Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích

Cảm Ứng Tụng

Quyển 3

 

Phần 1

Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn

Ấn Quang Đại Sư giám định

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang

 

2.4 Hoằng pháp:

 

      Trong phần này chia thành sáu đoạn:

      1. Ứng hóa.

      2. Thuyết pháp.

      3. Ban cho người nối tiếp dòng pháp.

      4. Hộ pháp.

      5. Khơi mở trí huệ.

      6. Chứng quả

 

2.4.1 Ứng hóa

 

      1. Bèn có: Truyền Phật tâm nơi Hùng Nhĩ[1], Thiền nở đóa hoa năm cánh[2]. Hóa trẻ khóc trong tổ ưng, lưu dấu linh hiển hai triều.

      2. Sa-di làng Quát xứng danh giải thoát, đại sĩ Tứ Châu trọn đủ thần thông.

      3. Trên bãi Kim Sa, diệu nữ truyền kinh, trước đền Trung Hiếu, đạo nhân trao quyển.

      4. Đạo lưu hành Nhĩ Hải, tranh nhau truyền bảy lần ứng hiện. Hiện trú động Triều Âm, soạn truyện Nhị Đại Sĩ lưu truyền.

      5. Thế độ Đàm Tạng, biết người kham nhập đạo tuyệt vời. Dạy dỗ Phổ Minh, tin tưởng chí độ sanh rộng lớn.

      6. Giúp Thí Thị hiếu thảo song đường, hai phen Diệu Hải Cung tìm tới. Ấm lòng ông Ngô tìm mẹ, bên ngọn Đại Dữu ba lượt hiện thân .

      7. Ba năm thường kêu gọi, túc nghiệp rốt cuộc ngầm tiêu. Ngẫu nhiên trì nửa quyển, mẹ hiền đã khuất siêu thăng.

      8. Bà lão cài hoa, dạy vua bố thí. Hồ tăng mắt biếc, răn vua dứt can qua.

      9. Cưỡi mây ra đi, tăng ngưỡng mộ thanh danh Hoa Tử. Chặt đầu chẳng tổn, vãn hồi kiếp nạn đám nâu sồng.

      10. Cho cô gái có tháng ăn trên biển, cảnh chẳng ngại tâm. Con hiếu ngủ đầu non, mẹ vốn là Phật.

      11. Dưới nhằm siêu độ quỷ thần, còn hiện thân Tiêu Diện. Muốn độ tiểu trùng, thị hiện Diệu Hương Khẩu. Đều là hiện hình đồng loại, sống chung nhằm hóa độ. Đấy chính là chuyện hoằng pháp thứ nhất của Đại Sĩ vậy.

 

      (1) Theo Truyền Đăng Lục, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đắc chánh pháp nhãn tàng, vượt biển cả đến Nam Hải. Lương Vũ Đế xuống chiếu mời đến Kim Lăng (Nam Kinh), [đối đáp] chẳng khế hợp căn cơ, Sư bèn ngầm qua [lãnh thổ của nhà] Bắc Ngụy, ngồi nhìn vách suốt chín năm tại chùa Thiếu Lâm. Về sau, gặp được Huệ Khả, Tổ bèn truyền tâm ấn của Phật, rồi ngồi qua đời, chôn tại núi Hùng Nhĩ. Hai năm sau, sứ giả nhà Ngụy là Tống Vân gặp Sư ở Thông Lãnh (Pamir) chỉ quảy một chiếc dép, đi một mình phơi phới. Hỏi Sư đi đâu, Ngài nói về Tây Thiên. Tống Vân trở về tâu lên Ngụy Chúa, vua sai mở quan tài ra xem, chỉ thấy còn một chiếc dép. Cõi đời đồn Sư là Quán Âm hóa thân.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 1, chép truyện Bảo Chí Đại Sĩ đời Lương như sau: Trước kia, có bà Châu ở Đông Dương, Kim Lăng, nghe tiếng trẻ khóc trong tổ chim ưng, bèn trèo lên cây ẵm về nuôi làm con. Sư theo học Thiền với ngài Tăng Kiệm. Đầu niên hiệu Thái Thỉ đời Tống, Sư chợt hiện tướng lạ, treo kéo và gương nơi đầu trượng, hoặc treo lụa. Trong niên hiệu Kiến Nguyên đời Tề, Ngài biến hiện đôi chút thần dị. Những lời Ngài nói với người khác, thoạt đầu khó hiểu, nhưng về sau đều ứng nghiệm. Lương Vũ Đế rất tôn sùng, kính trọng. Trong lời chiếu có những câu như “lửa nước chẳng thể đốt cháy, nhấn chìm, rắn, cọp chẳng thể xâm hại làm cho sợ hãi, những lời Sư nói đều thuận Phật lý, ắt phải là bậc từ Thanh Văn trở lên” v.v... Vua từng sai Trương Tăng Do vẽ tượng, ngài Bảo Chí liền biến đổi sắc mặt, xuất hiện tướng Quán Âm mười hai mặt, diệu tướng đẹp đẽ khác thường, hoặc từ bi, hoặc oai mãnh, Tăng Do chẳng thể vẽ được.

      Lại nữa, cả nhà ông Trần Chinh Lỗ tôn sùng ngài Bảo Chí, Ngài liền vì nhà họ Trần hiện chân tướng, tướng hảo quang minh giống hệt như Bồ Tát. Những sự tích linh dị khác đều chẳng thể ghi chép trọn.

      (2) Theo Phó Đại Sĩ Ngữ Lục, Đại Sĩ mộng thấy đức Thế Tôn bảo: “Ta sai một sa-di giúp ngươi hoằng dương giáo hóa”, chợt từ trong miệng Phật nhả ra một đứa bé. Sau đấy, có Huệ Tập tìm đến, đấy chính là sa-di được thấy trong mộng vậy. Huệ Tập là người làng Đại Quát, huyện Phú Xuân, Ngô Quận, gặp Phó Đại Sĩ, liền khai ngộ thông suốt pháp môn giải thoát, bèn du hành khắp quận, bố thí, phóng sanh, cứu khổ, trị bệnh, các thứ công đức chẳng thể thuật trọn. Phó Đại Sĩ bảo mọi người: “Huệ Tập là Quán Âm, Phổ Mẫn là Văn Thù”.

      Theo Cao Tăng Truyện tập 3, đời Đường, Tăng Già Đại Sĩ người nước Bắc Hà ở Thông Lãnh, đi khắp nơi, đến miền Giang Hoài, mới tỏ lộ sự thần dị. Ngài từng nằm trong nhà của Hạ Bạt, thân dài hơn giường cả ba thước, hiện hình Quán Âm mười một mặt. Họ Hạ liền biến nhà thành chùa. Đường Trung Tông đón Sư vào cung, tôn làm Quốc Sư. Nếu có ai bị bệnh, Sư dùng cành dương phẩy qua, hoặc sai rửa tượng sư tử bằng đá, hoặc quăng bình nước, hoặc bảo bắn qua thân, hoặc trừ khử tai họa nơi thân người ấy bằng cách bảo kẻ ấy đi tìm ngựa, hoặc cảnh giác về tai ách gió bão bằng chiếc quạt trắng, hoặc nhận tiền của gã trộm, hoặc kêu to: “Sợi dây đen buộc nơi cổ”, hoặc tìm giếng La Hán, hoặc biết Bùi Thị chết đuối, dự đoán trước trời sẽ đổ tuyết [vào lúc nào], cứu hạn hán bằng cách tuôn mưa. Thần biến khôn ngằn, chẳng thể suy lường được. Vua hỏi Vạn Hồi, Sư nói: “Tăng Già, người nước Hà, chính là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân vậy”.

      (3) Theo Quán Âm Cảm Ứng Truyện, năm Nguyên Hòa 12 (817) đời Đường, trên bãi Kim Sa ở Thiểm Hữu có một cô gái xinh đẹp xách giỏ bán cá, người ta đua nhau muốn cưới cô ấy. Cô gái nói: “Tôi dạy kinh, ai trong một tối có thể tụng thuộc phẩm Phổ Môn thì sẽ lấy người đó”. Sáng hôm sau có hai mươi người làm được. Cô gái nói: “Một thân làm sao gả cho nhiều chồng? Xin đổi sang học kinh Kim Cang, theo đúng hạn định như trên”. Người làm được như vậy chỉ còn một nửa. Cô lại đổi sang kinh Pháp Hoa, hạn định ba ngày, chỉ có một người họ Mã làm được. Vừa mới đón dâu về, cô gái liền chết ngay. Ngay lập tức, thi thể rữa nát hết, liền đem chôn. Về sau, có vị Tăng cùng chàng họ Mã quật mồ, [thấy trong quan tài] chỉ còn lại mảnh xương đòn gánh[3] bằng vàng ròng. Vị Tăng nói: “Đấy là Quán Âm Bồ Tát thị hiện để hóa độ người đời”. Đến hôm trăm ngày, vị Tăng bay lên không đi mất. Cảnh Liêm đời Tống có làm bài tán.

      Theo lời tựa cho bài Dương Trung Mẫn Gia Huấn, ông Trần Quân Tuyển có đứa con bị lao, sang Nam Hải cầu đảo. Giữa đường đi ngang qua Trung Hiếu Từ, nghe có tiếng người gọi tên, ngạc nhiên nhìn thì thấy có một đạo nhân bảo: “Ông mắc oan khiên đời trước, trả báo nơi con ông. Cầu khẩn Bồ Tát thì phải thấu hiểu tấm lòng như cha mẹ của Ngài, giúp đỡ người nghèo khó, tận lực làm lành”, rồi rút ra một quyển sách, bảo: “Đây là mười chín điều gia huấn của Dương Tiêu Sơn, ông nên vâng làm theo thì bệnh con ông sẽ mau lành. Nếu lưu truyền rộng rãi sẽ được phước vô lượng”. Nói xong, chợt biến đâu mất. Ông Tuyển biết đó là Đại Sĩ hóa thân, liền trở về nhà, kể lại chuyện gặp gỡ. Đứa con nghe chuyện vui mừng, bệnh giảm một nửa. Hơn tháng sau lành hẳn, về sau đỗ đạt.

(4) Sách Nhĩ Hải Tùng Đàm có chép bảy lần ứng hóa của đức Quán Âm:

- Lần thứ nhất là trong niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, Ngài hóa làm ông lão râu trắng, đội mão cánh sen hồng, khoác ca-sa, cầm bát đến nhà nông dân khất thực.

- Lần thứ hai, hóa thân làm vị Tăng người Ấn Độ, cầm bát đến nhà người đàn bà đưa cơm [cho nông phu ngoài đồng] khất thực.

- Lần thứ ba hóa làm một vị Phạm tăng ngồi ở tảng đá trên núi báu, trước mặt có con trâu xanh, bên trái có con ngựa trắng, bên phải có con voi trắng, chung quanh có mây năm màu che phủ. Trong mây có hai đồng tử, một đồng tử cầm trượng, đứa kia cầm gương, một hồi lâu bèn ẩn.

- Lần thứ tư hóa thành một vị Tăng, cầm trượng, ôm bát, dẫn con chó trắng đi khất thực ở quận Khai Nam. Trong thôn, Sư thường bắt trộm những con chó dữ, [dân làng] bèn bắt vị Tăng ấy, chặt chân tay; trong khoảnh khắc Sư sống lại, họ lại giết chết, đốt xương ra tro, đựng trong ống tre, dìm xuống nước. Trong khoảnh khắc, ống tre vỡ, Sư thoát ra, hình thể chẳng bị tổn hại gì. Cả thôn kinh sợ, quy y.

- Lần thứ năm hóa thành vị Tăng cầm cành dương, xỏ guốc gỗ bước đi, [người khác] giục ngựa đuổi theo chẳng kịp. Dùng tên bắn thì những mũi tên đều hóa thành hoa sen. Hiện thời, vùng Nhĩ Đông còn nói tới “liên hoa thái” (rau hoa sen).

- Lần thứ sáu hóa thân thành một vị du Tăng, chợt bay lên không, hiện tướng Đại Sĩ, ánh sáng chói lòa khiến người ta chẳng dám ngửa mặt lên nhìn. Có cụ già đúc tượng theo hình tướng ấy để thờ phụng.

- Lần thứ bảy hóa thành vị Tăng tên là Bồ Đề Đà Ha, nói: “Ta là Tây Phương Liên Hoa Bộ Tôn Giả A Tha Da Quán Âm, hành hóa tới phương này, nay ở yên”. Nói xong, bèn tịch. Đấy chính là hóa thân của Đại Sĩ vậy.

      Theo Phổ Đà Chí, trong niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, có một nam, một nữ tới đảnh núi phía Nam động Triều Âm, hình dáng như ăn mày, nhưng cách nói năng chẳng thể coi thường được. Hỏi tên họ thì đáp: “Có tên họ gì đâu?” Hỏi đến tuổi tác, đáp: “Có tuổi tác gì!” Hỏi là người ở đâu, đáp: “Có nơi chốn nào đâu”. Hỏi đã thấy được đạo nào, đáp: “Mắt thấy biển cả; tai nghe tiếng gió, tiếng mưa, tiếng sóng, tiếng chim”. Hỏi: “Hành công phu nào?” Đáp: “Hễ nghĩ đến Quán Thế Âm bèn niệm mấy tiếng, chẳng có công phu chi cả!” Về sau, người đến xem đông nghẹt bèn nói: “Mỗi người các ông hãy nên an ổn rời đi, hỏi han ta làm chi?”, liền chẳng thấy họ đâu nữa. Thích Chân Nhất viết Nhị Đại Sĩ Truyện để lưu truyền.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, đời Đường, ngài Đàm Tạng năm 15 tuổi muốn xuất gia nhưng không có thầy, bèn kính cẩn niệm Quán Âm, liền nghe có tiếng chuông, thấy một ngôi chùa Tăng bèn tới xin xuống tóc. Xuống tóc xong, Sư liền đưa ra khỏi cửa, đi khoảng một trăm bước, nhìn lại đã không thấy chùa đâu nữa! Về sau, ngài Đàm Tạng trở thành đại pháp sư. Đường Thái Tông năm lượt thỉnh Sư thuyết pháp, hai lần mời vào cung.

      Theo lời tựa của Quán Âm Bổn Hạnh Kinh, vào đời Tống, sư Phổ Minh ở xứ Thượng Thiên Trúc thấy một vị lão tăng bảo: “Ông chỉ tu đạo vô thượng thừa thì chỉ tiếp độ hàng thượng căn, làm sao có thể cứu vớt trọn khắp? Hãy nên diễn nói, tuyên dương Tam Thừa, hành pháp Đốn lẫn pháp Tiệm, rộng độ hàng trung hạ căn thì mới là báo ân Phật”. Sư hỏi: “[Pháp nào mới có thể độ người?” Tăng nói: “Cõi này có nhân duyên xa xưa với Quán Thế Âm Bồ Tát, hãy nên đem đầu đuôi hành trạng của Bồ Tát lưu hành trong cõi đời. Kẻ cúng dường, trì tụng, phước chẳng luống uổng”. Ngay lúc ấy, do đã nói xong trọn hết nguyên do, vị lão tăng ấy liền ẩn thân biến mất.

      (6) Theo sách Quái Viên, vào đời Minh, vợ ông Vưu Tích Thụ là Thí Thị hiếu thảo với bố mẹ chồng, chợt bị ung thư thực quản. Có đạo cô bảo: “Ta từ Nam Hải đến, tên là Diệu Hải”, trao cho Thí Thị một viên thuốc màu đen bảo uống. Đạo cô hỏi: “Ngươi đã ăn chay hay chưa?” Thưa: “Có lúc giữ, có lúc không”. Đạo cô bảo: “Ma đấy!” rồi vẽ một đạo bùa trên trán để trấn áp. Ra khỏi cửa, chợt chẳng thấy [đạo cô] đâu nữa! Ngày hôm sau, Thí Thị liền ăn uống được. Năm sau, theo mẹ chồng đến Phổ Đà lạy tạ, thấy ba chữ Diệu Hải Cung càng tin tưởng là Đại Sĩ hiển hóa.

Trở về, lại có một đạo cô đến bảo: “Ta công hạnh đã viên mãn, chỉ có tấm lòng độ người là chưa thỏa”. Lại than thở: “Ngươi có năm tướng ngắn ngủi: Nhật nguyệt, tam quang ngắn ngủi (tuổi thọ ngắn ngủi), gặp gỡ cha mẹ ngắn ngủi, duyên anh em ngắn ngủi, duyên vợ chồng ngắn ngủi, duyên lục thân[4] ngắn ngủi. Ngươi chỉ thọ hai mươi chín tuổi, do bỏ tiền đúc một bức tượng vàng, lại từng thí tiền khắc một bức ván in kinh, lại còn tặng cho người đói một thố cơm. Ba điều lành ấy khiến cho ngươi thọ thêm ba năm. Lại gặp được nhục thân Bồ Tát điểm hóa nên chẳng chết yểu ngay”. Thí Thị sụp lạy cầu tiếp độ, đạo cô liền truyền ba giới: “Một, đoạn tình chồng vợ; hai, trừ phiền não; ba, buông bỏ nghiệp duyên tài sản”. Đạo cô lấy ra một cái đỉnh, mùi hương lạ tỏa thơm ngát, cắm bốn thứ hoa: hạnh, hoa sen, thù du tía[5], hồng mai. Trên hoa có đậu các thứ chim yến non, bướm, mỗi thứ một đôi, bảo: “Đây là món báu trong cung Đâu Suất”. Thí Thị lại sụp lạy, chớp mắt chẳng thấy đâu nữa. Lò hương, hoa, chim, đồng thời biến mất.

      Theo Tiên Tâm Lục, vào đời Minh, mẹ của Ngô Chương được tuyển vào nội đình, về sau theo thân vương phi[6] đến Thiều Châu. Ngô Chương bỏ nhà đi tìm mẹ, trong thuyền bày tượng Đại Sĩ, xót xa cầu đảo, khẩn thiết tột bậc, nguyện ắt gặp được mẹ. Vừa đến xứ Thiều, mẹ lại theo vương tới Nhiêu Châu. Ngô Chương bôn ba trên đường cát sỏi, chân đỏ bầm, nứt nẻ, nằm dưới mái hiên chùa. Có đạo nhân tự xưng là họ Tiêu, bó thuốc cho, chân liền lành. Đi qua Dữu Lãnh, bị con rắn đen mổ vào chân, đau đớn cùng cực, xây xẩm, ngã lăn ra, lại thấy Tiêu đạo nhân bôi thuốc, hết ngay đau đớn. Vào túp lều tranh trong hoang thôn, gặp một cô gái tuyệt đẹp, Ngô Chương nói: “Tâm tôi như dây mây khô, há còn có dâm ý?” Bươn bả ra khỏi cửa thì lều tranh không thấy nữa.

