay trong phòng lúc xưa nó chào đời? Thí bỏ cuộc đời son trẻ đi tu, bộ khi về già lại muốn làm cư sĩ hay sao?.

Mặc dù nghĩ thế, nhưng bà cũng chuẩn bị thật đầy đủ. Bà con trong làng tập hợp đốt đuốc đi rước Ðại Ðức.Về đến nhà, Ðại Ðức mời chư tăng đến những nơi tạm nghĩ và, sau đó ngài vào căn phòng riêng của mình.

Lúc bấy giờ bịnh đi tả cấp tính bộc phát trầm trọng, Ngài tỏ dấu vô cùng đau đớn. Một cái chậu mang ra thì một cái chậu khác được mang vào. Thấy bệnh tình Ðại Ðức có mòi nguy kịch, mẹ ngài đứng nhìn về phía phòng tôn giả suốt đêm nhưng không dám đến gần. Ngay lúc ấy, bốn vị Thiên Vương thân hành đến gần giường Ðại Ðức, khiến gian phòng rực sáng lạ thường. Ðại Ðức hỏi:

-- Các vị là ai?

-- Bạch ngài, chúng tôi là Tứ Ðại Thiên Vương.

-- Các vị đến có mục đích gì?

-- Chúng tôi xin được phục dịch Ngài trong cơn bệnh hoạn.

-- Xin các vị an tâm ra về. Ở đây, đã có thị giả chăm sóc bần đạo rồi.

Tứ Ðại Thiên Vương vừa biến mất, thì đức vua trời Ðế Thích Sakka hiện đến. Và sau hết là vị Trời Phạm Thiên đến vấn an. Ðại Ðức đến khiêm tốn trấn an, cảm ơn và xin họ yên tâm ra về. Thấy chuyện lạ, mẹ ngài tìm hỏi thầy Cunda, nhưng Thầy chỉ báo cáo bệnh trạng và bạch cho Ðại Ðức biết là có mẹ đến thăm. Ðại Ðức cho mời vào và hỏi:

-- Vì sao Thân mẫu lại đến đây vào giờ này?

-- Ðến thăm con, con ạ! Này con, con hãy nói cho mẹ nghe. Những nguuời đến thăm con đầu tiên là ai vậy?

-- Thưa mẹ, đó là bốn vị Ðại Thiên Vương

Bà mẹ trố mắt:

-- Bộ con lớn hơn những vị đó sao?

-- Thưa mẹ, họ là những nguuời hộ pháp. Khi Ðức Bổn Sư đản sanh, họ cũng phải hầu hạ như những cận vệ quân hầu hạ đức vua vậy.

-- Còn vị sau đó là ai?

-- Thưa mẹ, đó là vị vua Trời Ðế Thích (Sakka).

-- Vậy còn lớn hơn cả vua Trời Ðế Thích nửa sao?

-- Thưa mẹ, ông ta cũng nhuu một vị Sadi nhỏ theo hầu một vị Tỳ -kheo. Ngày Ðức Bổn Sư từ tầng trời thứ 33 (Ðạo-lợi-thiên) trở về trái đất, thì chính Vua Trời mang bình bát và y phục tiển đ�a Ðức Thế Tôn với tất cả lòng thương kính.

-- Còn vị sau cùng là ai, mà hào quang chiếu sáng quá vậy?

-- Thưa mẹ, đó là vị Trời Ðại Phạm Thiên, mà mẹ thờ đó.

--Trời! Vậy thì con còn lớn hơn các đấng Ðại Phạm Thiên mà xưa nay mẹ hằng sùng bái nữa sao?

-- Vâng thưa mẹ, Vào ngày Ðức Bổn Sư đản sanh, chính bốn vị Ðại Phạm Thiên đã phải đón rước Thánh Nhi trong một vuông lưới báu của cõi trời.

Nghe vậy, mẹ ngài nghĩ: nếu oai lực con ta như vầy thì oai lực Thầy của con ta còn phi thường kỳ vĩ đến mức nào. Trong lúc bà đang suy nghĩ thì luồng điện phỉ lạc chạy tỏa khắp châu thân khiến tâm tư bà vô cùng hoan hỉ. Biết rõ dòng suối thiện tâm đang chuyển hướng chảy về đại dưong công đức, Ðại Ðức khai thông:

-- Thưa mẹ, mẹ biết không, trong những ngày như ngày Ðức Bổn Sư ra đời, thành Phật, chuyển Pháp-luân, nhập Niết-bàn và nhiều lần khác nữa, quả địa cầu này đều rung chuyển. Không ai có thể sánh được với Ngài về phương diện giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến.

Ðại Ðức tuần tự giải thích về ân đức Phật một cách khúc chiết và mạch lạc. Khi bài pháp vừa chấm dứt thì bà đắc quả Tu-đà-hườn. quá hoan hỉ với thành quả kỳ diệu bất tử, bà nói:

-- Này con yêu dấu của mẹ, thưa Ngài Upatissa, tại sao trong bao lâu nay con không ban bố cho mẹ pháp vị cam lộ này, cho đến hôm nay, con mới trao sự nghiệp kỳ diệu tịnh lạc này?

Ðaị Ðức tự thấy mình đã đền ơn sanh dưỡng của mẹ một cách xứng đáng và trọn vẹn, bèn khuyên Bà trở về tư phòng an nghỉ. Bà đi khỏi, ngài bèn hỏi thầy Cunda đã canh mấy rồi. Ðược biết trời sắp bình minh, Tôn giả nhờ thầy Cunda đở mình ra ngoài phòng khách và cung thỉnh chư tăng vân tập, Tôn giả nói với chư Tỳ-kheo:

-- Này chư pháp hữu, các vị đã sống với tôi suốt 44 năm dài. Nếu thân, khẩu, ý tôi có những khuyết điểm nào, xin các vị từ bi hỉ xã.

