Những Chuyện Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới

 

Từ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền lành, phần đông trước khi chết đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ chết để tắm gội sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh độ khi mãn phần có những điều dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.

Nay tôi xin kể lại sơ lược một vài sự tích vãng sanh xưa và nay tại nước Tàu và Việt Nam ta để quí vị Đạo Tâm rộng đường suy xét hầu tu theo Tịnh độ. Chẳng những người tu có kết quả mà loài thú biết niệm Phật cũng đặng vãng sanh nữa.

 

1.- Đời Đường bên Tàu, Cư sĩ Minh Chiêm tuổi già mới tu Tịnh độ. Ông rất tinh tấn ngày đêm niệm Phật chẳng dứt. Có kẻ nói: Ông tu muộn quá e không kịp vãng sanh. Ông Minh Chiêm nói: Niệm Phật từ một tới mười câu còn thấy Di Đà, ta lo chi không đặng vãng sanh. Sau vì bị bệnh nên ông vào chùa Hưng Thiên, lúc quá Ngọ, ông ngồi chắp tay xây mặt qua hướng Tây mà niệm Phật. Giây lâu ông nói rằng: Phật với Quan Âm, Thế Chí đều đến rước ta. Nói xong bái rồi hết thở.

 

2.- Đời Tống, ba cha con của Ngụy thế Tử với một quận chúa đều tu theo Tịnh độ, trừ ra phu nhân là ăn mặn. Sau quận chúa chết yểu: sau khi liệm xong, quàn lại bảy ngày bổng nghe tiếng la từ trong quan tài Ngộp lắm nội nhà mừng quá cạy nắp quan tài ra, cùng lúc ấy tiếng nhạc trên không trung trổi lên. Quận chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ, nước Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bửu có nhiều bông sen búp lớn gần bằng bánh xe, ngoài cánh sen, cái thì nêu tên cha, hai bông nọ còn có tên hai anh nữa, con kiếm cùng không có tên mẹ nên con xin phép Đức Phật Di Đà về đây báo tin và khuyên mẹ mau tu Tịnh độ thì sẽ có một bông sen mọc ra dành cho mẹ cũng như của cha, của hai anh và của con vậy. Phật sẽ đem tòa sen ấy rước mẹ về cho Liên hoa hóa thân, ở cung đền rất cao. Muốn mặc y phục gì thời có hiện tới.

Muốn ăn vật chi đều có món đó, đựng trong bát thất bảo hiện tới trước mặt, dùng xong bát biến mất khỏi rửa. muốn nghe nhạc chi thì nhạc ấy vào tai, bằng không muốn nghe thì nhạc liền dứt. Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng một hương nào có mùi hương nấy. Được dạo xem trăm thứ hoa thơm. Muốn ăn trái cây chi liền hiện tới khỏi hái, Ngự tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề. Vả lại không có Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sáng hơn ban ngày thập bội. Có bảy thứ chim tốt lạ; có năm sắc lông, tiếng kêu êm ái như tiếng kệ kinh. Lại mát mẻ như mùa xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng Lục thông, thành bậc La Hán, đi dạo trên khắp thế gian.

Tòa sen bay lẹ như nháy mắt nên con đi về đây mau tợ khảy móng tay đã tới. Việc ở Cực lạc khoái lạc mười phần kể sao cho xiết. Xin mẹ ráng tu, sau lâm chung Phật rước về đó mà thấy đủ điều. Con không dám trễ phép, cúi xin bái tạ cha mẹ con lên tòa sen về nước Cực lạc. Quận chúa tạ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu sáng xẹt về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trỗi lần về hướng ấy.

Từ đấy phu nhân mới tinh tấn trường chay, tu theo Tịnh độ niệm Phật hơn chồng con. Sau mỗi người lâm chung đều biết ngày giờ trước. Đến ngày Liễu đạo, phu nhân ngồi day mặt về hướng Tây, niệm Phật chưa đủ mười câu đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật rước mình đông lắm. liền khi ấy, bà xuất hồn về cùng chư Phật. Bốn người lâm chung như vậy thiệt cả nhà có phước, sống hưởng lộc, thác được vãng sanh.

 

3.- Đời Tống, Dương Kiệt ở Châu Vô Vi, xưng hiệu Vô Vi Tử, thi đỗ sớm làm quan. Đi điểm tội nhân ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ đạo Phật nên học kỹ phép tham thiền, xem kinh nhiều lắm. Ông nói với bạn rằng: ỏõChúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công. Trừ ra tu Tịnh độ dễ hiểu, dễ tu. Dầu bao nhiêu kẻ dốt, tu cũng được vãng sanh.õõ Người có viết Thiên Thai Thập Nghị Luận và Tịnh Độ Quyết Nghi Tập; giảng rõ phép tu tịnh độ. Tuổi già, ông vẽ tượng Di Đà cao 16 thước mộc thờ lạy. Đến lâm chung, Phật định ngày rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch.

 

4.- Đời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường Châu, niệm Phật một câu; để một hạt đău đen vô hộc. Lâu năm lường được cỡ 15 giạ. Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng chín đãi trai tăng, các sãi ăn rồi ngồi niệm Phật đến hết thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một cách lạ lùng. Có tiếng nhạc trời trên không lần qua hướng Tây hồi lâu mới dứt.

 

5.- Đời Đường, có ông Trịnh mục Khanh, và cả nhà đều niệm Phật. Niên hiệu Khai ngươn, ông bị bệnh nặng, có người khuyên trở đũa (ăn mặn), ông không chịu. Tay bưng lư hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Xảy ngửi mùi thấy hương thơm nức. Người ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Đỉnh, làm chức thượng thư, chiêm bao thấy ông ngồi trên bông sen lớn.

 

6.- Đời Minh Liên, Hoa thái Công là người nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt. Đến lúc mãn phần liệm vô quan tài chưa kịp đem chôn, bổng nhiên một cánh bông sen mọc trên quan tài, xóm giềng khen ngợi, mới tin ông không biết chữ mà tu tịnh độ cũng được vãng sanh.

 

7.- Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông Châu an Sĩ (Tác giả quyển Tây Qui Trực Chỉ), tuổi nhỏ học hay, thói quen hay kiêu ngạo, không tin Phật cho lắm. Ngày kia có bệnh, thấy quỉ đến, cao lớn dị thường, xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng mới niệm Phật hẳn hòi, cầu vãng sanh cực lạc. Hễ niệm Phật thường thì thôi, nếu hở ra thấy quỉ nên Trịnh Sanh ráng niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy không biết cái gì mà mờ mờ như mây khói bay lần qua hướng Tây. Tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi hương cùng Thiên nhạc, song cứ lý chắc đặng vãng sanh bởi vì ông ít khi niệm Phật nên không đặng linh hiển đó thôi.

 

8.- Tô kỳ Sơn tự Khởi Phụng, ở Côn Sơn, tuổi thơ quyết chí tham thiền, tìm nhiều thầy thông thái, nên nghe rành Tịnh độ không dám sát sanh. Tuổi già tu tịnh độ theo bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tụng nhựt khóa không lơi. Mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.

Khương Hy năm Kỷ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ Ngọ, ông nói vớI cháu tên Điện Phương rằng: ỏõÔng tu Tịnh độ đã thành công, Phật mach bảo giờ vãng sanh đã ba bữa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết đêm nay tới giờ Tý ông sẽ được vãng sanh. Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.

 

9.- Ngô kính Sơn ở cùng xóm với Tô kỳ Sơn. Tuổi ông đã bảy mươi nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Điện Phương nói với ông: Tuổi ông đã già rồi ông nên tu tịnh độ cho mau mà chắc vãng sanh hơn tham thiền. Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời gian chưa đầy một năm, bà con ông Ngô kính Sơn đến nói với ông Tô điện Phương hay rằng: ỏõHồi sớm mai này Ngô kính Sơn thấy ông hộ pháp hiện hình, tiếp dẫn vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thì qua cho ông hay mà tạ ơn khi trước đã khuyên ông tu tịnh độ. Dặn rồi ông ngồi day mặt qua hướng Tây niệm Phật đến hết thở.

 

10.- Đời Đường, thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế Chí hiện trên không thầy mừng muốn họa chân dung hai vị Bồ Tát, liền khi ấy hai vị hiện đến xin vẽ rồi biến mất.

Thầy Duy Ngạn nói với các đệ tử rằng:  Ta bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn?  Có một trò nhỏ xin theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha mẹ đồng tử tưởng nó nói chơi nên cười mà bảo rằng: Tự ý con theo thầy về Tây phương đặng thì cha mẹ cầu lắm.õõ Đồng tử tắm gội thay áo lại ngồi gần thầy niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở, chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi được. Thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen đồng tử rồi ngồi tịch theo.

 

11.- Họ Ngô ở tỉnh Chiết Giang, ông cha đều là tú tài dưới triều Thanh, Thuận Trị năm đầu. Binh tới vây thành, cha mẹ ông bà đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô ấy bị bắt sống dâng cho Trương tướng quân thâu làm lính hầu mới mười ba tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò, nay làm hèn hạ cũng tội báo tiền căn. Ông liền giác ngộ xin vào chùa lạy Phật ăn chay trường. Mỗi đêm ông tụng một cuốn kinh Kim Cang và niệm Phật. đến năm 16 tuổi, Trương tướng quân đem bạc phát lương cho lính, họ Ngô nhín tiền lương của mình mà thỉnh tượng Đức Phật Di Đà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh Di Đà. đến năm Đinh Dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương tướng quân rằng: Tôi muốn về Tây phương. Tướng quân mắng rằng nói láo. Bữa sau họ Ngô đến dinh quan đề đốc xin nghỉ phép, Đề đốc giận giao cho tướng quân đánh đòn 15 roi mà ông không hề than; lại từ giã các quan đinh rằng: ỏõMùng 1 tháng 11 tôi sẽ về Tây phương.õõ Đến ngày ấy ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đồ xong thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trương tướng quân trong thuyền đặng về theo Phật. Trương tướng quân tức giận sai lính đi tới chỗ chất củi làm giàn thiêu. Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi niệm Phật rồi ngâm một bài kệ, liền hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng các dinh đều tựu lại đưa. Trương tướng quân kính phục, từ đấy nội nhà ăn chay, tu Tịnh độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.

 

12.- Ông Thẩm thừa Tiên ở Côn Sơn, tại chợ Tuyên Hóa làm nghề thợ mộc. trên bảy mươi tuổi ăn trường chay niệm Phật tu tịnh độ. Tuy tay không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chẳng ngừng. Đến năm Khương Hy thứ mười, tháng ba ông biết ngày Phật rước. Trước ba bữa giã từ bà con bạn hữu và nói ngày giờ mình vãng sanh. Từ giã rồi sao không thấy rước khác nữa. Ông nói với con dâu rằng: Mai là rằm cha sẽ vãng sanh Tây phương. Rạng ngày gội tắm thay áo, ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để ghế thắp hương rồi niệm Phật. Ban đầu niệm lớn, dần dần nhỏ đến khi mòn hơi.

 

13.- Đời Đường, vợ của ông Ôn tịnh Văn ở Tinh Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, vợ vâng lời nằm niệm cả năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc thưa với chồng rằng: ỏõ thiếp thấy Phật mach bảo tháng sau sẽ vãng sanhõõ, và dặn cha mẹ chồng ráng niệm Phật sau chắc vãng sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.

 

14.- Đời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Đường, ngày đêm niệm Phật tụng kinh Di Đà. Sau có bịnh rước thầy giảng kinh. Giảng chưa rồi, bà ngồi chắp tay hết thở. Có người thiếp già cũng niệm Phật không ngớt. Đêm nọ Cung Thị về báo mộng, mach bảo rằng: ỏõ Ta đã về Tây phương Cực lạc, bảy ngày nữa người cũng vãng sanh. Đến ngày ấy, bà thiếp đang mạnh mà chết ngồi.

 

15.- Đời Tống, có bà Trương thị Nữ ở quận Phần Dương, bệnh đui cặp mắt. gặp người ta khuyên niệm Phật bà liền nghe theo. Ba năm sau mắt bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ Tát đem phướng và Bảo Cái đến rước, liền ngồi mà mãn phần.

 

16.- Trào Thanh có bà Hạo Thi ở huyện Ty Lăng, là vợ của ông Phan hướng Cao, cũng là cư sĩ. Vợ chồng đồng tu Tịnh độ, tụng kinh Kim Cang. Hôm mai tụng nhật khóa niệm Phật y phép.. .Khương Hy năm Canh Thân tháng 7 có bệnh, biết trước ngày 27 giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho con cháu hay. Đến kỳ, con đến mời các đạo hữu đến niệm Phật tiếp và ngồi niệm Phật đến mãn phần.

 

Những Kẻ Dữ Cũng Được Vãng Sanh

 

17.- Đời Đường, Trương thiện Hòa làm hang bò, trâu. Lúc lâm chung thấy trâu bò đến cả bầy nói tiếng người đòi thường mạng. Ông sợ hối vợ rước sãi đến tụng kinh sám hối. Sãi nói: ỏõKinh Thập Lục Quán có nói: ỏõLâm chung thấy quỷ dữ, nếu lòng thành niệm Phật cũng đặng vãng sanhõõ. Trương thiện Hòa nói: ỏõMa quỉ tới nhiều lắm, đợi lấy lư hương chắc không kịpõõ. Tay mặt cầm đèn, tay trái thắp hương, xây mặt về hướng Tây rồi niệm Phật, chưa đủ mười câu vùng nói lớn: ỏõPhật đến rước ta rồi, nói rồi ông tắt thở chết ngồi.

 

18.- Đời Đường, Trương chung Quỳ hay làm thịt gà và bán. Ngày kia bịnh nặng thấy người mặc áo đỏ lùa bầy gà đến mổ thịt và mổ cặp mắt ông chảy máu, mang bịnh rên la. Người nhà liền rước sãi đến tụng kinh Di Đà, sãi bảo y niệm Phật mãi. Tới chừng nghe mùi thơm một cách lạ, Trương chung Quỳ hết la nhức và chết một cách êm nhẹ.

Chung Quỳ và Thiện Hòa đang bị oan hồn theo đòi nợ, nhờ chí thành niệm Phật, Đức A Di Đà cảm động cho các oan hồn trâu bò kia đầu thai hưởng phước, chúng nó mới buông tha. Xem hai sự tích này, các ông già bà cả có lỡ sát sanh trâu bò gà vịt rồi thì đừng lo sợ tu không kịp. Quý vị còn trẻ sợ không tin. Nhớ tin theo phương pháp đây thì tu chắc chắn có quả vị. Hai người làm hàng thuở nay không biết sợ tội chút nào, đến lâm chung thấy oan hồn địa ngục trước mắt kinh hãi. May có phước gặp sãi giải rành niệm Phật trối chết. Giây phút địa ngục hóa ra bông sen. Bởi Đức Phật Di Đà có nguyện:  Ai lâm chung, niệm Phật mười câu ngài sẽ rước về Tây phương. Huống chi quí vị gặp kinh này hãy mau ăn năn, lập nguyện, tụng niệm nhiều ngày, lo chi Phật không rước.

 

29.- Sãi Huýnh Kha đã xuất gia mà còn ăn mặn, nhậu rượu. sau khi ăn năn nghĩ rằng mình đã làm sãi mà như vậy, lúc lâm chung đọa địa ngục làm sao. Ông liền cậy các sãi đem chuyện vãng sanh đọc cho mà nghe. Ông ngồi xây mặt về hướng Tây nghe đọc hết các sự tích rồi đứng dậy lạy một lạy và niệm Phật. Khi đọc hết, Huýnh Kha liền niệm Phật suốt ba ngày đêm, bỏ cơm, ngủ gục chiêm bao thấy Phật bảo rằng: Số ngươi còn sống mười năm nữa phải ráng mà tuõõ. Vía ông lạy Phật bạch rằng: Cõi thế gian độc ác con tu sao nổi mười năm, xin Phật rước con về Cực lạc rồi tu và hầu hạ các Bồ Tát. Phật nói ỏõNgươi tình nguyện như vậy, thời niệm Phật ba ngày nữa ta sẽ qua rước hồn. Huýnh Kha nhịn ăn luôn, niệm Phật cho đủ ba ngày đêm và cậy các sãi tụng kinh Di Đà đưa mình. Một lát nói lớn rằng: Phật với các Bồ Tát đã đến rước ta. Nói rồi quỳ lạy xong xây mặt về hướng Tây niệm Phật mà chết.

 

20.- Đời Tống, có Trọng Minh ở huyện Sơn Âm chùa Báo Ân, không giữ ngũ giới, lúc bịnh nói với bạn tu là Đạo Ninh rằng:  Nay ta loạn tâm, thuốc chi trị được? Đạo Ninh nói: Cứ niệm Phật mãi. Trọng Minh y lời niệm Phật ròng bảy ngày hơi đã đuối quá, Đạo Ninh bảo hãy tưởng tượng Đức Phật Di Đà trong tâm. Trọng Minh y lời tưởng tượng mãi thấy hai vị Bồ Tát và Phật Di Đà rồi nhắm mắt mà chết ngồi.

Người dữ cầu vãng sanh niệm Phật phải bằng trăm phần người hiền. Nếu lo ra xao lãng, tưởng việc khác, Phật không rước ắt sa địa ngục. Xin quý vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ, Thủ tọa và bổn đạo, ráng trường chay niệm Phật, tinh tấn tụng kinh Di Đà ít năm hoặc ít tháng cho tới lâm chung, lo chi Đức Phật A Di Đà không rước về Tây phương, ngồi chín phẩm sen vàng. (Niệm 30 vạn biến vãng sanh, chắc chắn thấy Phật).

Nhứt là những vị trường chay, những vị tu lâu năm thường niệm Phật tụng kinh nhựt khóa thì công quả càng lớn lo chi không được về Cực lạc, liên hoa hóa thân, ngồi trên chín phẩm tòa sen.

 

 

 

NHỮNG CHUYỆN CẢM ỨNG THẤY PHẬT A DI ĐÀ

 

 

 

SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC THẤY CÕI CỰC LẠC

.

Thích Huệ Cảnh, người Truy Châu, xuất gia tu ở chùa Ngộ Chân. Sau khi thế phát, Sư gắng công khai giới khổ hạnh. Lòng mến cảnh Tịnh độ, Sư tạo hai tượng Thích ca và Di đà, hằng lễ bái cúng dường.

Đến lúc sáu mươi bảy tuổi, ngày rằm tháng giêng, Huệ Cảnh nằm mộng thấy một vị Sa môn thân sắc vàng ròng, bảo rằng:

- Ngươi muốn thấy Phật và cảnh Tịnh độ chăng?

Đáp:

- Thưa, từ lâu tôi rất ước mong được chiêm ngưỡng!

Sa môn trao bát cho và bảo:

- Hãy nhìn vào trong bát!

Huệ Cảnh tiếp lấy và nhìn vào, bỗng như lạc đến cõi khác, thấy cảnh Tịnh độ rộng rãi trang nghiêm, các thứ báu đẹp lạ. Đất toàn bằng vàng ròng, đường sá có dây vàng làm ranh giới. Cung điện lầu các trùng điệp không cùng tận, trong đó các thiên đồng vui vẻ nhàn du. Chúng Bồ tát, Thanh văn đông như mây, rộng như biển, hội lại vây quanh đức Thế Tôn nghe thuyết pháp.

Lúc đó, Huệ Cảnh thấy vị Sa môn đi trước, mình nối gót theo sau, lần tới chỗ Phật. Đến nơi, vị Sa môn bỗng biến mất. Huệ Cảnh chắp tay đứng trước kim dung, bỗng nghe Phật hỏi:

- Ngươi có biết vị Sa môn dẫn đường đó chăng?

Đáp:

- Bạch Thế Tôn! Con không được biết.

Đấng Từ Tôn bảo:

- Đó là Phật Thích ca Mâu ni, còn ta là Phật A di đà, hai vị mà người đã tạo tượng. Phật Thích ca như ông cha, ta như bà mẹ, chúng sinh ở thế giới Ta bà như con khờ dại thơ ngây, lầm rớt xuống bùn lầy. Cha vào nơi bùn sâu bồng con lên, để trên bờ cao ráo sạch sẽ, mẹ lại ôm con nuôi nấng, dạy bảo đừng nên trở lại chốn bùn nhơ. Chúng ta cũng như thế. Phật Thích ca dạy dỗ chúng sinh mê tối trược ác ở cõi Ta bà, làm vị mở đường dẫn lối về nơi Tịnh độ. Còn ta ở cõi Tịnh độ còn bổn phận nhiếp hóa, khiến cho các chúng sinh ấy không còn luân hồi thối chuyển.

Huệ Cảnh nghe nói vui mừng khấp khởi, muốn đến gần tham bái đức Thế Tôn, nhưng cảnh tượng bỗng biến mất.

Tỉnh giấc, Sư cảm thấy thân tâm an vui, như vào thiền định. Từ đó, Sư càng tin tưởng sự cúng lễ tượng hai đức Như Lai.

Một hôm, Huệ Cảnh lại mộng thấy vị Sa môn khi trước bảo:

- Hai mươi năm sau, ngươi sẽ sinh về Tịnh độ.

Nghe lời ấy, ngày đêm Sư lại thêm tinh tấn tu hành, không khi nào biếng trễ. Đến năm tám mươi chín tuổi, một hôm nọ, Huệ Cảnh từ giã đại chúng, rồi an nhiên vãng sinh. Đang lúc ấy, có vị tăng ở phòng bên, nằm mộng thấy trăm ngàn Thánh chúng từ phương Tây đến rước Sư đi. Trên hư không, tiếng âm nhạc dìu dặt rồi xa nhỏ lần, nhiều người khác cũng được nghe biết.

(Trích lục: Tân Lục)

.

SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A DI ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH

.

Đời Tùy, Thích Huệ Hải, tục tánh họ Trương, gốc người ở Võ Thành, xứ Thanh Hà. Sau khi xuất gia, sư thường ngụ nơi chùa An Lạc tại Giang Đô. Tuy thông hiểu các kinh luận, sư không thích bàn diệu nói huyền, chỉ thành thật tu hành, lấy Tịnh độ làm nơi quy hướng. Hàng ngày, sư chuyên tịnh niệm Phật, được nhiều điều linh cảm.

Một hôm, có Tỷ kheo Thích Đạo Linh ở Tể Châu, đem một bức tượng cổ đến bảo:

- Đây là họa tượng đức A di đà Thế Tôn, Phật ở chính giữa, xung quanh là năm mươi vị Bồ tát, tất cả đều ngồi trên hoa sen. Tượng này khởi nguyên do một vị Bồ tát ở chùa Kê đầu ma bên xứ Thiên Trúc, dùng thần thông đến cõi Cực Lạc, mô tả lại kim dung để làm duyên tín hướng cho chúng sinh ở Ta bà. Bức tượng này là một trong các bức được truyền họa lại, nay tôi xin đem kính tặng.

Huệ Hải đã từ lâu tu Tịnh độ, lại được bức tượng ấy thật là thâm hợp với sở nguyện, tự nghĩ đây là một duyên lành. Vì thế, đối với bức tượng, Sư hết lòng thành kính cúng dường tôn phụng. Thường thường mỗi khi lễ sớm, nơi bức tượng bỗng chớp ra những tia thần quang sáng lạ. Thấy vậy, Sư càng tin tưởng, đem hết tâm tư họa lại một bức khác, nguyện nhờ công đức ấy sớm được thoát khổ, sinh về Tây Phương.

Năm sáu mươi chín tuổi, một đêm sau khi lễ sám, Sư đối trước tượng, ngồi kiết già trì niệm Phật thật lâu. Đến sáng thấy vẫn còn ngồi, chư tăng lại xem thì sư đã vãng sinh, gương mặt an hòa vui tươi như người còn sống.

(Trích lục: Đường Cao Tăng Truyện)

.

SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A DI ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ

.

Đời Tùy, Thích Đạo Dũ ở chùa Khai Giác, chuyên tu Tịnh độ. Sư có tượng Phật A di đà bằng gỗ chiên đàn, cao ba tấc mộc. Mỗi khi hành đạo, Sư thường để tượng Phật ấy trên đầu.

Một hôm, Đạo Dũ bỗng tắt hơi, nơi ngực còn ấm, bảy ngày sau chợt sống lại bảo:

- Trước tiên, tôi thấy mình cùng một hiền giả vãng sinh đến một ao báu bên Tây Phương. Hiền giả đi nhiễu quanh hoa sen ba vòng, hoa liền nở ra, vị ấy bước vào ngồi chính giữa. Tôi cũng đi nhiễu quanh hoa sen ba vòng, nhưng hoa không nở. Tôi vuốt mở cánh hoa, hoa theo tay héo rụng. Lúc ấy, Phật A di đà bỗng xuất hiện đến bảo: “Ngươi còn tội chướng, hãy trở lại cõi Ta bà dùng nước thơm tắm gội và sám hối. Chờ lúc sao mai mọc ra ta sẽ đến rước. Nhưng tại sao ngươi tạo tượng ta lại quá nhỏ?”. Tôi đáp:“Tâm lớn Phật lớn, tâm nhỏ Phật nhỏ”. Đáp xong tượng Phật bỗng lớn đầy khắp hư không”.