Tuyết xuống dầy mấy thước, Ngô Chương ì ạch tiến bước. Nghỉ tại ngôi miếu cổ, lại thấy Tiêu đạo nhân đến, vỗ lưng nói: “Vì mẹ quên thân, quả là chàng trai kiên quyết, trời chẳng phụ nỗi khổ tâm của ngươi, không lâu nữa sẽ gặp mẹ”. Lôi bánh ra gặm, quên ngay nỗi đói lạnh. Ngày hôm sau, họ Ngô tìm đường đến Nhiêu Châu, tâu lên vương, xin đón mẹ về phụng dưỡng suốt đời. Thoạt đầu, vương không chấp nhận. Về sau, mẹ bệnh ngặt nghèo, vương truyền cho vào gặp, mẹ đã hôn mê không nhận được ai. Ngô Chương đốt hương cầu trời, cắt thịt đùi nấu cháo dâng lên. Mẹ tỉnh lại, ôm nhau khóc. Vương khen Ngô Chương là người hiền, thưởng cho vàng lụa, sai đưa mẹ về. Sau này, con là Hồng, cháu là Sơn đều làm quan đến chức Thượng Thư, đỗ đạt không ngớt.

      (7) Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, đời Tùy, sư Hồng Mãn lúc chưa xuất gia hai chân co quắp, tụng Quán Âm Kinh ba năm, chợt thấy một vị Tăng đứng trước mặt, hỏi: “Sư từ đâu tới?” Đáp: “Do ngươi thường gọi nên ta tới. Đời trước, ngươi từng bắt trói loài vật, dư ương gây nên như thế. Ngươi nhắm mắt lại, ta sẽ chữa trị cho ngươi”. Hồng Mãn cảm thấy trên hai đầu gối vừa được nhổ đi cây đinh dài mấy tấc. Mở mắt ra, vị Tăng đã biến đâu mất, mới biết đấy là Quán Âm.

      Câu dưới xin xem lời chú thứ 16 trong đoạn “cứu vớt sự đọa lạc”. Thêm nữa, trong Kim Cang Linh Ứng cũng chép chuyện này.

      (8) Theo Phổ Đà Chí, năm Khang Hy 28 (1689) đời Thanh, vua tuần du phương Nam, sắp đến Hòa Thành, chợt thấy một bà cụ giắt một đóa hoa hồng, một mình bơi chiếc thuyền con lướt ngang trước thuyền ngự. Vua hỏi: “Thuyền gì thế?” Đáp: “Thuyền chài”. “Có cá không?” Đáp: “Có”. Khoảnh khắc chẳng thấy đâu nữa. Mọi người bảo đó là Đại Sĩ hóa thân, vua bèn ban tiền để tu bổ ngôi chùa báu.

      Theo Phổ Đà Chí, đời Tống, Việt Vương là Sử Hạo cầu đảo tại động Triều Âm, được thấy tướng lành. Ban đêm, có vị Tăng đến thăm, bảo: “Ngài sẽ làm Thái Sư giống như Văn Lộ Công, nhưng quan gia dụng binh phải hết sức cân nhắc. Hai mươi năm sau, tôi sẽ gặp gỡ ngài nơi đất Việt”. Về sau, ông Sử làm tướng trấn giữ đất Việt. Có đạo nhân tự xưng đã từng quen biết với Thừa Tướng, kẻ gác cửa cự tuyệt không cho vào, đạo nhân bèn rút bút viết rằng: “Lộ thừa tướng đầu đen trùi trũi, vẻ vang vạn dặm rạng ngời thêm, Hồ tăng mắt biếc năm xưa ấy, trò chuyện cùng nhau suốt một đêm”, rồi bỏ đi. Ông Hạo nhớ lại chuyện ở Phổ Đà đuổi theo thì đã không thấy đâu nữa!            (9) Trong niên hiệu Gia Tĩnh - Long Khánh đời Minh, có Hoa Tử[7] Quán Âm chẳng biết tên họ là gì, thường mặc quần áo lam lũ xin ăn; do vậy, đặt tên là như thế. Ngài thường nằm ngủ dưới chân tượng Kim Cang chùa Thiên Phật ở kinh đô, biết rành chuyện vị lai của người khác. Mỗi lần Ngài đến xin ăn [nơi nào], thần Già Lam sẽ báo mộng trước. Năm Vạn Lịch thứ 9 (1581), Ngài phun ra lửa tự thiêu, cưỡi mây đi mất.

      Theo Kỷ Sử Thông Giám, trong niên hiệu Hồng Vũ đời Minh, những gã dân ương bướng, phạm tội gian dâm, thường ẩn nấp trong đám sư sãi. Vua khinh ghét, bắt một trăm gã phạm tội, đào hố chôn thân họ xuống, cứ mỗi hàng là mười lăm tên cho ló đầu lên, dùng búa chém. Mỗi lần chém là mấy cái đầu rơi rụng. Có vị tăng lạ lùng tên là Tự Tại cũng bị ghép vào hàng ấy; nhân đó hiện thần biến, đầu đứt rồi lại mọc đầu khác, suốt mấy lượt, vua bèn tha chết cho những người còn lại.

      Lại nữa, theo truyện của ngài Đàm Thỉ đời [Lưu] Tống trong Cao Tăng Truyện, tập 1, khi Hách Liên Bột Bột[8] phá ải, chém giết vô số, ngài Đàm Thỉ cũng thuộc trong số [những người bị hành hình ấy], nhưng đao chẳng thể làm tổn thương được. Bột Bột bèn tha hết các sa-môn không giết.      

      Lại nữa, Thác Bạt Đào[9] hủy diệt Phật pháp, sai các đội quân binh chia nhau đi đốt cháy, cướp bóc chùa chiền, bắt Tăng, Ni bỏ đạo. Hễ bắt được kẻ nào lẩn trốn sẽ chém. Khi ấy, ngài Đàm Thỉ chống tích trượng đến cửa cung, Thác Bạt Đào ra lệnh [hành hình] theo luật định, chém nhiều lần mà Sư chẳng thương tổn gì. Thác Bạt Đào càng nổi giận đùng đùng, tự rút gươm đang đeo ra chém, thân thể Sư vẫn chẳng khác gì, họ Thác bèn phục hưng chánh giáo.

      (10) Theo Phổ Đà Chí, tương truyền có em chồng và chị dâu hai người kiền thành trì tụng mấy năm, tới núi lễ bái Đại Sĩ. Vừa cập bến, cô em chồng chợt đến kỳ hành kinh, chị dâu nghĩ như vậy là phạm lỗi, cô em chồng cũng tự thẹn ô uế, chẳng dám lên bờ. Trong khoảnh khắc biển dậy sóng, trong thuyền thiếu thức ăn, chợt có một bà cụ ném những viên đá nhỏ xuống nước, đạp trên đó để lên thuyền, xách giỏ cơm cho họ ăn. Cô em chồng lấy làm lạ, chưa dám nói thì chị dâu đã bảo: “Ta biết là Đại Sĩ hiện thân”. Chị dâu hướng về phía điện thờ lạy tạ, thấy tượng Đại Sĩ áo xống vẫn còn ướt.

      Theo Mộng Hoa Tạp Lục, hiếu tử họ Trương làm nghề đồ tể. Mỗi sáng chùi chậu rửa mặt sạch sẽ, dâng cơm nước hầu mẹ xong rồi mới gánh thịt tươi ra chợ, đổi lấy rượu và thức ăn đem về hầu mẹ xơi. Hễ mẹ không vui bèn diễn kịch, bầy trò hát xướng. Mẹ vui thì anh chàng đồ tể cũng vui. Trong làng có người vầy đoàn đi triều bái Nam Hải, chàng đồ tể cũng muốn cầu thọ cho mẹ, xin đi theo. Ban đêm ở trong quán trọ, anh ta chợt kêu ầm lên, đồng bạn hỏi nguyên do, kể: “Trong mộng nghe thấy tiếng mẹ tôi gọi”, mọi người chán ngán chàng ta bèn [lén] bỏ đi mất. Chàng đồ tể đi một mình lạc đường, lọt vào vùng núi non chập chùng, thấy một túp lều tranh, có một cụ già nhắm mắt, ngồi xếp bằng. Chàng đồ tể xin ngủ nhờ một đêm. Cụ già bảo: “Phổ Đà sơn cách đây mấy ngàn dặm, ngươi làm sao tới đó được? Hơn nữa, trong nhà ngươi tự có Phật, không cần phải đến núi thiêng!” Sáng ra, cụ già lay anh ta dậy, tặng hai tấm bánh, kéo ra sau núi, chỉ lối về. Anh chàng đồ tể ăn một tấm bánh, chân khỏe dị thường, đi mấy dặm, thấy bức tường thành thâm thấp, nhìn kỹ thì là quê cũ. Tự nghĩ: “Đấy chẳng phải là Bồ Tát chỉ điểm ta đó ư?” Anh ta chạy vội về, lấy bánh cho mẹ xơi. Bánh như tre non, thơm ngọt đã miệng. Mẹ sống ngoài chín mươi mới mất, anh chàng đồ tể vào núi, chẳng biết kết cục ra sao!

      Ghi thêm: Theo Mộng Xưởng Tạp Trước, Mẫn Trinh ở Hán Khẩu mồ côi từ bé. Vừa trưởng thành, thấy có người cúng giỗ treo hình ảnh cha mẹ, đau lòng chẳng biết hình ảnh của song thân ra sao, bèn học vẽ, đạt đến mức hết sức khéo léo. Anh ta sáng tối cầu đảo Quán Âm, cầu Bồ Tát rủ từ lực khiến cho gặp được người nào có diện mạo giống như cha mẹ của mình để vẽ hình. Người ta cười là gã ngốc. Một hôm, có kẻ lừa gạt, bảo: “Hôm qua tôi từng thấy có ông bà cụ xách giỏ, chống gậy, trông rất giống lệnh thân, đi trên đường vào xứ Kinh - Tương”. Mẫn Trinh vội đuổi theo, mỗi ngày đi hơn hai trăm dặm, quả nhiên gặp ông bà cụ ấy, bèn mời quay về. Vẽ xong, không thấy hai người ấy đâu nữa. Những người già cả nhìn vào bức vẽ, bảo tranh vẽ giống hệt như cha mẹ họ Mẫn, than thở hiếu tâm đã cảm động Đại Sĩ.

      (11) Đối với câu trên xin xem ý đã nêu trong lời chú về hình tượng Diện Nhiên trong đoạn 4.

      Theo Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Quán Thế Âm Bồ Tát muốn độ hữu tình, bèn hiện làm ong, trong miệng phát ra tiếng “Nam-mô một-đà-dã” (Namo Buddhaya). Các loài trùng kia nghe tiếng xưng niệm đều được vãng sanh, do vậy, [con ong ấy] có tên là Diệu Hương Khẩu. Một-đà-dã chính là Phật-đà-da.

 

2.4.2. Thuyết pháp

 

      1. Bèn có: Xoa đầu Huệ Nhật, khuyên niệm hồng danh. Nghiêm trách Bà La, đừng cầu vương vị.

      2. Chỉ dạy Linh Chiếu, Tịnh Độ chẳng xa. Răn bảo Bách Nương, Tây Phương nên lễ.

      3. Vâng thờ Đại Minh Chú Kinh, nên biết trọng đại. Tụng kinh Kim Cang Bát Nhã, phải thật kiền thành.

      4. Đốt hương cầu phước, đừng quăng giấy chữ. Thành kính trì kinh, chớ dùng củi bẩn.

      5. Răn cụ Lã ở Giang Ninh, làm điều thiện ắt hưởng tốt lành. Than ông Đồ xứ Tiền Đường, quá nghiêm khắc, thiếu lòng nhân hậu.

      6. Trì kinh ắt phải quỳ, thường phải nên ân cần cung kính. Kiêng giết ắt vãng sanh, rộng ban bố giáo hóa từ bi.

      7. Thói đời ngày càng tệ, quỷ thần giám sát càng nghiêm, dốc lòng hướng về Tây, Bồ Đề tự nhiên bất thoái.

      8. Ấy là vì Sa Bà quốc độ, dùng thanh luận hòng giảng rành rành, quần sanh ngu muội, tuy hiện thân, chẳng biết thuyết pháp.

      9. Vì thế: Đích thân dạy bảo trong Định, hoặc truyền trong mộng, vừa thoảng qua tai, liền thành đạo chủng (gồm 2 đoạn).

     

      (1) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, ngài Huệ Nhật cưỡi thuyền sang Thiên Trúc, lễ thánh tích của Như Lai. Tại nước Kiện Đạt La (Gandhāra), trên ngọn núi của phía Đông thành, Sư kiền thành cầu đảo Quán Âm, đích thân thấy Bồ Tát hiện thân, răn dạy: “Hãy chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, phát nguyện vãng sanh thì sẽ thấy Phật và ta, đắc đại lợi ích. Ông nên biết pháp môn Tịnh Độ vượt trỗi các hạnh”. Lúc trở về, Sư được vua ban hiệu là Từ Mẫn Tam Tạng, siêng tu Tịnh Độ, soạn Vãng Sanh Tịnh Độ Tập lưu hành trong cõi đời.

      Theo Đường Tam Tạng Truyện, khi ngài Giới Hiền giảng Du Già (Yogācāra: Duy Thức) cho ngài Huyền Trang, có một vị Bà La Môn nói: “Tôi từng ở núi Bố Trách Ca, đối trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát phát nguyện làm vua. Bồ Tát hiện thân quở trách: ‘Đến lúc nọ sẽ có Giới Hiền giảng Du Già cho vị tăng Chi Na, ngươi đến đó nghe, do nghe pháp sẽ thấy Phật, thành vua để làm gì?” Quả nhiên là như vậy.

       (2) Theo Phật Tổ Thống Kỷ, đời Tống, ngài Linh Chiếu mở Tịnh Nghiệp Xã, tham dự có hai vạn người, đa phần được ứng nghiệm. Sư thường mộng thấy nghi dung của Tam Thánh, quỳ hỏi: “Chiếu tụng kinh Đại Thừa mong sanh Tịnh Độ, có được thỏa nguyện hay chăng?” Quán Âm chỉ dạy: “Tịnh Độ chẳng xa, hễ có nguyện liền được vãng sanh”.

      Theo Di Kiên Chí, vào đời Tống, Vương Bách Nương mồ côi từ bé, đã xuất giá lại góa bụa, sống nhờ nơi dinh quan của cậu. Trong niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1162), bà Vương mắc bệnh câm điếc, người cậu dạy bà Vương hãy dốc lòng thành nơi Quán Âm, bà Vương bèn sáng tối lễ niệm. Mỗi khi nghỉ ngơi, thấy tướng lành trang nghiêm của đức Quán Âm, răn dạy thiết tha, khuyên lễ Tây Phương Di Đà Phật. Bồ Tát truyền kệ rằng: “Nguyện lực châu sa giới, vân hà độc lễ Tây? Đản năng hồi nhất niệm, xúc xứ thị Bồ Đề” (Nguyện lực trọn sa giới, sao chỉ lễ Tây Phương? Chỉ vì xoay một niệm, đâu đâu cũng Bồ Đề). Lại dạy bà Vương hãy khuyên khắp mọi người tụng niệm. Chưa đầy một tháng, bệnh liền lành, tâm cũng thông sáng.

      (3) Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, em gái tướng quốc nước Trịnh bị hồ ly quấy phá, tụng Tâm Kinh bèn thoát nạn. Lại có nữ quỷ dựa thân, tự xưng là Mậu Tam Cô. Tướng quốc hứa tụng ba trăm quyển Tâm Kinh để siêu độ, [quỷ bèn] chắp tay cảm tạ. Về sau, em gái mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Họ Mậu được tụng ba trăm quyển kinh nên trở thành địa tiên[10]. Tâm Kinh của ta trọng đại, hãy càng nên cung kính phụng trì”. Tâm Kinh còn gọi là Đại Minh Chú Kinh do ngài Cưu Ma La Thập dịch.

      Theo Hải Nam Nhất Chước, trong niên hiệu Đạo Quang (1821-1850) đời Thanh, Nghiêm Thụy Năng ở Phù Lương bị bệnh chết. Sai dịch cõi âm bắt đến một dinh thự. [Diêm Vương] vừa mới thẩm tra thì Đại Sĩ đến, khoác áo choàng hoa sen, có một ông già đen xạm đi theo. Đại Sĩ bảo: “Thụy Năng chưa hết tuổi thọ, sao lại bắt đến?” [Diêm Vương] liền phạt trượng sai dịch. Đại Sĩ lại nói: “Ba đời nhà Thụy Năng không ăn thịt bò, thịt chó, cả nhà trì Quán Âm Trai, tụng Quán Âm Kinh. Ông già đen xạm này có thể làm chứng”. Dạy xong, dẫn Thụy Năng đi khắp các địa ngục, răn ông ta khi sống lại, hãy bảo người nhà ăn chay, niệm kinh, ai nấy phải chú trọng thành kính. Hơn nữa, kinh Kim Cang công đức chẳng thể nghĩ bàn, người tụng hãy cẩn thận, đừng có đầu không cuối, rồi đưa về nhà, Thụy Năng liền tỉnh lại.

      (4) Theo Tích Tự Biên, tại miếu Quán Âm ở Kim Lăng, trong các tháng Hai, tháng Sáu, tháng Chín, người đến dâng hương đông nghẹt, quăng bừa bãi những bao hương bằng giấy có in chữ, mặc cho tín đồ giẫm đạp. Người đất Hoàn (tỉnh An Huy) là Tôn Hữu Mai, cầu đảo mẹ được lành bệnh, mộng thấy Đại Sĩ dạy rằng: “Người đến thắp hương đa số muốn cầu phước mà nếu quăng bỏ giấy chữ thì đã ngược ngạo tạo lắm tội nghiệp. Ngươi hãy nên kể lại, nhắc nhở mọi người kính tiếc giấy chữ”. Hữu Mai tỉnh giấc bèn kể với người khác, về đến nhà mẹ đã lành bệnh.

      Theo Vấn Tâm Biên, trong niên hiệu Chánh Hòa (1111-1118) đời Tống, Lý Bát bị bệnh cùi, các thầy thuốc đều nói chẳng chữa được. Họ Lý trước đó tụng đủ ba tạng Quán Âm Kinh. Đến lúc này, có một vị Tăng cho một viên thuốc, ông Lý nhận lấy nhưng chưa uống. Đêm mộng thấy Tăng nói: “Ta là Quán Thế Âm. Thường ngày ngươi ưa dùng củi dơ nấu đồ ăn xúc phạm quỷ thần, nên mắc phải bệnh ấy. Nghĩ ngươi tụng kinh thành kính, nghiêm cẩn, đặc biệt ban cho ngươi một viên cứu khổ đan, sao lại chẳng uống?” Tỉnh giấc, uống ngay, râu, lông mày lại mọc ra.

      (5) Theo Nam Hải Từ Hàng, ông Lã ở Giang Ninh bệnh nguy cấp, mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Ngươi do tụng kinh, ham làm lành, nên được tăng thọ. Hãy nên khuyên khắp người đời, làm lành thì điều lành sẽ giáng xuống, làm ác thì tai ương sẽ giáng xuống, tơ hào chẳng sai!”