Chư vị Tỳ-kheo đồng xác nhận là suốt bao năm theo hầu Tôn giả như hình với bóng, quả thật các vị chưa hề có một điều bất mãn nào dù nhỏ. Ðối với Tôn-giả, chư vị lập hứa: Nguyện suốt đời noi gương Tôn-giả dù Ngài khuất bóng. Vì hình ảnh Ngài đã in sâu, đậm nét trong tâm khảm chư vị. Chư vị cũng đồng thanh xin Tôn-giả tha thứ cho những lỗi lầm không thể tránh được. Tôn-giả bày tỏ sự hoan hỉ.

Khi mặt trời vưà ló dạng, Tôn-giả năm nghiêng tay mặt rồi an nhiên nhập diệt. Hôm ấy là ngày trăng tròn tháng Kattika tức ngày rằm tháng chạp Ấn-độ. Cuộc lễ trà tỳ được đặc dưới quyền điều khiển của thầy Cunda. Chư thiên các tầng trời và dân chúng trong thành xá vệ đến chiêm ngưởng đông vô số.

Khi lễ trà tỳ viên mãn, thầy Cunda lập tức mang tất cả xá lợi và di vật, ngày đi đêm nghĩ, đem về Kỳ-viên Tịnh xá. Gặp Ðại Ðức Ananda, thầy Cunda cho biết tự sự, cả hai cùng vào đảnh lễ Ðức Thế Tôn. Ðại Ðức Ananda buồn bả, bạch Phật:

-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Xá-lợi-Phất đã nhập diệt, và đây là xá-lợi, y, bát của Tôn-giả. Tin này quả thật đã làm cho con trở nên yếu đuối, mọi vật chung quanh đều trở nên vô nghĩa.

Ðức Thế Tôn khuyên nhũ.

-- Này Anan, sao lại như vậy? Khi Xá-lợi-Phất nhập diệt, ông ấy có bớt đi một phần công đức, một phần an tịnh, một phần trí tuệ hay một phần giải thoát nào của Anan không?

-- Dạ không, Nhưng Bạch Thế Tôn Tôn-giả Xá-lợi-Phất vừa là huynh trưởng đạo hạnh gương mẫu vừa là vị cố vấn cho sự nghiệp trí tụê của chúng con. Người đã giảng giải Pháp bảo một cách trọn vẹn và, hướng dẫn nhiều vị tỳ-kheo lên hàng Thánh-đạo. Những công đức lớn lao này, làm sao chúng con quên được!

-- Này Anan, Như Lai há đã chẳng từng dạy rằng: sớm muộn gì tất cả chúng sanh phải bị chung số phận sinh ly hoặc biệt ly với những gì thân thương yêu quí và gần gủi. Cái gì đã sanh ra tất phải hoại diệt. Không phân ly là điều không thể có. Ðối với chúng Tỳ-kheo thanh tịnh này, sự nhập diệt của Xá-lợi-Phất giống như cành lớn của một đại thụ gãy xuống.

Sau khi nhận xá-lợi và di vật, Ðức Thế Tôn đứng tại chổ, ca tụng những đức tánh trong sáng và vĩ đại của Ðại Ðức Xá-lợi-Phất rất nhiều và, Ngài cho kiến tạo thánh tháp tôn thờ xá-lợi.

Những Phật ngôn mà Ðức Thế tôn dùng ca ngợi Ðại Ðức Xá-lợi-Phất trong nhiều trường hợp khác nhau thật là cảm động và thâm diệu. Ở đây, chúng tôi chỉ ghi lại những phật ngôn liên quan đến sự viên tịch của Ðại Ðức, để chúng ta cùng suy nghiệm:

"Này các tỳ kheo, đây là những di vật màu ngọc trai của một vị tỳ kheo trước đây không lâu đã hoàn thành Ba-la-mật hạnh trong thời gian dài kỷ luật là A-tăng kiếp. Công đức Ba-la-mật ấy đã hình thành một vị tỳ-kheo vô cùng khả kính. Ông là nguuời đạt được trí tuệ gần nhất với Như-lai. Trừ Như-lai, không ai bì kịp trí tuệ của ông. Vì thực chất của trí tuệ ấy là sự quản bát không cùng, nhanh chóng khôn tả, tiềm tàng. Vô biên và sáng lạng như mặt trời, ông thích đời sống tri túc, yểm ly, thiểu dục, tinh cần và là một hướng đạo viên gương mẫu, một vị cố vấn lỗi lạc, khả kính, khả ái của rất nhiều đồng đạo. Lòng từ bi của ông lúc nào cũng rộng mỡ, lục căn thanh tịnh, đức kiên nhẫn vững như trái đất. Trong khoản một trăm ngàn kiếp qua, đ�a cầu này đã từng chuúng kiến ít nhất năm lần những cuộc thoát ly vô cùng hy hữu của ông. Này các tỳ kheo, các thầy hãy hướng về con đường Sàrìputta đã đi, dù cho giờ này ông không còn có mặt."

Ðệ tử nhất tâm đảnh lễ ngài Trưởng lão Sàrìputta, vị Tướng quân pháp đẵ được Ðức Thế Tôn ấn chứng thánh vị Ðệ Nhất Trí Tuệ, vị Ðại Ðệ Tử tay mặt của Ðức Bổn Sư.

Cầu mong trí tuệ của Ngài soi sáng khách hồng trần và đệ tử thấy được lộ trình giải thoát, một con đường duy nhất có khả năng đánh lạc hướng theo dỏi của Ác-ma.