Nói đoạn, Đạo Dũ nhờ tăng chúng nấu nước thơm. Sau khi tắm gội sạch sẽ, Sư đến trước Phật chí tâm sám hối cả đêm. Khi sao mai mọc, Đạo Dũ bạch chúng xin trợ niệm. Đạo chúng tề tựu đông đủ niệm Phật được một lúc, tất cả đều thấy kim quang sáng rỡ, hóa Phật từ Tây Phương đến tiếp rước.

Nhìn lại thì Đạo Dũ đã chắp tay vãng sinh. Lúc ấy, nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ tám.

(Trích lục: Thoại Ứng Truyện)

.

SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN

.

Trương Ngươn Thọ, người ở Tinh Châu, tuy có tâm lành, nhưng sống về nghề sát sinh. Sau khi cha mẹ qua đời, ông dứt nghiệp sát, phát tâm niệm Phật. Vì muốn cứu độ song thân, ông tạo tượng Phật A di đà cao ba thước, để thờ nơi gian nhà cũ của cha mẹ ở. Hàng ngày, Ngươn Thọ đều trì niệm lễ bái, hương hoa đèn nến thường tiếp tục luôn.

Một đêm, sau thời khóa lễ, ông nằm mộng thấy trong nhà hào quang rực rỡ. Trong ánh sáng có hơn hai mươi người thân tướng cao đẹp ngồi trên đài sen. Hai người trong đó bay tới trước kêu:

- Trương Ngươn Thọ!

Ông hỏi là ai, thì đáp:

- Chúng ta là cha mẹ của con lúc sinh tiền. Chúng ta tuy biết niệm Phật, nhưng vì ưa rượu thịt, giết hại loài chim cá quá nhiều, nên khi chết đọa vào địa ngục Khiêu Hoán. Tuy đọa địa ngục nhưng nhờ sức niệm Phật, nước đồng sôi hóa thành mát mẻ. Hôm trước, có vị Sa môn thân vàng cao ba thước, đến thuyết pháp. Chúng ta cùng hơn hai mươi người đồng nghiệp nơi địa ngục đều được thoát khổ sinh về Tây Phương. Do nhân duyên đó, chúng ta đến đây mách bảo cho con biết. Những vị ngồi đài sen đây là các vị đồng nghiệp được vãng sinh.

Nói xong, tất cả đồng bay về Phương Tây.

Tỉnh mộng, sáng ra Ngươn Thọ đến chùa đem việc ấy thưa hỏi. Một vị tăng bảo:

- Đó là do tâm hiếu kính tạo tượng của ông hiện thành sức cảm ứng, nên tượng Phật đến cứu thoát được các đồng nghiệp địa ngục, trong đó có lệnh từ nghiêm (nghiêm phụ, từ mẫu).

(Trích lục: Tinh Châu Ký)

.

SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ

.

Thích Đạo Như, người ở Tấn Dương tại Tinh Châu. Sư chuyên tu Tịnh độ, là hàng đệ tử huyền tôn của Đạo Xước thiền sư. Đạo Như tâm tánh nhân từ, thương chúng sinh ở tam đồ hằng chịu khổ, phát nguyện tạo kim thân Phật A di đà cao một trượng sáu. Vì thanh tu, phương tiện thiếu kém, nên ba năm sau tượng mới hoàn thành. Sư hằng tinh cần cúng dường tượng, nguyện nhờ Phật lực, chúng hữu tình ở tam đồ được sớm siêu sinh.

Đêm nọ, đang ngồi tịnh niệm trước Phật tượng, Đạo Như chợt mơ màng đường vào mộng, thấy một vị minh quan đem điệp vàng đến bảo:

- Đây là điệp thư vua Diêm la tùy hỷ sự phát nguyện của pháp sư.

Đạo Như tiếp lấy mở ra xem, thấy trong đó đại khái nói: “Pháp sư vì thương xót muốn cứu chúng sinh chịu khổ ở tam đồ, nên tạo tượng Phật A di đà, tượng ấy thường vào địa ngục, phóng ánh sáng, thuyết pháp cứu độ chúng sinh, y như Phật sống. Sự lợi ích thật không thể nghĩ bàn! Những chúng sinh nghiệp nhẹ ở địa ngục đều lìa khổ được vui, thoát về nơi An Lạc…

Tỉnh lại, sư càng thêm chuyên tâm niệm Phật, cầu nguyện. Những ngày trai, nơi ngực tượng Phật thường phóng quang minh, nhưng mười người chỉ năm sáu người được trông thấy. Có kẻ nằm mộng thấy Đạo Như hiện thân sắc vàng vào nơi địa ngục, hoặc vào chỗ ngạ quỷ, súc sinh mà thuyết pháp. Những sự cảm ứng như thế rất nhiều.

“Hữu thành hữu cảm” âu là một việc tất nhiên.

(Trích lục: Tinh Châu Ký)

.

SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỦA SA MÔN TĂNG CAO

.

Đời Tống, Thích Tăng Ca ở chùa Trường Sa tại Giang Lăng, thường niệm Phật cầu vãng sinh Tây Phương. Đại sư phát nguyện tạo tượng A di đà cao một trượng sáu, toàn bằng đồng, nhưng vì nguyên liệu không đủ nên đã mấy năm tượng chưa làm được. Ý chí cứng cỏi, đại sư nghe ngôi miếu núi Đông Khê tại Tương Châu có nhiều đồ đồng, muốn đến đó khuyến hóa quỷ thần để lấy vật liệu về làm tượng.

Lòng đã quyết định, Tăng Cao đến Toại Châu trình bày sự việc với quan thứ sử Trương Thiệu, xin giúp cho hai chiếc thuyền to và một trăm tráng sĩ. Thứ sử nói:

- Tôi nghe miếu ấy rất linh, những kẻ đến đó đều vong mạng, lại có người Mán canh giữ, sợ e khó thành công.

Song, Trương Thiệu vẫn cấp cho người và thuyền. Đoàn người chưa đến nơi, thần đã hay trước một đêm, làm gió mưa mù mịt, giục cầm thú kêu gào. Nhưng lúc đại sư đi trước tới nơi khấn nguyện, thì sương mù tan, mặt trời tỏa rạng, tiếng thú cầm cũng im bặt. Đoàn tráng sĩ tiếp tục nối gót theo sau. Còn cách hơn hai mươi bộ đến trước miếu, đã thấy có hai cái vạc đồng cực to, mỗi cái chứa ước được vài trăm hộc. Bỗng có một con rắn lớn, dài hơn mười trượng, từ trong vạc vượt ra, ngang mình đón đường. Một trăm tráng sĩ đều kinh sợ lui chạy ra xa. Sa môn Tăng Cao sửa cà sa, rung tích trượng, nghiêm chỉnh ngó ngay rắn thần và bảo:

- Đàn việt vì tội nghiệp đời trước mới thọ thân rắn, nếu không nương về Tam Bảo thì làm sao tự do được? Nay ta muốn tạo tượng Phật A di đà cao một trượng sáu, nghe ở đây có nhiều đồ đồng, mong đàn việt gây phước duyên bố thí, giúp cho công đức ấy được viên mãn.

Rắn cất cao đầu lên, nhìn kỹ Đại sư một lúc rồi lặng lẽ bỏ đi. Tăng Cao liền gọi các người tùy tùng mau đến lấy đồ vật. Cả đoàn bước vào miếu thấy bốn cái ống nhổ đồng thật lớn gần bên giường, có mấy con trùng dài hơn một thước bò ra bò vào, Đại sư bảo đừng lấy. Ngoài ra, những vật qua to nặng thì để lại, còn tất cả đồ đồng nhỏ đều đem xuống núi chở đầy thuyền trở về. Những người Mán giữ miếu tuy đông, song cũng không thấy chống cự.

Sa môn Tăng Cao đem đồng về chùa khởi công đúc tượng. Niên hiệu Ngươn Thọ thứ chín, tượng Phật hoàn thành, thân tướng đoan nghiêm, ánh sáng lấp lánh. Sự việc cảm phục quỷ thần lấy đồng đúc tượng, được truyền đi khắp nơi.

(Trích lục: Lương Cao Tăng Truyện)

.

SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA CHIM ANH VÕ DẪN NGƯỜI NIỆM PHẬT

.

Nước An Đức ở miền biên địa, dân tánh quê thật, ít biết Phật pháp. Một độ, có con chim anh võ rất lớn bay đến, sắc lông vàng ánh, điểm xen màu xanh, trắng. Chim đó biết nói tiếng người, gặp ai cũng thưa gọi chào hỏi, nên từ vua đến dân đều yêu mến. Có kẻ thấy chim tuy lớn, nhưng khí lực dường như kém yếu, liền hỏi:

- Người dùng thức chi?

Anh Võ đáp:

- Tôi không dùng món chi được, chỉ nghe niệm danh hiệu Phật thì thân thể no đủ khỏe mạnh. Nếu muốn cho tôi ăn xin vì tôi niệm câu “Nam mô A di đà Phật”.

Do đó, mọi người khi thấy chim, đều đua nhau niệm Phật, chim cũng bay khắp đó đây chào hỏi và niệm Phật đáp lại.

Trải thời gian khá lâu, anh võ bay đến chỗ đông người, bảo:

- Các vị muốn thấy cảnh tốt đẹp an vui chăng?

Có kẻ đáp:

- Muốn thấy.

Chim nói:

- Nếu thế thì lên ngồi trên lưng, tôi sẽ đưa đi xem:

Vài ba người nghe nói lên lưng anh võ ngồi, chim bay lên nhưng sức còn yếu, liền bảo:

- Các vị nên niệm Phật liên tiếp cho tôi có đủ sức khỏe để đưa đi.

Mấy người ngồi trên lưng chim y lời, và anh võ bay xa về hướng Tây, đi luôn không trở lại.

Vua và quan xứ An Tức hay biết việc ấy, đều lấy làm lạ, than thở, cùng nhau bàn luận: “Đây tất là Phật A di đà dùng phương tiện hóa thân chim để dẫn độ dân chúng nước ta. Sự trở đi đó há chẳng phải là việc hiện thân được vãng sinh ư?”

Vua liền cho lập ngôi chùa lớn tại chỗ chim bay đi, hiệu là Anh Võ Tinh Xá. Chùa ấy thờ cốt tượng Phật A di đà rất to, hiện nay vẫn còn. Những ngày trai giới, đều có nhiều người đến niệm Phật.

Do nhân duyên ấy, người nước An Tức thông hiểu Phật pháp thì ít, nhưng niệm Phật được sinh Tịnh độ lại chiếm số nhiều.

(Trích lục: Ngoại Quốc Ký)

.

SỰ CẢM ỨNG PHẬT HÓA LÀM THÂN CÁ DẪN ĐỘ NGƯỜI NIỆM PHẬT

.

Ở cực xa về hướng Tây Nam nước Chấp Sư Tử có một hòn đảo. Trên đảo có hơn năm trăm nhà, dân chúng ở đó không biết Phật pháp, chuyên bắt cá để làm thức ăn.

Một lúc nọ, không biết ở đâu trôi dạt về quanh đảo vô số cá lớn. Giống cá này biết nói tiếng người, thường xướng to lên: “Nam mô A di đà Phật”. Người trên đảo không rõ nguyên do, cứ gọi là cá A di đà Phật. Có một cư dân ở đó đến bờ biển nhại theo tiếng cá gọi liên tiếp “Nam mô A di đà Phật”, thì cá càng dạn dĩ lội đến gần và quanh quẩn không chịu đi. Người này liền bắt cá giết làm thức ăn, thì thấy thịt rất ngon. Việc ấy lan truyền ra, dân chúng trên đảo muốn ăn thịt cá, đều tới bờ biển niệm Phật dụ nó đến gần để bắt. Có điều lạ làm họ để ý là khi nào niệm Phật thì thịt cá tuyệt ngon, niệm ít thì vị cá nhàn nhạt không ra gì. Do nguyên cớ đó, khi dẫn dụ cá, dù nó đã đến gần họ không vội bắt, đợi niệm Phật một lúc cho thật lâu, sau cùng mới chịu bắt. Những kẻ ưa đắm vị ngon của cá, lại càng niệm Phật lâu hơn. Trải một thời gian, người ăn thịt cá đầu tiên già chết. Sau khi mãn phần ba tháng, người này cỡi mây tìm bay đến bờ đảo, phóng ánh sáng quy tụ dân chúng ở đó lại, bảo rằng:

- Tôi là người ăn thịt cá đầu tiên và niệm Phật cũng nhiều nhất. Sau khi mạng chung, tôi đã sinh về thế giới Cực Lạc rất tốt đẹp an vui. Thứ cá lớn đó là Phật A di đà hóa thân hiện. Đức Phật ấy thương xót chúng ta ngu si, nên hóa thân làm cá, để dẫn dắt chúng ta tu pháp Niệm Phật Tam muội. Nếu các vị không tin, hãy thử trở về xem, xương cá đều là hoa sen.

Những người trên đảo nghe nói rất mừng, đến chỗ có xương cá, thì thấy đều đã biến thành hoa sen. Họ bỗng cảm ngộ, dứt nghiệp sát và đều niệm Phật.

Về sau, tất cả cư dân ở đó đều được vãng sinh Tịnh độ, trên đảo hoang vắng không người. Một vị A la hán nước Chấp Sư Tử là tôn giả Sư Tử Hiền, dùng thần thông hay đến đảo ấy, khi trở về đã thuật lại các di tích và sự việc.

(Trích lục: Ngoại Quốc Ký)

.

SỰ CẢM ỨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỔ ĐỊA NGỤC

.

Ở nước A du sa xứ Thiên Trúc, có một Bà la môn ngu si không tin Tam Bảo, thường tạo nghiệp ác. Vợ ông này có lòng tin trong sạch, thông hiểu pháp, tu Niệm Phật Tam muội. Cô thường khuyên chồng niệm Phật A di đà, nhưng không được nghe theo.

Vợ Bà la môn là người đẹp, nên ông thương yêu đắm nhiễm, dường như không biết chán. Cô vợ hiện nhận rõ điều đó, mới phương tiện bảo chồng rằng:

- Vợ chồng như chim liền cành, sao anh không đồng tu tập như tôi? Nếu anh không tùy thuận theo tôi, tất giữa vợ chồng không có sự đồng nhất, từ đây về sau trong mọi sự việc tôi cũng không tùy thuận theo anh.

Chồng nói:

- Tôi kém dở nên không thể tu theo cô được, biết làm sao?

Vợ bảo:

- Anh hãy dành ra một thời, khi tôi đánh trống xướng niệm danh hiệu Phật, thì phải niệm theo. Như thế tôi mới cho vào phòng.

Bà la môn vì thường muốn gần gũi vợ, phải miễn cưỡng y theo.

Ba năm sau, Bà la môn đau xoàng rồi tắt hơi, Nhưng nơi ngực còn nóng. Người vợ nghi ngờ, đắp liệm để đó chưa vội chôn. Qua năm ngày ông bỗng sống lại, thương khóc bảo vợ rằng:

- Khi chết, tôi bị đọa vào địa ngục Phất Thắng, thấy quỷ La sát cầm gậy sắt đánh đập tội nhân. Vừa đầu gậy đánh trật va vào thành vạc sôi, phát ra một tiếng “choang” thật lớn. Tôi chợt nhớ đến tiếng trống đồng của cô, bất giác cao tiếng niệm to “Nam mô A di đà Phật”. Liền đó, lửa đỏ dầu sôi nơi địa ngục đều hóa thành ao nước mạnh mẽ, trong đấy mọc đầy hoa sen. Các tội nhân đều được giải thoát. Quỷ La sát đem sự việc thưa lại Minh Vương. Vua tha cho tôi về, bảo đem điều linh cảm này thuật lại cho người dương thế biết. Minh Vương lại nói thêm bài kệ rằng:

Nếu người tạo nhiều tội

Đọa vào ngục lửa vạc

Vừa niệm hiệu Di đà

Lửa dữ thành nước mát!

Sau khi lành mạnh, Bà la môn đem việc ấy truyền thuật lại. Mọi người nghe nói, vừa kinh sợ, vừa hoan hỷ.

(Trích lục: Ngoại Quốc Hiền Thành Ký)

.

SỰ CẢM ỨNG VỀ TU TẬP KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ

.

Đời nhà Tề, Đàm Loan là bậc tuấn sĩ, cảm thấy thế cuộc vô thường, đến tham phỏng Đào Ân Cư học về tiên thuật. Đào trao cho mười quyển Tiên Kinh, bảo đó là pháp trường sinh bất tử.

Trên đường về, Đàm Loan gặp một vị Phạm tăng là Bồ đề lưu chi. Trong khi trò chuyện, Đàm hỏi Phạm tăng:

- Trong đạo Phật, có pháp nào hay hơn kinh này chăng?

Bồ đề lưu chi mỉm cười, nói:

- Ở phương này làm gì có pháp trường sinh bất tử! Dù tu tiên được sống lâu, nhưng mãn kiếp cũng phải luân hồi trong ba cõi, nên không phải bất tử mà chỉ có trường sinh đó thôi!

Nói xong, Phạm tăng trao cho quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ bảo:

- Đây mới chính là pháp trường sinh bất tử của đấng Đại giác kim tiên. Nếu y theo tu hành, sẽ sinh về Cực Lạc, được vĩnh viễn giải thoát không còn luân hồi nữa.

Đàm Loan hoan hỷ, đốt bỏ mười quyển Kinh Tiên rồi xuất gia, tu hành theo Quán Kinh.

Trải mấy mươi năm tu tập, lúc sắp viên tịch, Đàm Loan thấy Long Thọ Bồ tát đến nói kệ khai thị. Ngài liền bưng lò hương xoay mặt về Tây niệm Phật mà vãng sinh. Lúc ấy, đại chúng nghe giữa hư không có tiếng âm nhạc mầu nhiệm nổi lên, rồi lần lần xa ẩn về phương Tây.

Đời Lương, Đạo Trân pháp sư niệm Phật, y theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, tu phép Thủy Quán. Đêm nọ, Sư nằm mộng thấy trên mặt nước mênh mang trong vắt, một con thuyền chở trăm người hướng về Tây Phương. Đạo Trân xin đi theo, người trên thuyền không cho và bảo:

- Sư chưa tụng kinh A di đà và làm nhà tắm cho chư tăng, tịnh nghiệp chưa thành nên không đi được.

Tỉnh giấc, pháp sư ghi nhớ, từ đó về sau thực hành y theo lời khuyên bảo.

Đến sau, Đạo Trân lại nằm mộng, thấy một vị nương tòa lâu đài bằng bạc bay đến vẫy tay nói:

- Tịnh nghiệp của Pháp sư đã viên thành, quyết định sẽ sinh về Tây Phương. Tôi đến đây báo trước, hãy khéo dụng tâm!

Khi lâm chung, đỉnh đầu Đạo Trân pháp sư nóng như lửa, mùi hương lạ bay khắp chùa. Hàng đệ tử soạn trong hòm kinh, tìm thấy di bút mới biết rõ sự việc.

(Trích lục: Thoại Ứng Ký)

.

SỰ CẢM ỨNG CỦA TỶ KHEO THÍCH TĂNG CẢM

.

Tỷ kheo Tăng Cảm ở Tinh Châu, hằng tụng kinh Di đà và Quán Vô Lượng Thọ, cầu sinh Tịnh độ. Đêm nọ, Sư nằm mộng thấy thân mình sinh ra hai cánh, cánh bên trái đầy văn kinh Quán Vô Lượng Thọ, cánh bên phải hiện văn kinh A di đà. Tâm niệm khởi động chớp cánh muốn bay lên, nhưng thân còn nặng chưa bay được.

Tỉnh giấc, Sư càng tin tưởng, chuyên tụng hai thứ kinh ấy. Ba năm sau, lại nằm mộng thấy cánh đã dài, bay lên được nhưng chưa đi xa. Trì tụng thêm hai năm nữa, trong giấc mộng, Sư cảm thấy thân nhẹ nhàng bay đi tự tại, liền cất mình lên hư không bay về Tây Phương. Đến một cảnh giới tốt đẹp trang nghiêm. Tăng Cảm gặp Phật và hai vị Bồ tát bảo:

- Sức tụng kinh của người chỉ đến được biên địa cõi Tịnh độ. Vậy ngươi hãy trở về Ta bà, tụng mỗi ngày bốn mươi tám quyển, ba năm sau sẽ sinh lên thượng phẩm ở Cực Lạc.

Tỉnh mộng, Sư y theo lời dạy tu hành, ba năm sau quả nhiên được vãng sinh.

Khi sư viên tịch rồi, chỗ nằm bỗng mọc lên chín đóa hoa sen, bảy ngày vẫn còn tươi đẹp.

(Trích lục: Tân Lục)

.

SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT

.

Cha của ông Lý Triệu Đải, người huyện Du ở Ung Châu, nhân hủy báng Phật pháp, mộng thấy thần quở trách, mang bệnh thổ huyết rồi chết. Triệu Đài kính thành quy y Đại Thế Chí, niệm danh hiệu Phật, Bồ tát cầu nguyện cho cha. Ông lại thuê thợ giỏi tạo kim thân đức Đại Thế Chí cao ba thước để cúng dường. Ngày khởi công, đất khắp nơi bỗng rung chuyển, nhiều người cho là cơn địa chấn, luận bàn tốt xấu phân vân. Hai tháng sau tượng thành, Triệu Đải mộng thấy một vị kim thân, đầu đội bảo quan, đến nói:

- Ta là Đại Thế Chí Bồ tát. Ngươi có biết nguyên do cơn động đất hôm trước chăng? Đó là do ngươi phát nguyện tạo tượng, ta đến đây để chứng minh, khi đặt chân xuống thế giới này, cõi đại thiên rung động, chúng sinh trong đó đều được thoát khổ. Ta y theo môn niệm Phật chứng vào Vô sinh nhẫn, nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật ở mười phương. Ngươi tạo tượng ta lại niệm Phật, nên ta đã cứu cha ngươi thoát khỏi địa ngục, đưa về Tịnh độ.

Lý Triệu Đải nghe nói, chắp tay chiêm ngưỡng Bồ tát, vừa muốn cúi xuống đảnh lễ, bỗng giật mình thức giấc. Ông vừa vui mừng vừa cảm động, từ đó chuyên niệm Phật không biếng trễ.

(Trích lục: Tư Mạng Chi)

 

.

 

Trích: Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục

Việt dịch: HT. Thích Thiền Tâm

 

 

Niệm Phật Vãng Sanh

 

Đã kể câu chuyện Hòa Thượng Hải Đức biết trước giờ chết, ra đi một cách ung dung, tự tại. Đó là một vị cao tăng cận đại, ai cũng kính trọng.

 

Trong một chùa miền quê của tỉnh Bình Định, có một ngôi chùa nhỏ giữa làng. Trụ trì ngôi chùa này là một vị Thượng tọa, xuất gia từ nhỏ, nhưng không được học hành Phật pháp sâu rộng. Thầy xuất gia với lòng ngưỡng mộ Tam Bảo và được Hòa Thượng bổn sư của thầy dạy nghi lễ, coi ngày giờ, cúng đám cho Phật tử. Ngày đêm thầy thường tụng kinh, niệm Phật. Thầy thường dạy cho đệ tử cũng như Phật tử, “Tu hành là trì trai, giữ giới, tụng kinh, niệm Phật, để sau khi quá vãng được về Tây Phương Tịnh Độ, hết khổ được vui, chứng đạo bồ đề.”

 

Công quả trong chùa, thầy có một ông già tên ông Hai. Ông Hai cũng đi tu từ nhỏ nhưng căn tánh ám độn, học không vô, chỉ đánh chuông, quét chùa, và làm công quả. Ông tu với Hòa Thượng bổn sư của thầy. Vì thấy chùa đơn chiếc nên Hòa Thượng cho ông Hai về công quả giúp cho Thầy. Ngoài thì giờ công quả tưới bông, tưới cây, đánh chuông, quét chùa, ông Hai chuyên niệm Phật. Ai nói gì ông cũng bỏ qua, khen ông không mừng, chê ông và không giận. Ông chỉ lo làm tròn bổn phận và niệm Phật mà thôi.

 

Năm ấy, ông Hai trên 70 tuổi, sức khỏe còn tốt, không có bịnh hoạn chi.