      Vào đời Thanh, Thái Thú Đồ Tiềm Viên bệnh nguy ngập, mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Ngươi đời trước làm quan, công bình nhưng nghiêm khắc, rất tổn hại lòng nhân hậu, lại giết nhiều sanh mạng, đáng mắc quả báo đoản thọ. May là trong khi bệnh tật vẫn ôm lòng làm lợi ích, cứu giúp, thệ nguyện kiên cố, nên có thể tăng tuổi thọ”.

      (6) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Ngô Thị là vợ ông Trương, ăn chay, tu Tịnh Độ, mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ dạy hãy quỳ niệm, vì thế hễ niệm Phật bèn quỳ.

      Đối với câu kế tiếp, hãy xem lời chú trong số 2 trong đoạn Lành Bệnh thứ nhất, tức chuyện Vương Ứng Cát.

      (7) Đối với câu trên, xin hãy đọc lời chú thứ bảy trong đoạn thứ ba nơi phần Trường Thọ về chuyện Thang Sính sống lại. Đại Sĩ dạy ông Sính: “Ông gặp sắc chẳng dâm, nên ta đến cứu. Ngày nay lòng người hiểm ác, gian dối, quỷ thần giám sát cực nghiêm. Như ông X... lẽ ra thi đậu, nhưng do làm chuyện không đoan chánh nên lỡ làng. Ông Y... tu thiện, cho đến khi công lao đầy đủ sẽ được giáng phước. Ông hãy nên có lòng tin, ưa làm lành”.

      Theo Tây Phương Công Cứ, vợ của Bành Tế Thanh là Phí Thị qua đời. Hoàng Kính Phu lễ bái Phổ Môn Đại Sĩ để hồi hướng cho bà ta, Đại Sĩ dạy: “Một niệm đem hồi hướng, gởi lòng chốn Tây Phương, công tu tích tụ lâu, trọn chẳng thoái Bồ Đề”.

      (8) Lăng Nghiêm Kinh: “Kim thử Sa Bà quốc, thanh luận đắc tuyên minh” (Nay trong cõi Sa Bà thì nhờ âm thanh biện luận mà được giảng rõ).

      Theo Quán Âm Cảm Ứng, Đường Văn Tông ăn sò, trong sò hiện tướng Bồ Tát. Đem hỏi thiền sư Duy Chánh, Sư nói: “[Bồ Tát thị hiện trong] loài vật, chẳng phải ứng hiện xuông, mà là nhằm khơi gợi tín tâm của bệ hạ, hãy bớt tiêu dùng, thương yêu con người. Kinh dạy: Nên dùng thân Bồ Tát để độ được bèn hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp”. Vua nói: “Đã hiện thân Bồ Tát nhưng chưa nghe thuyết pháp”. Sư nói: “Bệ hạ có tin hay chăng?” Vua bảo: “Nào dám chẳng tin!” Sư nói: “Bệ hạ đã nghe thuyết pháp rồi đấy”. Vua cả mừng, thôi ăn sò, xuống chiếu hạ lệnh các tự viện trong thiên hạ đều tạc tượng Quán Âm.

      (9) Theo Định Huệ Tương Tư Ca: “Vừa nghe pháp, thoảng qua tai, có thể huân tập chủng tử giác ngộ trong tạng thức”.

 

      1. Giống như Nguyên Mô sắp bị giết, truyền mười câu kinh. Kính Đức sắp tử hình, Cao Vương linh hiển.

      2. Sơn Đông ngự sử, chú thuật Bạch Y. Yên Chi vương phi, kinh xưng mộng dạy. Chép trong Giản Biên, ứng như dùi vừa gõ trống, liền có tiếng vang. Vốn chẳng phải là sấm truyền của lũ dân ma, dám dựa dẫm, bám víu xằng bậy, cũng chẳng giống như cơ bút của linh quỷ giáng đàn, vờ vĩnh giả danh. Đấy là sự hoằng pháp thứ hai của Đại Sĩ vậy (trong đoạn này ca tụng cả kinh thế tục).

 

      (1) Đối với chuyện Vương Nguyên Mô trong Tống Thư, xin xem lời chú thứ nhất trong đoạn thứ nhất của phần “khỏi bị giết chóc”.

      Sách Thái Bình Quảng Ký chép Nguyên Mô nằm mộng thấy có người dạy tụng Quán Âm Kinh một ngàn biến, ông Mô nói: “Mạng chỉ còn trong sáng tối, làm sao tụng một ngàn biến cho được?” Bèn dạy rằng: “Quán Thế Âm, nam mô Phật, có nhân với Phật, có duyên với Phật, có duyên với Phật pháp, thường, lạc, ngã, tịnh, sáng niệm Quán Thế Âm, tối niệm Quán Thế Âm, niệm niệm từ tâm khởi, niệm Phật chẳng lìa tâm”. Đấy gọi là bài kinh gồm mười câu.

      Sách Pháp Hoa Cảm Thông cũng chép Nguyên Mô mộng thấy có người dạy tụng phẩm Phổ Môn, nhưng một đêm mà tụng một ngàn biến, quả thật cảm thấy chẳng dễ, có lẽ sách Thái Bình Quảng Ký chép gần sự thật hơn. Còn như sách Nam Hải Từ Hàng chép [ông Nguyên Mô] tụng Cao Vương Kinh tức là chẳng biết khi Nguyên Mô bị Thác Bạt Đào đánh bại cho đến thời Cao Hoan là đã sớm hơn tám mươi năm[11], thuở ấy, làm gì có danh tự Cao Vương Kinh? Cõi đời tụng phẩm Phổ Môn được ứng nghiệm, nhưng truyền tụng sai lầm là kinh Cao Vương, đại để là như vậy đó.

      Đối với chuyện Tôn Kính Đức ở Định Châu chép trong Tề Thư, xin hãy xem lời chú thứ tư trong đoạn thứ nhất của phần “thoát nạn giết chóc”.

      Kinh Cứu Khổ như vừa nói [trong đoạn trên] còn được gọi là Cứu Sanh Kinh, hoặc gọi là Thập Cú Kinh, nhưng theo như Tam Bảo Cảm Thông Lục thì kinh ấy có danh hiệu chư Phật, như vậy thì kinh được nói trong Tam Bảo Cảm Thông Lục phải là kinh Cao Vương được lưu truyền trong thế tục.

      (2) Đối với câu trên, xin xem lời chú thứ 12 trong đoạn “khỏi bị hành hình”.

      Khi Minh Thành Tổ còn là Yên Vương, vợ ông ta trong hôm Nguyên Đán nhập Định, thấy Đại Bi Quán Âm hiện quang minh đủ các màu, tràng phan, anh lạc, lầu gác trang nghiêm, Đại Sĩ bảo: “Phật Thuyết Đệ Nhất Hy Hữu Đại Công Đức Kinh có thể tiêu tai, chứng quả. Ngươi sắp làm mẫu nghi thiên hạ, phước dày, tánh sáng, có thể vâng lãnh lời phó chúc, cứu vớt sanh linh”. Bèn dùng cam lộ quán đảnh, [vương phi] thân tâm thanh lương. Tỉnh mộng, trong miệng vương phi có mùi thơm lạ, trì tụng kinh chú được truyền trong mộng không sai sót. Trong thời Tĩnh Nạn, trong thành bị vây mấy lần, đều dựa vào sức che chở của kinh này. Còn những kinh khác như hai thiên trung hạ của Tâm Kinh, Quán Âm Bổn Nguyện v.v... đều là do người đời sau ngụy tạo, trọn chớ nên tin!

 

2.4.3. Ban cho người tiếp nối dòng pháp

 

      1. Bèn có Bồ Tát Vạn Hồi, danh đề trụ Phật. Thai Tông[12] Tuân Thức, mộng trao minh châu.

      2. Lão Tăng ngủ nhờ, có Niệm Thường kể lại chuyện xưa. Sao Mai vào bụng, được Từ Tạng hoằng truyền giới luật.

      3. Loa Khê tôn giả, chuyển thành Kế Trung. Bà lão xách giỏ cá, đưa Nguyên Chánh tới.

      4. Cung kính nhận tượng, Bích Phong quả là chàng trí huệ. Trong tiệc quán tưởng, Quốc Bảo thật xứng ngôi Thái Sư.

      5. Thánh Đạt tướng lạ khôn tầy, Tịnh Chi xương nhìn sáng sạch.

      6. Cầu nơi chùa tháp, Đại Giác chẳng thẹn sư thừa. Mộng chiếu thần quang, Đạo Phi hết lòng hiếu thảo.

      7. Đại Thông ban hiệu, hiểu sách vở tót vời. Khai Huýnh nhân từ, cứu khắp sanh mạng.

      8. Trao cho chuỗi châu, Tuyết Song đắc đế lý viên dung. Nuốt ánh sáng vàng, Sơ Thạch phá hư không tan nát.

      9. Quán Huyễn lừng danh, từng làm quan Thái Sử. Dịch Đường nối pháp, con thơ thừa kế nghiệp nhà.

      10. Tăng chúng kính như Bắc Đẩu, Hám Sơn thanh danh chói rực. Kim chỉ nam trong biển khổ, Ngẫu Ích đạo đáng tôn sùng.

      11. Cổ Am hiện tướng giữa mây, Chuyên Ngu nhập thai trong mộng.

      12. Da Khê xứng danh “sư tử nhi”, Ký Thiền hợp điềm mộng Mục Công.

      Chư vị đã chói ngời Tăng sử, mừng bậc long tượng xuất hiện đông đầy. Nào có biết những vị nối pháp do Bồ Tát ban tặng, đều nhận lời phó chúc tại Linh Sơn. Đấy là chuyện hoằng pháp thứ ba của Đại Sĩ vậy.

 

      (1) Theo bài Lưỡng Kinh Ký trong Đàm Tân Lục, đời Đường, sư Vạn Hồi, họ ngoài đời là Trương, mẹ cầu nguyện nơi tượng Quán Âm bèn có mang. Lúc sanh ra, Sư giống như ngu ngốc. Do đi sang doanh trại của người anh ở An Tây, sáng đi, tối về, [tính ra] một ngày đi vạn dặm, [người ta] mới hết sức kinh ngạc. Ngài Huyền Trang đến Thiên Trúc, thấy trên trụ Phật có đề: “Bồ Tát Vạn Hồi bị đày sang Văn Hương giáo hóa”. Sư trở về gặp ngài Vạn Hồi, lễ làm thầy. Võ Tắc Thiên đón sư Vạn Hồi vào triều, Sư nói rất nhiều chuyện linh nghiệm. Vạn Hồi gặp Tăng Già Đại Sĩ, lễ yết rất cung kính. Đại Sư vỗ đầu Vạn Hồi bảo: “Tiểu tử đi được rồi đó”. Đại Sư tịch xong thì Vạn Hồi cũng mất.

      Theo Liên Tông Bảo Giám, mẹ của sư Tuân Thức đời Tống cầu đảo Quán Âm, mộng thấy cô gái xinh đẹp trao cho viên minh châu bèn sanh ra Sư. Vừa tròn bảy tháng, Sư đã có thể niệm Quán Âm. Dốc sức học hành đến nỗi ho ra máu, thấy Bạch Y Đại Sĩ duỗi tay chỉ vào miệng, khêu ra mấy con trùng. Từ đầu ngón tay, cam lộ lại tuôn vào miệng, thân tâm thanh lương, bệnh trầm kha từ trước liền khỏi ngay. Sư đảnh tướng cao cả tấc, tay thòng quá gối, tiếng như hồng chung, được vua ban hiệu là Từ Vân Sám Chủ.

      (2) Theo Từ Lâm Tập, sư Niệm Thường đời Nguyên, hiệu là Mai Ốc. Mẹ cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy có vị lão tăng lông mày rậm xin ngủ nhờ, bèn có mang Sư. Lúc Sư sanh ra có ánh sáng tốt lành, mùi hương lạ. Xuất gia, Sư nghiên cứu rộng khắp các sách. Vua tôn Sư làm thầy, tôn kính, sủng ái. Sư soạn bộ Phật Tổ Thông Tải Tập lưu hành trong cõi đời, người thời ấy gọi Sư là “Tăng trung ban mã”[13].

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, ngài Từ Tạng đời Đường, họ Kim, cha là Vũ Lâm, thuộc hoàng tộc xứ Tân La (Silla). Phụ thân Sư tạo một ngàn bộ kinh Quán Âm để cầu con, bà mẹ mộng thấy ngôi sao lọt vào bụng, sanh ra Từ Tạng. Sư hoằng diễn giới luật, đáng giữ ngôi Tể Tướng, nhưng Sư nhiều lần tránh né không nhận. Vua tức giận, sai sứ vào núi đâm chết. Ngài Từ Tạng nói: “Ta thà giữ giới một ngày rồi chết, chẳng phá giới cả đời để được sống!” Sứ giả bèn tha đi. Sư liền sang Trung Quốc thuyết pháp, tuôn cam lộ, quyến thuộc của nhà vua càng tôn sùng.

      (3) Theo Phật Tổ Thống Kỷ, Thích Kế Trung, tự là Pháp Thần, cha mẹ cầu tự trong miếu Phật, cùng mộng thấy một vị Tăng trao cho đứa con, bảo: “Gởi ngươi nuôi Loa Khê tôn giả”. Sư xuất gia bị bệnh, bèn hành Thỉnh Quán Âm Tam Muội. Đại Sĩ phóng quang, dùng nước tưới đảnh, bệnh liền khỏi ngay. Sư hiểu sâu xa Giáo Quán, ngài Tuyết Đậu Hiển nói: “Đạo của Tứ Minh có người truyền rồi!”

      Theo Phổ Đà Chí, mẹ của Trung Tán[14] Nguyên Chánh cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy bà lão xách giỏ cá vào cửa, trao cho một con cá chép, bèn có thai. Đêm Nguyên Chánh sanh ra, sáng ngời như ban ngày. Thầy bói bảo: “Mạng không thọ”, do vậy bèn xuất gia, về sau đắc pháp nơi ngài Dịch Đường.

      (4) Theo Kê Cổ Lược, sư Bảo Kim, hiệu là Bích Phong, họ Thạch. Cha mẹ đều thích làm lành. Có một vị Tăng tặng tượng Quán Âm cho mẹ Sư bảo: “Hãy nghiêm cẩn thờ phụng thì sẽ sanh ra đứa con trai có trí huệ”. Không lâu sau sanh ra Sư, bạch quang chiếu khắp nhà.   

      Thái Sư nhà Nguyên hiệu là Quốc Bảo, tên là An Tạng, hiệu là Long Quan Lão Nhân. Cha ngài đang ngồi trong tiệc mà nhập Quán Âm Quán, [trong khi quán tưởng] chợt có người ẵm đứa bé đến trao cho, mẹ Sư liền có thai. Đến khi sanh ra ngài, hồng quang ngập nhà. Lúc năm tuổi, Sư có lần ngủ vùi suốt ba ngày đêm, bảo: “Văn Thù thuyết pháp cho con”. Về sau, Sư ngồi qua đời, mùi hương lạ sực nức, viên tướng ngưng đọng trong phòng, bạch hào quang hướng về Tây rồi chiếu về phương Nam, xá-lợi ngũ sắc vô số.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, sư Chân Quán tự là Thánh Đạt. Phụ mẫu khiết tịnh, trai giới, lập thệ, tụng kinh Dược Sư, Quán Âm, Kim Cang để cầu có đứa con trí huệ. Đến lúc sanh ra, Sư tướng lạ khôn sánh tầy. Chỉ tay trong bàn tay trái hợp thành hình chữ Tiên (), chỉ tay trong bàn tay phải hợp thành hình chữ Nhân ().

      Lại nữa, cha mẹ ngài Tịnh Chi nghĩ đến điều lành, nhưng không có người nối dõi, cầu đảo khắp nơi nhưng không được toại nguyện, bèn niệm Quán Âm, trong vòng mười ngày bèn có thai. Đến năm lên tám, Sư ưa thích Di Đà Quán Hạnh, thấy cảnh xinh đẹp, quán xương sáng sạch.

      (6) Theo Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện, mẹ ngài Hoài Liên cầu đảo nơi tháp ngài Tứ Châu Tăng Già sanh ra Sư. Trong niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1454), Sư được vua ban hiệu là Đại Giác. Sư trì luật tinh nghiêm, được vua ban bát thơm bằng gỗ long não, Sư bèn đốt bát trước mặt sứ giả. Thuở nhỏ, Sư theo học với Hiểu Thuấn thiền sư. Thuấn Thiền Sư bị Quận Sứ đố kỵ, nên phải mặc đồ thường, đến nương náu với ngài Hoài Liên. Ngài Hoài Liên để thầy nghỉ nơi chánh tẩm, giữ lễ đệ tử. Vương công đến thân cận Sư thấy lạ, ngài Hoài Liên đem sự thật trình bày. Tống Nhân Tông bèn cho phép ngài Hiểu Thuấn xuống tóc trở lại.

      Lại nữa, ngài Đạo Phi đời Hậu Châu, mẹ là Hứa Thị trì phẩm Phổ Môn cầu con, mộng thấy thần quang chiếu vào thân bèn có mang. Về sau, Sư xuất gia, gặp năm đói kém bèn nhịn ăn nuôi mẹ. Sư đến Hoắc Sơn tìm xương cha, gom các hài cốt tụng kinh, chúc nguyện: “Xương nào chuyển động tức là hài cốt của cha”. Mấy hôm sau, quả nhiên có đầu lâu từ đống xương trồi lên, đến trước Đạo Phi lắc lư một lúc lâu. Đạo Phi khóc lóc, ôm về. Trước hôm Sư về đến nhà một ngày, mẹ Sư mộng thấy chồng quay về nhà.

      (7) Theo Giác Hổ Tập, sư Thiện Bản đời Tống trong niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085) được vua ban hiệu là Đại Thông. Mẹ ngài cầu đảo Bạch Y Đại Sĩ mà sanh ra Ngài. Sư thông hiểu sách vở tột bậc, trong Định thấy Phật Di Đà hiện thân sắc vàng.

     Theo Từ Lâm Tập, ngài Khai Huýnh là con nhà họ Trương. Mẹ Sư cầu đảo Đại Sĩ bèn có mang, sanh Sư nhằm đúng ngày Đại Sĩ thành đạo, sáng rực cả nhà. Bà nội Sư có để lại mấy thoi vàng. Gặp năm đói kém, Sư đem thí hết. Thí xong, lại có người đến xin, Sư hận không có gì để cứu giúp, phát nguyện xả thân để sanh vào nhà vua chúa. Sư lên Quán Âm Nham gieo thân xuống, rốt cuộc chẳng bị thương tổn gì. Biết là Đại Sĩ từ bi che chở, bèn phát nguyện xuất gia. Cha Sư ngăn trở, tới đêm, Sư mộng thấy có người áo trắng lôi đi, cửa ngõ mở toang, bèn trốn ra, được dịp xuống tóc.

