Phật Độ Nan-Đà 

 

Phật dạy, “Người tu khi sanh về cõi trời hưởng phước, nhưng khi hết phước lại bị luân hồi đọa lạc khổ đau. Chỉ có tu chứng quả giải thoát mới vĩnh viễn ra khỏi luân hồi, chấm dứt khổ đau.”

Nan Đà vâng theo lời Phật dạy, chuyển đổi quan niệm sai lầm, hướng đến giác ngộ, giải thoát.

 


Nan Đà là con cùng cha khác mẹ với đức Phật, tức là con của di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề. Nan Đà có 30 tướng tốt, chỉ thua Phật 2 tướng tốt và thấp ngang vai Phật. Thái tử Tất Đạt Đa đi tu thì ngai vàng sau này sẽ thuộc về Nan Đà.

Hôm ấy, Nan Đà vừa được thụ phong đông cung thái tử, lại vừa cưới vợ. Cô vợ tên là Tôn Đà Lợi, đẹp như tiên nga giáng thế. Nan Đà yêu thương đắm đuối. Hai người không xa nhau nửa bước.

Đức Phật biết thời kỳ Nan Đà được độ. Đức Phật đắp y trì bát đến cung điện của Nan Đà khất thực. Nan Đà ra lễ Phật và đỡ bát đem về bới cơm và thức ăn, đem ra dâng Phật.

Cô Tôn Đà Lợi sợ Phật bắt Nan Đà nên không cho đi. Nan Đà nói, “Anh đem bát cơm ra dâng Phật rồi trở vô liền.”

Tôn Đà Lợi lấy phấn ướt chấm vào trên trán và nói, “Nếu anh ra mà vô trễ, phấn khô thì sẽ bị em phạt 500 tiền vàng.” Nan Đà chịu hứa.

Khi Nan Đà bưng bát cơm ra thì Phật quay lưng đi. Nan Đà liền đưa A Nan. A Nan nói, “Anh lấy bát từ ai thì sẽ đưa cho vị đó.” Nan Đà vì nể và sợ Phật nên đành ôm bát cơm đi theo sau đức Phật. Khi đến tịnh xá, dâng bát cơm lên đức Phật.

Phật thọ trai xong, đưa bát cho Nan Đà rửa, rồi bảo, “Cõi đời là đau khổ, gia đình là rang buộc. Em nên xuất gia, học đạo, để chứng quả giải thoát.” Nan Đà ý không muốn, nhưng sợ Phật nên nói, “Dạ, con xin vâng.”

Sau đó, Phật sai A Nan đến cạo tóc cho Nan Đà. Nan Đà không cho cạo. A Nan bạch Phật, Phật liền đến tự tay cạo tóc cho Nan Đà và nói, “Em đi xuất gia phải cạo tóc.”

Hôm sau, Phật bảo Nan Đà ở tịnh xá làm tri sự. Nan Đà không hiểu tri sự làm việc gì, bèn hỏi A Nan. A Nan giải thích, “Tri sự là coi tịnh xá, quét dọn, đóng cửa lại …”

Nan Đà quét mãi nhưng sân nhà vẫn không sạch. Đóng cửa thì cửa tự nhiên mở ra. Nan Đà suy nghĩ, “Bây giờ Phật và thánh chúng đi khất thực, mình chạy về thăm vợ.”

Nan Đà suy nghĩ, “Phật đi đường lớn, chắc về đường lớn.” Nan Đà cắm đầu chạy, nhưng khi ngước đầu lên thì thấy Phật và thánh chúng ở đằng trước đi tới. Nan Đà đứng qua một bên. Khi Phật đến, liền hỏi, “Nan Đà, em đứng đây làm gì?”

Nan Đà thưa, “Con đợi lâu, nhớ Phật nên liền đi đón Phật.”

Phật dạy, “Tốt lắm.Thôi, đi về với Phật.”