 

Một hôm, ông thưa với thầy trụ trì, “Thưa thầy, hôm nay thầy có đi đâu không?”

 

Thầy trụ trì nói, “Hôm nay tôi về chùa tổ cúng tổ.”

 

Ông Hai nói, “Cúng tổ, năm nào cũng cúng. Bữa nay, thầy ở nhà, con về Tây Phương nhờ thầy hộ niệm.”

 

Thầy trụ trì nói, “Con nói thật đó.”

 

Thầy trụ trì nói, “Thôi, ở nhà thì ở. Sang năm về cúng tổ cũng được.”

 

Gần trưa, ông Hai nấu nước tắm, thay quần áo. Đến trưa, ông mặc áo tràng lên thỉnh thầy trụ trì hộ niệm. Ông Hai lên chùa, mở cửa, lên hương đèn, bắc ghế cho thầy trụ trì ngồi một bên hộ niệm. Ông đứng gần giữa chùa, chí thành lễ Phật, xong ngồi xuống, xoay mặt vô bàn Phật niệm Phật. Tiếng ông nhỏ dần và đầu ông gục xuống, im lặng. Thầy trụ trì đưa tay lên mũi ông thì ông đã đi rồi.

 

Thầy trụ trì đánh trống Bát Nhã lên. Phật tử nghe tin ông Hai tịch trước bàn Phật nên kéo về đông nghẹt chùa. Một giờ sau, Phật tử thỉnh xác thân ông Hai xuống nhà tây, lo tang lễ.

 

Khi đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng, Phật tử hùn tiền mướn bảy chiếc xe hơi đưa đi thật long trọng.

Đến ngày 49, Phật tử ra thăm mả, không ngờ mả của ông đã được xây thật tốt đẹp. Hỏi ra mới biết, có người khác xóm xây mả của cha, nhưng thợ đã xây lầm mả của ông Hai. Thế rồi Phật tử thương lượng để hoàn tiền lại.

 

Thế mới biết, người tin Phật niệm Phật chắc chắn sẽ được Phật rước về Tây Phương Tịnh Độ, như truyện ông Hai nói trên.

 

Tôi có mấy câu thơ:

Đi đứng niệm Phật thường,

Sáu chữ nhiếp tâm vương.

Ba nghiệp thường thanh tịnh,

Theo Phật về Tây Phương.

 

 

 

Bây giờ xin kể về trường hợp thấy Phật A Di Đà hai lần và ngày vãng sanh Cực Lạc của Hòa Thượng Thích Đức Niệm.

 

      Vào ngày rằm Tháng Giêng năm Quý Mùi, tức ngày 15/2/2003, Hòa Thượng thấy Phật A Di Đà đến viếng. Sau đó, Hòa Thượng kể cho Thầy Minh Chí nghe.

 

        Được tin này, chúng tôi nghĩ Hòa Thượng sắp sửa vãng sanh Cực Lạc. Mọi người tiên đoán, Hòa Thượng sẽ vãng sanh vào ngày Đức Bổn Sư Thích Ca nhập Niết Bàn. Nhưng ngày đó chẳng có gì xảy ra. 

 

       Vào ngày Chủ Nhựt 16/3/2003, vào 6 giờ chiều lúc chư Phật tử đang trợ niệm, Phật tử Phước Lạc bỗng ngửi thấy mùi hương trầm, cô tự hỏi: “Lạ quá! Thầy đang không được khỏe, vậy ai lại đốt nhang?”. Phước Lạc lặng lẽ lui ra ngoài, tìm xem nhang đốt ở chỗ nào để tắt. Nhưng tìm khắp nơi không thấy! Có người khác và Sư cô Diệu Tánh cũng ngửi được mùi thơm. 

 

      Ngày 17/3, chúng tôi được tin Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa (lúc ấy còn là Thượng Tọa) từ Texas về thăm. Thầy Tín Nghĩa kể lại, Hòa Thượng Đức Niệm nói rất lâu và Hòa Thượng tỏ vẻ rất quan tâm.

 

       Sau đó, chúng tôi có hỏi Thầy Tín Nghĩa nói gì với Hòa Thượng Đức Niệm. Thầy Tín Nghĩa nói: “Thầy nói với Hòa Thượng còn mấy ngày nữa là vía Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin ráng chờ ngày đó”.

 

       Ngày 18/3/2003, chúng tôi đến thăm Hòa Thượng. Hòa Thượng Thích Trí Chơn hướng dẫn chúng tôi vào thăm. Nghe có chúng tôi, Hòa Thượng Đức Niệm mở mắt nhìn. Hòa Thượng bị ung thư gan. Các bác sĩ nói, bịnh này làm Hòa Thượng đau đớn vô cùng, chúng tôi nhìn thấy Hòa Thượng ốm nhiều, nhưng không có triệu chứng đau đớn như các bác sĩ nói. Thấy chúng tôi vào, mọi người tản bớt ra ngoài, chỉ còn ở lại 3 người. Chúng tôi chẳng dám hỏi han, cần để Hòa Thượng tịnh dưỡng và niệm Phật.

 

       Chúng tôi chỉ hỏi vắn tắt:

 

     - Thưa Hòa Thượng, Ngài thấy Phật A Di Đà mấy lần?

 

       Hòa Thượng mở mắt nhìn và đáp ra tiếng rõ ràng:

 

     - Hai lần.

 

      Đại Đức Quảng Đạo đang ở dưới chân Hòa Thượng Đức Niệm, vui mừng lặp lại:

 

     - Hai lần !

 

       Sáng ngày 19/3/2003, Phật tử đang trợ niệm bỗng nhìn thấy sắc diện trên gương mặt Hòa Thượng biến đổi từ xám xanh thành ửng hồng và lỗ tai của Hòa Thượng từ từ dài ra. Đây là hiện tượng của người sắp vãng sanh. Thường thì, ngay khi vãng sanh mới có hiện tượng. Nhưng Hòa Thượng Đức Niệm hiện tướng lành trước. Theo chúng tôi có lẽ vào ngày này, có thể Phật A Di Đà đã đến lần thứ 3 nên Hòa Thượng Đức Niệm mới có tướng lành ấy.

 

       Chiều ngày 20/3/2003, Phật tử tựu về đông đủ hơn, bỗng một cháu nghe được tiếng nhạc thật êm dịu, thảnh thoát. Dường như đây là tiếng nhạc trời. 

 

       Đúng 12 giờ khuya, tức là bước vào sáng ngày 21/3/2003, ngày Vía Quán Thế Âm Bồ Tát. Bỗng nhiên trống Bát Nhã đánh lên liên hồi. Tâm mọi Phật tử cảm thấy một niềm rộn ràng kỳ diệu. Hòa Thượng Thích Đức Niệm đang nằm im. Thầy Thích Minh Chí tân trụ trì kiêm Giám đốc Phật Học Viện Quốc tế bước tới trang trọng thưa:

 

       “Đã đến giờ, xin thỉnh Hòa Thượng lên đường”

 

       Hòa Thượng Thích Đức Niệm đang nằm bất động bỗng mở miệng chép môi.

 

       Mọi người đều trố mắt nhìn.

 

      “Thì ra Hòa Thượng đang niệm Phật”. Đây là ý của một người trông thấy kể lại cho chúng tôi nghe.

 

       Nhưng theo các băng giảng của Hòa Thượng Tịnh Không: “Vào giờ phút cuối cùng của người niệm Phật được vãng sanh. Người ấy mở miệng là để nói lời từ biệt: “Phật và Thánh chúng đến tiếp dẫn, ta đi đây!”.

 

       Chúng tôi nghĩ, chính Hòa Thượng Thích Đức Niệm đang nói lời từ giã mọi người.  Thế là, liền sau đó, Hòa Thượng Thích Đức Niệm ra đi. Ngài viên tịch đúng 1 giờ 45 phút rạng ngày 21/3/2003 tức ngày Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

 

       Hòa Thượng Thích Đức Niệm đã tròn sứ mệnh của một vị Bồ Tát thị hiện. Dù đã vãng sanh, Ngài vẫn còn độ vô số chúng sanh.

 

       Mỗi khi khắp nơi tổ chức Phật thất, người ta không thể nào không nhớ đến cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm. Và nhớ đến nhiều Tăng Ni khác đã nuôi sống cao trào Phật thất Việt Nam. Đó là ăn quả nhớ người trồng cây. Quả này là “Quả Vãng Sanh”, người được hưởng quả này sẽ sung sướng vĩnh viễn ở cõi Cực Lạc.

 

 

Gương Sáng Niệm Phật

Những Chuyện Vãn Sinh Tây Phương Có Thật Tại Trung Hoa

 

 

Từ lúc đại sư Huệ Viễn thời Ðông Tấn đề xướng tu Tịnh Ðộ đến nay, sự tích vãng sanh của tăng, ni và nông, công, thương gia, những kẻ tạo tội, người tật khổ trong các đời nào phải chỉ có ức vạn; những chuyện được ghi chép trong các sách vở chỉ là một, hai trường hợp được tạm thấy biết đến trong cả ức vạn trường hợp mà thôi.

Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo. Ở đây, tôi lược trích những sự hành trì của họ để chúng ta học theo, lấy đó làm khuôn phép. Nguyện những ai xem đến di tích của các vị tiên đức, trông thấy đức hạnh của người sẽ mong mình được bằng mà sốt sắng phấn chí tu hành.

 

Thấy tướng lành chẳng nói

Ðại sư Huệ Viễn đời Tấn là Sơ Tổ của Liên Tông, họ Giả, người xứ Nhạn Môn. Ngài tinh thông cả Nho lẫn Lão. Năm 21 tuổi, nghe pháp sư Ðạo An giảng kinh Bát Nhã, hốt nhiên đại ngộ, than rằng:

- Nho, Ðạo cửu lưu đều chỉ là bã hèm.

Liền xuất gia, thề hoằng dương Phật giáo. Ngài Ðạo An khen ngợi:

- Khiến cho đạo pháp được lưu hành ở Trung Nguyên phải nhờ vào ông Viễn!

Sau ngài trụ tại chùa Ðông Lâm trên Lô Sơn, thống lãnh đại chúng hành đạo, đào ao trồng sen. Trên mặt nước thả hoa sen mười hai cánh xoay chuyển theo sóng nước nhằm phân định thời khắc ngày đêm để biết thời hạn tu hành.

Ngài cùng với các ông Lưu Di Dân v.v… hơn một trăm hai mươi ba người cả Tăng lẫn tục sáng lập Liên Xã, sáu thời niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ngài ở trong núi suốt ba mươi năm chẳng hề đặt chân vào cõi trần; chuyên chí Tịnh Ðộ, lắng lòng hệ niệm, thấy thánh tượng cả ba lần, nhưng vẫn giấu kín không nói.

Một đêm, lúc ngài vừa xuất định, bỗng thấy A Di Ðà Phật thân đầy chật cả hư không, Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy nước chảy, quang minh chia làm mười bốn nhánh cùng chảy lên, rót xuống, diễn thuyết diệu pháp.

Phật dạy:

- Do bổn nguyện lực nên ta đến an ủi ông. Sau bảy ngày nữa ông sẽ sanh về cõi ta!

Những vị trong Liên Xá đã vãng sanh trước như các ông Lưu Di Dân, Phật Ðà Da Xá v.v… đều hầu bên Phật. Sư bảo:

- Lúc ta mới ở đây, ba lần thấy thánh tượng; nay lại được thấy, ắt sẽ sanh về Tịnh Ðộ.

Ðến thời hạn, ngài liền đoan tọa nhập tịch, thọ tám mươi ba tuổi.

(theo Ðông Lâm Truyện)

Nhận định:

Nếu như thấy tướng hảo liền muốn nói cho mọi người biết ắt sẽ bị ma gây lầm lạc khiến nguyện hạnh thối thất. Xin hãy bắt chước ngài: ba lần thấy nhưng không nói, chỉ đến lúc lâm chung mới cho biết mà thôi!

Thiên chúng đến đón chẳng đi

* Ðại sư Tăng Tạng đời Ðường, người xứ Tây Hà. Tuổi nhỏ xuất gia, nép mình thờ người, hết thảy cung kính, chẳng từ lao khổ. Thấy tăng y của người khác liền giặt giũ giùm, rồi lại vá chằm. Ngày nắng gắt, sư cởi áo ngồi trong đám cỏ để thí máu thịt cho các loài muỗi, ve.

Hằng ngày, ngài niệm Phật hiệu chẳng cần ghi số, chỉ nhớ rõ trong tâm, chưa hề thiếu sót. Ðến khi báo tận, thấy chư thiên theo thứ tự đến đón, ngài đều chẳng theo. Ngài chợt bảo mọi người:

- Vừa về Tịnh Ðộ, thấy các thượng thiện nhân rải hoa trên không.

Rồi chắp tay niệm Phật mà hóa.

(theo Cao Tăng Truyện, tập 3)

* Ðại sư Thiện Ngang đời Ðường, người Ngụy Quận. Chí kết Tây Phương, nguyện sanh An Dưỡng. Sau ngài ngụ tại chùa Báo Ứng, biết đã đến lúc bèn bảo trước những người hữu duyên: đầu tháng Tám sẽ chia tay. Ðến kỳ, ngài lên tòa cao, lư tỏa mùi hương lạ, dẫn tứ chúng thọ Bồ Tát giới, dạy dỗ những điều thiết yếu. Chợt thấy thiên chúng rộn ràng, đàn sáo véo von. Ngài bảo đại chúng:

- Trời Ðâu Suất Ðà đến đón ta; nhưng Thiên đạo chính là căn bản sanh tử, chẳng phải chỗ ta ước mong. Lòng thường mong sanh về Tịnh Ðộ, nguyện này chẳng được thỏa hay sao?

Nhạc trời bỗng bặt tiếng. Từ trời Tây, hương, hoa, âm nhạc vùn vụt kéo đến, xoay quanh trên đỉnh đầu, toàn thể mọi người đều thấy. Sư bảo:

- Nay tướng lành Tây Phương đến đón. Ta đi đây.

Nói xong liền tịch, thọ sáu mươi chín tuổi.

(theo Cao Tăng Truyện, tập hai)

Nhận định:

Lúc lâm chung, tứ đại chia lìa là lúc nào vậy? Chư Thiên lần lượt đến đón là cảnh nào đây? Nếu chẳng phải là bậc tín nguyện kiên cố thì ngay trong lúc đó, đối trước cảnh ấy làm sao cưỡng làm chủ tể nổi? Ðây đúng thật là gương sáng thiên cổ cho những kẻ tu Tịnh nghiệp vậy. Nếu không, một phen sanh lên trời sẽ lại đọa trong luân hồi. Xin đừng lầm tin ngoại đạo cầu sanh Thiên Quốc.

Niệm Phật chẳng ngơi

Ðại sư Thiện Ðạo đời Ðường là Tổ thứ hai của Liên Tông. Nhân thấy đạo tràng Tịnh Ðộ Cửu Phẩm của thiền sư Ðạo Xước, ngài liền vui mừng bảo:

- Ðây chính là phương cách trọng yếu để thành Phật. Tu các hạnh khác ngoắt ngoéo khó thành; chỉ có pháp môn này là chóng thoát sanh tử.

Từ đó, ngài tinh tấn, siêng năng lễ niệm. Ít lâu sau, đến kinh sư, ngài khích lệ tứ chúng. Mỗi lần nhập thất, thường quỳ thẳng niệm Phật, nếu chưa kiệt sức thì chẳng nghỉ. Dù cho lúc trời lạnh đến mức đóng băng, ngài vẫn [niệm Phật đến khi] toát mồ hôi [mới thôi] để bày tỏ lòng chí thành.

Thường khi ngài niệm Phật một tiếng, có một ánh quang minh từ trong miệng tỏa ra. Từ mười câu cho đến ngàn câu cũng đều như vậy, ai nấy đều thấy. Ngoài việc niệm Phật, sư liền diễn nói pháp môn Tịnh Ðộ, không hở lúc nào chẳng làm việc lợi sanh.

Hơn ba mươi năm, ngài chưa từng ngủ nghỉ, ngoại trừ lúc tắm gội, ngài chưa hề cởi y; hộ trì giới phẩm chẳng phạm mảy may. Tuyệt ý lợi danh, không hề cười đùa. Mỗi lần đi đâu, ngài thường đi một mình, không cho ai đi cùng, sợ phải bàn chuyện đời trở ngại việc tu đạo nghiệp. Ba y, bình bát, ngài đích thân cầm giữ, giặt rửa lấy. Thức ngon dành cho đại chúng, thức thô dở ngài dành cho mình; các thứ sữa, lạc, đề hồ đều chẳng nếm đến.

Tất cả những thứ được cúng thí ngài đều dành để chép kinh Di Ðà được hơn mười vạn quyển, vẽ hơn ba trăm bức Tây Phương Thánh Cảnh, sửa chùa, dựng tháp, thắp đèn nối sáng suốt năm chẳng ngớt. Cả tăng lẫn tục được ngài giáo hóa có người tụng kinh Di Ðà từ mười vạn đến năm mươi vạn biến; nhật khóa niệm danh hiệu Phật từ một vạn đến mười vạn. Trong số ấy, những người đắc tam muội, vãng sanh Tịnh Ðộ chẳng thể ghi chép nổi.

Ngài đột nhiên bảo mọi người:

- Thân này đáng chán, ta sẽ về Tây!

Liền trèo lên cây liễu trước chùa, hướng về Tây, cầu:

- Nguyện Phật tiếp dẫn con, Bồ Tát giúp con khiến con chẳng mất chánh niệm, được sanh An Dưỡng!

Ðứng ngay ngắn mà tịch.

(theo Phật Tổ Thống Ký)

Nhận định:

Ðại Sư là hóa thân của Phật A Di Ðà, chỉ bày khuôn phép niệm Phật rộng độ chúng sanh. Xin hãy bắt chước ngài, tuyệt ý danh lợi, niệm Phật chẳng ngơi.

Thề lấy đài vàng

Ðại sư Hoài Ngọc đời Ðường họ Cao, người xứ Ðan Khâu. Chấp trì giới luật, ngày ăn một bữa. Tụng kinh Di Ðà ba mươi vạn biến, nhật khóa niệm Phật năm mươi vạn câu, thường hành sám hối. Chợt thấy thánh chúng Tây Phương đầy chật hư không, một vị cầm đài bạc đến đón. Sư bảo:

- Tôi một đời niệm Phật, thề đạt được đài vàng, sao lại chẳng được vậy?

Thánh chúng liền biến mất. Ngài lại càng thêm tinh tấn, đến hai mươi mốt ngày sau, người bưng đài lại đến bảo:

- Vì sư tinh tấn nhọc nhằn nên được thăng lên Thượng Phẩm. Hãy nên ngồi xếp bằng chờ Phật đến đón.

Ba ngày sau, ánh sáng lạ tràn ngập cả thất. Sư bảo:

- Nếu ngửi thấy mùi hương lạ thì báo mạng của ta sẽ tận.

Ngài viết kệ:

Một đời khổ hạnh siêu mười kiếp

Mãi lìa Sa Bà về Tịnh Ðộ.

Ngay lập tức, mùi hương ngập thất, thánh chúng đông nghịt. Phật và hai vị Bồ Tát cùng ngự đài vàng đến đón. Ngài mỉm cười mà tịch.

(theo Cao Tăng truyện, quyển 3)

Nhận định:

Theo Quán kinh, chỉ bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh mới ngự đài kim cang. Nếu chẳng bội phần tinh tấn, siêng khó, đốn siêu mười kiếp, làm sao đạt được như vậy? Ðủ chứng minh có chí ắt thành công, có nguyện ắt được thỏa. Xin hãy cùng bắt chước ngài tinh tấn, thề đạt được đài vàng.

Lấy việc lợi lạc chúng sanh làm đầu

Ðại sư Tự Giác đời Ðường, người xứ Bác Lăng. Xuất gia từ nhỏ, học Kinh, Luật, Luận siêng năng suốt cả chín năm, kinh luận nào cũng đều hiểu sâu sắc. Sau ngài trụ tại Trùng Lâm Sơn Viện trong núi Bình, nhặt quả, hái rau, ngày chỉ ăn một bữa, phát tâm đúc tượng đức Ðại Bi Quán Âm và dựng chùa Phật.

Gặp lúc đại hạn, tiết độ sứ xứ Hằng Dương là ông Trương thỉnh ngài cầu mưa. Ngài kiền thành khẩn cáo long thần, mưa to liền đổ xuống. Do đó, thí chủ chen nhau tụ về, đúc được tượng cao bốn mươi sáu thước, chùa cũng dựng xong.

Ngài liền đối trước đàn, thệ nguyện nương nhờ Thánh lực sớm sanh Tịnh Ðộ. Chợt thấy hai đạo kim quang: A Di Ðà Phật và hai vị Ðại Sĩ từ trong quang minh giáng xuống, xòe tay sắc vàng xoa đầu sư, bảo:

- Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu. Sanh chốn ao báu mặc tình thỏa nguyện.

Về sau, chợt thấy thần nhân đứng trong mây hiện nửa thân, bảo:

- Thời kỳ sư quy Tây đã đến rồi!

Ngài liền ngồi xếp bằng trước tượng Quán Âm mà hóa.

(theo Cao Tăng Truyện, quyển 3)

Nhận định:

Phàm những việc như: tạo tượng, lập chùa, cầu mưa lợi người v.v… đều là những trợ duyên cho Tịnh nghiệp. Ðem những việc ấy hồi hướng Tây Phương. Do làm được như vậy nên Phật dạy: “Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu”. Nếu như ngài chẳng có mật hạnh niệm Phật, làm sao cảm được đức Phật đến xoa đầu?

Khổ hạnh chuyên niệm

Ðại sư Thừa Viễn đời Ðường là Tổ thứ ba của Liên Tông. Sư theo học ngài Ngọc Tuyền Chơn Công, được sai về ngụ tại Hành Sơn để giáo hóa.

Ngài sống dưới gộp đá ở phía Tây Nam núi, ai cho ăn thì ăn, chẳng ai cho thì ăn bùn đất. Thân gầy mặt sạm, còm cõi như que củi. Phàm giáo hóa người, ngài mong cho họ mau được chứng nên thường dạy họ chuyên niệm. Ngài viết [lời khuyên chuyên niệm] trên các đường, hẻm, khắc lên hang hốc, tận lực khuyên dạy, số người được ngài hóa độ tính ra đến cả vạn. Ai nấy đều mang đến vải vóc, chặt cây, san đá, xếp thành phòng đá. Chẳng hoạch định, chẳng tính toán mà chùa điện đều có đủ, đặt tên là chùa Di Ðà. Số tiền xây cất còn dư đem thí cho những người đói nghèo, bịnh tật. Khi ấy, đại sư Pháp Chiếu ở Lô Sơn, nhập định đến được cõi An Lạc, thấy có vị mặc áo rách đứng hầu Phật. Phật bảo: “Ðây là ông Thừa Viễn ở Hành Sơn”. Xuất định, sư liền đi tìm, xin theo học, truyền giáo khắp nơi. Sau tổ Thừa Viễn tịch ở chùa, thọ chín mươi mốt tuổi.

(theo Liễu Hà Ðông Văn Tập)

Nhận định:

Ăn đất, mặc áo rách: dùng khổ hạnh để tiêu nghiệp. Của dư đem bố thí: chẳng tích chứa để lụy tâm. Dạy người chuyên niệm, tuy còn sống đã hầu Phật, hạnh của ngài chuyên tinh, vãng sanh Thượng Phẩm không còn ngờ gì nữa!

Phước huệ song tu

Ðại sư Ngũ Hội Pháp Chiếu đời Ðường, là Tổ thứ tư của Liên Tông; trụ tại chùa Vân Phong ở Hành Châu. Siêng tu chẳng lười, được Văn Thù Bồ Tát dùng sức oai thần đưa vào thánh cảnh Ngũ Ðài. Ngài làm lễ, thưa:

- Phật pháp mênh mông, tu pháp môn nào là thiết yếu nhất?

Ngài Văn Thù dạy:

- Nay ông niệm Phật thì chính là đúng thời. Trong các hạnh môn để tu, không có môn nào hơn được Niệm Phật. Cúng dường Tam Bảo, phước huệ song tu. Hai môn ấy là đường tắt trọng yếu nhất. Trong kiếp quá khứ, ta do niệm Phật và cúng dường nên đắc Nhất Thiết Chủng Trí.

Vì vậy, trong hết thảy các pháp Bát Nhã Ba La Mật, Thiền Ðịnh rất sâu, thậm chí chư Phật đều là từ niệm Phật mà thành. Thế nên biết rằng: Niệm Phật là vua của các pháp. Ông nên thường niệm chẳng để gián đoạn.