      (8) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, ngài Ngộ Quang đời Nguyên hiệu là Tuyết Song, mẹ ngài cảm Đại Sĩ trao cho chuỗi châu bèn có mang. Đến khi sanh, có điềm lạ như gió mây rạng ngời. Xuất gia, Sư cật lực tham cứu có chỗ tỉnh, Tam Đế[15] viên dung, nhất tâm thấu triệt rạng ngời, được vua ban hiệu là Phật Nhật Viên Minh Phổ Tế Thiền Sư.

      Lại nữa, ngài Trí Hoạch đời Nguyên là người xứ Nhật Bản. Mẹ cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy nuốt ánh sáng vàng bèn có mang. Lúc Sư sanh ra, ánh sáng tốt lành ngập nhà. Trong mộng, Sư thấy mình đi đến ngọn Sơ Nham của Trung Quốc, bèn tự đặt tên là Sơ Thạch. Sư tu sám cảm thần minh hiện giữa không trung. Tham khấu lâu ngày, thân chợt đại ngộ, có những câu như “đẳng gian kích toái hư không cốt” (trong khi bình đẳng, đập nát xương hư không).

      (9) Theo Kê Cổ Lược, sư Nguyện Đăng, mẹ họ Đào, cầu đảo Đại Sĩ sanh ra Sư. Xuất gia, trụ tại chùa Thủy Tây, soạn Quán Huyễn Tử Nội Ngoại Thiên, chủ trương Nho Thích nhất quán. Tống Liêm đem tác phẩm ấy dâng lên Minh Thái Tổ, vua bèn phong Sư làm quan Hàn Lâm dự bị.

      Theo Phổ Đà Chí, sư Dịch Đường Minh Tâm, con nhà họ Thiệu, mẹ mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ ẵm đứa bé vào nhà bèn sanh ra Sư. Sư đắc pháp nơi hòa thượng Triều Âm.

Phẩm Anh Nhi Hạnh của Niết Bàn Kinh có câu: “Chẳng thể đứng, ngồi, lui, tới, nói năng thì gọi là Anh Nhi Hạnh”[16].

      (10) Theo Nhất Hạnh Cư Tập, ngài Hám Sơn pháp danh là Đức Thanh, họ ngoài đời là Thái. Bà mẹ mộng thấy Đại Sĩ bế đứa trẻ đến trao cho bèn sanh ra Sư. Chín tuổi, Sư đã có thể tụng phẩm Phổ Môn, trước thuật vô cùng phong phú.

      Lại nữa, ngài Ngẫu Ích pháp danh là Trí Húc, con nhà họ Chung ở Ngô Huyện. Cha là Kỳ Trọng, trì Bạch Y Chú và Đại Bi Chú mười năm để cầu con, mẹ mộng thấy Đại Sĩ ẵm đứa trẻ đến trao cho, bèn sanh ra Sư. Lúc còn sống, Sư soạn thuật hơn bốn mươi loại sách, nhưng Di Đà Yếu Giải là tác phẩm giản yếu, thiết thực nhất.

      (11) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, ngài Hiển Thị đời Minh, pháp tự là Cổ Am. Bà mẹ mộng thấy Quán Âm hiện giữa mây ngũ sắc bèn có mang Sư. Sư nhiều lần trung hưng Lan Nhã, thanh danh ngày càng tăng. Về sau, Sư chuyên chí Tây Phương, nhiều lượt cảm được điềm lành.

      Lại nữa, ngài Quán Hành đời Minh, pháp tự là Chuyên Ngu. Mẹ Sư mộng thấy Đại Sĩ dắt một bé trai vào nhà, thích quá, ôm lấy, bèn sanh ra Quán Hành. Sư thường niệm thánh hiệu Quán Âm, dáng điệu toát ra vẻ tự tại, tỏ lộ như thế mà Sư chẳng biết. Về sau, vào những đêm có trăng, Sư đi kinh hành, đắc tối thượng chánh giác từ nơi tông chỉ Lăng Nghiêm, soạn Lễ Quán Âm Nghi (một quyển), suất lãnh đại chúng huân tu. Những hành giả thật sự chứng đắc gồm 15 người.

      (12) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, ngài Chí Nhã đời Minh, pháp tự là Da Khê. Mẹ là Yến Thị cầu đảo Bạch Y Đại Sĩ, cầu sanh được đứa con tốt lành. Mộng thấy một vị Tăng chân trần bảo: “Ta ban cho ngươi một đứa con sư tử”, tỉnh giấc bèn sanh ra Chí Nhã. Sư diễn kinh, tọa thiền, được xưng tụng là “nhất đại sư tượng” (bậc thầy cả đời).

      Lại nữa, ngài Kính An đời Thanh, pháp tự là Ký Thiền, biệt hiệu là Bát Chỉ Đầu Đà. Bà mẹ cầu đảo Bạch Y Đại Sĩ, mộng thấy hoa lan bèn sanh ra Sư. Ngài không học mà biết làm thơ, tu ròng Thiền Định, rắn, hổ chẳng làm hại.

Đối với điển tích “mộng lan”, xin xem lời chú thứ mười trong đoạn thứ nhất của phần “có được con nối dõi” [trong quyển hai].

 

2.4.4. Hộ pháp

 

      1. Bèn có: Giới Nhật nối ngôi, làm minh quân xứ Ấn; Minh Biện lưu thân, sống mãi cùng loài Tu La.

      2. Cầu thạo tiếng Hán, Bạt Đà đổi đầu; nhằm biến Tần âm, Tri Huyền thay lưỡi.

      3. Thiên tướng ôm đao, dặn Đạo Quynh nhận hương; thần nhân vác kích, nhắc Từ Ân đường đi.

      4. Pháp Kiều cầu báo, giọng vang ngăn cả mây trôi, Tịnh Ý cảm ân, tâm cảm nhận Phật ngầm phù hộ.

      5. Châu Lý không bị chê ngắc ngứ, Đổng Già ngộ bản lai diện mục.

      6. Nuốt hạt son, giống tiên nuốt thuốc Đạo Gia; chú nát bình phong đá, khiến Phật pháp nổi trội kinh thành.

      7. Khởi Chinh phát nguyện, Đạo Nguyên mộng cúng kinh văn. Nguyên Lý thắp hương, ông Mạo liền trao thiện bản[17].

      8. Vách đá hiện bài mật chú, làng trúc truyền dạy ấn quyết.

      9. Liên tục gọi Bồ Tát, khiến Tổng Trấn tâu trình; mộng đến Bổ Đà, Hiếu Tông càng vững lòng tín ngưỡng.

      10. Nhập mộng Kinh Vương, xin vá áo xiêm. Tới cửa Nghiễm Trai, mong được tượng mới.

      11. Ngạn Tông có điềm mộng trao chén ngọc, Giác Uyển than tượng linh thiêng rớt vào tay .

      12. Trong mộng nhắc đoạt lại thân vàng, gõ xử báo trả lại bảo thạch.

      13. Mua giấy, kinh hồn giấy cắt vụn; tráo nồi bị đòi phải bồi hoàn.

      14. Bình phong trơn lặng lẽ, trừ giùm A Tú hung tàn. Miếu xưa bụi phủ đầy, cứu giúp Vạn Lam ngăn trở.

      15. Thí vàng, mắc hãm, hiện áo trắng giải vây. Ngồi nhờ thuyền bị chìm, đèn sáng dẫn đường giải cứu.

      16. Đạo Hiến ngã xuống nước, Bồ Tát đến nâng. Dưới chân Duy Tân, nhờ hoa sen đỡ.

      17. Rơi mất y bát, Đạo Uông nhờ mây mù toàn mạng; thân vướng lồng nung, Nguyên Lễ được tăng nhân cứu vớt.

      18. Quan Đế răn đừng cúng đồ mặn; oan hồn tránh né thần hộ giới.

      19. Cử Nguyên Thản [làm Trụ Trì] bèn mộng thấy trâu; ghi chuyện Nguyên Đạt được ban áo tía.

      20. Trạm Tu dạy chú, đất không còn tai ương cọp dữ. Trinh Biện vững Thiền, thiên ma trọn chẳng dám khinh nhờn.

      21. Ông Châu cảm vật cũ, mang tượng thêu về. Họ Trương phá trai, tượng vẽ hủy mất.

      22. Trên lầu Vạn Thọ, Bát Quái đặt vững Âm Dương. Họ Trình xứ Hiếu Cảm, chỉ rõ năm tốt xấu .

      23. Mây hoa cúng dường, truyền đem cỗ tặng cho người đói. Thê Hà hết lương, dặn tặng gạo cao tăng.

      24. Sách tấn tịnh niệm của Tăng Đoan, Mẫn Dự thoát khỏi ổ dâm. (gồm ba đoạn)

 

      (1) Theo Đường Tam Tạng Truyện, vua Giới Nhật[18] tánh nhân từ. Đầu thời Trinh Quán, lúc sắp nối ngôi, vua thỉnh ý Quán Âm, Đại Sĩ dạy: “Ngươi đời trước là tỳ-kheo, phước lực đáng làm vua năm xứ Ấn Độ”. Sau khi lên ngôi, vua mấy lượt tổ chức Vô Giá đại hội[19]. Khi ngài Huyền Trang đến, vua lễ kính tột bậc.

      Lại nữa, vị Tăng Ấn Độ tên là Minh Biện, đối trước tượng Quán Âm, nhịn ăn, cầu thỉnh [Bồ Tát chỉ cách để giữ xác thân] đợi Di Lặc Bồ Tát hạ sanh. Đại Sĩ hiện thân, dạy tụng chú Kim Cang ba năm: “Trong quả núi to ở phía Nam thành ấy có cung Tu La. Hãy tụng chú vào hạt cải ném vào vách đá thì vách đá tách ra liền vào trong ấy đợi khi ngài Di Lặc ra đời, ta sẽ báo cho biết”. Minh Biện đúng pháp làm theo, quả nhiên vách núi tách ra, có sáu người đi theo vào đó, cả vạn người đến xem.

      (2) Theo Cao Tăng Truyện, tập 1, đời Tống, ngài Cầu Na Bạt Đà La được Nam Tiếu Vương thờ làm thầy, thỉnh Sư giảng Hoa Nghiêm, nhưng Sư chưa thông tiếng Hán. Sáng tối lễ sám cầu khẩn Quán Âm để mong được cảm ứng. Đêm mộng thấy thần cầm một đầu người đến đổi. Từ đấy, thông hiểu tiếng Hoa, bèn giảng kinh đến mấy chục lượt, người nghe bội phục. Trong sách khác cũng chép chuyện ngài Đàm Vô Sấm được đổi đầu.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, ngài Tri Huyền là người đất Thục (Tứ Xuyên), phô diễn kinh luận, Tăng, tục đều kính ngưỡng, nhưng buồn vì ngữ âm không chỉnh, bèn tụng chú Đại Bi nơi núi Tượng Nhĩ. Sư mộng thấy thần tăng cắt lưỡi trao đổi. Hôm sau bèn nói đúng giọng xứ Tần, được vua ban hiệu là Ngộ Đạt quốc sư[20].

      (3) Theo Pháp Uyển Châu Lâm, trong niên hiệu Nguyên Gia (424-453) đời Tống, Lâm Xuyên Vương trấn giữ Quảng Lăng, thỉnh ngài Đạo Quynh làm lễ Quán Âm Trai mười ngày. Đêm khuya, chúng tăng đều lui về ngủ. Đạo Quynh thức dậy, lễ bái, chợt thấy bốn vách có vô số sa-môn, đều hiện nửa thân. Một vị Phật, búi tóc xoắn ốc phân minh rành rẽ. Một người to lớn tay cầm đao, diện mạo hùng vĩ, cầm hương trao cho Đạo Quynh, Đạo Quynh không nhận. Người trong vách nói: “Quynh công nên nhận hương hòng che chở, bảo vệ chủ nhân”.

      Theo Đường Tam Tạng Truyện, ngài Huyền Trang trụ tại chùa Từ Ân, vì thế được gọi là Từ Ân pháp sư. Thoạt đầu, Sư sang Tây Vực, bị khốn đốn ở Lưu Sa, xin xem lời chú thứ nhất trong đoạn thứ hai của phần Thoát Hiểm. Khi ấy, gió mát thổi qua thân, bèn ngủ thiếp đi một chốc, mộng thấy một vị thần cao mấy trượng, cầm kích chỉ, nói: “Chẳng thể không gắng đi”. Pháp sư giật mình tỉnh giấc, đi tiếp, bèn đến được chỗ có cỏ, nước.

      (4) Theo Cao Tăng Truyện, tập 1, đời Tấn, Bạch Pháp Kiều thích đọc tụng, nhưng không có giọng. Do vậy, nhịn ăn sám hối suốt bảy ngày đêm, lễ bái Quán Âm. Ngày thứ bảy, ông cảm thấy cổ họng rỗng rang, tiếng vang xa cả dặm, xa gần than thở kinh ngạc, đều đến xem nghe. Sau đấy, ông tụng kinh suốt ngày đêm, giọng tụng êm nhẹ, uyển chuyển, lay động lòng người. Đến chín mươi tuổi giọng vẫn không suy.

      Theo Liệt Tử, Tần Thanh vỗ vào miếng tín phù[21], ca ai oán, tiếng hát lay động rừng cây, tiếng vọng khiến mây ngừng trôi.

      Theo Lập Mạng Toàn Thư, vào đời Minh, Du Đô ở Giang Tây, học giỏi, nhưng nhà nghèo, dạy học, năm đứa con trai chết yểu mất bốn. Một đứa con còn sót lại thì dưới bàn chân trái có hai nốt ruồi, cực thông minh, tuấn tú, bị thất lạc. Con gái bốn đứa chết yểu mất ba. Vợ khóc thương con cái, hai mắt lòa hẳn. Du Đô tự xét mình chẳng phạm lỗi lớn lao nào mà bị trời phạt thê thảm. Mỗi dịp cuối năm đều dâng sớ cầu đảo ông Táo. Đến đêm Trừ Tịch[22] năm 47 tuổi, một cụ già đội khăn xéo, mặc áo dài đen đến hỏi: “Nghe ông buồn rầu than thở nên muốn đến an ủi”. Du Đô kể lại mạng vận trắc trở, đọc sớ, vừa đọc vừa rơi nước mắt. Ông cụ nói:

- Tôi đã sớm biết rồi. Ông phóng sanh nhưng quả thật không có tâm từ bi, vì người khác mà làm cho xong chuyện đó thôi! Tôm cua thường vào bếp nhà ông, tội lỗi nơi miệng càng nhiều hơn, cõi Âm ghi chép rành rành. Tuy không tà dâm, nhưng thấy sắc tâm động, chỉ không có tà duyên tụ hội mà thôi. Thượng Đế xem sớ, xét thấy ông trọn chẳng có điều lành thật sự nào đáng để ghi chép, mà ý niệm tham dâm, ghen ghét, ý niệm nghĩ mình cao quý, khinh rẻ kẻ khác, ý niệm báo ân, trả thù, chư thần ghi chép ngày càng nhiều. Trốn họa còn chẳng xuể, huống là cầu phước ư?

Du Đô khiếp phục nói:

- Ngài đã thông hiểu chuyện u huyền, xin rủ lòng cứu độ.

Ông cụ nói:

- Từ nay trở đi hãy trừ tuyệt ác niệm, làm lành, chẳng cầu danh, chẳng cầu báo, chẳng so đo lớn, nhỏ, khó, dễ, cứ thật tâm làm. Dẫu sức không kham nổi thì cũng tán thán, tùy hỷ, khiến cho thiện niệm viên mãn, lâu dần sẽ tự ứng nghiệm.

Ông cụ đứng dậy đi xuống bếp rồi biến mất, mới biết ông cụ chính là thần Tư Mạng (Táo Quân)[23]. Do vậy, [Du Đô] đặt biệt hiệu là Tịnh Ý, trừ lỗi, hướng lành, đối trước Quán Âm Đại Sĩ khấu đầu đến nỗi chảy máu, phát thệ cầu thiện niệm chân thật, tinh thuần, mỗi sáng tụng danh hiệu Đại Bi một trăm lần để mong ngầm che chở. Mỗi lời nói, mỗi hành động chẳng dám dối trá, phóng túng, hết thảy chuyện giúp người lợi vật, bất luận là chuyện lớn hay bé, thân nhàn hay bận, người khác biết hay không, có đủ tài lực hay không đều hoan hỷ hành trì, thành tựu cặn kẽ. Hễ gặp người khác đều khuyên chỉ, chỉ lo thời gian không đủ. Ba năm như thế, được Tể Tướng Trương Cư Chánh[24] mời về đứng đầu các gia sư, thi đỗ Tiến Sĩ. Từ nhà của Dương Nội Giám, gặp gỡ con trai, dẫn về báo với vợ. Vợ ôm con khóc ròng, con liếm mắt mẹ, hai mắt liền sáng lại. Do vậy, ông soạn bài văn Ngộ Táo Thần Ký để răn dạy con cháu.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Minh, sư Châu Lý tự là Triệt Dung, nói năng ngắc ngứ, lắp bắp chẳng rõ ràng. Do vậy, lễ tụng Quán Âm ba năm, mộng thấy người áo trắng vào nhà, trao cho ba viên thuốc bảo nuốt. Từ đấy, ăn nói lưu loát.

      Lại nữa, vào đời Minh, Đổng Già hâm mộ Thiền tông từ bé, trì chú Đại Bi, cảm Quán Âm thí pháp, ngộ được diện mục sẵn có trước khi cha mẹ sanh ra.

      (6) Theo Từ Lâm Tập, đầu đời Thanh, ni sư Đẳng Linh chuyên tu Tịnh Độ, sáng tối lễ tụng danh hiệu Đại Sĩ chẳng ngớt miệng. Giữa đêm, chợt cảm thấy trong tay có vật gì, bỏ vào miệng rồi thì trong nắm tay vẫn còn ba viên khác nữa đỏ như châu sa. Từ đó, tuyệt thực, trọn chẳng đói khát, mà thân thể vẫn bình thường, tinh thần khỏe khoắn.

      Lăng Nghiêm Kinh: “Kiên cố phục nhĩ nhi bất hưu tức, thực đạo viên thành, danh Địa Hành Tiên” (Kiên cố ăn nuốt thuốc tiên không ngưng nghỉ, không cần ăn uống thì gọi là Địa Hành Tiên).[25]

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, sư Sùng Huệ là người Hàng Châu, là đệ tử của ngài Kính Sơn Khâm, chuyên tụng chú Phật Đảnh, có vị thần bảo: “Phật pháp ở kinh đô bị ngoại giáo lấn hiếp, đợi Sư đến giải cứu”. Ngài Sùng Huệ sang miền Tây, cùng với đạo sĩ Sử Hoa đi chân trần leo lên thang kết bằng đao nhọn, lại đi vào lửa mạnh, thọc tay vào dầu sôi, ăn lá sắt. Sử Hoa hoảng sợ bỏ trốn. Theo [những bài viết về] hành trạng của ngài Kính Sơn thì ngài Sùng Huệ tụng chú Câu Chi Quán Âm[26] ở chỗ ngài Kính Sơn Khâm, tụng chú vào tấm bình phong bằng đá, bình phong bèn vỡ làm ba mảnh.