Hôm sau, Phật và thánh chúng cũng đi khất thực. Giao Nan Đà quét dọn, xách nước đổ đầy mấy cái lu. Nan Đà cố gắng xách cho đầy, nhưng đã gần trưa mà mấy cái lu nước cũng vẫn chưa đầy. Mà Phật lại gần về đến, nên Nan Đà đành ngưng tay rồi chạy về thăm Tôn Đà Lợi. Lần này Nan Đà suy nghĩ, “Phật đi đường nhỏ, chắc về đường lớn.” Nan Đà vừa chạy vừa ngó chừng, bỗng thấy Phật và thánh chúng từ xa đi lại.

Nan Đà bèn trốn vào bụi cây. Phật đi ngang thấy và gọi Nan Đà, “Làm gì đó?”

Nan Đà thưa, “Dạ, đi đón  Phật.”

Phật nói, “Đón Phật, sao núp vào bụi cây?”

Nan Đà thưa, “Nắng quá nên con đụt mát.”

Phật dạy, “Thôi đi về với Phật đi.” Phật biết Nan Đà tuy đi tu nhưng lòng vẫn còn ái luyến Tôn Đà Lợi.

Một hôm Phật hỏi, “Nan Đà, em muốn biết trời Đao Lợi không?”

Nan Đà thưa, “Dạ, con muốn biết.”

Phật dạy, “Hãy nắm chéo y của ta.” Phật và Nan Đà bay lên núi tuyết nghỉ chân, thấy một con khỉ cái bị rừng cháy lem luốc đang ôm một gốc cây rất thảm thương.

Phật hỏi, “Nan Đà vợ em Tôn Đà Lợi so sánh với con khỉ cái này như thế nào?”

Nan Đà thưa, “Vợ con xinh đẹp tuyệt vời, còn con khỉ cái này xấu xa, cách nhau một trời, một vực.” Nói xong, Phật và Nan Đà bay lên cõi trời Đao Lợi.

Cảnh trí ở cõi trời Đao Lợi thật xinh tươi đẹp đẽ, các tiên nữ, tiên nam vui chơi thỏa thích. Các lâu đài nguy nga tráng lệ. Nan Đà thấy thế  xin Phật đi dạo chơi. Khi đến một cung điện thật đẹp tuyệt vời, nhưng chỉ có tiên nữ mà không có tiên nam. Nan Đà mới hỏi các tiên nữ, “Tại sao cung điện này không có tiên nam?”

Các tiên nữ đáp, “Cung điện này là dành riêng cho ông Nan Đà, em Phật. Nếu ông ấy chịu khó tu phạm hạnh, sau khi chết sanh lên làm chủ cung điện này. Chúng em sẽ hầu hạ Ngài.”

Nan Đà nghe nói mừng rỡ và nói rằng, “Tôi chính là Nan Đà, em Phật. Xin cho tôi ở lại đây với các tiên nữ có được không?”

Các tiên nữ nói, “Mặc dù ngài là Nan Đà, em Phật, nhưng Ngài là người phàm mà cõi này là cõi tiên. Ngài không thể ở được.

“Ngài trở về nhân gian cố gắng tu hành, khi bỏ thân phàm thì sẽ sanh lên đây. Chị em chúng em sẽ hầu hạ. Còn bây giờ thì không được.”

Nan Đà liền trở lại chỗ đức Phật. Hai thầy trò liền bay trở lại chốn nhân gian. Phật hỏi Nan Đà, “Vợ em, Tôn Đà Lợi, so với tiên nữ thì như thế nào?”

Nan Đà thưa, “Vợ con như con khỉ cái ở núi tuyết, còn các tiên nữ đẹp không ai sánh bằng.”

Từ đó, Nan Đà cố gắng tu hơn nữa để sanh lên cõi trời, sống gần các tiên nữ. Và từ đó Nan Đà cũng hết nhớ thương Tôn Đà Lợi.