Sư hỏi:

- Niệm như thế nào?

Ðức Văn Thù dạy:

- Phía Tây thế giới này có đức A Di Ðà Phật. Ðức Phật ấy nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn. Ông nên niệm liên tiếp chẳng để gián đoạn thì khi mạng chung quyết định vãng sanh, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.

Bồ Tát lại duỗi cánh tay sắc vàng xoa đảnh, thọ ký:

- Do ông niệm Phật nên chẳng bao lâu sẽ chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề. Nếu những kẻ thiện nam, thiện nữ mong chóng được thành Phật thì không chi hơn được pháp Niệm Phật, sẽ chóng chứng Bồ Ðề.

Sư hoan hỷ làm lễ, lui ra. Từ đấy, dốc chí niệm Phật, ngày đêm chẳng bỏ luống, thề sanh Tịnh Ðộ. Chợt thấy Phạm tăng Phật Ðà Ba Lợi bảo:

- Hoa sen của ông đã viên mãn. Ba năm nữa, hoa sẽ nở.

Ðến kỳ, ngài bảo đại chúng:

- Ta đi đây!

Ðoan tọa mà tịch.

(theo Cao Tăng Truyện tập ba và Lạc BangVăn Loại)

Nhận định:

Ðại Sư được đức Văn Thù khai thị: “Niệm Phật cúng dường, phước huệ song tu là khẩn yếu nhanh chóng nhất”. Xin hãy tin nhận vâng làm, ngày đêm chẳng để uổng, thề sanh Tịnh Ðộ, mau chứng Bồ Ðề.

Dụ trẻ nhỏ niệm Phật

Ðại sư Ðài Nham Thiếu Khang đời Ðường là Tổ thứ năm của Liên Tông. Ngài họ Châu, người xứ Tấn Vân, xuất gia từ nhỏ, thông kinh luận, giỏi Luật tạng.

Sau ngài đến chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, do thấy bài Tây Phương Hóa Ðạo Văn của đại sư Thiện Ðạo phóng quang nên đến chùa Quang Minh ở Trường An chiêm lễ nơi đài hiện bóng của đại sư Thiện Ðạo; cảm được Ðại Sư hiện thân trên không dạy:

- Ông tuân lời ta dạy, rộng hóa độ hữu tình. Ngày sau công thành, ắt sanh An Dưỡng.

Ngài liền qua Tân Ðịnh, không ai biết đến ngài. Ngài bèn xin tiền để dụ trẻ nhỏ niệm Phật: cứ niệm được một tiếng cho một đồng. Lâu sau, trẻ niệm Phật để được tiền đã đông. Sư bảo:

- Niệm Phật mười tiếng ta mới cho tiền.

Nhiều năm như thế, hễ trai, gái, trẻ, già thấy Sư đều thưa A Di Ðà Phật. Tiếng niệm Phật vang khắp mọi nẻo đường.

Sau ngài đến núi Ô Long, kiến lập Tịnh Ðộ đạo tràng, xây đàn ba bậc. Vào mỗi ngày trai, thiện tín tụ lại xong; ngài liền lên tòa cao, lớn tiếng niệm Phật, đại chúng hòa giọng theo. Thấy Sư niệm Phật một tiếng, một vị Phật từ trong miệng bay ra. Mười tiếng là mười vị Phật như xâu chuỗi.

Sư nói:

- Các vị thấy Phật ắt được vãng sanh.

Chúng đều vui mừng. Người lễ Phật đông đến mấy ngàn, cũng có người chẳng được thấy. Sư chợt dặn dò kẻ Tăng, người tục:

- Nên khởi tâm tăng tấn đối với Tịnh Ðộ, sanh tâm chán lìa Diêm Phù Ðề. Hiện thời các ông thấy quang minh của ta thì đúng là đệ tử của ta.

Nói xong liền phóng ra mấy đạo quang minh lạ thường rồi tịch.

(theo Cao Tăng Truyện, tập 3)

Nhận định:

Xin tiền dụ trẻ niệm Phật là tài thí và pháp thí để rộng hóa độ hữu tình. Phật từ miệng bay ra, phóng quang mà tịch chính là niệm Phật thành công, ắt sanh An Dưỡng vậy!

Vạn hạnh trang nghiêm

Ðại sư Vĩnh Minh Trí Giác Xung Huyền Diên Thọ đời Tống là Tổ thứ sáu của Liên Tông. Ngài là con nhà họ Vương ở Tiền Ðường, trông nom việc thuế. Ngài thường dùng tiền công quỹ để mua loài vật phóng sanh nên mắc tội chết.

Lúc sắp gia hình, Tiền Văn Mục Vương sai người rình xem thấy ngài chẳng đổi sắc, vương ra lệnh tha. Ngài liền xuất gia, tham học với ngài Chiếu Quốc Sư thuộc tông Thiên Thai, phát minh tâm yếu.

Do nguyện xưa chưa quyết, ngài lên Trí Giả Nham, làm hai cái thăm “nhất tâm thiền định” và “vạn hạnh trang nghiêm Tịnh Ðộ”, dốc lòng tinh thành cầu đảo, bảy lần rút đều trúng cái thăm Tịnh Ðộ. Do vậy, ngài một dạ tu Tịnh nghiệp, được đức Quán Âm dùng cam lộ rưới vào miệng, đắc đại biện tài, soạn bộ Tông Kính Lục và Vạn Thiện Ðồng Quy Tập chỉ quy Tịnh Ðộ.

Sau ngài trụ ở chùa Vĩnh Minh, mỗi ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự. Ðêm lên ngọn núi khác, đi kinh hành niệm Phật, người ta nghe tiếng nhạc trời rền vang không trung. Ngài tụng kinh Pháp Hoa được một vạn ba ngàn bộ; đệ tử một ngàn bảy trăm người. Sư thường truyền Bồ Tát giới cho đại chúng, thí thức ăn cho quỷ thần, bỏ tiền chuộc mạng cho sanh vật, [những việc ấy] đều hồi hướng về Tịnh Ðộ cả.

[Một hôm], ngài chợt thắp hương, gọi đại chúng rồi ngồi xếp bằng mà tịch, thọ bảy mươi hai tuổi. Về sau, có vị Tăng bị bịnh, thấy mình xuống âm phủ, thấy Diêm vương thờ một bức họa bên trái điện, siêng năng lễ bái. Hỏi ra mới biết sư đã vãng sanh Thượng Thượng Phẩm. Vua trọng đức của ngài nên lễ kính vậy.

(Theo Lạc Bang Văn Loại)

Nhận định:

Ðại Sư là hóa thân của Phật A Di Ðà, do bảy lần bói đều rút được cái thăm Tịnh Ðộ nên mới nhất ý niệm Phật, thượng phẩm thượng sanh. Vì chí tại Thiền Ðịnh nên về hạnh ngài phải xả Thiền tu Tịnh để làm gương vậy.

Kết xã khích lệ lẫn nhau

Ðại sư Tạo Vi Tỉnh Thường đời Tống là Tổ thứ bảy của Liên Tông. Ngài họ Nhan, người huyện Tiền Ðường. Bảy tuổi xuất gia, mười bảy tuổi thọ Cụ Túc Giới. Ngài lấy việc kiên trì giới luật, chuyên xưng danh hiệu, phát Bồ Ðề tâm, kết xã để khích lệ lẫn nhau làm chánh nhân Tịnh Ðộ.

Ngài trụ tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu, hâm mộ di phong Lô Sơn của Tổ Huệ Viễn nên thành lập Tịnh Hạnh Xã. Trong nhóm sĩ phu dự hội có quan Tướng Quốc Văn Chánh Vương Công Ðán v.v… một trăm hai mươi người đều xưng là Tịnh Hạnh Ðệ Tử, còn Tăng thì có đến một ngàn vị đồng tu Tịnh nghiệp.

Ngài cắt máu chép kinh phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày chép một chữ, ba lạy, nhiễu ba vòng, ba lượt xưng danh hiệu Phật. Chép được ngàn quyển, thí cho ngàn người. Ngài dùng chiên đàn hương khắc tượng Phật Vô Lượng Thọ, quỳ trước tượng, phát nguyện:

- Con cùng đại chúng bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi phát Bồ Ðề tâm. Cho đến cùng tột đời vị lai, hành hạnh Bồ Tát. Nguyện hết một báo thân này sẽ sanh An Dưỡng.

Một hôm, trong lúc ngồi nghiêm trang niệm Phật, ngài chợt kêu to: “Phật đến rồi!”, tự nhiên hóa. Ðại chúng thấy đất đều có màu vàng ròng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi.

(Theo Phật Tổ Thống Ký)

Nhận định:

Kết xã khích lệ lẫn nhau đúng là tự lợi, lợi tha. Nhưng để thực hành được điều này trong hiện tại, phải có bậc hữu đức thống suất đại chúng cộng tu, rất kỵ nam nữ hỗn tạp. Nếu không có được cơ duyên như vậy thì chẳng bằng đóng cửa tiềm tu, so ra còn dễ tinh tấn hơn!

Thề tu hành đến chết

Ðại sư Từ Vân Tri Bạch Tuân Thức đời Tống, người xứ Ninh Hải, họ Diệp. Lúc đầu học Luật, sau nghiên cứu giáo nghĩa tông Thiên Thai, luôn siêng khổ, tự khích lệ. Sau ngài qua chùa Bảo Vân tu pháp Ban Châu Tam Muội, nhọc nhằn đến nỗi thổ huyết, hai chân toạc cả da, thề tu hành đến chết.

Ngài mộng thấy đức Quán Âm chỉ vào miệng, khều ra mấy con trùng, dùng cam lộ rưới vào; tỉnh dậy, thân tâm thanh lương, các bệnh tật mất hết, trí huệ, biện tài vô ngại. Ngài viết bài ký thề sanh Tây Phương; rồi liền kết hội Tăng lẫn tục chuyên tu Tịnh nghiệp.

Ít lâu sau, ngài trở về Ðông Dịch, lập tinh xá, suất lãnh đại chúng chuyên tu Niệm Phật tam muội. Tuổi già, ngài trụ trì các chùa Chiêu Khánh, Linh Sơn v.v…. ở Hàng Châu, xin quan cai trị địa phương là Vương Hân Nhược phê chuẩn cho dùng Tây Hồ làm ao phóng sanh.

Ngài soạn các sám pháp viên dung Tam Quán, lấy Tịnh Ðộ làm chỗ quy thú. Ngài soạn sách Tịnh Ðộ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn và đề ra pháp Thập Niệm vào lúc sáng sớm, soạn Vãng Sanh Lược Truyện v.v… lưu hành trong đời.

Ðột nhiên ngài làm thơ từ tạ thế gian và tỏ lời từ biệt đại chúng, cho biết ngài sắp quy tịch. Ngài liền thị hiện có chút bệnh, từ chối không dùng thuốc, lược nói pháp yếu cho đại chúng, thắp hương lễ Phật, thỉnh Phật chứng minh, vãng sanh An Dưỡng; lại còn bày tỏ chỗ mình muốn về là Tịch Quang Tịnh Ðộ. Ðến chiều, ngài tọa hóa, thọ sáu mươi chín tuổi.

(Theo Phật Tổ Thống Ký)

Nhận định:

Muốn cầu được phú quý trong đời hiện tại còn phải ra sức đến chết, huống hồ là muốn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ư? Nếu chẳng lấy cái chết làm lời thề thì làm sao tọa hóa, vãng sanh cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ cho được?

Thỉnh Tăng trợ niệm

Ðại sư Tư Chiếu đời Tống, họ Dương, người huyện Tiền Ðường. Thuở nhỏ theo học với ngài Thần Ngộ lãnh hội được yếu chỉ rất nhiều. Ngài cắt máu chép kinh Pháp Hoa đến mười bộ; cứ mỗi một chữ là một lạy.

Ngài tụng Quán kinh được 5 tạng, kinh Di Ðà mười tạng, kinh Pháp Hoa một ngàn bộ. Lễ các kinh Hoa Nghiêm, Phạm Võng, bảy kinh Tịnh Ðộ v.v… được hai trăm bảy mươi quyển. Ngài chuyên tu Niệm Phật tam muội, dựng một am nhỏ đặt tên là Ðức Vân, khắc tượng Tam Thánh. Mỗi đêm, vừa mới canh tư đã dậy niệm Phật. Tỳ kheo lười nhác nghe tiếng ngài niệm mà run rẩy. Mỗi tháng, vào ngày 23, Sư suất lãnh Tăng, tục hệ niệm Tam Thánh. Suốt cả ba mươi năm, đại chúng nhóm về thường đến cả ngàn người.

Ngài chợt bảo đồ chúng:

- Ta mộng thấy thân Phật vàng trượng sáu, đấy là điềm vãng sanh.

Liền yêu cầu bảy vị tăng trợ niệm. Ðến tối ngày thứ bảy, ngài chợt nhỏm dậy, chắp tay, lớn tiếng niệm Phật, ngồi xếp bằng, kết ấn mà hóa. Lúc trà tỳ, răng ngài rực sáng như ngọc.

(theo Phật Tổ Thống Ký)

Nhận định:

Ðại Sư chuyên tu Niệm Phật Tam Muội ba mươi năm, trước khi lâm chung mộng thấy Phật mà còn thỉnh Tăng trợ niệm. Bọn phàm phu chúng ta rất phải nên chú ý điểm này.

Ði kinh hành thành vết trũng

Ðại sư Nghĩa Tú đời Minh, người xứ Ôn Lý. Trụ tại am Tán Thán ở đất Bồ, nhật khóa niệm A Di Ðà Phật hơn mười vạn tiếng, sáng chiều không gián đoạn suốt hơn năm mươi năm. Chỗ ngài đi kinh hành gạch mòn thành vết trũng, hoặc thủng xuống tận đáy. Người khác thử sửa sang, ít lâu sau lại mòn như cũ.

Thoạt đầu có kẻ nghèo chẳng tự kiếm ăn nổi, đến sống nhờ [nhà chùa]; lâu ngày, gã làm điều bất thiện. Sư quở: “Ngươi đúng là giặc!” Hắn bèn ước hẹn đồng bọn, nhân đêm tối đến đánh sư. Ðánh lần thứ nhất, tiếng niệm Phật vẫn còn vang rền. Ðánh lần nữa, tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt. Ðến khi khí tuyệt, sư bèn tịch.

(Theo Tử Bách Lão Nhân Tập)

Nhận định:

Ðại sư Tử Bách ca ngợi: “Ðến lúc sắp chết, tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt. Ngay cả khi bắp đùi đã gãy, ngài vẫn còn có thể ngồi xếp bằng để qua đời. Nếu chẳng phải là suốt năm mươi năm chí khí kiên cường lẫm lẫm thì làm sao đạt nổi như thế?”

Ðây chỉ là nghiệp trái nhiều đời, nhân duyên hội ngộ nên trả nợ ngay trước khi vãng sanh. Chớ lầm là vì cả một đời niệm Phật nên mắc phải ác báo!

Rộng tu các điều thiện

Ðại sư Liên Trì Phật Huệ Châu Hoằng đời Minh là Tổ thứ tám của Liên Tông. Người xứ Nhân Hòa, họ Trầm. Năm mười bảy tuổi, được bổ làm thầy dạy các sinh đồ vì học vấn và đức hạnh đều xứng đáng.

Ngài nghe người hàng xóm trì danh hiệu Phật, không bịnh tật gì mà mất, biết niệm Phật có công đức chẳng thể nghĩ bàn, liền dốc lòng gửi nơi Tịnh Ðộ, viết câu “sanh tử là việc lớn” (sanh tử sự đại) treo ngay đầu án thư để tự răn nhắc mình. Năm ba mươi hai tuổi ngài xuất gia, tham yết các vị đại lão Biến Dung, Tiếu Nham… tham cứu câu “người niệm Phật là ai?” có phần lãnh hội.

Sau ngài trụ trong núi Vân Thê. Do trong núi có lắm hổ, ngài bèn vì mọi người tụng kinh thí thực, nạn hổ liền dứt. Năm đại hạn, dân cư xin ngài cầu mưa. Ngài đi quanh ruộng niệm Phật, theo bước chân ngài mưa liền trút xuống. Mọi người vui sướng bèn cùng nhau sắm sửa vật liệu dựng chùa. Tăng chúng ngày càng quy tụ về, liền trở thành chốn tùng lâm. Ngài bèn đề xướng Tịnh Ðộ, thống trách Cuồng Thiền, rộng tu các điều lành để làm tư lương Tịnh Ðộ.

Lúc bấy giờ, giới đàn bị cấm đoán đã lâu. Người cầu giới có đủ tam y đối trước Phật xin thọ giới, ngài chứng minh cho họ. Ngài san định khoa nghi trai đàn Thủy Lục và nghi thức Du Già Diệm Khẩu, lập ra ao phóng sanh, soạn bài Giới Sát Văn để cứu tế nỗi khổ trong cõi âm. Ngài viết tác phẩm A Di Ðà Kinh Sớ Sao và Vân Thê Pháp Vựng dung hội Lý và Sự, thống nhiếp ba căn. Kẻ được ngài hóa độ rất nhiều.

Ngài chợt giã biệt khắp đồ chúng cả tăng lẫn tục, bảo:

- Ta sắp qua chốn khác.

Ðến kỳ, ngài dạy các đệ tử già dặn, chắc thật niệm Phật, rồi hướng về Tây niệm Phật mà tịch, thọ tám mươi mốt tuổi.

(theo Vân Thê Pháp Vựng)

Nhận định:

Sanh tử việc lớn, vô thường mau chóng, một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được. Thường nghĩ đến điều này thì tự nhiên sẽ niệm Phật chơn thành, thiết tha. Rộng tu các điều lành, già dặn, chắc thật niệm Phật. Pháp yếu Tịnh Ðộ đã được gói trọn trong hai lời này.

Chuyên tâm niệm Phật

Ðại sư Hám Sơn Trừng Ấn Ðức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim Lăng. Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm niệm Phật, mộng thấy Phật A Di Ðà hiện thân trên không, quang tướng phân minh.

Từ đấy, thánh tượng sáng rực rỡ luôn hiện diện trước mắt ngài. Sau ngài đến Ngũ Ðài tu Ðịnh, phát minh được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh Hoa Nghiêm, mỗi một nét bút hạ xuống là một câu niệm Phật. Lâu dần, động tịnh hệt như nhau.

Sau ngài ẩn cư trong Lao Sơn là chỗ bọn ngoại đạo sanh sống. Thoạt đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng lâu sau, ai nấy đều biết niệm Phật. Lý Thái Hậu hạ lệnh chở vàng đến dựng chùa, ban tấm biển đề tên chùa là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy ngài đi Lôi Châu. Nhân đấy, ngài trùng hưng tổ đình Tào Khê.

Về sau, ngài được vua hạ chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh Nghiệp càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột đi về Tào Khê, thị hiện bịnh nhẹ, tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng rằng:

- Hãy nghĩ tới việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng.

Ðoan tọa mà tịch, có quang minh chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi tám tuổi, nhục thân hiện vẫn còn.

(theo Mộng Du Tập)

Nhận định:

Thánh tượng thường hiện, động tịnh nhất như thì đúng là tu hành Tịnh Nghiệp thật tinh cần. Vì chẳng chứng đắc chút ít đã cho là đủ nên nhục thân của ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt ngài phải sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh nơi Thật Báo Tịnh Ðộ hoặc Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ trong thế giới Cực Lạc.

Bỏ Thiền tu Tịnh

Ðại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài họ Chung, người Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ, tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết sách bác Phật. Ðến khi ngài đọc được tác phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân Thê bèn đốt những sách mình đã viết.

Năm hai mươi tuổi, nhân đọc kinh Ðịa Tạng bèn phát chí xuất thế, hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm hai mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Ðức giảng kinh, nghi tình chợt phát, dụng tâm tham cứu, chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn tu ở Ngô Giang. Bị bịnh gần chết, ngài mới nhất ý cầu sanh Tịnh Ðộ.

Lúc bịnh giảm chút ít, ngài bèn kết đàn trì chú Vãng Sanh bảy ngày. Sau đấy, ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh Ðộ được lưu truyền rộng rãi.

Ngài chợt thị hiện có bịnh, dặn dò sau khi trà tỳ hãy đem tro ngài hòa với bột đem thí cho các loài chim, cá để chúng được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi bịnh đã khỏi hẳn, ngài bèn ngồi xếp bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch, thọ năm mươi bảy tuổi.

Ba năm sau, mở khám đựng nhục thân của ngài ra, tóc đã mọc dài phủ tai, vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng nỡ tuân theo di mạng nên lập tháp thờ ở Linh Phong.

(theo Linh Phong Tông Luận)

Nhận định:

Gặp lúc bịnh gần chết mới bỏ Thiền tu Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết:

“Tinh tấn là chẳng vì chút bịnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh. Nếu như bị túc nghiệp sai sử thì nên tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni. Trì một lần, diệt được tất cả các tội: ngũ nghịch, thập ác nơi thân. Trì được ba mươi vạn biến, quyết sẽ sanh về Tịnh Ðộ”.

Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú có nói:

“Nếu tụng được chú này thì A Di Ðà Phật thường ngự trên đảnh người ấy, ngày đêm ủng hộ chẳng để cho oán gia có dịp hãm hại. Hiện đời thường được an ổn; lúc mạng sắp hết, tùy ý vãng sanh”.

Vì thế, lúc ngài vừa bớt bịnh liền kết thất trì chú bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu hãy bắt chước ngài lấy việc chuyên tu làm trọng.

Kết am chuyên tu

Ðại sư Triệt Lưu Hành Sách đời Thanh là Tổ thứ mười của Liên Tông, là con của vị lão nho Tưởng Toàn Xương ở huyện Nghi Hưng. Ông mộng thấy đại sư Hám Sơn vào nhà, sanh ra ngài; nhân đó, đặt tên ngài là Mộng Hám.

Năm hai mươi ba tuổi, ngài xuất gia tại chùa Lý An ở Vũ Lâm. Suốt năm năm, chẳng đặt mình nằm xuống chiếu, đốn triệt nguồn pháp. Ít lâu sau, ngài trụ ở chùa Báo Ân, được bạn cùng tham thiền là Anh pháp sư ở Tức Am khuyên siêng tu Tịnh Nghiệp, Tiều Thạch Pháp Sư ở Tiền Ðường dẫn dụ ngài học hỏi giáo lý tông Thiên Thai, bèn cùng nhập tịnh thất, tu Pháp Hoa Tam Muội. Túc huệ đốn thông nên ngài thấu triệt tột cùng giáo tủy.

Từ đấy, ngài bèn dựng am ở Tây Khê thuộc Hàng Châu để chuyên tu Tịnh nghiệp, đặt tên cho chỗ mình ở là Liên Phủ Am (am búp sen). Về sau, ngài trụ tại Phổ Nhân Viện ở Ngu Sơn, đề xướng, hưng khởi Liên Xã, hoằng hóa thù thắng. Những trước tác của ngài như Liên Tạng Tập, Tịnh Ðộ Cảnh Ngữ v.v… được lưu hành trong đời. Ngài mất lúc năm mươi lăm tuổi.

Lúc bấy giờ có Tôn Hàn và người họ Ngô mắc bịnh chết rồi sống lại, đều kể là: “Bị sai nha cõi âm lôi đến dưới điện, chợt thấy quang minh rực trời, vua Diêm La phủ phục sát đất, nghênh tiếp Tây Quy Ðại Sư. Liếc trông thì ra là ngài Triệt Lưu. Nhờ quang minh của ngài chiếu đến nên được tha về”.

(theo Tịnh Ðộ Ước Thuyết)

Nhận định:

Ðốn triệt nguồn pháp, thấu triệt tột cùng giáo tủy mà sau đấy vẫn kết am chuyên tu để đề xướng hưng khởi Liên Xã hoằng pháp lợi sanh. Phàm là những kẻ mình chưa đắc độ mà muốn độ người thì có hợp lý chăng?

Nhật khóa mười vạn

Ðại sư Tỉnh Am Tư Tề Thật Hiền đời Thanh là Tổ thứ mười một của Liên Tông. Ngài họ Thời, người huyện Thường Thục. Từ nhỏ đã chẳng ăn mặn, bảy tuổi xuất gia. Năm hai mươi bốn tuổi, thọ Cụ Túc Giới, giữ giới nghiêm cẩn, chẳng ngả mình nằm xuống chiếu.

Vừa được phép lên diễn giảng, ngài đã chứng tỏ rõ cái học của mình cả về Tánh lẫn Tướng. Sau đấy, ngài tham cứu có phần chứng ngộ, bèn nói: “Ta tỉnh mộng rồi!”. Ngài đóng cửa am ba năm, ngày thì đọc Kinh Tạng, tối lấy Phật hiệu làm thường khóa.