       (7) Theo lời Bạt của sách Kim Cang Giải Nghĩa, trong niên hiệu Khang Hy đời Thanh, Mã Khởi Chinh tính mời những người cùng chí hướng khắc kinh Kim Cang. Đêm mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ hiện kim thân, La Hán vây quanh chừng như đang tiếp dẫn. Sáng hôm sau, Trương Đạo Nguyên đến bảo: “Hôm qua mộng thấy cùng với ông đến một ngôi chùa cổ, thấy lực sĩ khiêng một cái khăn trùm đầu màu vàng, hương hoa xúm xít vây quanh, giữa khăn đặt kinh văn bằng chữ Phạn. Vị Phạm tăng bảo: ‘Các ông có đại nhân duyên, nay mới gặp gỡ”. Khởi Chinh nêu ý nguyện muốn rủ ông Trương cùng in kinh, ông Trương mới biết nguyên do vì sao có giấc mộng ấy.

      Trong lời tựa sách Cảm Ứng Thiên, ông Tiền Dưỡng Thứ đời Minh viết: “Tôi lễ ngài Vân Thê, ngoài thời khóa Tịnh Độ, thầy còn dạy phụng trì Cảm Ứng Thiên. Đau đáu nghĩ đang thời sóng gió, đạo tặc, sách này hết sức linh dị. Vu Nguyên Lý cùng tôi theo học với ngài Vân Thê, được quả báo cũng giống như thế, muốn hợp sức khắc ván để lưu thông, nghe ông Mạo ở Quảng Lăng có bản hoàn chỉnh, khổ rằng chưa thể sang đấy được. Ông Vu bèn đốt hương đối trước Đại Sĩ, đảnh lễ, khẩn cầu. Hơn mười ngày sau, bên Quảng Lăng gởi sách đến. Tính ra hôm ông Mạo sửa chữa bản sách nhằm đúng hôm ông Vu đảnh lễ. Sao mà Đại Sĩ linh cảm đến như thế ấy!”

      (8) Theo Duyệt Vy Thảo Đường Bút Ký: “Đại Học Sĩ Ngũ Di Thái đời Thanh kể: ‘Trước kia ở tại Tây Tạng, tôi thấy trên đá nơi vách núi cheo leo trong ngõ cụt có bài chú Đại Bi của đức Quán Âm bằng chữ Phạn do thiên nhiên tạo thành, chữ nào chữ nấy phân minh. Sức người chẳng thể làm được, mà cũng chẳng tìm được dấu tích của ai’. Ông ta là người suốt đời không nói dối”.

      Theo Linh Cảm Phú, Trúc Lý Lão Nhân Hà Nhị Như thường tụng chú Đại Bi, con gái và đầy tớ cùng mộng thấy trên đỉnh đầu cha phóng quang. Trong quang minh có người râu đỏ và cô gái xõa tóc, bảo hãy cùng ngồi lên lưng sư tử đi gặp Phật, nói: “Cha ngươi chưa biết ấn quyết, ngươi hãy truyền lại: Tụng chú thì chắp hai tay lại, hai ngón cái đan vào nhau, ngón cái bên phải bấm vào gốc ngón trỏ bên trái, ngón cái bên trái thì áp lên đốt ngón trỏ bên phải. Đó gọi là Đại Bi Ấn. Tụng chú đến chữ Sa-bà-ha lần thứ nhất thì ngón út từ từ tách ra. Từ đó trở đi, mỗi khi tụng đến chữ Sa-bà-ha thì lần lượt ngón vô danh (ngón đeo nhẫn), ngón giữa, ngón trỏ từ từ tách ra. Đến câu chú kết thúc là “nam-mô hát-ra-đát-na” thì tréo hai ngón giữa lại, co ngón giữa bên phải gác lên mép ngoài ngón giữa bên trái, ngón giữa bên trái áp lên mép trong ngón giữa bên phải. Tụng đến câu “nam-mô A-rị-da” hai ngón giữa giao nhau, co ngón giữa bên phải gác lên mép ngoài ngón giữa bên trái, ngón giữa bên trái áp lên mép trong ngón giữa bên phải. Tụng đến câu “sa-bà-ha kiết-đế” hai tay chắp chặt lại như lúc ban đầu. Đấy là ấn quyết Đại Bi”.

      (9) Theo Phổ Đà Chí, Thanh Thánh Tổ (Khang Hy) tuần du phương Nam, Tổng Binh Hoàng Đại đến nghênh giá. Ban đêm đang ngủ, kêu ầm lên: “Bồ Tát trở lại!” Ngày hôm sau tâu xin vua tu bổ hai chùa.

      Theo Phổ Đà Chí, trong tháng Bảy năm Long Hưng nguyên niên (1163) đời Tống Hiếu Tông, vua mộng thấy đến chơi Phổ Đà, được điềm lạ, bèn ngự chế bài Quán Thế Âm Bồ Tát Tán.

      (10) Theo Nam Hải Từ Hàng, trong niên hiệu Gia Tĩnh (1522-1566) đời Minh, Kinh Vương mộng thấy có người bảo: “Vá áo xiêm ta thì ta sẽ ban cho vương con cháu”. Vương hỏi: “Ngài là ai?” Đáp: “Căng mắt sẽ thấy, nghiêng tai sẽ nghe, hãy tự biết lấy”. Vương tỉnh giấc, ngơ ngác. Một hôm, nhìn thấy tượng Quán Âm, vương đột nhiên vỡ lẽ nói: “Căng mắt nhìn là Quán, nghiêng tai nghe là Âm”. Cạnh phủ có Quán Âm Các, vương đến xem, rường mái đã nghiêng ngửa, mục nát, tượng đắp đã long lở, liền dốc sức sai người sửa chữa, khắc bia để ghi lại sự kiện.

      Lại nữa, trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722) đời Thanh, vị Tăng ở am Bảo Xứng là Huệ Như nhân thấy tượng Đại Sĩ hư hoại, đi quyên mộ, hơn cả tháng không ai cúng dường. Một đêm, Sư lén đặt tượng [Đại Sĩ] ở cửa nhà quan Trung Thừa Vương Nghiễm Trai. Viên phu nhân mộng thấy một cô gái áo trắng nói từ Phổ Đà đến xin một chiếc áo. Tỉnh dậy, bà kể lại với quan Trung Thừa thì ông cũng mộng thấy giống hệt như vậy. Sáng, ra nghe người gác cửa báo tượng Đại Sĩ ở ngoài cửa bèn thắp hương tạ tội, gọi Tăng đến tạc tượng mới, đưa sang Phổ Đà.

      (11) Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, đời Tùy, Ngạn Tông ở trong dinh của Tần Vương, mộng thấy người to lớn sắc vàng cao tới ba trượng, cầm chén lưu ly trao cho. Về sau, Thái Vương sai vẽ tượng Quán Âm, thân lượng được vẽ giống hệt như trong giấc mộng khi trước.

      Theo Linh Cảm Phú, đời Tống, Giác Phạm Hồng mộng thấy một vị Tăng dẫn vào trong nhà, trên vách có hình tượng của Bảo Công Bồ Tát (tức tượng ngài Bảo Chí Thiền Sư), chợt rụng vào tay mình, hóa thành Quán Âm mười một mặt. Giác Phạm kinh dị. Ngày hôm ấy, vị Tăng ở Nam Châu là Đức Phùng mời thợ khéo vẽ tượng Quán Âm, gởi thư đến xin ngài Giác Phạm viết bài tán. Do vậy, Sư hết sức cảm thán.

      (12) Đời Minh, vị Tăng ở chùa Bảo Nghiêm tại Ninh Ba mộng thấy tượng Quán Âm bằng đồng trong điện thờ nói: “Ta mắc nạn, hãy mau cứu”. Thức dậy nhìn xem thì tượng đã bị trộm mất, đuổi theo ba dặm, kẻ cướp sắp hủy tượng. Kẻ cướp sợ hãi, tan chạy, bèn thỉnh tượng về.

      Theo Xuy Ảnh Biên, trên trán tượng Đại Sĩ ở hậu điện Đại Đức Vạn Thọ Tự có gắn viên bảo thạch màu đỏ, đường kính một tấc. Đầu thời Càn Long (1736-1795) nhà Thanh, có kẻ cắp đến ăn trộm, đã cạy ra rồi. Vị Tăng tên Đại Vân vừa mới ngồi Thiền, bị nhức đầu, chợt thấy thần hộ pháp dùng xử đánh vào trán, lòng biết là có chuyện lạ, đứng dậy lên điện xem, bọn cắp bỏ trốn. Đến nay viên đá báu vẫn còn nguyên, chỉ hơi khuyết một góc, tức là dấu vết bị cạy vậy.

      (13) Theo Linh Nghiệm Ký, đời Tống, Châu Thế Hanh phát nguyện chép hai trăm quyển kinh Quán Âm để thí cho người khác trì tụng, đem tiền và gạo đưa cho người thợ làm giấy họ Giang, cậy ông ta chế giấy chép kinh. Ông thợ làm giấy họ Giang bèn ra chợ mua giấy [chứ không chịu làm giấy], đến khi lấy giấy ra thì mỗi một xấp giấy đều bị cắt nát thành sáu bảy đoạn, kinh sợ, quay về, cấp tốc làm giấy giao cho ông Châu.

      Theo Phổ Đà Chí, trong điện Đại Hùng chùa Pháp Vũ có một bức tượng Quán Âm bằng sắt. Đầu bức tượng ấy chính là đầu tượng Phật đã phóng quang ở bãi cát Thiên Bộ. Vũ Vân Sơn ở Giang Nam chở đầu ấy sang Kim Lăng, quyên mộ đúc kim thân, có người đưa giùm cái nồi của người hàng xóm đến cúng, ông ta tham cái nồi ấy bèn đem cái nồi đã thủng thế vào. Đến đêm, mộng thấy thần kim giáp đến đòi nồi, tỉnh dậy liền ngã bệnh, bèn trả lại nồi, sám hối thì mới lành bệnh.

      (14) Theo Tiễn Đăng Dư Thoại, đời Nguyên, Thôi Anh dẫn vợ là Vương Thị sang Vĩnh Gia nhậm chức Thái Úy. Cùng nhau uống rượu trong thuyền, đồ uống rượu toàn bằng vàng bạc. Phu thuyền dìm ông Anh xuống nước, giết bọn nữ tỳ, đầy tớ, chừa Vương Thị lại, toan giao cho con trai lấy làm vợ. Vương Thị ẩn nhẫn, gặp tiết Trung Thu, bọn cướp đều say mèm, bèn lên bờ, trốn vào ni am xuất gia, pháp danh là Huệ Viên, hằng ngày lễ Đại Sĩ, thầm khấn những điều ẩn kín trong lòng. Ngẫu nhiên thấy một bức tranh cuộn vẽ hoa sen, biết là do Thôi Anh vẽ. Do vậy, bèn viết một bài từ theo điệu Lâm Giang Tiên[27] [trên bức vẽ], trong đó có câu: “Tố bình tịch mịch bạn khô thiền, kim sanh duyên dĩ đoạn, nguyện kết tái sanh duyên” (Bên bình phong trơ trụi, tịch mịch chốn cửa thiền, sống khô héo tháng ngày, đời này duyên đành dứt, kiếp sau nguyền nối duyên). Về sau, bức tranh ấy được bán cho nhà quan Thị Ngự Cao Nạp Lân. Thôi Anh từ bé đã tập bơi lội nên chưa chết, do viết chữ thuê để kiếm sống mà gặp gỡ ông Cao, được ông mời làm gia sư. Vào trong dinh, thấy bức bình[28] hoa sen và lời đề từ, liền khóc lóc kể với ông Cao. Ông bảo phu nhân sai người đón Huệ Viên đến, ngầm hỏi dò biết tấm bình phong do thuyền phu là Cố A Tú tặng cho ni am, bèn vây bắt, xử theo đúng luật lệ, trả tài sản lại cho Thôi Anh. Đưa Vương Thị ra, vợ chồng ôm nhau khóc lóc. Ông Cao tặng cho họ nô tỳ, đưa đến nhiệm sở. Vương Thị cảm kích Đại Sĩ ngầm che chở, ăn chay trường, trì Quán Âm Kinh đến khi mất.

      Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, Triệu Thiên Tước khi làm huyện lệnh ở Cú Dung, đêm ngủ trong tòa cổ miếu, mộng thấy bà lão mặt đóng bụi, bảo: “Vạn Lam chẹn họng ta, hãy mau cứu ta”. Giật mình tỉnh dậy thì dường như còn thấy thấp thoáng. Sáng hôm sau thấy tượng Quán Âm giống hệt như người trong mộng. Hỏi nhà sư: “Ở nơi đây có Vạn Lam hay không?” Sư đáp: “Nhà Vạn Lam ở đằng trước”. Gọi Vạn Lam tới hỏi: “Nhà của ngươi là do tổ tiên để lại ư?” Đáp: “Nhà tôi vốn nằm trên đường ra vào Quán Âm Đường, nhà sư bán cho tôi”. Ông Triệu bèn chuộc về, lại sửa chữa. Về sau, phu nhân mộng thấy một bà cụ ẵm đứa trẻ trao cho, liền sanh được con.

      (15) Theo Huyền Tháp Biên, có thương nhân thấy tượng Quán Âm ở Bạch Y Am tại Ngô Huyện bị mưa dột, hư hoại, bèn bỏ tiền thếp vàng tu bổ. Tăng nhân liếc thấy ông ta lắm vàng, liền phục rượu say, sắp sửa giết, thương nhân ai oán kêu cầu, bèn giam trong mật thất, bức bách thương nhân tự thắt cổ. Khi ấy, tuần cảnh thấy có cô gái áo trắng bước vào chùa, liền theo rình, thấy cô bước vào căn phòng ngầm, tuần cảnh ập vào thì thương nhân đã bị thắt cổ gần chết, bèn cởi trói cho thương nhân, trói tăng lại, chẳng thấy cô gái đâu, mới biết là Đại Sĩ hóa thân nhằm dẫn tuần cảnh giải cứu thương nhân vậy.

      Lại nữa, tại Giang Thượng thuộc thôn Xa Cứu (huyện Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang), có Tăng nhân quyên mộ tu bổ Đại Sĩ Viện. Thương nhân đi qua đó thí tiền, Tăng liếc trộm thấy ông ta giàu có, bắt giữ, tính giết. Thương nhân xin tự thắt cổ chết, Tăng bèn chấp thuận. Cách Giang Thượng mấy dặm, có thuyền lính, một cô gái áo trắng lên thuyền nói: “Xin chở tôi đến Quán Âm Viện sẽ hậu tạ nhiều vàng”. Họ chở đến chùa thì thương nhân mới vừa tự thắt cổ, mọi người bắt giữ gã cướp, thả thương nhân, [thương nhân] bèn đền tạ [các binh sĩ] đúng như lời cô gái nói.

      Theo Hàng Trung Phàm, trong thời Vạn Lịch nhà Minh, Tiêu X... ở Giang Âm đi nhận nhiệm sở, có ông Tăng người đất Sở (Hồ Nam) quyên mộ được sáu trăm lạng vàng, đem qua Phổ Đà dựng chùa, ngồi ké trên thuyền xuôi Nam. Một đêm gió dữ, ông Tiêu xô vị Tăng xuống sông, đoạt vàng. Đến sáng, chợt thấy Tăng từ dưới nước ngoi lên đòi mạng và vàng. Họ Tiêu kinh hoàng, ngã bệnh, trở về nhà mời tăng và đạo sĩ đến cúng bái, giải hạn, nhưng Tăng chỉ hô “đền mạng ta và vàng để ta đi Nam Hải”. Sư từ trong vách bước ra, chiếm giường, quấy nhiễu không ngừng. Một bữa, người nhà hoảng hốt kêu: “Vị Tăng lại đến”. Họ Tiêu nghe nói, thẹn thùng muốn tự sát, nhưng Tăng đã đến trước giường, nói: “Ta là người, chẳng phải là quỷ. Năm ngoái té xuống nước, chợt thấy Quán Âm Bồ Tát từ trên hư không giáng xuống, cầm một ngọn đèn dẫn vào đám lau lách, gặp thuyền chài được cứu. Nay lại quyên mộ được vàng đến Phổ Đà hoàn nguyện. Qua đây, nghe nói ông mắc bệnh lạ nên đặc biệt đến đây giải trừ mối nghi con rắn trong chén”.[29] Cả nhà sụp lạy, vị Tăng đi rồi, hình quỷ cũng mất tăm, nhưng rốt cuộc họ Tiều vẫn chết. Một đứa con của ông ta đang nổi danh văn chương chợt nhảy xuống sông chết. Vị Tăng từ Nam Hải trở về, lại đến thăm, than thở không ngớt.

      (16) Theo Quảng Dị Ký, đời Đường, sư Đạo Hiến do được quan Thứ Sử nhờ vẽ bảy bức tranh Quán Âm, bèn bảo họa sĩ trước hết hãy giữ trai giới, dùng Nhũ Đầu Hương[30] thay cho chất keo, sắp đặt cực trang nghiêm. Về sau, Đạo Hiến qua sông bị té xuống nước, vội niệm Quán Âm, thấy dưới đáy nước có ánh sáng lạ, bảy vị Bồ Tát đã vẽ đứng xung quanh, bảo Sư rằng: “Chỉ niệm A Di Đà Phật”. Đạo Hiến vội vàng niệm, bảy vị Bồ Tát cùng tới đỡ chân, Sư liền trồi khỏi nước, đi hơn bốn mươi dặm, lên được bờ.

      Theo Linh Cảm Phú, Dương Duy Tân ở Tú Thủy trì thần chú của Đại Sĩ đã lâu, lên thuyền bị té xuống nước, dưới chân trổ hoa sen, nhờ đó chẳng chết chìm.

      (17) Theo Cao Tăng Truyện, tập 1, đời Tấn, sư Đạo Uông theo Lô Sơn Viễn Công xuất gia, đi qua Lương Châu, bị người Khương vây bắt, rơi mất y bát. Đạo Uông cùng mấy người đệ tử cùng niệm danh hiệu Quán Âm. Trong khoảnh khắc như có mây mù che khắp thân nhóm ngài Đạo Uông, bọn giặc tìm không thấy nên họ được thoát nạn.

      Trong đời Đường, Lô Nguyên Lễ bị bệnh, chết đi rồi tỉnh lại, nói: “Thấy một trăm cái lò, hơi nóng bốc lên nghi ngút, mấy ngàn vạn người ở trong lồng nướng, bèn niệm Cứu Khổ Quán Âm, nguyện đem thân chịu thay cho họ, rồi cởi áo, nhảy vào lửa. Chợt có vị Tăng kéo ra, đưa về”.