Một hôm, đức Phật hỏi, “Nan Đà, em muốn thấy địa ngục không?”

Nan Đà thưa, “Dạ, muốn thấy.”

Đức Phật bảo Nan Đà nắm y của Phật, rồi bay xuống địa ngục. Khi xuống tới địa ngục, Nan Đà xin Phật đi dạo xem. Thấy các chảo dầu sôi sung sục. Tội nhân bị nấu trong đó la khóc vang rền, trông rất rung rợn. Nan Đà lại thấy một chảo dầu sôi mà không có người hành phạt. Nan Đà hỏi ngục tốt, “Tại sao chảo dầu này lại không có người hành phạt?”

Ngục tốt nói, “Chảo dầu này chờ ông Nan Đà, em Phật, nếu không tu, làm vua tạo ác, sau khi chết sẽ nấu vào chảo dầu này.”

Nan Đà nghe vậy kinh hoảng, liền niệm “Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật.” Rồi chạy đến chỗ Phật, nước mắt ràn rụa, kể lại chuyện vừa thấy và nói, “Nếu ngục tốt biết con là Nan Đà sẽ bắt con bỏ vào chảo dầu thì tiêu đời con!”

Phật liền an ủi, “Chắc là như vậy. Nhưng nếu em ráng lo tu thì sẽ không bị đọa vào cảnh địa ngục này.” Và hai thầy trò bay về nhân gian.

Từ đó về sau, Nan Đà tinh tấn tu hành hơn trước. Nhưng cũng từ ngày đó, chư tăng không ai nói chuyện và thân cận với Nan Đà làm cho Nan Đà bực dọc, buồn phiền nhưng không biết lý do tại sao.

Một hôm, Nan Đà thấy ngài A Nan đang vá y, Nan Đà đến gần thì A Nan liền thâu dồ, đứng dậy sắp sửa đi. Nan Đà kéo lại hỏi, “Tại sao chư tăng lánh xa tôi? Chú là em họ tôi, chú cũng lánh xa tôi sao?”

A Nan nói, “Tại anh tu khác, còn chư tăng tu khác. Lý tưởng không đồng nên không chơi chung.”

Nan Đà nói, “Chư tăng tu, tôi cũng tu. Tại sao lý tưởng khác nhau?”

A Nan nói, “Chư tăng tu là cầu sự giải thoát. Còn anh tu chỉ vì sợ đọa địa ngục và muốn sanh lên cõi trời để chung sống với các tiên nữ.” Nan Đà nghe nói vậy liền đến đức Phật, xin sám hối quan niệm sai lầm của mình.

Phật dạy, “Người tu khi sanh về cõi trời hưởng phước, nhưng khi hết phước lại bị luân hồi đọa lạc khổ đau. Chỉ có tu chứng quả giải thoát mới vĩnh viễn ra khỏi luân hồi, chấm dứt khổ đau.”

Nan Đà vâng theo lời Phật dạy, chuyển đổi quan niệm sai lầm, hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Vì ngài Nan Đà có hình tướng giống Phật nên sợ tăng ni và Phật tử lầm lẫn nên Phật dạy ngài Nan Đà đắp y ngắn hơn và khác màu.

Theo thường lệ, một hôm các bực hạ tọa đảnh lễ thượng tọa. Nan Đà là bậc hạ tọa nên đi đảnh lễ các bậc thượng tọa. Nhưng khi đến tôi giả Ưu Ba Ly (làm thợ cạo trước khi xuất gia), ngài Nan Đà chỉ chắp tay. Phật thấy vậy quở, “Này NanĐà, không được như thế. Người tu phải phá bỏ kiêu mạn.” Ngài Nan Đà liền cúi mình đảnh lễ và chứng A La Hán.

Ngài Nan Đà phá trừ kiêu mạn nên chứng A La Hán. Vậy nên biết, kiêu mạn là một phiền não lớn. Ai phá được sẽ mau chứng quả Bồ đề.