Ngài đến lễ tháp chùa A Dục Vương. Vào ngày Phật nhập Niết Bàn, ngài tập hợp đông đảo cả Tăng lẫn tục thiết lễ cúng dường trọng thể, đốt ngón tay trước tượng Phật, phát bốn mươi tám đại nguyện, cảm xá lợi phóng quang. Ngài soạn ra Niết Bàn Sám và Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm Văn để khích lệ tứ chúng, nhiều người tụng đến ứa lệ.

Về già, ngài về ở chùa Tiên Lâm tại Hàng Châu, kết Liên Xã chuyên tu Tịnh Nghiệp, soạn văn ước thệ cùng đại chúng lấy hết cả đời làm hạn. Nhiếp hóa khắp ba căn, pháp hóa lợi lạc khắp tất cả.

Mùa Ðông năm Ung Chánh thứ mười một, ngài cho biết trước ngày mười bốn tháng Tư năm sau sẽ Tây quy, rồi bế quan một thất, mỗi ngày niệm Phật mười vạn tiếng. Ðến kỳ, ngài bảo: “Ngày giờ đã tới, lại thấy Tây Phương Tam Thánh, sẽ sắp vãng sanh ư?”

Ngài liền đọc kệ từ biệt đại chúng, tắm gội sạch sẽ, thay áo, hướng mặt về Tây ngồi im lặng. Người đưa tiễn lũ lượt kéo đến, ngài chợt mở mắt bảo:

- Ta đã đi rồi lại trở về. Sanh tử là việc lớn, ai nấy phải tịnh tâm niệm Phật mới được!

Rồi ngài chắp tay niệm Phật mà tịch, thọ bốn mươi chín tuổi.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Nhận định:

Nhớ số trì danh để phòng biếng nhác. Ðại sư biết trước thời giờ mà vẫn bế quan tinh tấn, nhật khóa niệm Phật cả mười vạn tiếng. Ðúng là còn một hơi thở chẳng chịu lười nhác chút nào, thật là tấm gương niệm Phật vậy!

Càng bịnh tật khốn khổ càng thêm thiết tha

Ðại sư Ðạo Triệt đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Xuất gia tham học các sư, sau khi phát minh được bản tánh rồi bèn chuyên tu Tịnh nghiệp. Ngài trụ tại am Văn Thù ở Hàng Châu.

Ngài định kỳ bế quan: trong thất không để bất cứ vật gì dài lớn, ngoại trừ một cái ghế và một cái đơn (1) [(1) Ðơn: là một tấm gỗ thô hẹp, dài; kê thay cho giường nằm. Vì miếng gỗ ấy chỉ vừa đủ cho một người nằm khít nên gọi là đơn.] mà thôi! Mới được vài ngày đã mắc bịnh rất nặng, ngài tự cổ vũ mình: “Niệm Phật chính là vì sanh tử, lẽ nào lại vì bịnh mà biếng nhác ư?” rồi trì danh hiệu Phật càng thêm khẩn thiết.

Ðột nhiên, kim quang chiếu rực cả thất, Phật xoa đầu ngài, bệnh lành ngay lập tức; ngài liền đắc Niệm Phật Tam Muội. Ði, đứng, nằm, ngồi trọn không còn có niệm nào khác. Suốt ba năm như thế, đến ngày rằm tháng Ba, ngài xuất quan, lên tòa giảng Pháp Hoa, bảo đại chúng rằng:

- Chừng bảy tháng sau nữa, ta sẽ về Tây; các ông có thể đến tiễn.

Ðến kỳ, ngài bèn thiết lễ Vu Lan Bồn Hội. Chúng nhóm lại, nhắc lại lời ngài dự báo trước đây. Ngài nói:“Quả có thế, hãy chờ một chút!”. Ngày hôm sau, ngài bèn dặn dò trụ trì thiết trai giã biệt đại chúng rồi vào khám, ngồi yên lặng, dứt hơi thở. Giây lâu sau, tỉnh lại, bảo:

- Chia tay cùng các ông, chẳng thể không nói một lời. Sa Bà khổ không nói nổi, Cực Lạc vui không nói nổi. Nếu còn nghĩ nhớ đến tôi thì chỉ niệm A Di Ðà Phật, chẳng lâu sau sẽ lại thấy nhau. Bỏ lỡ đời này, luân chuyển trong đêm dài, đau đớn lắm, đau đớn lắm!

Nói xong bèn tịch, thọ bốn mươi tám tuổi.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Nhận định:

Bịnh càng bức bách càng thêm khẩn thiết cho nên đắc Niệm Phật Tam Muội. Thật đúng là lấy bịnh khổ làm thuốc hay, biến trở ngại thành thông suốt vậy! Tự chủ được trong khi bịnh thì lúc chết cũng tự chủ được nên có thể đi về tự tại như vậy!

Phật xuất hiện theo ý

Ðại sư Huệ Minh đời Thanh, người Ngân Huyện, trụ chùa Báo Quốc ở Hàng Châu. Tánh tình chất trực, chỉ biết niệm Phật. Mỗi khi ngài chấp trì hồng danh, âm thanh như sóng vỗ, nhang hết chẳng hay.

Ðược ai cúng thí ngài liền dùng để phóng sanh. Khi phóng sanh loài nào đều xưng danh hiệu Phật, hồi hướng Tây Phương. Gặp ai, chẳng hỏi thăm xã giao mà chỉ nói: “[Coi chừng] cái chết xảy đến đó, niệm Phật gấp đi!” Nếu ai hỏi đến sở đắc, liền nói:

- Lúc trước tôi bị bịnh nhiệt nặng lắm, mấy lần chẳng gắng gượng nổi, may là trong ý căn có một câu Phật hiệu thì nơi đảnh có một câu phát ra, liên miên như thế chẳng ngơi; nhờ đó mà được bịnh được lành. Từ đấy, chẳng cần biết là nói năng, im lặng, động, tịnh cứ hễ trong tâm có một câu Phật hiệu phát sanh thì từ trên đảnh đầu có một câu Phật hiệu phát ra.

Sau ngài bị bịnh ung loét ở cổ, biết là túc nghiệp hiện tiền, trọn chẳng rên rỉ, than vãn. Lúc lâm chung, vẻ mặt vui tươi, niệm Phật qua đời.

(theo Nhiễm Hương Tập)

Nhận định:

Niệm Phật như sóng dồn, nhang hết không hay; thấy người khác chẳng hỏi chuyện hàn huyên; đúng là công phu đã đạt đến mức thuần thục. Tuy bịnh nguy ngập nhưng trong tâm câu Phật hiệu vẫn cuồn cuộn phát ra, đúng là: vô niệm mà niệm, bịnh chẳng gây trở ngại gì!

Nhiếp Thiền quy Tịnh

Ðại sư Mộng Ðông Nột Ðường Triệt Ngộ Tế Tỉnh là Tổ thứ mười hai của Liên Tông. Ngài họ Mã, người huyện Phong Nhuận. Thuở nhỏ thông kinh sử, năm hai mươi hai, do mắc bịnh bèn tỉnh ngộ xuất gia, tham học khắp nơi, thông hiểu rộng khắp hai tông Tánh và Tướng.

Ngài tham học với Túy Như thiền sư, tỏ ngộ thấu suốt, được kế vị làm trụ trì chùa Quảng Thông ở kinh đô, hướng dẫn đại chúng tham thiền, tông phong đại chấn.

Về sau, do túc nghiệp sâu nặng nên lắm bịnh duyên, nghĩ trong Ngũ Ðình Tâm Quán của bên Giáo, đối với người nhiều chướng thì dùng Niệm Phật để trị. Vả lại, các vị đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v…, các vị đại Tổ Sư như Mã Minh, Long Thọ… các vị đại thiện tri thức như Trí Giả, Vĩnh Minh, Sở Thạch, Liên Trì v.v… thảy đều quy tâm vào một môn này; lẽ nào vì cớ người đời coi thường mà ta chẳng dám quy mạng. Ngài liền bỏ tham thiền để niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp.

Mỗi ngày ngài hạn định chỉ tiếp khách chừng tàn một cây hương, những thời giờ còn lại để chuyên lễ niệm.

Về già, ngài ở chùa Tư Phước thuộc núi Hồng Loa, người theo học ngày càng nhiều, dần dần trở thành một đạo tràng của Liên Tông. Tâm ngài chẳng hề chán mỏi sự nghiệp vì pháp, vì người, một mực lấy Tịnh Ðộ làm chỗ quy hướng. Mỗi khi ngài diễn nói về ân đức cứu khổ ban vui của đức Như Lai, nói ra mỗi chữ là lệ rơi đầm đìa. Người nghe cũng thường khó ngăn được lệ đẫm cả áo. Hai quyển Ngữ Lục của ngài thật tối cần thiết.

Mười tháng trước khi ngài lâm chung, ngài đã báo sẵn kỳ hạn quy Tây, dặn dò những kẻ ngoại hộ:

- Huyễn duyên chẳng dài lâu, đáng tiếc kiếp sống uổng. Ai nấy nên nỗ lực niệm Phật, năm sau sẽ thấy được hảo tướng Tịnh Ðộ.

Ðến kỳ, ngài thị hiện mắc bịnh, bảo đại chúng trợ niệm. Chợt thấy trên không vô số tràng phan từ phương Tây bay lại. Ngài bảo đại chúng:

- Tướng Tịnh Ðộ hiện, ta sắp về Tây.

Lại bảo:

- Ðược Phật đích thân tiếp dẫn, ta đi đây!

Ðại chúng xưng niệm Phật hiệu càng mạnh mẽ, đại sư ngồi hướng mặt về Tây mà tịch, thọ bảy mươi tuổi. Ðại chúng ngửi thấy mùi hương ngập tràn không trung. Quàn xác ngài, mở nắp quan suốt bảy ngày, vẻ mặt vẫn như lúc sống. Trà tỳ thâu được hơn trăm viên xá lợi.

(theo Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục)

Nhận định:

Sau khi đã thông suốt cả Tông lẫn Giáo còn chuyên tu Tịnh nghiệp, ngài đúng là bậc “có Thiền có Tịnh Ðộ” nên được làm thầy trời người, làm Phật, làm Tổ, nhưng ngài chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu! Lúc lâm chung đại chúng bảo đại chúng trợ niệm để làm gương cho đời!

Lễ niệm cùng hành

Ðại sư Trúc Phong Viên Dung đời Thanh, họ Diêu, người huyện Ðức Thanh. Năm mười ba tuổi, xuất gia thọ Cụ Túc Giới, trì giới không khiếm khuyết. Ngài đặc biệt thích lễ niệm, lập chí quyết định vãng sanh Tây Phương.

Ngài chẳng nuôi đệ tử, chẳng tự trụ trì am viện, luôn ở nhờ người khác để tu tập hòng khỏi bị phân tâm. Ngài không ở chỗ nào nhất định, hợp thì lưu lại, chẳng hợp thì đi. Tánh tình phóng khoáng, chẳng câu chấp mà cũng chẳng thích làm theo mọi người. Ngài thường đóng cửa am ở yên tịnh, thực hành cả lễ lẫn niệm: Chẳng lễ thì niệm, không niệm thì lễ, chẳng lúc nào gián đoạn, cũng chẳng tu pháp nào khác, chỉ lấy đó làm pháp tu suốt đời.

Vào giữa trưa, sư thường gõ mõ niệm Phật mãi cho đến sắp rạng đông ngày hôm sau, người khác thấy ngài trọn chẳng nghỉ ngơi bèn lớn tiếng gọi, ngài mới ngưng, tự bảo là giống như mới niệm được nửa ngày mà thôi. Hỏi ngài có đói không? Liền đáp:

- Trong miệng tôi thường có nước ngọt như mật thấm đẫm cổ họng, thọ dụng vô lượng nên chẳng nghĩ đến ăn uống gì nữa!

Ngài chẳng đặt mình nằm xuống chiếu suốt cả mấy mươi năm, cho nên ít ngủ. Dù có chợp mắt chốc lát, cũng chẳng rời việc lễ niệm nên không còn có duyên nào khác. Trong mộng, ngài thường thấy Phật và Bồ Tát hoạt động như đang hiện tiền, khuyên dạy, tưởng lệ, hoặc hướng dẫn niệm Phật.

Chợt ngài biết đã đến lúc, bèn niệm Phật mà tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi, đảnh đầu còn hiện tướng nóng bừng.

(theo Nhiễm Hương Tục Tập)

Nhận định:

Chẳng nuôi đồ chúng, sống không chỗ nhất định, đúng là bậc giải thoát thanh thản. Niệm Phật suốt đêm ngày, chẳng ai gọi thì chẳng ngưng, chẳng đói, chẳng khát, mộng và tỉnh đều giống hệt nhau. Nếu chẳng phải là đã đắc Niệm Phật Tam Muội thì làm sao làm được như thế?

Chẳng niệm mà tự niệm

Ðại sư Mặc Am Chơn Nguyên Thượng Nhân đời Thanh, họ Chu, người huyện Hành Châu, tỉnh Hồ Nam. Thuở nhỏ, ngài đã dĩnh ngộ, thông tiệp, có ý tưởng xuất thế. Cha mất sớm, mẹ tính cưới vợ cho, bèn trốn đi xuất gia.

Thọ Cụ Túc Giới, nghiên cứu tinh tường Tam Tạng, thâm nhập giáo nghĩa. Sau khi tham học khắp cả Nam Bắc [Trung Hoa] ngài bèn dựng tinh xá Chúc Thánh ở Nam Nhạc, giới luật tinh nghiêm, siêng năng, khẩn thiết thầm tu. Mỗi ngày niệm Phật sáu vạn tiếng. Lâu ngày, chẳng niệm mà tự niệm, không lúc nào gián đoạn.

Sau đấy, ngài ở tại chùa Ðại Thiện thuộc Nam Nhạc, phỏng theo khuôn phép của thiền sư Triệt Ngộ. Thập phương đến học; vì có chỗ chẳng dung hợp nhau nên ngài bèn dùng phép Giáo Quán của tông Thiên Thai để dẫn dắt, lấy Tịnh Ðộ Di Ðà làm chỗ quy hướng rốt ráo.

Ðột nhiên, nhà chùa muốn giao ngài đứng đầu trông coi mọi việc trong chùa, ngài bảo: “Tôi sắp về Tây!”. Ngài liền cử hành Phật thất 2 tuần, trong định thấy ao bảy báu, nước bát công đức. Ngài liền hiện tướng bịnh nhẹ, khước từ thuốc thang, nhất tâm niệm Phật, bảo đồ chúng luân phiên trợ niệm.

Ngài trông thấy tướng bạch hào của Phật A Di Ðà sáng rực, bèn ngồi ngay thẳng hướng về Tây. Khi ấy, những người trợ niệm gõ mõ càng nhanh, ngài bèn bảo thôi gõ, chỉ cùng nhau niệm Phật đến hơn trăm câu, chắp tay mà tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi.

(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)

Nhận định:

Chẳng niệm mà tự niệm chính là niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Nếu chẳng phải là tận lực niệm đến mức thuần thục thì sao mà làm được nổi như thế?

Trước khi lâm chung còn cử hành Phật thất, bảo đại chúng trợ niệm để cầu được quyết định vãng sanh. Tiếng mõ gõ quá ồn chẳng thuận tiện cho việc trợ niệm nên sư bảo thôi gõ, chỉ nên đồng thanh niệm Phật.

Hễ niệm Phật liền niệm lớn tiếng

Ðại sư Chánh Thành thời Dân Quốc, họ Châu, người huyện Qua Dương, tỉnh Giang Tây. Nhà nghèo, sư thường niệm Phật cầu sanh Tây phương. Cho đến lúc không phải phụng dưỡng ai, chôn cất vợ xong xuôi, tuổi đã sáu mươi tám, ngài mới đem con đi xuất gia, tu trì cật lực. Ở trong núi suốt mười ba năm, sư chưa hề nằm xuống giường.

Hễ niệm Phật là ngài niệm lớn tiếng, thường niệm đến lúc toàn thân ướt đẫm mồ hôi rồi mới ngưng. Người khác ghét ngài niệm oang oang thường hay quở mắng. Bạn đồng tu thường khuyên ngài niệm nhỏ tiếng để khỏi bị người khác ghét, ngài chỉ cười, bảo đúng. Ðến lúc niệm Phật vẫn niệm lớn tiếng như cũ mà chẳng tự biết.

Ngài thường niệm Phật bên gốc tùng trong chùa hoặc tịnh tọa trước ngọn núi. Mỗi khi ngài thấy tượng Phật đứng trên đỉnh núi thường hay gọi người khác đến xem. Ai đến thì chẳng thấy nữa.

Ngài chợt biết thời giờ đã đến, bèn nói kệ, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà hóa.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)

Nhận định:

Do niệm Phật, tâm chuyên chú, đã đạt đến cảnh giới Nhất Tâm nên lúc niệm Phật chỉ biết niệm Phật, không còn niệm nào khác; tiếng niệm Phật lớn hay nhỏ có làm phiền người khác hay không ngài cũng chẳng hay! Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt và Ðại Trang Nghiêm Kinh Luận đều bảo lớn tiếng niệm Phật có mười công đức:

1. Một là bài trừ cái chướng mê ngủ.

2. Hai là thiên ma kinh sợ.

3. Ba là tiếng vọng khắp mười phương.

4. Bốn là tam đồ được dứt khổ.

5. Năm là những tiếng động bên ngoài chẳng lọt vào.

6. Sáu là khiến cho tâm chẳng tán loạn.

7. Bảy là dũng mãnh tinh tấn.

8. Tám là chư Phật hoan hỷ.

9. Chín là tam muội hiện tiền.

10. Mười là vãng sanh Tịnh Ðộ.

Những điều ấy là những chứng cớ khiến ta càng thêm tin tưởng.

Chuyên niệm Quán Âm

Ðại sư Kim Trược thời Dân Quốc, người Ðài Châu. Tám tuổi xuất gia, ít lâu sau là được thọ giới. Ðược thầy dạy tụng chú Ðại Bi và niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, ngài liền mỗi ngày tụng chú bốn mươi tám biến; ngoài ra, chuyên trì thánh hiệu chưa hề gián đoạn.

Ngài xem danh lợi như bào ảnh; tập khí, thị hiếu đều tiêu trừ hết chẳng còn sót. Lúc bấy giờ, ngài trị bịnh cho người khác, vừa đặt tay lên bịnh đã được lành, chẳng nhận thù lao. Ngài ngụ trong một ngôi miếu nhỏ, gặp phải nạn cướp. Bọn cướp thấy ngoại trừ chiếc cà sa rách, không còn có vật gì khác, giận quá liền dùng thương đâm ngài, đâm hai nhát vào phía phải trên trán, đâm một nhát trúng tay phải, chưa chết. Ít lâu sau, thương thế lành, nhưng vết thương vẫn còn in dấu.

Ðột nhiên, ngài qua tạm trú ở chùa A Dục Vương thuộc thành phố Ninh Ba. Vị tăng quản đường kê đơn, ngài liền bảo:

- Tôi ở đây chẳng lâu sẽ vãng sanh Tây Phương. Kính xin ngài từ bi!

Liền bảo đại chúng:

- Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm đài bạc đã hiện thân trước mặt tôi, trong ba ngày nữa, tôi sẽ vãng sanh. Xin các vị đồng tham hãy già dặn, chắc thật niệm Phật hoặc niệm Bồ Tát. Nhất tâm xưng danh quyết sẽ sanh về Tây Phương. Phật chẳng nói dối.

Ðến thời, ngài liền hướng về vị sư quản đường nói:

- Sau chánh ngọ một giờ, tôi sẽ sanh Tây.

Mọi người cho là ngài nói dối. Giữa trưa, ngài vẫn dùng cơm như thường, lễ Phật tại các điện xong bèn ngồi hướng mặt về Tây mà hóa.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)

Nhận định:

Vị này chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thoát khỏi nạn chết, cũng muốn làm gương tốt vãng sanh Tây Phương nên chẳng chết trong miếu nhỏ mà tọa hóa tại ngôi chùa A Dục Vương danh tiếng, vì đại chúng hiện thân thuyết pháp.

Làm việc nặng vẫn niệm Phật không gián đoạn

Ðại sư Cụ Hạnh Nhật Biện thời Dân Quốc, người huyện Hội Lý ở Vân Nam. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi ở rể nhà họ Tăng ở Diêm Nguyên, sanh được hai con trai. Nhà nghèo, ngài phải làm thuê cho Chúc Thánh ở núi Kê Túc. Năm hai mươi mốt tuổi, ngài dẫn cả nhà tám người xin đi xuất gia, thọ Cụ Túc.

Hòa Thượng Hư Vân dạy ngài tu pháp môn Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Ðộ. Ngài bèn dứt bỏ các duyên, nhất tâm hệ niệm. Ngài tai điếc, mặt mũi xấu xí, không biết chữ, ngày trồng rau, đêm lễ bái, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát.

Rảnh rỗi thì tập tịnh tọa, học khóa tụng và các kinh điển, tự siêng gắng hết sức. Sư vừa đi tham bái tứ đại danh sơn trở về đất Ðiền (Vân Nam), gặp lúc ngài Hư Vân trùng hưng chùa Vân Thê, hỏi:

- Thầy đã đi thăm quyến thuộc chưa?

Sư thưa:

- Con chẳng bận tâm đến họ.

Hòa Thượng lại hỏi:

- Thầy tính làm gì?

Thưa:

- Những việc nặng nhọc nhất không ai chịu nổi, con sẽ gánh vác.

Phàm là những việc nặng như đắp tường, lợp nhà, trồng rau, trồng cây, vác đá, đào đất, quét tước, nấu nướng, ngài đều làm không lúc nào ngơi tay, nhưng không một khắc nào để câu niệm Phật bị gián đoạn.

Khi đêm xuống, vào lúc chỉ tịnh, ngài bèn lễ các kinh Kim Cang, Dược Sư, các kinh Tịnh Ðộ; cứ một chữ là một lạy. Tảng sáng, hồng chung vừa gióng, đã lên điện tham dự khóa tụng như thường, chưa hề ngủ nghỉ. Ngài tự vá áo, hoặc chằm vá áo giùm bạn đồng tham, mỗi một mũi kim là một câu Phật hiệu.

Trong kỳ hạn kết giới, được thỉnh làm Tôn Chứng, ngài bèn bán y, đem hết tiền mua sắm vật dụng để thiết trai cúng dường đại chúng. Hỏi ngài sẽ đi đâu, chỉ cười không nói. Giới đàn hoàn tất, ngài ngầm lên điện sau cùng, ngồi xếp bằng, hướng về Tây niệm Phật, dùng lửa tự thiêu, thọ ba mươi sáu tuổi. Hình trạng vẫn như lúc sống, mùi hương lạ lan tận ra xa.

Ðại chúng tranh nhau đến xem, vừa đánh khánh, di thể ngài chợt sụp xuống, hóa thành tro.

(theo Hư Vân Hòa Thượng Niên Phổ)

Nhận định:

Một chữ chẳng biết, nhưng lúc làm công việc nặng nhọc chưa hề gián đoạn niệm Phật. Chúng ta là những kẻ biết chữ đọc được sách, nếu cứ lơi là để uổng phí ngày tháng trôi qua há chẳng biết thẹn chăng?

Nhưng tự thiêu là chưa đắc tam muội. Chớ nên manh nha vọng niệm như vậy để khỏi bị ma dựa phát cuồng, vĩnh viễn đọa trong ác đạo!

Bế quan tinh tu

Ðại sư Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thánh Lượng là Tổ thứ mười ba của Liên Tông. Ngài họ Triệu, là người huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Thuở nhỏ học Nho, từng bài xích Phật, mắc bịnh mắt mấy lượt suýt mù, mới biết lỗi trước.

Năm hai mươi mốt tuổi, xuất gia thọ Cụ Túc Giới. Ðọc cuốn Long Thư Tịnh Ðộ Văn, biết được Niệm Phật chính là đạo trọng yếu để liễu sanh thoát tử, ngài liền chuyên niệm Phật hiệu. Trong lúc làm lụng, tâm chẳng rời niệm Phật. Sau ngài trụ tại chùa Tư Phước ở núi Hồng Loa, chuyên tu Tịnh Ðộ và thâm nhập Kinh tạng, diệu khế Phật tâm.