      (18) Theo Đồng Sanh Lục, đầu đời Minh, Quan Đế giáng bút như sau: “Ta quy y Phổ Môn Đại Sĩ cùng với Vi Đà tôn giả hộ trì chánh pháp. Kẻ tế ta đừng dùng rượu thịt”.

      Theo Quán Cảm Lục, đời Thanh, viên nha lại ở Vô Tích là Vương X... trong niên hiệu Thuận Trị (1643-1661) do chuyện Tiền Cốc mà bị giam vào ngục chết ở Bắc Đô. Về sau, Kim Hán Quang từ kinh đô quay về, trong thuyền nghe có tiếng người hô: “Chở giùm đi, ta là Vương X... đây, oán quỷ đấy! Xin cho ta ở nhờ góc thuyền để theo về Nam”. Đi mấy ngày, trời sắp tối, quỷ xin đậu vào bờ, nói: “Chỗ này thí thực, tôi muốn đến nhận”. Trong khoảnh khắc trở về bảo: “Quán Âm Đại Sĩ chủ đàn, không cho tôi ăn, bảo lúc sống tôi thích ăn nhiều thịt bò”. Hán Quang kinh sợ nói: “Tôi cũng ăn thịt bò, từ nay sẽ kiêng ăn”. Nói xong, quỷ khóc: “Thần hộ giới cõi trời đã đến rồi, tôi không thể ở được nữa”, bèn rời đi.

      (19) Theo Linh Cảm Phú, đời Tống, sư Nguyên Thản trụ tại chùa Hưng Giáo ở Tuyên Châu làm Thủ Tòa. Hoài Thiền Sư muốn cử Nguyên Thản làm Trụ Trì, nhưng sợ Thái Thú Điêu Cảnh Thuần dị nghị, bèn cầu Quán Âm báo mộng cho họ Điêu. Quả nhiên, ông Điêu mộng thấy có con trâu lên tòa, bèn hỏi Hoài Thiền Sư [thì ra] Nguyên Thản họ Ngưu, do vậy, quyết định cử Sư làm Trụ Trì.

     Vào đời Tống, sư Nguyên Đạt qua Thiên Trúc lễ Đại Sĩ, thấy cô gái áo trắng từ trong chùa đi ra, bảo với Nguyên Đạt: “Xá Nhân[31] họ Tăng sẽ làm quan Trung Thư, ông cũng sẽ được tôn làm thầy, ban danh hiệu”. Về sau, ông Tăng làm Thừa Tướng, còn Nguyên Đạt quả nhiên được ban y ca-sa tía.

      (20) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, vào đời Thanh, sư Diễn Nghĩa tự là Trạm Tu, thường trì chú Đại Bi, nói là có thể trừ nạn hổ. Khi ấy, người đất Tương (Hồ Nam) khổ sở vì bị hổ làm hại, tự bắt chước làm theo, tiếng tụng chú Đại Bi vang khắp các hẻm núi, cuối cùng hổ tuyệt tích.

      Lại nữa, sư Trinh Biện trích máu vẽ tượng Quán Âm. Có hai thiên nữ đến quấy rối, Trinh Biện thề rằng: “Tâm ta không phải là đá, ta dùng thần chú bắt ngươi, sao còn chẳng đi?” Từ đấy ma trọn không còn tung tích.

      (21) Theo Thương Túc Am Tùy Bút, đời Thanh, vợ của Minh Phủ Châu Chỉ Tương là Vương Thị, lúc lên mười thêu tượng Bạch Y Đại Sĩ, sáng tối đảnh lễ. Sau khi lấy chồng, tặng tượng cho ni am thờ phụng. Không lâu sau cô ta qua đời. Chỉ Tương nghe nói đến bức tượng ấy, hận chưa được thấy. Về sau, am bị cháy, ni sư đem tượng sang Ngư Đài, Sơn Đông, ông Tương được cử đi thi ở kinh đô trở về[32], đi qua Ngư Đài. Tối hôm trước, ni sư mộng thấy Đại Sĩ nói: “Ta muốn trở về Giang Nam, sáng mai có quan nhân đến, ta sẽ đi theo”. Khi ông Tương đến nơi, ni sư bèn trao tượng cho, ông Tương chẳng biết tượng ấy là do người vợ đã khuất thêu, chỉ cảm thấy mơ hồ như gặp lại vật cũ mà thôi. Đem về, đưa cho mẹ vợ coi, bà ta vừa thấy, liền khóc: “Đây là tác phẩm của đứa con gái đã mất của ta mà!”

      Theo Hải Nam Nhất Chước, trong niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh, Trương X... ở Phù Lương trì Quán Âm Trai; gặp đúng ngày ăn chay, hàng xóm là X... rủ ăn uống, bèn thắp đèn trước tượng rồi đi. Trở về, tượng bị cháy sạch, nhưng giấy dán bồi quanh tượng trọn chẳng có vết lửa nào, biết là Bồ Tát cảnh tỉnh ông ta đã không kiền thành trì trai.

      (22) Theo Nam Hải Từ Hàng, đời Thanh, Ôn Như Hoàng kính phụng Đại Sĩ, mỗi năm đều thí kinh. Trong thời Càn Long, mọi người do thấy lầu Vạn Thọ bỏ không, tính thờ tượng Đại Sĩ [trên đó]. Ông Hoàng mộng thấy Đại Sĩ nói: “Thờ ta trên lầu là ý rất hay, nhưng cung ấy được lập ra chưa đầy mười năm mà đã chôn hai vị Tăng là vì hình Bát Quái khắc trên cửa đá điên đảo Âm Dương mà ra”. Nói xong, chợt biến mất. Tỉnh giấc nhìn thì quả nhiên hình Bát Quái lầm loạn, bèn xóa đi, rước tượng Đại Sĩ vào.

      Theo Linh Cảm Phú, vào đời Minh nhà họ Trình ở huyện Hiếu Cảm thờ Quán Âm kiền thành. Hễ có chuyện tốt lành thì tượng hiện dáng điệu vui vẻ, hễ có tang tóc thì hiện dáng sầu bi. Do vậy, có thể đoán biết là năm ấy tốt hay xấu.

      (23) Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, bà ni ở Sáp Hoa Miếu tại Thương Châu, vào ngày khánh đản Đại Sĩ, cúng dường tinh khiết xong, mệt mỏi bèn nằm ngủ, mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Ngoài chùa có bốn năm người xin ăn không được, hãy giúp họ, nên dọn cỗ cúng cho họ ăn”. Giật mình tỉnh giấc, ra xem thì quả đúng như vậy. Từ đấy, hễ dọn cỗ cúng xuống bèn thí cho kẻ ăn mày, bảo là ý của Bồ Tát.

      Đời Minh, pháp sư Tố Am trụ tại chùa Thê Hà ở Kim Lăng, nhằm năm đói kém hết sạch gạo, Sư ngồi yên bảy ngày không ăn. Chúng tăng không một ai rời chỗ. Có họ Hác ở Vu Hồ mộng thấy Đại Sĩ báo tăng chúng ở Thê Hà đói, bèn cúng một trăm hộc[33]gạo, nhìn Sư thấy giống hệt như trong giấc mộng.

      (24) Theo Tỳ Kheo Ni Truyện, ni Tăng Đoan đời Lưu Tống gia đình nhiều đời thờ Phật, chị em thệ nguyện xuất gia, nhưng bà xinh đẹp nổi tiếng trong làng xã, có nhà giàu đã nhờ mai mối xin cưới, mẹ và anh đã bằng lòng. Trước hôm đón dâu ba ngày, Tăng Đoan trốn vào chùa Phật, tụng kinh Quán Âm, nước mắt đầm đìa, dập đầu lạy suốt ngày đêm không nghỉ. Ba hôm sau trong khi lễ bái, thấy Phật dạy: “Chàng rể của ngươi đã hết tuổi thọ, ngươi chỉ nên siêng năng, chuyên ròng, đừng nặng lòng lo nghĩ”. Ngày hôm sau, chàng rể bị trâu húc chết.

      Theo Dạ Đàm Tùy Lục, Mẫn Dự ở Chiết Tây bị người ta dụ vào quán rượu, bỏ thuốc mê vào rượu, bèn hôn mê bất tỉnh. Khi tỉnh ra thì đã bị một mụ ni cô dâm đãng giam cầm, nhưng không có cách nào thoát ra được. Trong phòng có thờ tượng Quán Âm từ trước, Mẫn Dự bèn sáng tối lễ bái, cầu đảo, mong thoát hầm bẫy. Lại nữa, trên bàn có cuốn Quán Âm Chú, Mẫn Dự bèn thành tâm trì tụng, trong mộng mị cũng tụng niệm không ngớt. Một tối vừa mới tụng chú thì một bà lão kêu tên, bảo: “Mau tới đây, ta đưa ngươi về”. Mẫn Dự khoác áo, đi chân trần theo sau. Bà lão dùng tay phất qua cửa, cửa tự mở ra. Trên thân bà lại có ánh sáng trắng, chiếu rõ như ban ngày. Qua mấy lớp cửa, hễ vừa đến, cửa liền mở. Đến tầng cửa cuối cùng, bà lão bảo hãy mau ra, đừng ngó lại, vừa muốn nói lời cảm tạ, đã chẳng thấy tăm tích đâu nữa, mới biết là Đại Sĩ cứu khổ, liền niệm thánh hiệu không dứt. Trở về kể với chú, chú khóc bảo: “Nếu không phải là Đại Sĩ từ bi cảm ứng thì ngươi muốn sống há có được chăng?”

 

      Ghi thêm: Theo Dạ Đàm Tùy Lục, nhà buôn X... ở Tân An giàu có nhưng dâm đãng, tàn bạo, có đứa con gái xinh đẹp, thông minh, vào núi hái trà, núp mưa dưới vách đá. Chợt trong đá có tiếng nói: “Cha ngươi cưỡng hiếp ô nhục con gái nhà lành đến chết; âm báo lụy đến ngươi. Quán Âm Đại Sĩ nghĩ mẹ ngươi trai giới, tụng kinh mà giải trừ ách nạn cho ngươi, hãy mau quay về”. Cô đuổi kịp đám bạn gái, nhưng lũ thiếu niên xấu ác đã đuổi theo bén gót. Trở về thưa với mẹ, bà mẹ càng thêm kính tín. Thương nhân trở về, bà vợ đem chuyện này cảnh tỉnh chồng. Hắn giận dữ nói: “Nếu có địa ngục, nguyện thân ta sẽ trải khắp các ngục hòng mở rộng kiến thức”. Hơn tháng sau, hắn ngã bệnh, thấy những cô gái đã bị hắn bức chết dẫn lũ quỷ đến đòi mạng, bèn khóc lóc cầu vợ con tụng kinh sám hối. Nói chưa dứt, chợt kêu to: “Ta đi” rồi chết!

     

      1. Như Vô Kiệt cầu kinh, sư tử bảo vệ. Nguyên Khang đắc huệ, tùy ý cưỡi nai.

      2. Thiện Giác trì danh, đạo cao, hổ phục. Pháp Hồng phạm pháp, buồn cảm cỡi trâu.

      3. Trước chùa Bạch Tước, nai đến làm lễ. Bên am Liên Hoa, cá chép kính mừng.

      4. Nghỉ trong núi, vẹt lượn lưng trời. Đoạt kinh văn, cá to ngăn lối.

      5. Trứng gà trong bếp vua, từng nghe có tiếng kêu rên. Tuyết Nương trong điện vàng, cũng tha thiết nguyện quy y. Tuy nói mỗi loài đều có tánh linh, nhưng Phật không gì chẳng độ (đoạn này ca tụng sự kiện cảm ứng loài vật).

 

      (1) Theo Cao Tăng Truyện, tập 1, đầu thời Nguyên Gia nhà Tống, ngài Đàm Vô Kiệt (Dharmodgata)[34] và hai mươi mấy đồ đệ đến nước Phật cầu kinh, trải đủ mọi thứ hiểm nạn. Đến được Thiên Trúc thì giữa đường gặp một bầy voi núi. Đàm Vô Kiệt niệm danh hiệu Quán Âm, có sư tử từ trong rừng xông ra, lũ voi chạy tan tác. Lại có lũ trâu quái dị rống lên chạy ùa tới, toan làm hại, ngài Đàm Vô Kiệt xưng danh như cũ, chợt có một con kên kên to bay tới, lũ trâu kinh sợ, chạy tứ tán, nên thoát nạn.

 

      Chép thêm: Theo Tỳ Kheo Ni Truyện, vào đời Tấn, ni Minh Cảm thoạt đầu bị giặc bắt, thề chẳng chịu nhục, càng phải hứng chịu đủ nỗi khổ sở. Về sau, gặp một tỳ-kheo dạy kinh Quán Âm bèn tập tụng, ngày đêm không nghỉ. Trốn đi, không biết đường, đi vào núi sâu, có hổ dẫn đường. Sau mười ngày đến được Thanh Châu. Sắp vào thôn, liền chẳng thấy hổ đâu nữa.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, sư Nguyên Khang thường niệm Quán Âm, cầu tăng huệ giải, cảm được một con nai, sừng chia tám nhánh, hình dáng hết sức kỳ lạ. Nguyên Khang vỗ về, nai liền vâng phục, bèn nuôi dưỡng. Cưỡi đến nơi xa, nai chẳng lộ vẻ mệt nhọc.

      (2) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, vào đời Đường, tướng quốc Bùi Hưu đến thăm sư Thiện Giác ở Hoa Lâm, hỏi Sư có thị giả hay chăng? Sư nói: “Hai đứa”, rồi gọi “Đại Không, Tiểu Không”, hai con hổ từ sau am chạy ra. Bùi Hưu kinh hoàng, Sư bảo: “Hễ có khách thì tránh đi”, hổ gầm gừ bỏ đi. Bùi Hưu hỏi: “Làm cách nào để cảm được như thế?” Sư nâng xâu chuỗi, bảo: “Chỉ niệm Quán Thế Âm”. Lại nữa, sách Đại Tạng Trực Chỉ gọi Sư là Phục Hổ Thiền Sư.

      Về chuyện của sư Pháp Hồng đời Tấn trong Cao Tăng Truyện, tập 1, xin xem lời chú thích trong đoạn 4 của phần “thoát hành hình”. Khi ấy, Sư sắp bị hành hình thì trâu chạy quàng khiến xe bị hư, do vậy bèn được tha.

      Theo U Minh Lục, vào thời Nguyên Gia nhà Tống, Thứ Sử Ích Châu là Cát Hàn thường cưỡi một con trâu xanh. Đến khi ông mắc bệnh nhiều ngày, trâu cũng không ăn. Khi ông mất, trâu chảy nước mắt đầm đìa.

      (3) Theo Quái Viên, chùa Bạch Tước ở Ngô Hưng tương truyền là do Lý Thân[35] đời Đường xây. Hiện thời đạo tràng hưng thịnh trở lại, nhang đèn trỗi hơn các nơi khác. Trước điện Quán Âm thường có hổ đến nằm phục, chẳng làm hại ai, nhưng người ta thường kinh sợ, hổ bèn bỏ đi. Từ đấy có con nai đến làm lễ, tợ hồ do hổ sai đến.

      Theo Hải Nam Nhất Chước, ngoài cửa Đông huyện Quảng Phong có Liên Hoa Am. Mỗi năm, nhằm ngày khánh đản Đại Sĩ trong tháng Hai, nước mùa Xuân dâng tràn, ắt có con cá chép to dẫn lũ cá chép bé, ngược dòng đến ở trước am. Vì thế, từ lâu đã có lời đồn rằng chúng đến triều bái Đại Sĩ. Cá chép to triều bái xong, đột nhiên không thấy nữa. Nếu thôn dân đánh bắt cá chép nhỏ thì sẽ lập tức ngã bệnh.

      (4) Theo Thiên Trúc Chí, ngày Mười Chín tháng Hai là ngày Khánh Đản Đại Sĩ, những người xa gần trai giới theo đúng kỳ hạn về núi chắc cũng phải đông đến ức vạn người. Trong điện thờ chẳng thể chứa nổi, họ đều ngồi ngoài trời chờ sáng, nên gọi là Túc Sơn. Trong dịp Khánh Đản năm Giáp Dần (1554) thời Gia Tĩnh nhà Minh, trăng sao sáng ngời, chợt thấy con vẹt (két) trắng từ trong điện bay ra, lượn quanh trên không trung. Muôn người nhìn không chớp mắt. Tiếng khen ngợi, niệm Phật náo động cả khu rừng. Biến hiện như thế mấy lần.

      Theo Phổ Đà Chí, trong thời Thuận Trị nhà Thanh, tên cướp biển Nguyễn Tuấn cùng bọn giặc lùn (cướp biển Nhật Bản) toan cướp tạng kinh của chùa Phổ Đà. Vị Tăng tên Chiếu Trung suất lãnh mấy trăm người đến Châu Sơn xót xa cầu xin không ngừng. Nguyễn Tuấn giận dữ nói: “Các ngươi muốn lấy lại kinh thì hãy xin từ nơi long cung, thủy phủ”. [Bọn hắn] giong buồm ra ngoài khơi, chợt có con cá to chặn thuyền, thuyền chẳng đi được suốt mấy ngày, Nguyễn Tuấn hối hận, bèn đem kinh trả lại, chưa đầy nửa ngày đã đến Đạo Đầu[36], bèn cúng bái rồi đi.

      (5) Theo Tuyên Thất Chí, Đường Kính Tông sùng Phật giáo, tăng chúng ngày càng đông đảo. Đường Văn Tông kế vị, có kẻ gièm siểm Phật giáo là sâu mọt của quốc gia, bèn xuống chiếu cấm tăng chúng không được giảng nghĩa trong sách Phật. Lại có kẻ bài xích, xin cấm không được tu tập [Phật pháp]. Vua xuống chiếu, sắp thi hành, viên quan trông nom bếp núc là Hội Thượng luộc trứng gà trong cái đỉnh, chợt nghe trong đỉnh như có tiếng người nói. Lắng nghe thì chính là tiếng nhiều người kêu cầu Quán Thế Âm Bồ Tát. Tâu lên, Văn Tông xét nghiệm, thấy đúng như vậy, liền bảo: “Đạo Phật có thể được như vậy thì phải ban chiếu cho những tinh xá trong các quận dựng tượng Quán Âm”.

      Theo Minh Hoàng Tạp Lục, xứ Lãnh Nam dâng chim vẹt trắng hiểu tiếng người rành rẽ. Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi đều gọi nó là Tuyết Y Nữ (cô gái áo trắng như tuyết), bọn bầy tôi gọi vẹt là Tuyết Y Nương. Quý Phi dạy nó đọc Tâm Kinh.

     

      1. Còn như hủy tượng bị chết chìm, lửa đốt; nung chảy kim thân ắt đọa địa ngục.

      2. Đổi đá chuốc lấy quả khổ; thiêu kinh hãm nhập súc sanh.

      3. Ăn trộm vàng sủa như chó dại; ra khỏi điện bị rắn độc cắn.