Ngài triều bái Ngũ Ðài, đến kinh đô, theo hòa thượng Hóa Văn thỉnh Ðại Tạng về Phổ Ðà, trụ tại chùa Pháp Vũ, dốc chí tinh tu, bế quan suốt sáu năm, lấy đó làm kỳ hạn, ngày đêm niệm Phật hòng sớm đắc Niệm Phật Tam Muội. Các vị như cư sĩ Từ Úy Như v.v… đem in bộ Văn Sao của ngài khiến cho sự giáo hóa của ngài càng được rộng rãi. Ngài tự hành và dạy người, một lòng lấy Tịnh Ðộ làm chỗ quy hướng, chẳng lìa nhân quả, chẳng lạm bàn huyền luận diệu. Người quy y ngài hơn hai mươi vạn, kẻ y giáo phụng hành được sanh Tây Phương cũng rất nhiều.

Ngài còn hóa độ cả những tù nhân và dị loại, thường trì chú Ðại Bi vào nước và gạo để chữa các bịnh. Về sau, ngài bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu. Ngoài những lúc hành trì thời khóa lại lo hiệu đính, bổ cứu những bản tự chí của các núi Phổ Ðà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa v.v…

Xưa kia ngài đã nguyện chẳng làm trụ trì, chẳng thâu đồ chúng; nhân vì Tăng, tục theo về quá đông, ngài mới khai sáng Tịnh Tông Ðạo Tràng ở núi Linh Nham để đại chúng cùng tu. Ngài sáng lập Hoằng Hóa Xã (nhà xuất bản Hoằng Hóa), in tặng năm trăm vạn bộ kinh sách Phật, hơn trăm vạn bức hình Phật. Ngài bảo vệ pháp môn, trung hưng Tịnh Tông, cứu tế kẻ đói nghèo, quyên góp trợ giúp kẻ túng ngặt, công chẳng thể nghĩ bàn nổi.

Về sau, ngài về lại Linh Nham (2) [(2) Ðại Sư sáng lập Linh Nham nhưng không ở đó mà giao cho pháp sư Chơn Ðạt trông coi, lui về ẩn cư ở Tô Châu, năm 77 tuổi mới về lại Linh Nham], biết trước đã đến lúc, dạy đại chúng:

- Niệm Phật thấy Phật, quyết định sanh Tây. Ðược Phật tiếp dẫn, ta đi đây!

Ngài hướng về Tây niệm Phật, tọa hóa, thọ tám mươi tuổi. Lúc trà tỳ, hàm răng còn nguyên, xá lợi ngũ sắc thu được mấy ngàn hạt.

(theo Ấn Quang Ðại Sư Hạnh Nghiệp Ký)

Nhận định:

Tổ Sư là Ðại Thế Chí Bồ Tát lai thế nhằm trung hưng Tịnh Tông mà vẫn còn thường bế quan tinh tu, ngày đêm niệm Di Ðà! Bọn phàm phu ta há nên qua loa biếng nhác chẳng chịu dũng mãnh tinh tấn sao?

Thường ngồi chẳng nằm

Ðại sư Quảng Khâm Chiếu Kính thời Dân Quốc, họ Hoàng, người huyện Huệ An tỉnh Phước Kiến. Năm ngài mới bốn tuổi, vì nhà nghèo nên phải bán vào nhà họ Lý ở Tấn Giang làm con nuôi.

Ngài thể chất yếu đuối, lắm bịnh, theo mẹ nuôi thờ Phật, ăn chay. Năm mười một tuổi, vì cha mẹ nuôi đều mất cả, ngài bèn xin xuất gia tại chùa Thừa Thiên ở Tuyền Châu. Nhà chùa sai làm các việc bên ngoài như trồng rau, nhổ cỏ… Sau ngài qua Nam Dương, đến năm ba mươi sáu tuổi mới trở về chùa Thừa Thiên chính thức thế phát. Thế phát xong, ngài chuyên chí tu khổ hạnh, thường ngồi chẳng nằm, nhất tâm niệm Phật.

Năm bốn mươi hai tuổi, sau khi thọ Cụ Túc Giới, ngài càng quyết chí tiềm tu, qua thạch động bên sườn núi Thanh Nguyên ở Tuyền Châu để tọa Thiền niệm Phật, chỉ dùng các loại khoai rừng, quả dại để đỡ lòng. Trong núi có nhiều hổ, vượn. Từ đó, khỉ, vượn đến dâng quả, mãnh hổ đến quy y nên ngài được xưng tặng nhã hiệu là Phục Hổ Sư (vị thầy hàng phục hổ). Sư thường nhập định, từng có lần nhập định cả mấy tháng chẳng ăn uống, chẳng động đậy.

Tháng Sáu năm Dân Quốc thứ 36 (1947), lúc đã năm mươi sáu tuổi, ngài vượt biển đến Ðài Loan, khoét thạch động Quảng Minh ở phía sau núi Tân Ðiếm thuộc Ðài Bắc để ẩn cư tiềm tu. Chỗ ấy về sau khuếch trương thành chùa Quảng Minh. Mặt sau phía bên phải động có vách đá lớn, ngài bèn chạm khắc thành tượng Phật A Di Ðà lớn bằng đá. Phía dưới, về bên trái lại khoét thành thạch động; sau được mở rộng thành chùa Quảng Chiếu.

Sau này, ngài tìm được thạch động thiên nhiên ở Thổ Thành, đột nhiên có suối nước trong từ đá phun ra, mãng xà quy y. Ngài lại khuếch trương nơi ấy thành chùa Thừa Thiên, tiếp dẫn đệ tử đồng tu. Năm Dân Quốc 58 (1969), sư khai sáng Quảng Thừa Nham ở trấn Thổ Thành.

Ðáp lời cầu thỉnh nhiều lượt của tín chúng, sư đến các địa phương Hoa Liên, Ðài Trung, Nam Ðầu, Gia Nghĩa, Cao Hùng v.v… hoằng pháp độ chúng. Kế đó, ngài kiến lập chùa Tường Ðức ở Thiên Tường, chùa Quảng Long ở núi Long Tỉnh v.v… thâu nạp đông đảo đồ chúng.

Ngài thường ngồi xếp bằng niệm Phật, từng nhập định ba lần, mỗi lần ước chừng cả tuần trở lên. Hằng ngày, sư chỉ ăn trái cây, uống nước để sống nên lại được tặng nhã hiệu là Thủy Quả Sư. Sau cùng, ngài hoạch định việc tạo dựng chùa Diệu Thông ở làng Lục Quy thuộc thành phố Cao Hùng, truyền thọ tam đàn thành công viên mãn. Tứ chúng đệ tử cầu giới nơi ngài nhiều đến cả mấy ngàn. Ðệ tử quy y nhiều hơn nữa. Ngài có những tác phẩm Khai Thị Lục, Truyền Kỳ Sự Tích… được ấn hành lưu truyền trong đời.

Sư thân gầy gò nhưng thể chất mạnh khỏe, hành động mẫn tiệp. Ngày hai mươi sáu tháng Chạp năm Dân Quốc bảy mươi bốn (1985), sư cấp tốc trở về chùa Thừa Thiên. Ngày mồng Một tháng Giêng năm sau, vào lúc sáng sớm, sư triệu tập đệ tử phụ trách các phân viện và đại chúng chùa Thừa Thiên, nhất nhất phó chúc hậu sự xong, liền trở về chùa Diệu Thông, suất lãnh đại chúng ngày đêm niệm Phật, tinh thần càng mạnh mẽ, tinh tường.

Hai giờ chiều ngày mồng Năm, sư chợt bảo đại chúng:

- Chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng có việc gì!

Ngài hướng về đại chúng gật đầu, mỉm cười, an tường tọa hóa, thọ chín mươi lăm tuổi. Trà tỳ, lưu lại xá lợi rất nhiều.

(theo Quảng Khâm Hòa Thượng Niên Phổ và Lược Sử)

Nhận định:

Ðại Sư tuy chưa từng đọc sách, lúc nhỏ tuổi, thể chất yếu đuối lắm bịnh, theo dưỡng mẫu thờ Phật, ăn chay. Sau khi xuất gia chuyên chí tu khổ hạnh, thường ngồi chẳng nằm, nhất tâm niệm Phật. Sau khi đến Ðài Loan, tuy Ðại Sư tiềm tu, chỉ dùng trái cây và nước lã để sống, nhưng thân nhẹ nhàng, mạnh khỏe, lại sống rất thọ.

Dựng chùa, truyền giới, hoằng pháp độ chúng. Ðột nhiên, sư suất lãnh đại chúng niệm Phật, mỉm cười, tọa hóa thì ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.

Xả Quán niệm Phật

Ðại sư Huệ Tam Tư Nguyên thời Dân Quốc, người huyện Uyển Bình tỉnh Hà Bắc. Năm mười bảy tuổi xuất gia. Ít lâu sau, thọ Cụ Túc, vào học trường Phật Giáo Học Hiệu tại tỉnh An Huy, nghiên cứu tinh tường nội điển.

Ngài nhận trách nhiệm trụ trì chùa Sùng Thọ và Quảng Thiện ở Bắc Kinh. Ngài kiến lập, hưng khởi đạo tràng Hoa Nghiêm. Trước giờ Ngọ mỗi ngày, ngài tụng kinh Hoa Nghiêm. Cuối năm, ngài kết Hoa Nghiêm Phật Thất, lãnh đạo đại chúng huân tu pháp Chơn Không Pháp Giới Quán; từng đốn nhập Pháp Giới Ðịnh. Sau khi khai tịnh, mới ngộ được hư không pháp giới lý sự vô ngại, pháp hỷ tràn đầy, khen là chưa từng có.

Từ đấy, ngài càng thêm tinh tấn, tu Quán chẳng lùi. Tháng Mười Một năm Dân Quốc thứ ba mươi bảy (1948), ngài đến Ðài Loan lúc bốn mươi tám tuổi, lãnh trọng trách giảng dạy tại Phật Học Viện chùa Viên Quang ở Trung Lịch. Năm sau, ngài đến Sở Giảng Dạy Học Tập Phật Học ở Tân Trúc giảng dạy Phật giáo, đồng thời giảng kinh ở chùa Nhất Ðồng suốt bảy năm.

Sư thường sống tại các chùa ở Ðài Bắc, Nội Hồ, Nam Ðầu… để giảng kinh, độ chúng không đếm nổi. Năm năm mươi lăm tuổi, ngài sáng lập chùa Phước Huệ trên núi Linh Sơn ở xã Thọ Lâm, Ðài Bắc. Mỗi năm, vào tháng Bảy, ngài lập pháp hội Ðịa Tạng kéo dài bảy ngày, truyền U Minh Giới một lần. Mỗi năm, tại Ðài Loan, khi truyền tam đàn đại giới và giới tại gia, sư thường được suy cử vào một trong tam sư. Cả cõi âm lẫn dương gian đều được lợi, pháp hóa lợi ích vô cùng!

Năm sáu mươi sáu tuổi, sư lại càng thêm thường tinh tấn, hằng khóa niệm Phật mỗi ngày là ba vạn câu. Năm tám mươi tuổi liền bắt đầu niệm Phật, tọa thiền cộng tu, và khởi xướng nghĩa chẩn cứu dân nghèo và thí thuốc trong khuôn viên nhà chùa; sáng lập thư viện để mọi người đến đọc sách; đề xướng, lo liệu việc giảng giải, học hỏi Phật học. Hạnh lẫn giải càng thêm sâu, phước huệ song tu.

Sư từng đáp ứng lời thỉnh sang Mỹ hoằng pháp, qua Ðại Hàn truyền giới, người thọ giới lên đến hơn năm ngàn người. Giữa trưa ngày mồng Tám tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), sau khi dùng cơm, sư chợt nói:

- Ta muốn đi đây!

Liền triệu tập tất cả đệ tử trong chùa, dặn dò:

- Sau khi ta mất, các con nên hợp tác với nhau.

Sau bữa cơm chiều, ngài không bịnh gì, đang đứng mà hóa, thọ tám mươi sáu tuổi.

(theo tạp chí Từ Vân số 126)

Nhận định:

Ðại Sư mỗi ngày tụng kinh Hoa Nghiêm, tu Chơn Không Quán, từng nhập Pháp Giới Ðịnh, từ đấy tu Quán chẳng lui sụt. Ðến năm sáu mươi tuổi, bắt đầu mỗi ngày hằng khóa niệm Phật ba vạn tiếng; đấy là bỏ Quán niệm Phật.

Từ năm tám mươi tuổi trở đi, chợt lại tọa Thiền, niệm Phật cộng tu. Ðấy là tuổi già tịnh tọa niệm Phật, chứ chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu. Không bịnh, đang đứng mà hóa, nhất định phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.

Tinh tấn Phật thất

Ðại sư Chử Vân Thật Tuyền Tỉnh Thế thời Dân Quốc, người huyện Như Cao, tỉnh Giang Tô. Ðến tuổi nhược quan (tuổi đôi mươi), xuất gia thọ giới. Ngài lần lượt tốt nghiệp các đại Phật Học Viện tại Hoa Lục, thâm nhập Tam Tạng, chuyên tu Tịnh Ðộ.

Năm Dân Quốc 39 (1950), sư theo quân đội sang Ðài Loan, lãnh chức thầy truyền giáo ở y viện hậu phương, tiếp dẫn vô số thương binh quy y Tam Bảo. Về sau đáp ứng lời thỉnh cầu khẩn khoản của phân hội Phật Giáo Ðài Loan, ngài trở về đảo truyền giáo, thâm nhập vùng thôn dã, hoằng dương Tịnh Ðộ. Ngài lần lượt chống tích trượng ra hải ngoại, viếng thăm các nước Mỹ, Gia Nã Ðại, Ðại Hàn, Thái, Việt Nam v.v… tuyên dương Phật pháp, thăm hỏi kiều bào. Ngài vì nước vì đạo dốc bao công lao!

Năm Dân Quốc 47 (1958), sau khi bế quan tiềm tu, ngài hoằng pháp lợi sanh chẳng tiếc sức. Năm Dân Quốc 61 (1972), ngài bắt đầu đề xướng việc tu tập Tinh Tấn Phật Thất, mỗi ngày niệm Phật đến tàn hết chín cây hương, lễ Phật một ngàn lạy, lấy thân mình làm gương để hóa đạo tứ chúng và các sinh viên đại học chuyên ngành Phật học. Suốt mười lăm năm, sư đều giữ đúng như buổi đầu.

Ngài lại dự trù kiến lập chùa Thanh Lương Hộ Quốc ở Hoa Sơn thuộc Ðài Trung, dựng Tịnh Tông Phật Học Viện để chuyên hoằng truyền Tinh Tấn Phật Thất Tịnh Ðộ Ðạo Tràng.

Trước tác có: Phật Giáo Dữ Cơ Ðốc Giáo Tỷ Giảo (so sánh Phật giáo và Cơ Ðốc giáo), Nam Hải Phổ Ðà Sơn Truyền Kỳ Dị Văn Lục (ghi chép về những chuyện kỳ lạ được lưu truyền ở núi Phổ Ðà trong Nam Hải), Phật Môn Dị Ký (ghi chép những chuyện lạ nơi cửa Phật), Chử Vân Pháp Sư Giảng Diễn Tập, Tinh Tấn Phật Thất Khai Thị Lục… hơn mười cuốn, được lưu hành rộng rãi trong nước lẫn hải ngoại, rộng tiếp độ tín chúng.

Tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), ngài biết trước thời khắc, từ tinh xá Di Ðà ở Ðài Bắc điện thoại cho pháp sư Huệ Khải chùa Thanh Lương Hộ Quốc ở Thái Bình, Ðài Trung:

- Tôi muốn đến Liên Xã ở Phụng Hoàng Sơn tạm ngụ hai mươi ngày, tôi muốn đi rồi!

Quả nhiên, 9 giờ tối ngày hai mươi ngài tới Liên Xã, mỗi ngày niệm Phật, kiêm trì chú Vãng Sanh một trăm hai mươi biến. Ðến chín giờ tối ngày mồng Chín tháng Tám, vừa đúng hai mươi ngày (ngài ngụ tại đó), ngài liền nằm yên lành, tay lần xâu chuỗi, môi khẽ động niệm Phật, chợt dặn dò đệ tử đứng hầu:

- Mọi người hãy chăm chỉ niệm Phật.

Rồi an tường vãng sanh, thọ sáu mươi tám tuổi.

(theo Chử Vân HòaThượng Kỷ Niệm Chuyên Tập)

Nhận định:

Phật dạy: “Nghe nói A Di Ðà Phật, chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Lúc lâm chung liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc” cho nên phải tinh tấn niệm Phật trong bảy ngày thì mới hòng đạt được nhất tâm bất loạn.

Nếu bảy ngày chẳng thành thì điều dưỡng tinh thần, lại tinh tấn thêm một thất, hai thất cho đến bảy thất. Nếu vẫn chẳng đắc Nhất Tâm Bất Loạn phải dõng mãnh, tinh tấn, thường tu Phật thất thì lâu ngày sẽ tự đạt được Nhất Tâm Bất Loạn. Xin hãy bắt chước đại sư tinh tấn.

Luật Tịnh song hoằng (hoằng dương Luật tông và Tịnh tông đồng thời)

Ðại sư Ðạo Nguyên Trung Luân Năng Tín thời Dân Quốc, họ Vương, người Thương Thủy tỉnh Hà Nam. Từ bé đã thông duệ, bảy tuổi vào trường đọc sách; hai mươi tuổi xuất gia. Không lâu sau, thọ Cụ Túc, thân cận đại sư Từ Châu ở tỉnh Giang Tô và đại sư Ấn Quang chùa Linh Nham.

Ðối với hai tông: Luật tông và Tịnh tông, ngài được thọ truyền và tâm đắc thâm sâu. Ngài liền bế quan ba năm, tiềm tu Tịnh nghiệp, dùng hai tông Luật và Tịnh để tự hành và hóa độ người, chẳng tiếc sức. Sư triều lễ ba đại danh sơn: Phổ Ðà, Cửu Hoa, Ngũ Ðài; từng đảm nhiệm chức giáo sư và chủ giảng tại các Phật học viện.

Sư liên tiếp đảm nhiệm vai trò Giáo Thọ trong sáu lần Giới Ðàn. Ngài trụ trì các chùa Ðâu Suất ở Hà Bắc, chùa Vân Tuyền Sơn ở Trương Gia Khẩu, chùa Tịnh An ở Thượng Hải… Ngài luôn giảng diễn Giới Luật, hoằng dương Tịnh Ðộ. Giải hạnh đều thâm sâu, tứ chúng quy ngưỡng!

Tháng Ba năm Dân Quốc ba mươi tám (1949), sư qua Ðài Loan, sáng lập Tịnh Ðộ Tông Hải Hội Tự ở núi Chánh Ðạo thuộc phường Bát Ðổ, thành phố Cơ Long. Sư thường chủ trì Phật thất, hoằng truyền Tịnh Ðộ. Ở Ðài Loan, mỗi năm truyền tam đàn đại giới một hoặc hai lần, truyền giới tại gia nhiều lần, hầu như đại sư luôn đảm nhiệm một chức vị trong Tam Sư.

Lúc được suy cử làm Lý Sự Trưởng của hội Phật Giáo Trung Quốc, khi đại hội Hoa tăng thế giới khai mạc, sư lại được cử làm chủ tịch của chủ tịch đoàn đại hội. Ðức hạnh của sư vang dội cả hoàn cầu. Sư thường du hóa tại các nước Mỹ, Gia Nã Ðại, Nhật Bản, Ðại Hàn, Thái Lan, Tinh Châu (Singapore), Mã Lai, Cao Miên v.v… Hương Cảng là nơi sư thường đến để giảng kinh, truyền giới. Pháp duyên thù thắng, ít vị tăng nào bằng nổi.

Về già, sư sáng lập Năng Nhân Phật Học Viện để bồi dưỡng, đào tạo tăng tài hoằng dương Tịnh Tông. Cả một đời, sư thường ở khắp các chùa viện để giảng kinh, thuyết pháp, hoằng truyền Tịnh Ðộ ngũ kinh, nhất luận (3) [(3) Tịnh Ðộ ngũ kinh nhất luận: Kinh A Di Ðà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm, và chương Thế Chí Niệm Phật Viên Thông là Tịnh Ðộ ngũ kinh. Nhất luận là Vãng Sanh Luận của Bồ Tát Thế Thân]. Nhằm thích ứng với cơ duyên các nơi, Sư cũng thường giảng các kinh luận như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Ðịa Tạng, Khởi Tín Luận v.v… Giảng kinh luận nào, sư cũng đều quy hướng Tịnh Ðộ. Người nghe pháp khởi lòng tin, trì giới niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ chẳng biết là bao nhiêu!

Tiếc là những kinh, luận Sư đã giảng chưa được ghi chép đầy đủ, chỉ có những cuốn giảng lục kinh Di Ðà, Quán Kinh và Phật Ðường Giảng Thoại Ngũ Tập là được ấn loát và lưu hành trong đời, nhưng cũng đủ để làm chỉ nam phổ độ chúng sanh đồng quy Tịnh Ðộ.

Ngày mồng Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 76 (1987), sư chợt thị hiện có bệnh, nằm điều dưỡng trong bịnh viện. Biết thời giờ đã đến, ngài liền phó chúc hậu sự. Ðêm ngày Rằm tháng Tư năm sau, Sư chợt bảo đồ chúng đang hầu cận đưa ngài về chùa Hải Hội. Sư ngồi ngay ngắn, hướng dẫn đại chúng niệm Phật. Một chốc sau, sư lên giường nằm an tường bên hông hữu, môi khẽ động niệm Phật. Ðến bảy giờ rưỡi tối hôm sau, giữa tiếng niệm Phật của đại chúng, sư an tường xả báo, vãng sanh Cực Lạc.

Ðến ngày 18, khi làm lễ đại liệm, toàn thân Sư vẫn mềm mại, sắc mặt như còn sống. Ngày mười ba tháng Năm, di quan trà tỳ, thu được hơn ngàn viên xá lợi ngũ sắc, chiếu sáng rực rỡ. Sư thọ 89 tuổi.

(theo Ðạo Nguyên Lão Pháp Sư Kỷ Niệm Tập)

Nhận định:

Ðại sư học pháp từ hai vị đại lão Từ Châu và Ấn Quang. Tiếp nối nghiệp thầy nên lấy Tịnh Luật song hoằng làm trách nhiệm, phổ khuyến đại chúng trì giới niệm Phật, hóa độ phổ cập khắp Trung Hoa lẫn hải ngoại. Từ sau lúc vị Tổ thứ mười ba của Tịnh Tông là Ấn Quang đại sư quy hồi An Dưỡng, chỉ có mình đại sư hoằng truyền Tịnh Tông, là chỗ hướng về của đại chúng.

Ngài đáng được tôn xưng là Tổ thứ mười bốn của Tịnh tông vì đã tiếp nối người trước, mở đường cho người sau, tiếp lối cũ, mở lối mới, ắt có lẽ tứ chúng trong Tịnh tông ta đều cùng tán đồng vậy!

 

Trì giới niệm Phật

Cư sĩ Lưu Trình Chi, tự Trọng Tư, hiệu Di Dân đời Tấn, người Bành Thành. Thuở nhỏ mồ côi, thờ mẹ hiếu thuận, thích Lão Trang, giữ chức Phủ Tham Quân. Ông cực lực từ bỏ chuyện tiến dẫn trên đường công khanh, đến Lô Sơn theo học với Tổ Huệ Viễn. Tổ hỏi:

- Quan chức, bổng lộc vòi vọi sao lại chẳng làm?

- Nhà Tấn không có sự được sự bền vững như đá tảng, dân tình mang nỗi nguy như trứng chồng, con biết làm thế nào?

Ông cùng những vị sĩ phu có lòng tin thanh tịnh như Tông Khác v.v… một trăm hai mươi ba người dựng am, kết xã đồng tu Tịnh Nghiệp, khắc đá lập thệ. Ông nghiên cứu đạo huyền một cách tinh tường, kiêm trì giới cấm, làm thơ Niệm Phật Tam Muội.

Ở Lô Sơn mới được nửa năm, trong khi nhập Ðịnh, ông thấy kim quang của Phật chiếu sáng mặt đất. Mười lăm năm sau, trong khi đang niệm Phật, thấy tướng ngọc hào quang của Phật chiếu soi, Phật xòe tay đón tiếp, vỗ về. Ông Lưu nguyện:

- Xin Phật xoa đầu con, dùng y trùm thân con!

Phật liền xoa đầu ông, lại dùng áo ca sa trùm lên. Tiếp đó, ông lại mộng thấy mình vào trong ao bảy báu, thấy hoa sen xanh, trắng, và thấy một vị sau cổ có viên quang, trên ngực có chữ Vạn, chỉ nước trong ao bảo:

- Nước tám công đức đó, ông nên uống đi!

Uống vào thấy nước ngon ngọt. Tỉnh giấc, thấy mùi hương lạ bốc ra từ lỗ chân lông, bèn nói:

- Ðây là duyên Tịnh Ðộ của mình đã đến rồi!