      4. Quả báo rành rành, chẳng nỡ kể trọn.

      5. Đấy chẳng phải là Như Lai gây nhân duyên phiền não, mà là muốn khiến hạng Xiển Đề được an trụ trong chánh pháp. Đây chính là chuyện hoằng pháp thứ tư của Đại Sĩ vậy (phần này ca tụng kèm thêm sự răn đe điều ác).

 

      (1) Đời Tống, Trầm Tăng Phú ăn trộm tượng Phật, tượng Quán Âm nhỏ bằng đồng từ các chùa tại Sơn Dương để đúc tiền. Sự việc bị phát giác, hắn bị bắt giải lên kinh đô. Lên thuyền, liền tự nói: “Lửa đốt”, kêu gào khó thể chịu đựng được. Chưa đến kinh đô thì [thân thể] đã trương phù, nứt nẻ như bị đốt chết.

      Châu Thế Tông[37] hủy tượng Phật để đúc tiền. Đại tượng Quán Âm ở Chân Châu linh thiêng nhất, không ai dám hủy. Thế Tông đích thân cầm búa bửa ngực tượng. Về sau, ngực vua nát bấy, lộ cả ngũ tạng rồi chết. Đến thời Khai Bảo (968-976) nhà Tống, có người chết rồi sống lại, [kể chuyện] thấy Thế Tông nằm trong giường sắt, bị ngục tốt cầm búa bửa tay không ngừng, hỏi loại tiền lưu hành đời Châu vẫn còn hay chăng? Loại tiền ấy hết rồi thì [Châu Thế Tông] mới thoát địa ngục. Tâu lên Tống Thái Tổ, vua truyền trong dân gian hễ có loại tiền đời Châu thì phải đem đúc tượng Phật hết.

      Theo Thái Bình Quảng Ký, đời Đường, Phó Dịch hủy tượng Quán Âm bằng đá để dùng làm ngói – Phùng Thiếu Phủ chết rồi sống lại, kể Phó Dịch bị tống vào địa ngục. Lại nữa, Thái Sử Phó Nhân Quân chết đi, báo mộng cho Tiết Di cũng gọi Phó Dịch là“nê lê nhân” (người trong địa ngục) – mấy ngày sau chết đột ngột, tướng ác khi chết chẳng thể kể trọn.

      Theo Khuyến Giới Biên, đời Tống, Vương cư sĩ ở Giang Âm tìm được một tượng Quán Âm bằng trầm hương ở dưới nước. Mỗi năm làm lễ kính mừng hai lần, người trong ấp đều tham dự. Có huyện lệnh họ Vương cho người gọi chàng rể (anh này vốn là nha lại) nhưng anh ta không tới, biết là [chàng rể] đã đi dự hội, huyện lệnh giận quá, đem tượng ấy đốt đi, rồi vào chầu cấp trên, nhưng bị tim đau, thân nứt, lòi ruột, về ngang chùa Quán Âm thì nhảy xuống sông tự tử.

      Theo Phổ Đà Chí, trong thời Khang Hy nhà Thanh, lũ “phiên lông vàng”[38] đến núi, cướp sạch những thứ như tượng đúc, phan, tràng v.v... đem bán ở Nhật Bản được hơn hai mươi vạn lạng vàng. Chúng sắp trở về nước mình thì trong thuyền bốc lửa, đều bị chết cháy hay chết chìm hết sạch.

      Lại nữa, tăng chúng đã dọn vào đất liền, bọn cướp địa phương bèn nung tượng, cháy lan sang điện vũ, bọn giặc không thoát ra được, đều chết cháy.

      Lại nữa, vào đời Minh, có gã Tăng tên Thiên Nhiên ở Hàng Châu, mẹ là ni sư hóa duyên tạo tượng Đại Sĩ, trong lòng tượng đặt các thứ quý báu. Thiên Nhiên đục lưng tượng ăn trộm vật báu, chợt cầm đao tự cắt cổ. Đầu đã rơi xuống vai vẫn nói rì rầm: “Ta nhiều đời làm Tăng, cũng không mắc lỗi lớn lao nào, chẳng ngờ khởi tâm trộm cắp, tạo nghiệp Vô Gián, nay đọa địa ngục A Tỳ” rồi chết.

      Theo Dẫn Am Tỏa Ngữ, vào đời Minh, Trần Kinh Sơn tánh hung bạo, ham cờ bạc. Trong nhà hắn thờ tượng Đại Sĩ. Hễ thắng bạc thì hương, hoa, lễ bái, hễ thua thì chửi bới vung vít. Một hôm thua đậm, đem tượng ném vô nhà xí. Đêm Hai Mươi Bảy tháng Tư năm Sùng Trinh 17 (1644), nhà hắn bị hỏa hoạn, Kinh Sơn đã chạy ra, chợt lại chạy vô nhà xí, bị thiêu chết.

      Theo Âm Chất Văn Quảng Nghĩa, đầu thời Khang Hy nhà Thanh, Đàn Hương rất đắt. Tiệm bán hương ở Tô Quận mua được một tượng Đại Sĩ lớn, tính phá ra làm Đàn Hương sẽ kiếm lời gấp mấy lần. Sắp hủy tượng thì một người làm công sợ tội bèn cực lực ngăn cản. Nhằm lúc đó, chàng rể của chủ tiệm đến đón vợ, quở mắng: “Mày là đứa làm công, việc gì đến mày?” Cô gái chợt đau bụng, không thể về nhà chồng được. Ngay đêm ấy, cửa tiệm bốc cháy, cả nhà chết sạch. Người làm công do được người khác mời ép đi nên thoát chết; nhà hàng xóm cũng vô sự.

       (2) Theo Hiện Quả Tùy Lục, chùa Bạch Tước ở Hồ Châu dựng điện Đại Bi. Phan X... cúng tiền mua đá xây bậc thềm. Vị Tăng tên Nhược Am mượn đá ấy để kê nhà cầu. Không lâu sau, Sư chết đi, dựa vào thân người khác nói: “Ta lầm lẫn, khinh nhờn tảng đá vốn được dùng để xây thềm điện Đại Bi nên Diêm phủ dùng đá ấy đè ta, khổ sở chẳng thể nói nổi! Hãy mau vì ta cậy đá ấy lên, rửa sạch sẽ để làm thềm và tụng kinh Phạm Võng thì ta mới có thể thoát khổ”. Làm theo đúng lời, người ấy không còn nói giọng quỷ nữa.

      Theo Tích Tự Biên, thầy trò tăng chúng chùa Phổ Môn gồm chín người. Lũ học trò nhận lời [tín chủ] mời đến làm lễ Diệm Khẩu, liền đốt Tâm Kinh, tro bay khắp đồng. Một tiểu tăng nghĩ làm như vậy là sai, nhưng không nói. Đêm mộng thấy bị bắt xuống Âm Phủ, bảy vị Tăng đều quỳ, nghe quở mắng rằng: “Các ngươi thiêu kinh văn bừa bãi, sẽ đọa trong đường súc sanh”. Bảo tiểu tăng rằng: “Chừa ngươi lại để về báo với mọi người: Niệm kinh thì được, chớ nên thiêu kinh!” Tỉnh giấc thì mấy hôm sau, bốn ông Tăng bị tường đè chết, hai ông Tăng chết đuối, một ông bị ma hại chết.

      (3) Theo Quả Báo Văn Kiến Lục, trong thời Khang Hy nhà Thanh, một bà ni ở Từ Gia Kiều tích cóp bảy lạng bạc từ tiền mộ duyên để tặng cho cháu trai cưới vợ, mộng thấy Đại Sĩ quở: “Ngươi đem tiền bố thí thanh tịnh để dùng cho tục gia, cõi Âm phạt ngươi làm chó bảy ngày”. Bà ni tỉnh giấc, kể lại với người thân. Đang trong lúc nửa tin nửa ngờ, bỗng bị chó dại cắn. Qua hôm sau, nghe tiếng trống, tiếng bạt[39], bèn đau đớn ngã lăn ra đất, miệng sủa như chó, ủng oẳng bảy ngày rồi chết.

      Theo Phổ Đà Chí, năm Khang Hy 11 (1672) đời Thanh, quân lính đậu thuyền ở Lạc Già, vào điện Đại Sĩ, thấy vẫn thanh tịnh như thường lệ. Vừa ra khỏi cửa, rắn độc ùa tới, há miệng phun nọc. Lại có chó dữ cả bầy xúm lại cắn, tử thương vô số. Xét ra, lúc ấy tăng chúng đã dời hết vào đất liền, cả núi không có một tăng nhân nào, những gã lính ấy ắt đã làm những chuyện như hủy hoại kinh tượng v.v...

      (5) Trong Niết Bàn Kinh, Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Bồ Tát thị chúng sanh, đồng ư tử tưởng, vân hà Như Lai đoạn tuyệt Bà La Môn mạng, hà cố thuyết Đề Bà Đạt Đa si nhân vô tu, linh bỉ sanh sân, xuất Phật thân huyết, Như Lai phục ký đương đọa địa ngục, nhất kiếp thọ tội” (Bồ Tát coi chúng sanh giống như con, cớ sao Như Lai dứt mạng Bà La Môn, vì sao nói Đề Bà Đạt Đa là gã si không biết hổ thẹn khiến ông ta nổi sân, làm thân Phật chảy máu, Như Lai lại huyền ký ông ta sẽ đọa địa ngục, chịu tội một kiếp). Phật dạy: “Giả linh thủy vi can tướng, hỏa vi lãnh tướng, phong vi trụ tướng, Như Lai chung bất vị chúng sanh tác phiền não nhân duyên. Bồ Tát vị hộ chánh pháp, tiên thát chúng sanh. Báng Đại Thừa giả, hoặc đoạt kỳ mạng, mạng chung đọa A Tỳ địa ngục, tức ư Đại Thừa kinh điển, sanh kính tín tâm, sanh Cam Lộ Cổ Như Lai thế giới”. (Dẫu cho tướng của nước là khô, tướng của lửa là lạnh, tướng của gió là đứng yên, Như Lai trọn chẳng gây nhân duyên phiền não cho chúng sanh. Vì hộ trì chánh pháp mà Bồ Tát đánh đập chúng sanh. Đối với kẻ báng Đại Thừa, hoặc đoạt mạng hắn, kẻ ấy chết đi liền đọa địa ngục A Tỳ, nếu hắn sanh lòng tin kính đối với kinh điển Đại Thừa thì sẽ sanh về thế giới của Cam Lộ Cổ Như Lai).

Phật lại nói: “Ngã hóa thân đại lực phục Khoáng Dã quỷ, dĩ mộc đả hộ pháp quỷ, thôi dương đầu quỷ linh đọa sơn hạ, diệc dĩ châm thích tiễn mao quỷ thân, chung bất linh bỉ quỷ thần hữu diệt một giả, trực dục linh bỉ an trụ chánh pháp. Cố thị như thị chủng chủng phương tiện” (Ta hóa thân đại lực hàng phục quỷ Khoáng Dã, dùng gỗ đánh quỷ hộ pháp, cũng dùng kim đâm quỷ lông cứng nhọn như tên, trọn chẳng khiến cho những quỷ thần ấy bị chết mất, mà thật ra là muốn khiến cho họ an trụ trong chánh pháp, cho nên thị hiện các thứ phương tiện như vậy).

 

2.4.5. Khơi mở trí huệ

 

      1. Bèn có thiện nữ xưng danh hiệu Quán Âm, được chiêm ngưỡng chân thân đức Phật; Nghĩa Tịch lên đài Văn Thù, chợt cùng Đại Sĩ đồng thể.

      2. Mổ ngực hiện đầu, Huệ Mục chiếu quang minh; rạch ức thay tim, Ngạn Luân khởi diệu ngộ.

      3. Theo U Khê tu tập sám pháp, Khán Vân đốn ngộ vô sanh. Chỉ bức vẽ của Đạo Tử, Cảnh Huyền đừng ngờ hữu tướng.

      4. Bảo Cung đến học, ngỡ khoảnh khắc thật lâu dài; Pháp Kinh đổi tên, liền rạng danh khắp ba đời.

      5. Nguyên Khang cầu trí, được Tông, Thuyết đều thông; Tiệm Nguyên nghe kinh, biết đạo lìa sanh tử.

      6. Ba lượt gõ nắp đỉnh, diệu trí hiện tiền; ngẫu nhiên chạm chấn song, ngộ giải viên văn[40].

      7. Hắc phong thổi thuyền, sân tâm vô duyên cớ khởi lên; que cời gõ củi, tánh Nghe vốn chẳng trói buộc.

      8. Mười hai mặt đi về nơi đâu, chẳng cho xoay mình; ba mươi hai tướng tuy đẹp, chẳng mến, sợ hành tà đạo.

9. Quy Tông khảy ngón tay, đúng sai trở về tánh Nghe. Nhân Nhạc tu Quán, chợt như mộng tỉnh.

10. Đêm mò mẫm gối, khắp thân nào giống toàn thân? Tay lần xâu chuỗi, cầu người chẳng bằng cầu mình.

11. Ễnh ương, giun đất, giúp ông phát khởi căn cơ; bánh xèo, mạn đầu, khiến người sâu xa tỉnh ngộ.

12. Trọng Hỷ tự vá áo nát, mau đắc biện tài; Huệ Tài được trùm ca-sa, lập tức triệt ngộ.

13. Tách rời tay mắt, Phạm Am liền đắc thanh lương; chẳng chuyển ý căn, Hám Sơn chợt quên thân thế.

14. Hải Ninh thất học, tự biết ngâm thơ; Cốc Thanh tụng kinh, chợt như quen thuộc.

15. Rót nước từ bình lưu ly, Tử Anh đắc pháp Viên Thông. Trao lư xưa bằng gỗ, Nhiếp Am sáng bừng tâm địa.

16. Cầm đao mổ xẻ, Độc Quán gội ân thay xương. Đội tượng kinh hành, Vân Cốc ngộ duy tâm yếu chỉ.

17. Xả thân trên biển, Hành Đồng thông hiểu Phạn âm, gột nhơ bến sông, Nguyên Sơ chóng biết đường về.

18. Xoa đầu Tuyết Quan, Thiền Tịnh kiêm tu. Vỗ thân Đại Vân, nhân duyên kiếp xưa sẵn trọn.

19. Ngoài ra, xoa thân họ Vương, văn tài nổi trội. Rửa mắt Oánh Sư, chợt thông Địa Lý. Ấy và vì Bồ Tát trọn đủ muôn vàn trang nghiêm, cho nên chúng sanh tùy theo căn cơ được hưởng lợi ích. Đây chính là chuyện hoằng pháp thứ năm của Đại Sĩ vậy.

 

      (1) Đối với chuyện Thỉnh Quán Âm Kinh, xin xem lời chú thứ tám trong phần Trừ Tà Quái.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Tống, sư Nghĩa Tịch khi ở chùa Dục Vương tại Tứ Minh, mộng thấy lên chùa Quốc Thanh. Phía trên chùa có tòa trang nghiêm bằng những cái tràng báu, đề bảng Văn Thù Đài, có lập hàng rào mắt cáo ngăn cách. Sư muốn vào nhưng không có cách nào. Trong khoảnh khắc, Quán Âm Đại Sĩ từ trong điện đường bước ra, gạt bỏ “hành mã” (hàng rào) đi, bèn khom mình tiếp đón, chợt cảm thấy thân mình và thân Quán Âm hòa lẫn với nhau; do vậy, bèn giật mình tỉnh giấc. Từ đấy, nhạo thuyết biện tài vô tận. Người ta cho là Sư đã nhập Phổ Môn Trí. “Hành mã” (行馬) chính là cái hàng rào mắt cáo, tức lan can vậy.

      (2) Pháp sư Vĩnh Gia Huệ Mục, trong điện thờ Quán Âm tỏa ánh sáng, trì chú nghe mùi hương lạ. Mộng thấy Bồ Tát dùng tay banh ngực Sư, xuất hiện đầu Phật to như cái sọt, quang minh chiếu sáng rực. Tỉnh dậy, Sư đắc trí huệ, thâm nhập Giáo Quán.

      Theo Phật Tổ Thống Kỷ, Thích Ngạn Luân từng bị mắc bệnh dịch, chữa trị trăm cách không lành, bèn tận lực niệm thánh hiệu Quán Âm. Sư mộng thấy một phụ nữ khoét banh lồng ngực Sư, thay quả tim khác, dùng tay xoa lên, bệnh liền khỏi. Những gì đã xem trước kia không gì chẳng nhớ thông suốt, cất bút liền thành văn chương, nhưng [lời văn] luôn trang trọng, tao nhã.

      (3) Đời Minh, sư Khán Vân nương theo ngài U Khê, tu Quán Âm Tam Muội bốn mươi chín ngày, được đại sư giảng yếu chỉ của pháp tu sám: Một là tác pháp sám, hai là thủ tướng sám, ba là vô sanh sám. Khán Vân bèn phát sanh trí huệ to lớn.

      Theo Tăng Bảo Truyện, đời Tống, Cảnh Huyền hỏi Quán Thiền Sư: “Vô tướng đạo tràng là như thế nào?” Quán Thiền Sư chỉ vào tượng Quán Âm trên vách nói: “Đây chính là bức vẽ của Ngô Đạo Tử[41]”. Cảnh Huyền toan mở miệng, Quán Thiền Sư chặn ngay: “Đấy chính là hữu tướng, còn vô tướng thì sao?” Cảnh Huyền lãnh ngộ, bèn lễ bái.

      (4) Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, sư Bảo Cung năm 11 tuổi theo thầy xuất gia. Thầy muốn thử thần thái của Bảo Cung nên lấy kinh Quán Âm ra tụng. Trong đêm đầu tiên có lúc thầy vừa chỉ [tụng kinh] trong chốc lát mà ngài Bảo Cung tự nhủ ta đã được nghe kinh này suốt cả tháng.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, đời Đường, Thích Phổ Minh vốn có tên là Pháp Kinh, theo ngài Trí Giả trụ tại Đông Lâm, hành Quán Âm Sám dưới căn gác [thờ hình tượng Quán Âm] do Đào Khản Thụy [tạo lập]. Sư thấy một vị Tăng bảo: “Tên Pháp Kinh chưa hay, hãy nên đổi thành Phổ Minh. Tên này sẽ rạng ngời, chiếu soi khắp ba đời”. Sư trình lên Tổ Trí Giả, đại sư bảo: “Đấy là lời ngầm dạy, hãy nên bỏ tên cũ, dùng tên mới”.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, pháp sư Nguyên Khang niệm Quán Âm cầu trí huệ. Về sau Sư thông hiểu sâu xa cả Tông lẫn Giáo.