Ông đốt hương, lễ nguyện:

- Nguyện cho hết thảy hữu tình đều sanh Tịnh Ðộ.

Ông từ biệt đại chúng, hướng về Tây tọa hóa, thọ năm mươi chín tuổi.

(theo Ðông Lâm Truyện)

Nhận định:

Từ lúc ngài Huệ Viễn đề xướng Tịnh Ðộ, trong những cư sĩ theo ngài kết xã niệm Phật thì vị cư sĩ này là người thứ nhất vãng sanh nên được nêu lên đầu tiên để làm khuôn phép vĩnh viễn cho việc trì giới niệm Phật.

Xâu chuỗi chẳng rời tay

Cư sĩ Vương Cổ tự Mẫn Trọng đời Tống, người Ðông Quận, là tằng tôn của Văn Chánh Vương Công Ðán (ông Ðán làm Tướng Quốc đời Tống, từng tham gia Tịnh Hạnh Xã của tổ Tỉnh Thường). Trong bảy đời trước, ông từng giữ giới không sát sanh, phát tâm phóng sanh mấy cả trăm vạn mạng.

Lúc đầu, ông học hỏi những sự trong Tông môn. Ít lâu sau, viết tác phẩm Trực Chỉ Tịnh Ðộ Quyết Nghi Tập để hoằng dương Thánh giáo. Lúc nhàn cư, xâu chuỗi chẳng rời tay; đi, đứng, nằm, ngồi đều tu hành Tịnh nghiệp chưa hề gián đoạn. Ông làm quan đến chức Hộ Bộ Thị Lang; do bè đảng trong triều xâu xé nhau, ông bị mất chức, ít lâu sau liền tịch. Có vị Tăng nhập định lên Tịnh Ðộ, thấy ông và ông Cát Phồn đều ở tại đó.

(theo Tống Sử, phần Pháp Hỷ Chí)

Nhận định:

Kinh Sổ Châu Công Ðức nói: “Nếu có người tay cầm xâu chuỗi dù chẳng niệm tụng danh hiệu Phật và đà ra ni thì người ấy cũng được phước vô lượng”, huống hồ là xâu chuỗi chẳng rời tay, niệm Phật không gián đoạn?

Quán kinh nói: “Từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh sẽ thượng phẩm thượng sanh”, huống hồ là phóng sanh đến cả trăm vạn mạng?

Mỗi ngày làm một điều lành

Cư sĩ Cát Phồn đời Tống, người xứ Trừng Giang. Lúc đầu mỗi ngày làm một điều lợi cho người, rồi hành hai điều, ba điều cho đến mười điều. Suốt mấy mươi năm chưa hề bỏ phế một ngày nào.

Lúc làm quan thái thú trấn nhậm vùng Giang Tô, có người hỏi làm thế nào để làm lợi cho người, ông chỉ ngay cái bệ lót chân ở chỗ mình ngồi, bảo:

- Nếu vật này chẳng đặt ngay thì sẽ làm người ta què chân, tôi liền kê ngay lại, đấy cũng là việc lợi người. Nếu ai khát, tôi cho uống nước thì cũng là việc lợi người. Chỉ tùy theo từng việc mà làm lợi. Trên cho đến khanh tướng, dưới xuống đến kẻ ăn mày, ai nấy đều làm được. Chỉ cốt sao lâu ngày chẳng buông bỏ mà thôi.

Ông làm quan đến chức Triêu Tán Ðại Phu, dù là phủ đường hay nhà tư, ông đều sắp dọn một gian tịnh thất bày tượng Phật. Một ngày kia, trong lúc ông đang lễ bái niệm Phật, xá lợi từ trên không hạ xuống. Sau ông không bịnh tật gì, ngồi ngay ngắn hướng về Tây mà tịch.

(theo Tống Sử và Long Thư Tịnh Ðộ Văn)

Nhận định:

Tùy việc lợi người là trợ hạnh cho Tịnh nghiệp. Xá lợi từ trên không giáng xuống là do lòng tinh thành cảm nên. Người hay than không tiền nên chẳng làm công đức nổi, hoặc niệm Phật không cảm ứng thì do đây sẽ thấy công đức chẳng tốn phí tiền bạc, công niệm Phật chẳng luống uổng, ai nấy chẳng nên quan tâm ra sức tu hành hay sao?

Xin hãy bắt chước ông Cát gắng sức tu hành. Phàm bất cứ việc gì có lợi cho người, chẳng cần biết là việc lớn hay nhỏ, bản thân nhàn hay bận, sức mình cáng đáng nổi hay không, đều cứ hoan hỷ thi hành, làm được đến đâu hay đến đó!

Trì đã thuần thục, hễ động thì vạn thiện đều nương theo, không việc gì là chẳng lành. Dùng đấy để niệm Phật hồi hướng, ắt vãng sanh trong phẩm vị cao!

Thập niệm hồi hướng

Cư sĩ Mã Vu tự Trọng Ngọc đời Tống, người huyện Hợp Phì. Cha là Trung Túc Công Mã Lương, làm thái thú Hàng Châu, được ngài Từ Vân Tuân Thức dạy cho pháp môn Tịnh Ðộ, cả nhà bèn thờ Phật.

Cư sĩ gặp được vị Tăng tên Quảng Sơ truyền cho cuốn Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai, mừng rỡ bảo:

- Tôi nay đã tìm được chỗ về rồi!

Ông liền áp dụng pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Tuân Thức, tu tập suốt hơn hai mươi năm. Về sau, giao du với ông Vương Cổ, ông càng thêm tinh tấn niệm Phật, thường lấy việc phóng sanh làm Phật sự. Ông lần lượt làm thái thú ở Chuy Châu, Tân Ðịnh, cai trị bằng lòng nhân từ, độ lượng. Hằng ngày ông luôn định thời khóa tụng kinh chú.

Thuở đó, phu nhân của Hình Vương (Hình Vương là chú của vua Tống Triết Tông) nằm mộng dạo chơi Liên Trì, trông thấy ông mặc triều phục ngồi trên hoa sen. Sau đó, ông mắc bệnh, bèn tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà qua đời. Người nhà đều nằm mộng thấy ông bảo:

- Ta đã được sanh vào Thượng Phẩm của Tịnh Ðộ!

Con ông là Vĩnh Dật cũng tu pháp Thập Niệm suốt ba mươi năm hơn; sau cũng mắc bệnh, thấy Phật và hai vị Bồ Tát tiếp dẫn, bèn kết ấn, thị tịch. Mùi thơm tràn ngập cả nhà.

(theo Lạc Bang Văn Loại)

Nhận định:

Sáng ra niệm mười niệm thì dù là người bận rộn cũng dễ làm được. Nếu có thể mỗi ngày chí thành như thế thì không ai là không vãng sanh. Trường hợp của Mã công tử (Mã Vĩnh Dật) đủ để chứng nghiệm vậy.

Do sau khi đã tinh tấn niệm Phật, ông Mã lại còn thường phóng sanh và dùng lòng nhân từ, độ lượng để cai trị, phước huệ song tu nên ngay lúc còn sống thần thức đã ngao du Tịnh Ðộ; chết đi, liền sanh trong Thượng Phẩm. Những người đang nắm giữ quyền chức hãy nên học theo gương ông.

Ngàn lạy trong khóa tụng hằng ngày

Cư sĩ Vương Nhật Hưu hiệu Hư Trung đời Tống, người huyện Long Thư. Ðược cử vào chức Quốc Học Tấn Sĩ, ông bỏ quan chức chẳng nhận. Ông bác thông kinh sử, nhưng một bữa kia buông bỏ hết, bảo:

- Ðều là những thứ tạo thêm nghiệp, chẳng phải là pháp rốt ráo, ta lấy Tây Phương làm chỗ quay về!

Từ đấy, ông tinh tấn niệm Phật. Năm sáu mươi tuổi, ông mặc áo vải, ăn rau, nhật khóa lễ một ngàn lạy đến nửa đêm mới nghỉ. Trong tác phẩm Long Thư Tịnh Ðộ Văn, từ hạng vua, quan cho đến những kẻ đồ tể, nấu rượu, hạng người tội lỗi, ông đều khuyên trì danh niệm Phật, phổ khuyến tu trì.

Ba ngày trước khi mất, ông từ biệt tất cả thân hữu, khuyên họ nên tinh tấn Tịnh nghiệp, bảo: mình sắp có việc phải đi, không gặp lại nhau nữa. Ðến kỳ, ông giảng sách cho học trò xong, lễ niệm như thường, chợt cao giọng niệm Phật mấy tiếng, bảo: “Phật đến đón ta!”, đứng trơ trơ mà hóa.

(theo Tịnh Ðộ Văn)

Nhận định:

Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy:

“Lễ Phật một lạy được mười thứ công đức:

1. Một là được sắc thân đẹp đẽ.

2. Hai là nói ra được người khác tin tưởng.

3. Ba là ở giữa đại chúng không sợ hãi.

4. Bốn là được chư Phật hộ niệm.

5. Năm là đầy đủ oai nghi.

6. Sáu là mọi người thân cận.

7. Bảy là chư thiên kính yêu.

8. Tám là đủ đại phước báo.

9. Chín là chết đi sẽ vãng sanh.

10. Mười là mau chứng Niết Bàn”

Huống hồ là nhật khóa ngàn lạy ư?

Tác phẩm Tịnh Ðộ Văn của ông tuy lời lẽ đơn giản, nhưng thí dụ sâu xa đều là do ông bác thông kinh luận và thân hạnh cùng tột mà thành. Phổ khuyến tu trì thật là thiết tha, khẩn khoản; ai đọc đến mà chẳng phát khởi tín tâm? Xin hãy ấn hành lưu thông rộng rãi tác phẩm ấy để khuyên khắp mọi người lễ niệm, đồng sanh Tịnh Ðộ.

Ðoạn tuyệt đồ mặn, vãng sanh Tây Phương

Cư sĩ Châu Sở Phong, hiệu Diên Chương đời Minh, người tỉnh Vân Nam. Ông tánh hiền lương, thích niệm Phật, trị gia chẳng kể được, mất; có gì đều chia ngay cho người nghèo khổ hết.

Ai khen ông chỉ cười; ai mắng chửi, nhục mạ, ông cũng chỉ cười mà thôi! Mỗi sáng sớm, ông tụng kinh Kim Cang, kinh Di Ðà và niệm Phật hiệu rất vui vẻ, sung sướng! Ông thường bảo:

- Tôi chẳng bỏ công việc hằng ngày, nhưng chẳng dính vào tham ái, cứ như thế mà thôi!

Năm tám mươi chín tuổi, vào tiết Thanh Minh, ông đi viếng mộ để từ biệt tổ tiên, cha mẹ; trở về, bảo vợ:

- Tôi sắp đi đây, Phật Di Ðà đón tôi, Quán Âm và Thế Chí đều đến cả!

Lại bảo:

- Ðức Quán Âm bảo tôi dứt trọn đồ mặn trong năm ngày mới được vãng sanh Tây Phương!

Mỗi ngày, ông liền ăn một bữa cháo, một bữa rau. Ðến kỳ, tắm gội, đội mão, sai con cháu tụng Phật hiệu. Tự mình tụng kinh xong, ông đoan tọa mà hóa. Thân bốc ra mùi thơm, vẻ mặt hệt như lúc sống.

(theo Kim Cang Linh Dị Lục)

Nhận định:

Ai khen chỉ cười là mật hạnh tịnh tấn. Ai mắng chửi cũng cười là sân độc đã hết sạch. Có của cải gì liền chia hết là tham độc cũng đã tận. Phật và Bồ Tát đến đón, còn dặn phải kiêng đồ mặn trong năm ngày mới có thể vãng sanh, đủ chứng minh rằng dù chưa thể ngưng tay dao, miệng còn tham vị ngon vẫn có thể được vãng sanh. Xin hãy lấy việc ăn chay, kiêng giết chóc làm nhiệm vụ cấp bách.

Lâm chung dũng mãnh

Cư sĩ Văn Trọng Tử, tự Tử Dữ, hiệu Khải Sơ và Ðại Thịnh đời Minh, người huyện Tiền Ðường. Thuở bé lắm bịnh, chí muốn thoát sanh tử, không có ý định lập gia đình. Ông quy y với Tổ Vân Thê, thọ trì pháp môn Niệm Phật, dốc lòng tin, cật lực tu hành.

Em rể là cư sĩ Hoàng Nguyên Phù tự Thừa Huệ, hiệu Tịnh Minh tính người khẳng khái, thanh cảnh, không thích bon chen cõi tục, hiếu thuận, thích bố thí. Ông Văn thấy em rể thanh bần như thế bèn hướng dẫn đến quy y với tổ Vân Thê. Sau ông Hoàng mửa ra máu, lâu ngày càng nặng, ông Văn lại dạy em rể hãy niệm Phật. Ông Hoàng càng thống khổ; vừa mới tỉnh, Văn cư sĩ đã lớn tiếng hỏi:

- Lúc mắt chú dại đi thì lúc ấy mới biết khổ, rốt cục sẽ đi về đâu?

Ông Hoàng run sợ:

- Phải làm thế nào đây?

Ông Văn bảo:

- Chẳng gì bằng niệm Phật!

Ông Hoàng hỏi:

- Bác dạy em niệm tự tánh Di Ðà hay là niệm Cực Lạc Di Ðà?

Ông Văn bảo:

- Chú cho là có hai hay sao?

Ông Hoàng có phần tỉnh ngộ, liền thỉnh Tăng, bày tượng Phật, giảng nhân duyên Tịnh Ðộ, xuống tóc, thọ giới Sa Di và trợ niệm cho mình; tự suất lãnh cả nhà niệm Phật suốt bảy ngày. Chợt nghe mùi hoa sen, ông Hoàng mỉm cười, nói kệ, ngồi ngay ngắn qua đời.

Ðến khi ngài Hám Sơn Ðức Thanh đến điếu tang ngài Vân Thê, ông Văn cũng đến lễ thỉnh, xin được thế phát. Ðại Sư bảo:

- Tứ đại chẳng thể ngăn trở được Phật tánh, râu tóc có trở ngại chi! Cha mẹ còn, Phật tử đành cam bất hiếu hay sao?

Ông mới thôi. Về sau, bị bịnh nặng, ông tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn gì. Ðến lúc bịnh gần chết, bao nhiêu nghiệp tích tập hiện tiền, tâm thần hoảng hốt, ông mới biết là Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ dàng, bèn cố nhỏm dậy, kêu ầm lên:

- Mau thỉnh thiện tri thức niệm Phật giúp ta!

Bạn bè nhóm lại, niệm Phật suốt mấy ngày, nhưng những nghiệp cảnh tập khí vẫn vần vũ, ông lại kêu:

- Căn bản sanh tử không người nào khác dẹp nổi!

Liền đứng dậy, mặc áo, tắm gội, đối trước Phật đốt hương trên cánh tay, buồn thương, thành khẩn sám hối, niệm Phật suốt đêm không chút mệt mỏi. Ông tự biết túc chướng đã băng tiêu, tâm an thần sảng, Tịnh Ðộ hiện tiền, hoan hỷ tịch định, vội cạo tóc, khoác cà sa ra dáng tăng sĩ, từ biệt mọi người, ngồi ngay ngắn qua đời.

(theo Mộng Du Tập)

Nhận định:

Ông Hoàng bịnh càng ngày càng nặng, chợt được nghe khai thị bèn tỉnh ngộ, liền nhất niệm kiên quyết nên bèn có thể buông xuống vạn duyên, niệm Phật bảy ngày, vãng sanh ngay chẳng trở ngại gì.

Ông Văn tuy sớm dốc lòng tin, tận lực tu hành, nhưng tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn; đến lúc nguy ách, tập khí hiện tiền, mới biết Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ! Cho đến khi nhờ tri thức trợ niệm suốt mấy ngày vô hiệu mới rõ căn bản sanh tử không ai bạt trừ giùm mình được nổi!

Ðại sư Hám Sơn nói:

“Tập cảnh hiện tiền lúc lâm chung há chẳng phải là để thấy trước ác đạo ư? Sao chẳng dũng mãnh, phấn khởi, hô to một tiếng giận dữ, bạt trừ cội gốc sanh tử bao kiếp, biến nẻo khổ thành Tịnh Ðộ, há chẳng phải là những bậc trượng phu hay sao? Ðạo lý ấy há có thể dùng âm thanh, vẻ mặt cười cợt để thực hành nổi ư?”

Nếu tự thị là dễ thì sẽ lười nhác, còn biết là khó thì sẽ dũng mãnh, tinh tấn!

Thầy thuốc khuyên niệm Phật

Cư sĩ Trầm Khải Bạch tự Trung Húc đời Thanh, người Ngô Huyện; thuở nhỏ tánh hào đãng, thích giúp đỡ người hoạn nạn. Sau ông nổi danh về tài làm thuốc, càng ưa bố thí. Ðối với người nghèo, ông chẳng lấy tiền khám bịnh, hoặc còn cho thêm tiền.

Năm hai mươi lăm tuổi, vợ mất, ông không tái giá, dốc lòng tu Tịnh nghiệp. Trên những tăng phường, đầu đường, thành cầu đi qua, ông đều đề danh hiệu Tây Phương Phật và những lời cảnh sách khuyên người niệm Phật. Gặp phải người bịnh nguy ngập, ông đều nghiêm nghị bảo:

- Tội nghiệt sâu nặng, sức tôi chẳng cứu nổi biết làm sao đây!

Người bịnh khóc lóc cố van nài, ông liền bảo:

- Chỉ có đức A Di Ðà Phật ở thế giới Cực Lạc nơi phương Tây, nếu ông có thể chí tâm xưng niệm một tiếng thì diệt được tội trong tám mươi kiếp sanh tử. Ông có tin nổi, niệm nổi hay không?

Kẻ ấy vâng vâng, dạ dạ. Ông bảo:

- Nếu đúng là như vậy thì bịnh có thể trị được!

Liền cắt thuốc, lần nào cũng hiệu nghiệm lạ kỳ nên từ đó, những người quy hướng Phật rất nhiều. Lúc hơn bảy mươi tuổi, ông niệm Phật rồi tịch.

(theo sách Nhị Lâm Cư, tập cuối)

Nhận định:

Bố Thí là độ đầu trong Lục Ðộ. Ông Vương Long Thư nói:

“Kẻ làm thầy thuốc nên thường tự nghĩ: Thân người bịnh khổ nào khác thân ta. Chớ nề quý, tiện, nghèo, giàu, chuyên tâm cứu người để kết nhân duyên, để tích phước cho mình. Trong chốn u minh sẽ tự được thánh hiền gia hộ. Nếu luôn giữ được tấm lòng như vậy, hồi hướng Tịnh Ðộ ắt sẽ sanh trong Thượng Phẩm.

Nếu nhân lúc người khác bị bịnh khổ mà mình khuyên dạy họ Tịnh Ðộ thì họ dễ sanh tín tâm. Lại khiến cho họ phát đại nguyện: sẽ lưu truyền rộng rãi chuyện của họ để bù chuộc túc nghiệp, cầu mong được lành bệnh thì ắt sẽ được thỏa nguyện. Nếu như tuổi thọ đã hết thì cũng nhờ vào nguyện lực ấy chóng sanh về Tịnh Ðộ.

Thường giáo hóa người khác như vậy thì chẳng những chỉ sau khi xả thân được sanh trong Thượng Phẩm mà ngay trong hiện đời cũng được hưởng phước báo vô tận vậy!”

Làm quan thờ Phật

Ông Trương Lan Chử, tự Sư Thành, hiệu Nhất Tây Cư Sĩ đời Thanh, người huyện Quy An ở Hồ Châu. Lúc trẻ, đỗ đạt, đi trấn nhậm những vùng biên cương.

Ông làm tuần vũ tỉnh Giang Tô, thấy sát nghiệp quá nặng bèn nhiều lần ra yết thị khuyên tránh sát sanh, lập con sông phóng sanh, nghiêm cấm đánh cá; trong dinh không thết tiệc đãi khách, không sát sanh, trường trai thờ Phật, gởi lòng nơi Tịnh Ðộ.

Ông chọn lấy những luận thuyết Tịnh Ðộ của các bậc tiên hiền, soạn thành cuốn Kính Trung Kính Hựu Kính (con đường tắt hơn con đường tắt nhất trong những đường tắt) để phổ khuyến niệm Phật.

Lúc đã ngoài sáu mươi tuổi, ông xin từ quan, về làng, ở yên trong một gian nhà hẹp, một dạ quy Tây. Lâm chung, tụng kinh Di Ðà xong, vừa mới niệm Phật hiệu được năm câu, ông lặng lẽ tịch.

(theo Trương Lan Chử Niên Phổ)

Nhận định:

Phú quý học đạo khó vì kẻ theo đuổi công danh lấy việc thăng quan tiến chức làm trọng; kẻ ham vui phóng dật coi tịnh tu là khổ, đâu ai chịu buông bỏ trần lao để gởi lòng nơi Tịnh Ðộ, trường trai thờ Phật?

Xin những người làm quan hãy lấy ông Trương làm gương.

Từ Ðạo Giáo chuyển sang Phật giáo

Ông Bành Xích Mộc tự Thiệu Thăng, hiệu Tế Thanh, Nhị Lâm Cư Sĩ, Tri Quy Tử… đời Thanh là người Trường Châu. Năm mười tám tuổi, ông liên tiếp đỗ đầu, được danh hiệu Tấn Sĩ.

Ðột nhiên, ông tự tỉnh ngộ, bảo: “Ta chưa minh được cái tâm mình, biết làm sao đây!” Bèn tu luyện theo cách tu của Ðạo Gia suốt ba năm, chẳng kết quả gì. Ðọc sách Phật, ông sảng khoái nói: “Ðạo chính là đây!”. Từ đấy, ông tin tưởng đạo Phật, bỏ hết những điều mình đang tu tập, chuyên tâm niệm Phật.

Ít lâu sau, ông thọ Bồ Tát giới, thôi ăn thịt, chẳng gần đàn bà; thường bảo: chí nơi Tây Phương, hạnh tại Phạm Võng. Ông bế quan tại Văn Tinh Các tu Nhất Hạnh Tam Muội; đề biển Nhất Hạnh Cư. Ông sai thợ vẽ tranh Cực Lạc Thế Giới dựa theo cảnh y báo, chánh báo trang nghiêm được dạy trong ba kinh Tịnh Ðộ.

Ông viết cuốn Nhất Thừa Quyết Nghi Luận; do thông đạt cả Nho lẫn Thích nên ông còn soạn cuốn Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận để dàn hòa cuộc tranh luận giữa Thiền và Tịnh. Ông soạn ra Tịnh Ðộ Tam Kinh Tân Luận để xiển dương những ý chỉ chưa được bàn luận rốt ráo trong Liên Tông. Những tác phẩm của ông như Cư Sĩ Truyện, Thiện Nữ Nhân Truyện, Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục v.v… tùy cơ tiếp dẫn, được truyền tụng nhiều trong đời.

Ông bỏ ra cả vạn lượng vàng như không để lập chùa thờ Phật, ấn tống kinh điển, nuôi cơm tăng chúng, mở ra Cận Thủ Ðường để chữa bịnh cho người nghèo túng, dùng ruộng của người giàu trong họ để giúp đỡ họ hàng nghèo. Ông sáng lập Tuất Ly Hội để giúp đỡ những người ở góa, lập nên Phóng Sanh Hội để chuộc mạng cho loài vật. Việc nào ông cũng làm văn phát nguyện hồi hướng Tịnh Ðộ. Ông ẩn cư trong các tăng xá ở đất Tô, Hàng hơn mười năm, mỗi ngày đều có thời khóa tụng niệm.

Sau ông mắc bịnh hạ lỵ, biết trước ngày mất, chẳng lập kẻ thừa tự, đem những tài sản của các hội giao phó cho con rể, dặn dò duy trì lâu dài, đừng để tan rã. Ông làm kệ từ biệt cõi đời, hướng về Tây niệm Phật tọa thoát. Thọ năm mươi bảy tuổi.

(theo Cư Sĩ Truyện)

Nhận định:

Tuổi trẻ đã đỗ đạt cao, nhưng chẳng tham luyến vinh hoa cõi trần, chỉ cầu minh tâm, từ Ðạo giáo chuyển sang Phật giáo. Chánh hạnh, trợ hạnh kiêm tu, làm kệ, tọa thoát, nếu chẳng phải là thiện căn vốn sẵn đủ từ bao đời trước, đã thâm nhập Tam Muội thì sao mà làm nổi như vậy được?

Tiếng niệm Phật chẳng dứt

Cư sĩ Trầm Diên Du đời Thanh, người huyện Gia Hưng. Ông tánh tình đoan chánh, cẩn trọng, làm gì cũng hết sức, nhưng cứ liền miệng niệm Phật thao thao chẳng ngưng. Ai có cười cũng mặc.

Mấy mươi năm như thế, tự nói:

- Niệm Phật càng được thuần thục thì xử sự càng sáng suốt.

Năm bảy mươi ba tuổi, ông thị hiện bịnh nhẹ, chợt bảo người nhà rằng:

- Phật đến rồi đó, hãy đem đuốc cho ta.

Tự tay thắp hương mà thác.

(theo Nhiễm Hương Tập)

Nhận định:

Cư sĩ Hồ Liên Quy bảo:

“Niệm Phật càng được thuần thục thì xử sự càng sáng suốt. Ðây thật là động tịnh đều giống hệt như nhau, là bậc thâm nhập tam muội. Người dốc lòng mong cầu danh lợi động đến liền nói: ‘Tôi phân tâm xử sự đâu có rảnh mà niệm Phật. Ðến khi sanh tử xảy đến, đành phải trắng tay, là lỗi của ai vậy?”

Xin hãy mạnh mẽ tỉnh ngộ để gấp bắt chước gương này.

Ở một mình niệm Phật

Cư sĩ Bùi Vĩnh Ðộ đời Thanh người huyện Thái Châu tỉnh Giang Tô. Ông sống bằng nghề nông, tánh tình điềm đạm, không ham thích gì, cứ thấy việc lành là làm. Từ nhỏ đã dốc trọn lòng tin tưởng vào Phật pháp, ăn chay trường, định thời khóa niệm Phật không gián đoạn.

Sau đấy, ông thọ trì Tam Quy Ngũ Giới, hành trì nghiêm khiết, chưa hề khuyết lậu. Vợ cũng niệm Phật, thọ giới, tuy cùng ở chung một nhà, nhưng đối đãi với nhau trinh bạch. Chỉ có một con gái, cũng ăn chay niệm Phật. Về sau, cô này xuất gia thọ Cụ Túc giới, biến nhà thành am.

Ông dạy vợ con cùng tu Tịnh nghiệp. Ông lập riêng một căn tịnh thất, ở một mình niệm Phật hơn mấy mươi năm. Lúc tuổi gần thất tuần, chợt bảo thân tộc rằng:

- Năm ngày sau nữa ta sẽ chia tay, xin hãy thiêu hóa giùm cái xác thừa. Thân này như huyễn, đừng lầm lẫn mà tiếc nuối!

Ðến kỳ, ông trì danh tọa hóa. Trà tỳ, thu được hơn trăm viên xá lợi ngũ sắc lóng lánh.

(theo Nhiễm Hương Tục Tập)

Nhận định:

Cả nhà thờ Phật, vốn có thể đồng tu. Do con gái đã xuất gia biến nhà thành am nên ông cất một tịnh thất, ở một mình niệm Phật; không qua lại với vợ con nữa là ái căn đã đoạn, thân còn tại gia mà tâm đã xuất gia vậy!

Thân đau tâm niệm

Ðời Thanh, cư sĩ Châu Quang tự Tây Liên, sanh ở Giang Ninh. Ông tánh thuần hậu, nhạt nhẽo danh lợi, tuy gia thế quý hiển nhưng không quen thói hưởng thụ.

Tuổi trung niên, ông trường trai thờ Phật, mỗi ngày tụng Phật hiệu cả vạn tiếng để cầu sanh Tịnh Ðộ. Anh em, bè bạn gặp nhau, hàn huyên đôi câu xong là ông liền đem pháp môn Tịnh Ðộ khuyên đi, khuyên lại. Ông quyên tiền in lại bộ Di Ðà Sớ Sao, đích thân dò lỗi, sửa sai để tác phẩm này được lưu truyền rộng rãi.

Tuổi già, thần khí suy yếu nhưng niệm Phật càng thêm hăng hái. Ðột nhiên, ông bị mắc bệnh sa đì (còn gọi là thoát vị, tức chứng hernia) rất nặng, nhưng chẳng hề bỏ lỡ việc chấp trì danh hiệu. Bịnh ngày càng nặng thêm, có người thấy thế khen ngợi [tinh thần niệm Phật của ông], ông bảo:

- Trong những khi bị đau như vậy, lúc mới đầu tôi cũng đau đớn, khó chịu đựng nổi, nhưng rồi nghĩ đến thân này đã là giả thì khổ cũng chẳng phải là thật, huống hồ mức độ tinh và thô giữa thân và tâm đã rõ rành rành!

Cái thân kia thống khổ tôi chẳng biết làm cách nào; tâm tôi tự niệm Phật thì cái thân kia cũng chẳng làm gì được. Lúc mới đầu còn thấy có tâm và thân đối lập nhau, dần dần chỉ biết có tâm, chẳng còn biết có thân, thống khổ cũng dần dần hết!

Sau ông niệm Phật mà tịch.

(theo Nhiễm Hương Tập)

Nhận định:

Niệm Phật trị được trọng bịnh vạn kiếp sanh tử, huống hồ đã biết là thân giả, khổ chẳng thật thì sẽ nhẫn được điều khó nhẫn, chẳng những thống khổ sẽ tự tuyệt, mà đến lúc vãng sanh thì do trong lúc bịnh nguy ngập đau đớn đã làm chủ được, lúc lâm chung vãng sanh ắt sẽ tự chủ được!

Giác chiếu niệm Phật

Cư sĩ Phạm Dụng Hòa tự Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Lúc nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất có hiếu. Lúc cha mẹ bịnh, trước sau, ông đã cắt thịt bắp tay hòa với thuốc trị lành bịnh cho cha.

Bước vào tuổi tráng niên, cha mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần duyên, tu tập huyền công (cách tu hành của Ðạo giáo) hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm. Về sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhất chí kiên trì, thậm chí những thứ làm bằng lông thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều mình đã tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành, thí thuốc, phóng sanh, giúp đỡ người nghèo, chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo bịnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu gì.

Về sau, ông bế quan niệm Phật suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên yên tịnh thì cách tu huyền thuật trước kia chợt hiện ra, nhận thấy khí Thiên Ðịa cuồn cuộn, mù mịt trong không trung xông thẳng vào miệng, mũi, chạy thẳng vào huyệt Ðan Ðiền, hòa hợp với nguyên khí của chính mình, [cảm thấy] khinh an chẳng thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa bé cao mấy tấc từ đảnh đầu vọt ra, lãng đãng trước mặt; được một chốc, nó lại theo đảnh đầu trở vào.

Từ đấy trở đi, mỗi khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong niệm thì liền có đứa bé bước ra, trở vào như trên. Thoạt đầu, ông rất vui; lúc sau, ông chợt nghĩ:

- Ðây há chẳng phải là năm mươi thứ Ấm Ma như đã nói trong kinh Lăng Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc thì sẽ bị lạc vào quần ma! Niệm Phật chí tại Tây Phương, thánh cảnh chẳng hiện, sự này ích chi?

Ngay khi đó, ông liền giác chiếu, chánh niệm hiện tiền, đứa bé chẳng xuất hiện nữa. Ðối với yếu chỉ Duy Tâm, ông khế ngộ sâu xa; Tín - Hạnh - Nguyện lực càng thêm thuần thục. Thường bảo với mọi người rằng:

- Ðối với cửa ải hiểm yếu bậc nhất trong cuộc đời này nếu có chút phần chẳng rõ thì sẽ lạc vào bàng môn. Vì vậy, tu hành chẳng thể không thận trọng vậy!

Chợt ông kết liễu mọi việc, dặn dò, từ biệt bè bạn, ngồi niệm Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu vẫn còn nóng, thọ sáu mươi ba tuổi.

(theo Nhiễm Hương Tục Tập)

Nhận định:

Từng tu tập huyền công của ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên khỏi bị đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện tiền, quần tà tự diệt.

Mật hạnh tinh tấn

Cư sĩ họ Trần đời Thanh, không rõ tên là gì, là chú họ của các ông Thế Anh, Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng dậy, ông thắp hương yên lặng tụng kinh, niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng đều chẳng gián đoạn. Suốt mấy năm như thế người nhà chẳng hay vì ông hành mật hạnh.

Trước khi mất ba tháng, ông tự bảo đã đến lúc sắp mất, người nhà thấy ông không bịnh tật gì nên không tin. Ba ngày trước khi mất, ông thị hiện bịnh nhẹ, vẫn đi đứng như thường. Ðến ngày, ông tọa hóa, người nhà kêu khóc; ông bèn mở mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta đi đây!” Lại yên lặng, thân bốc ra mùi hương lạ ba ngày mới hết.

(theo Vãng Sanh Cận Nghiệm Lục)

Nhận định:

Cổ nhân mật hạnh, dù nóng hay lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà cũng chẳng hay biết. Nay thì hành nhân rêu rao khoe mẽ nhưng một ngày nóng mười ngày lạnh, cho nên người niệm Phật thì nhiều mà kẻ vãng sanh lại ít. Hãy dè dặt, hãy thận trọng!

Dụng công mãnh liệt

Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề nấu rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật.

Một người con của ông bịnh lao, niệm Phật qua đời, mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự tuyệt người khuyên tục huyền:

- Có con nhưng nó đã mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm gì? Chí tôi xuất thế, lẽ nào còn thèm thuồng có người nối dõi ư?

Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:

- Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.

Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bịnh thổ huyết, tâm sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Ðến lúc bịnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:

- Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, tôi phải dũng mãnh làm theo!

Ông liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðêm ngày niệm Phật chẳng sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay sao?” Ông nói:

- Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bịnh chẳng được an nhàn; nay do bịnh mới được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm sao còn mệt nhọc được?

Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:

- Lúc này, ngươi phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ý cầu về Tây Phương thì hơn.

Ông liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu còn miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có tiếng nói:

- Thân ông chưa sạch!

Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:

- Tôi đã đến được Tịnh Ðộ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!

Ông chỉ vào thân mình bảo:

- Ðây chẳng phải là thân ta!

Một lát, lại bảo:

- Phật đông nghẹt cả nhà!

Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi.

(theo Tục Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Nhận định:

Ðoạn được rượu thịt là tham độc đã hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân độc đã hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đã đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dõi là si độc đã hết.

Vì vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thối thất cái tâm ban đầu; dù bịnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù vì nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng công mạnh mẽ, lại được trợ duyên nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du cõi Sen, thật đáng làm gương vậy!

Trợ niệm đắc lực

Cư sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Ðồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.

Ông tham dự Liên Xã niệm Phật. Vì bị bịnh nên lại sát sanh, dần dần xa lìa các liên hữu. Sau bịnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét mình không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước Phật, tận tình bày tỏ, dốc lòng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề chẳng tái phạm.

Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết công năng trì danh của ông nông cạn nên trước hết vì ông thỉnh người trợ niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy quang minh. Ðến canh hai, liên hữu sắp ra về, chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đã có hiệu lực. Ông liền bảo:

- Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!

Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:

- Tôi nay đã đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!

Mắt ông nhìn chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến khi thân ông đã lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Ðến trưa hôm sau, đảnh đầu ông vẫn còn ấm, thọ ba mươi tuổi!

(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)

Nhận định:

Công phu trì danh nông cạn mà được vãng sanh là do sức liên hữu trợ niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hãy đề xướng rộng rãi. Nếu như không có liên hữu thì xin hãy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi vãng sanh vậy!

Bỏ tụng chú để niệm Phật

Cư sĩ Trương Trân Ngọ thời Dân Quốc, sang Nhật học Y và học Mật Tông. Sau ông mắc bịnh thũng, nghiệp cảnh hiện tiền. Lúc bình thường, ông trì chú thấy có linh nghiệm, lúc này trọn không có hiệu quả gì. Ông bèn chuyên niệm Phật thì nghiệp cảnh mới tiêu diệt.

Ông liền dẹp hết thuốc men, nhất tâm trì danh. Vợ ông khuyên hãy nên ăn uống, ông bảo:

- Bà đừng khuấy nhiễu tôi, chỉ nên giúp tôi niệm Phật và thỉnh đạo hữu họp lại trợ niệm. Tôi sẽ đi trong ngày hôm nay.

Ðạo hữu đến, đồng thanh trợ niệm. Ông cũng nương theo đó, niệm theo rõ ràng; đoạn kết ấn, niệm Phật mà qua đời.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)

Nhận định:

Lâm chung nghiệp cảnh hiện tiền, há chẳng phải là để thấy trước ác đạo đó chăng? Lúc ấy, trì chú hoàn toàn chẳng có công năng gì, may nhờ chuyển sang niệm Phật và nhóm đạo hữu lại trợ niệm thì nghiệp mới tiêu, được vãng sanh. Những kẻ bỏ Tịnh Ðộ để tu Mật, khá nên lấy đó làm gương!

Từ biệt mọi người, tọa hóa

Cư sĩ Lý Ngoa, tự Tế Hoa thời Dân Quốc, người huyện Như Cao tỉnh Giang Tô; tốt nghiệp từ Trắc Hội Học Ðường (4) [(4) Trắc Hội Học Ðường: trường dạy ngành đo lường, vẽ bản đồ.]

Năm Dân Quốc thứ nhất (1911), ông được cử về làm việc ở Trắc Lượng Cục của Lục Quân, gia nhập Ðồng Minh Hội. Khi cách mạng lần thứ hai thất bại, ông bị tống giam; lúc sắp bị xử tử, ông được người cứu khỏi, được phóng thích. Tuy vẫn phục vụ trong quân ngũ, nhưng ông ăn chay niệm Phật, dù nóng hay lạnh vẫn chẳng gián đoạn.

Từ chiến dịch Bắc Phạt trở về, ông từng đảm nhiệm các chức vụ: nghị trưởng huyện nghị hội và cục trưởng các cục kiến thiết, tài chánh v.v…

Mùa Xuân năm Dân Quốc 22 (1933), ông quy y Ấn Quang đại sư, được đặt pháp danh là Trí Thoát. Từ đấy, ông chuyên tu Tịnh nghiệp, thời khóa sáng tối đều tụng một cuốn Di Ðà, niệm Phật cả vạn tiếng. Ông nghiên cứu sâu sắc kinh điển Ðại Thừa, hạnh lẫn giải đều sâu, hoằng dương Tịnh Ðộ, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trọn đời chẳng lười nhác.

Sau khi qua Ðài Loan, ông sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn ở Ðài Bắc, soạn cuốn Phổ Khuyến Tịnh Nghiệp Ðồng Nhân Phát Khởi Tổ Chức Trợ Niệm Vãng Sanh Ðoàn Văn để đề xướng việc trợ niệm.

Ngày hai mươi lăm tháng Hai năm Dân Quốc 51 (1962) là ngày pháp hội định kỳ của Niệm Phật Ðoàn, ông lãnh chúng niệm Phật. Sau bữa ăn trưa, ông giảng đại ý kinh A Di Ðà. Ðến hai giờ năm mươi phút giảng xong, ông từ biệt đại chúng:

- Tôi sắp đi rồi, mọi người hãy chăm chỉ niệm Phật!

Rồi ông tọa hóa giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Ðúng ba giờ năm phút, tay ông kết Di Ðà ấn như đang nhập Thiền Ðịnh. Ngày hôm sau, nhập liệm, toàn thân ông mềm mại, vẻ mặt như còn sống. Ngày mồng Bốn tháng Ba trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi, thọ bảy mươi chín tuổi.

(theo Lý Tế Hoa Cư Sĩ Di Tập và các báo Liên Hợp, Dân Tộc v.v…)

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói:“Chịu giúp người tịnh niệm vãng sanh thì cũng sẽ được hưởng báo có người trợ niệm!”. Ông Lý sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn, đề xướng trợ niệm nên được liên hữu đại chúng trợ niệm vãng sanh.

Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo nên ông chọn đúng vào lúc pháp hội định kỳ để tọa hóa, ngõ hầu đại chúng cùng thấy cùng tin, gấp gáp bắt chước theo đồng sanh Tây Phương vậy!

Chánh trợ song tu

Cư sĩ Tử Bình Trần Tự Quân thời Dân Quốc, là người huyện Ðịnh Hải, tỉnh Triết Giang. Lúc chưa tốt nghiệp đại học Pháp Chánh ở Thượng Hải, bố vợ ông đã mở sẵn xưởng dệt Thiên Nhất ở Tân Long Hoa, Thượng Hải, giao cho ông làm đổng sự trưởng.

Năm Dân Quốc 11 (1922), tốt nghiệp xong, ông vừa đúng hai mươi ba tuổi. Do nghiên cứu kinh luận Tịnh Ðộ, ông liền quyết tâm bỏ thuốc lá, rượu chè, cờ bạc, đồ mặn để trường trai lễ Phật. Năm hai mươi bảy tuổi, ông quy y với lão pháp sư Hưng Từ ở núi Thiên Thai, cầu truyền ngũ giới.

Mỗi ngày ông lo kinh doanh, tối đến tụng kinh, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Thương những người nghèo bị bịnh, không đủ sức trị bịnh, ông liền cùng chú lập ra Bảo Khang Trai để thí thuốc và chữa bịnh rộng rãi. Ông còn phát động việc thành lập Thượng Hải Bần Bịnh Cứu Tế Hội, thay mặt gia đình đưa người bịnh vào bịnh viện chữa trị để những người bịnh đều được lành.

Năm Dân Quốc 21 (1932), quê ông bị đại hạn, ông liền cùng những đồng hương lo vận chuyển lương thực chẩn tế những người đói nghèo. Năm sau, gặp phải tai nạn bão lốc, nhiều căn nhà bị sụp đổ, ông liền xin hội Cứu Tế phát gạo chống đói.

Năm Dân Quốc 38 (1949), ông ngầm rời khỏi Ðại Lục, trốn sang Hương Cảng rồi sang Ðài Loan. Năm Dân Quốc 42 (1953), ông quy y đại sư Ðạo An, được đặt pháp danh là Trí Thặng. Ông liền chọn mua đất, xây dựng chùa Tùng Sơn, thỉnh ngài Ðạo An làm trụ trì, tự mình làm giám viện. Ðến năm Dân Quốc 55 (1966), đại điện lạc thành; thỉnh pháp sư Linh Căn tiếp nhận chức Giám Viện kiêm phó trụ trì, ông tiếp tục xây dựng điện đường hai bên và liêu phòng để tạo thành chốn tùng lâm vĩnh viễn cho mười phương.

Ông lại chắt mót tiền xây dựng biệt thự Tịnh Liên ở sau chánh điện, thỉnh những vị cư sĩ như Mao Dịch Viên… gồm chín người cùng ở để cộng tu. Ông thường lãnh đạo Tinh Tấn Phật Thất để cầu sanh Cực Lạc. Ðể tiếp độ rộng rãi những người sơ cơ, ông Mao soạn thuật cuốn Niệm Phật Tam Yếu. Ông liền đứng ra in đến mười vạn hai ngàn cuốn, gởi tặng khắp nơi trong ngoài nước để quảng kết tịnh duyên.

Ðể mình lẫn người đều được lợi, ông Mao lại biên soạn, kết tập bộ Tịnh Ðộ Tùng Thư; Trần Cư Sĩ liền phát động các vị đại đức, các chùa miếu, các nhà xuất bản lớn trong ngoài nước hoan hỷ hỗ trợ ấn loát hoặc kết ước hỗ trợ. Sách in ra và số tiền dành cho ấn loát còn dư, ông bèn giao cho Ðài Loan Ấn Kinh Xứ lưu thông và tục bản để tác phẩm ấy được hoằng dương rộng rãi.

Tháng Tư năm Dân Quốc 62 (1973), ông phát tâm bế quan ba năm để chuyên tu Tịnh nghiệp. Ðến khi mãn kỳ bế quan, ông lại càng thêm tinh tấn. Ngày mồng Bốn tháng Chạp năm Dân Quốc 71 (1982), đột nhiên ông thị hiện mắc bịnh nhẹ; mới vào bịnh viện được một tuần, ông đã trở về biệt thự tịnh dưỡng, ăn uống như thường. Ðến ngày mồng Bốn tháng Giêng năm Dân Quốc 72 (1983), ông chợt bỏ không ăn sáng, há to miệng niệm Phật. Ông Mao liền hối đại chúng trợ niệm. Ðến một giờ trưa, miệng ông mới dần khép lại; mặt hiện vẻ tươi cười, an tường về Tây, thọ tám mươi bốn tuổi.

Mọi người tiếp tục thay phiên trợ niệm cho đến khi toàn thân lạnh hết nhưng đảnh đầu vẫn còn ấm. Ðến giữa trưa ngày hôm sau làm lễ đại liệm, toàn thân vẫn mềm mại. Ngày mồng Mười lúc làm lễ công tế, da dẻ ông trông còn tươi tắn mịn hơn lúc còn sống. Trà tỳ thu được rất nhiều xá lợi.

(theo tạp chí Sư Tử Hống, bộ 20, kỳ 9)

Nhận định:

Cả một đời lấy Tín - Nguyện - Hạnh làm Chánh Hạnh, lấy việc làm lành, dựng chùa làm Trợ Hạnh. Ông đã tích tụ nhân duyên phước đức thiện căn rất nhiều. Xả báo an tường, vẻ mặt tươi vui thì ắt phải được trông thấy Phật đến tiếp dẫn. Ðảnh đầu ấm, thân mềm mại, tươi tắn hơn lúc còn sống, xá lợi rất nhiều thì ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh, thật đáng nên noi gương!

Càng bịnh càng tinh tấn

Cư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân Quốc, người huyện Phụng Hóa, tỉnh Triết Giang; tánh tình trung hậu, thuần phác.

Năm Dân Quốc 35 (1946), ông đến Ðài Loan, kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc Quang và xưởng dụng cụ giao thông Trung Lập khá thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967), ông được đồng hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Ðài Bắc nghe hòa thượng Tịnh Không giảng kinh; ông liền theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của Phật Pháp. Ông quy y với lão hòa thượng Quảng Khâm ở Thổ Thành và trưởng lão Sám Vân ở Thủy Lý, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới.

Mùa Ðông năm Dân Quốc 67 (1978), ông đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương Minh để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm trì giới luật, chuyên tu Tịnh nghiệp, niềm tin vững vàng, ý nguyện thiết tha cầu sanh Tây Phương. Ông thường cúng Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, bố thí làm phước chẳng tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở Tam Giáp Hoành Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng (người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm), lãnh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để cùng tu.

Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), vì bịnh tật, ông phải về nhà chữa trị, nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng lười. Ðầu tháng Ba năm Dân Quốc 72 (1983), chợt ông bị bí đường tiểu tiện, trị liệu cách nào cũng vô hiệu, phải đưa vào bịnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Hòa để chữa. Tuy đau đớn tột bậc, trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai mươi mốt tháng Ba, ông chợt bảo người con trưởng đang trông bệnh rằng:

- Từ ngày mai các con đừng có đi đâu!

Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ đến khám toàn thân, thấy tất cả đều bình thường, dặn dò ông phải nghỉ ngơi chu đáo, ông Ổ bảo:

- Hiện tại tôi rất thoải mái, cảm ơn ngài!

Lát sau, ông bảo đứa con gái út nâng đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông dựa. Cô hỏi:

- Có chuyện gì làm ba không được thoải mái hả?

- Không có!

Ðúng mười một giờ trưa, ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi dậy, chắp tay; há miệng niệm Phật mà qua đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn thể quyến thuộc đều vây quanh cao giọng trợ niệm. Trưởng lão Sám Vân và các vị pháp sư, cư sĩ và đạo sư của Tịnh Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính ra hơn bốn mươi người luân phiên trợ niệm. Ðến khoảng sáu giờ tối, toàn thân đều lạnh, chỉ còn mỗi đảnh đầu là ấm.

Trợ niệm đến chín giờ rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. Vì tứ chi của ông đã cứng đờ nên trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay, chợt ngửi thấy mùi hương thanh khiết bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau đại liệm, hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi đẹp đẽ hơn lúc sống.

Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm, quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm Phật bốn mươi chín ngày đã nghỉ rồi vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng tới.

(theo tạp chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)

Nhận định:

Một phen nghe giảng kinh liền theo Phật môn, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao kiếp thành thục.

Lập Tịnh nghiệp lâm để cộng tu là người tự lợi, lợi tha. Càng bịnh càng tinh tấn là mượn bịnh để tiềm tu. Chợt dặn dò ngày mai đừng đi đâu là biết trước thời khắc.

Mỉm cười chắp tay ắt là thấy Phật hiện đến tiếp dẫn. Khiến cho quyến thuộc thường nghe tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng lại để họ biết là mình đã vãng sanh trong thượng phẩm, nhằm khiến họ đều tín nguyện sanh Tây. Phàm những ai tuổi già lắm bệnh, xin hãy bắt chước ông tinh tấn!