      Theo Truyền Đăng Lục, đời Đường, sư Tiệm Nguyên theo hầu thiền sư Đạo Ngô đi viếng tang. Sư vỗ vào quan tài, nói: “Sống ư? Chết ư?” Ngài Đạo Ngô nói: “Sống cũng chẳng nói, mà chết cũng chẳng nói”. Về đến nửa đường lại hỏi, [ngài Đạo Ngô đáp]: “Vẫn chẳng nói”, cho đến khi bị đánh cũng không nói. Ngài Đạo Ngô bảo [Tiệm Nguyên] hãy ra đi. Ba năm sau, Tiệm Nguyên nghe một bé trai niệm Quán Âm Kinh đến câu “dùng thân tỳ-kheo để đắc độ liền hiện thân tỳ-kheo để thuyết pháp” bỗng nhiên giải ngộ. Thắp hương, vọng về phía thầy, lễ bái: “Thấu hiểu sâu xa lời thầy dặn lại, trọn chẳng nói xuông”. Bèn đến yết kiến ngài Thạch Sương[42], làm chay, sám hối.

      (6) Theo Truyền Đăng Lục, Tăng hỏi ngài Quy Tông: “Huyền chỉ là như thế nào?” Ngài Quy Tông đáp: “Chẳng phải là chỗ dụng tâm của ngươi!” Hỏi: “Há chẳng có môn phương tiện ư?” Quy Tông đáp: “Quán Âm diệu trí lực, thường cứu khổ thế gian”. Hỏi: “Quán Âm diệu trí lực là như thế nào?” Quy Tông gõ lên nắp cái đỉnh ba lần.

      Lại nữa, Hoàng Bá Duy Thắng thiền sư[43], do cái quạt đụng vào chấn song cửa sổ vang ra tiếng, bèn nhớ tới câu “mười phương đều đánh trống, mười chỗ cùng lúc nghe” [trong kinh Lăng Nghiêm], do vậy đại ngộ.

      (7) Theo Truyền Đăng Lục, đời Đường, Lý Văn Công hỏi ngài Dược Sơn: “Thế nào là hắc phong thổi thuyền bè trôi vào nước quỷ”. Sư nói: “Thằng nhóc Lý Cao hỏi chuyện ấy làm chi?” Văn Công giận dữ lộ ra mặt, Sư cười bảo: “Đấy chính là hắc phong thổi thuyền bè giạt vào nước quỷ”.

      Lại có vị Tăng hỏi hòa thượng Tương Châu Lịch Thôn: “Thế nào là quán sát âm thanh liền được giải thoát?” Ngài Lịch Thôn cầm que cời lửa gõ vào củi, hỏi: “Nghe không?” Đáp: “Nghe ạ!” Ngài Lịch Thôn: “Ai chẳng được giải thoát?”

      (8) Theo Truyền Đăng Lục, Ma Cốc hỏi Lâm Tế: “Quán Âm mười hai mặt, mặt nào là chánh diện?” Lâm Tế bước xuống thiền sàng, nắm chặt Ma Cốc hỏi: “Quán Âm mười hai mặt tới chỗ nào, nói mau, nói mau!” Ma Cốc xoay mình tính ngồi xuống, Lâm Tế liền đánh.

      Theo Nhất Hạnh Cư Tập, đời Minh, con gái của Văn Túc Công Vương Tích Tước là Đàm Dương Đạo Nhân, thờ Quán Âm từ nhỏ. Cô mộng thấy Đại Sĩ dẫn đi xem tòa sen bảy báu ở Tây Phương. Một hôm, Đại Sĩ hiện ba mươi hai tướng, hỏi: “Đẹp không?” Thưa: “Đẹp ạ!” Hỏi: “Đáng yêu không?” Thưa: “Chẳng yêu”. Hỏi: “Đẹp sao không yêu?” Thưa: “Đệ tử nghe nói: ‘Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, chẳng thấy được Như Lai”. Đại Sĩ lộ vẻ hoan hỷ.

      (9) Theo Truyền Đăng Lục, ngài Quy Tông thượng đường nói: “Ngươi nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chốn”, [đồ đệ] hỏi: “Thế nào là hạnh Quán Âm?” Quy Tông khảy ngón tay, bảo: “Mọi người còn nghe hay chăng?” Thưa: “Nghe ạ!” Quy Tông nói: “Một đoàn người hướng về đây kiếm cái gì?” Sư dùng gậy đuổi đại chúng ra.

      Theo Phật Tổ Thống Kỷ, Nhân Nhạc tự là Tiềm Phu, chuyên ròng tu phép tam-muội trong Thỉnh Quán Âm Kinh, ngồi yên trong tịnh thất, chợt như tỉnh mộng.

      (10) Theo Thung Dung Lục, Vân Nham hỏi Đạo Ngô: “Đại Bi Bồ Tát dùng lắm mắt nhiều tay như thế để làm gì?” Đạo Ngô đáp: “Như người trong đêm dùng tay mò gối”. Vân Nham thưa: “Con hiểu rồi, khắp thân là tay mắt”. Đạo Ngô bảo: “Chỉ nói được tám phần”. Vân Nham hỏi [ý nghĩa như thế nào], Đạo Ngô bảo: “Toàn thân là tay mắt”. Ngài Thiên Đồng tụng rằng: “Mắt báu thanh tịnh, tay công đức. Khắp thân đâu giống trọn toàn thân!”

      Vua Tống Hiếu Tông hỏi vị tăng Thiên Trúc: “Quán Âm tay cầm xâu chuỗi niệm ai vậy?” Đáp: “Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Hỏi: “Tự niệm danh hiệu của chính mình để làm chi?” Đáp: “Cầu người khác chẳng bằng cầu chính mình”. Vua rất vui vẻ.

      (11) Theo Truyền Đăng Lục, thiền sư Trung Tháp Cầu thượng đường bảo: “Nếu theo cửa Quán Âm để vào thì hết thảy âm thanh, tiếng vọng ễnh ương, giun đất đều giúp ngươi phát khởi căn cơ”.

      Lại nữa, ngài Vân Môn dạy đại chúng: “Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm”, rồi liền giơ tay nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát cầm tiền đến mua bánh xèo bột bắp”[44]. Sư buông tay xuống nói: “Vốn nó là bánh mạn đầu”.

      (12) Theo Kiên Cô Tập[45], trong niên hiệu Hy Ninh (1068-1077) thời Tống, trưởng lão Trọng Hỷ không biết chữ, hằng ngày niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát không nghỉ chút nào. Một hôm chợt viết kệ: “Địa lô vô hỏa, nhất nang không; tuyết tự dương hoa lạc tuế cùng, khất đắc ninh ma phùng bại nạp, bất tri thân tại tịch liêu trung” (Lò đất nguội tanh, túi rỗng tênh. Tuyết như hoa rụng, hết năm rồi, xin được nắm gai chằm áo nát, nào biết thân trong chốn tịch liêu). Ấy là vì Sư đã đắc trí huệ lực của Quán Âm mà giải ngộ vậy.

      Theo Phật Tổ Thống Kỷ, đời Tống, sư Huệ Tài tự hận tối tăm, chậm lụt, thường trì chú Đại Bi, chợt mộng thấy một vị Phạn tăng cao mấy trượng, cởi ca-sa đắp cho. Những gì đã nghe được trước kia và sau này đều hiểu thông suốt hết.

      (13) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Minh, sư Hồng Thượng tự là Phạm Am, đọc Lăng Nghiêm có chỗ tỉnh, bèn kiền thành lễ Quán Âm. Một đêm, trong Định thấy kim thân Bồ Tát, ngàn mắt, ngàn tay, nhóm họp đông nghịt. Đang kinh ngạc thì Bồ Tát tách một cánh tay và mắt trao cho. Xuất Định, mùi hương lạ ngập thất, tâm địa thanh lương.

      Lại nữa, ngài Hám Sơn Đức Thanh sống trong căn nhà cũ tại Long Môn thuộc Bắc Đài trong mùa băng tuyết phủ khắp muôn núi. Giữa Xuân sang Hạ, các dòng nước dần dần tan chảy như vạn con ngựa chạy dồn, bèn hỏi ngài Diệu Phong. Sư Diệu Phong bảo: “Cổ nhân ba mươi năm nghe tiếng nước chảy, chẳng chuyển ý căn thì sẽ chứng pháp Viên Thông của Quán Âm”. Ngài Đức Thanh chấp nhận là đúng, đặt ngang tấm ván trên suối, quỳ ở trên đó, lâu ngày, chợt quên mất cả thân thế, mọi thứ rung động đều lặng bặt.

      (14) Theo Linh Cảm Phú, đời Tống, một vị Tăng chùa Hải Ninh tại Thái Thương, thô lỗ, ngu xuẩn, thất học. Thầy ông ta bèn bảo hãy chuyên lạy Quán Âm. Ông Tăng ấy đột nhiên có thể ngâm thơ, nhưng trọn chẳng biết chữ.

      Theo Nhất Hạnh Cư Tập, thiền sư Cốc Thanh thuở nhỏ học hành, khổ vì đọc chữ ngắc ngứ, bèn đối trước Quán Âm Đại Sĩ cầu đảo. Trở về mở sách ra, giống như đã đọc quen từ trước. Xuất gia, trụ tại Long Hoa Tự, ban ngày lo thâu thập lương thực cho đại chúng, đêm mở Pháp Hoa Kinh ra, trong khoảnh khắc đã tụng xong. Mỗi lần xuống núi liền tụng kinh một lượt, trở về cũng giống như thế.

      (15) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Tống, sư Tử Anh, pháp tự Giác Ấn, một hôm mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ, rót nước từ bình lưu ly cho uống. [Sư cảm thấy] giống như cam lộ quán đảnh. Từ đấy rỗng rang, đắc pháp nơi ngài Viên Thông Tú.

      Lại nữa, ngài Linh Duệ đời Thanh, pháp tự là Nhiếp Am, tu Đại Bi Sám. Có vị lão tăng tự xưng là Từ Vân Sám Chủ, đem chiếc lư hương bằng gỗ đã xưa trao cho, chợt chẳng biết Sư đã biến đâu mất. Do vậy, tâm địa sáng tỏ như có thần giúp vậy.

      (16) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Thanh, ngài Hành Kính, pháp tự là Độc Quan, mộng thấy Đại Sĩ cầm đao mổ xẻ, thay xương cho Sư; mổ đến chỗ chân răng thì đau quá, tỉnh giấc. Từ đấy trở đi, chỉ thích sự vắng lặng của lẽ Thiền, dứt sạch ngoại duyên.

      Lại nữa, đời Minh, ngài Pháp Hội, pháp tự là Vân Cốc, tham Thiền đắc ngộ, bắt chước ngài Minh Giáo Tung đội tượng Quán Âm, suốt đêm không ngủ, lễ bái, kinh hành, suốt đời không lười. Sư dạy Viên Liễu Phàm ý chỉ “dùng tâm lập mạng”, những người được Sư hóa độ tính đến ngàn vạn kẻ.

      (17) Chuyện Tào Hành Đồng đời Minh vào biển được cứu chép trong sách Quái Viên, xin xem lời chú thứ ba trong đoạn “cứu chết chìm”. Quay về, ông ta bèn đến chùa Trấn Hải tu tập kinh chú, học thông thạo tiếng Phạn, hiểu rõ ràng ý nghĩa của kinh điển, trở về xứ mình, [trở thành bậc] kiệt xuất trong những người cùng hàng, xa gần đều quy y.

      Theo Cư Sĩ Truyện, đời Minh, Tiết Nguyên Sơ pháp danh là Đại Xuân. Lúc thơ ấu mắc bệnh, liền rì rầm niệm danh hiệu Phật. Lên mười đã khéo nói những lý luận phần nhiều phù hợp kinh Phật. Về sau, đọc kinh hoát nhiên tỉnh ngộ, trí huệ đắc Vô Ngại Biện. Đã vậy còn mộng thấy Đại Sĩ dẫn đến bến sông, té nước lên gột rửa, bảo: “Sao mà ngươi phủ bụi đến thế này”. Tắm xong, xoa đầu bảo: “Hãy mau tìm đường mà đi”. Rồi ông ta mắc bệnh, liền nói kệ, qua đời.

      (18) Theo Giác Hổ Tập, sư Tuyết Quan Trí Ám thân thể còm cõi, đảnh lễ Quán Âm, mộng thấy Đại Sĩ xoa đầu, mình mẩy, xương cốt dần dần mạnh mẽ, coi khắp các sách, thông hiểu cặn kẽ. Tham Thiền có chỗ tỉnh, kiêm tu Tịnh Độ.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Nguyên, [trước khi xuất gia] sư Đại Vân đậu Tiến Sĩ. Trong lúc ở Trường An, mộng thấy Đại Sĩ vỗ vào lưng nói: “Ông có túc duyên to lớn với Không môn”, cảm thấy ánh sáng trắng ngập nhà, mùi thơm phủ khắp người. Do vậy, bèn bỏ quan làm Tăng.

      (19) Vương Mộng Cơ, thuở bé vào học trường huyện, tự thẹn kém tài, trì chú suốt bốn mươi ngày đêm, mộng thấy Đại Sĩ xoa khắp xương đốt trên thân, từ đấy văn tài lưu loát.

      Theo Chiết Giang Thông Chí, sư Triệt Oánh tĩnh tu triệt ngộ. Trong Định thấy Đại Sĩ dùng nước cành dương rửa mắt, bảo: “Ngươi chưa đoạn duyên đời, do vậy, hãy cứu độ người đời”. Sư chợt hiểu được yếu quyết Địa Lý. Nói chuyện họa phước đúng răm rắp.

 

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 3, Phần 1 hết

 

 

     



[1] Núi Hùng Nhĩ thuộc tỉnh Hà Nam, là mạch núi nối dài của rặng Tần Lĩnh, ngọn cao nhất cũng có tên là Hùng Nhĩ.

[2] Câu này dựa theo ý bài kệ phó chúc tương truyền là của tổ Đạt Ma theo Pháp Bảo Đàn Kinh: “Ngô bổn lai tư độ, truyền pháp cứu mê tình, nhất hoa khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành” (Ta vốn đến cõi này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa xòe năm cánh, kết quả tự nhiên thành). Theo đó, “hoa khai ngũ diệp”là lời dự ngôn: Sau thời Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông sẽ tách thành năm phái Thiền:

1. Quy Ngưỡng tông: Do hai vị Quy Sơn Linh Hựu và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch khai sáng.

2. Lâm Tế tông: Do hai vị Hoàng Bá Hy Vận và Lâm Tế Nghĩa Huyền khai sáng. Đến đời Tống, Lâm Tế tông lại tách ra thành hai chi phái là Dương Kỳ và Hoàng Long.

3. Vân Môn tông: Do ngài Vân Môn Văn Yển khai sáng.

4. Tào Động tông: Do hai vị Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bổn Tịch khai sáng.

5. Pháp Nhãn tông: Do ngài Thanh Lương Văn Ích khai sáng.

[3] Xương đòn gánh (Clavicle, tỏa cốt, tỏa tử cốt) là một miếng xương nằm ngang nối xương ức với xương bả vai.

[4] Chữ “lục thân” có năm cách hiểu khác nhau:

1. Lục Thân là sáu mối quan hệ thân tộc: Cha con, anh em, anh em con chú con bác, anh em cháu ông chú ông bác (tức ông nội mình và ông nội người ấy là anh em ruột), anh em cháu ông cố bác ông cố chú, anh em cùng họ. Đây là quan điểm của Giả Nghị đời Hán được chép trong bộ Tân Thư.

2. Lục Thân là cha con, anh em, chị em, cậu cháu, chồng vợ, bố mẹ chồng (vợ) và con dâu (con rể). Đây là quan điểm của Tả Truyện.

3. Sách Hán Thư lại coi Lục Thân chỉ là ba mối quan hệ (do trong mỗi quan hệ có 2 đối tượng nên 3x2=6) tức là cha mẹ, anh em, vợ con (trong đây đã gộp mối quan hệ chị em vào anh em).

4. Sách Sử Ký cũng nêu quan điểm tương tự, nhưng hợp lý hơn: Lục Thân là cha con, anh em, vợ chồng.

5. Thiên Quản Án Liệt Truyện sách Sử Ký lại giảng Lục Thân là ông bà nội ngoại, cha mẹ, chị, em, con cái của anh em bên vợ, con cái của mẹ kế, con cái của con gái mình. Hiểu theo cách này thì lại thiếu mất cháu nội, cũng như con cái của anh em trai ta và con cái của chị em gái ta.

Xét ra, Lục Thân thường được hiểu theo cách thứ ba hay cách thứ tư.

[5] Thù Du (茱萸, Silverberry hoặc Oleaster ), còn gọi là Việt Tiêu hay Chi Tử. Thù Du là một loại cây xanh quanh năm, có hoa thơm, tinh dầu có tác dụng khử hàn tiêu độc, nên thường để chữa cảm mạo, có khoảng từ 40 đến 70 loài khác nhau. Loại cây này thường mọc thành bụi thấp, hoa bốn cánh có mùi thơm nhẹ, trái có thịt mọng ăn được nhưng vô vị. Thời cổ, vào tiết Trùng Dương (Trùng Cửu, tức mồng Chín tháng Chín âm lịch), người ta thường lùng hái lá cây này đem về phơi khô làm thuốc hoặc ngâm rượu uống dần.

[6] Thân Vương là tiếng gọi chung những người được mang tước vị cao nhất trong tước Vương. Bắt đầu từ thời Hán, hoàng tử và anh em của hoàng đế được mang tước Vương. Từ thời Ngụy Tấn, tước Vương được chia ra làm hai loại: Thân vương và Quận Vương. Thân Vương chỉ phong cho hoàng tử và anh em của hoàng đế, Quận Vương dành riêng cho Hoàng Thái Tử. Về sau, Quận Vương được phong cho các văn thần quan trọng (như những người giữ chức Tiết Độ Sứ đời Đường), chứ Thái Tử không còn được gọi là Quận Vương nữa, và tước Quận Vương đương nhiên có địa vị thấp hơn Thân Vương. Đời Đường, có lệ: Danh xưng của những vị Thân Vương chỉ có một chữ, còn Quận Vương danh xưng có hai chữ. Chẳng hạn như trước khi lên ngôi, Đường Duệ Tông mang tước Tương Vương, trong khi ấy, Quách Tử Nghi là quyền thần thời đó, được phong là Phần Dương Vương. Đến đời Minh, Thân Vương được phép có ngọc tỷ và vùng đất được phong sẽ gọi là Quốc. Đời nhà Thanh, các Thân Vương được gọi rõ là Thân Vương trong danh xưng. Chẳng hạn như các hoàng tử thường được gọi là Hòa Thạc Thân Vương.

[7] Hoa Tử là tiếng gọi đùa những kẻ ăn mày vì quần áo vá chằng vá đụp nhiều mảnh vải khác màu cũng như thân thể họ thường ghẻ chốc, phải bôi phẩm xanh, phẩm đỏ để chữa ghẻ, trông như “vẽ hoa” nên được gọi là Hoa Tử. Do họ hay kêu gào, xin xỏ nên còn gọi là Khiếu Hóa Tử.

[8] Hách Liên Bột Bột (381-425), tự là Quật Kiết, thuộc bộ tộc Thiết Phất của giống Hung Nô, vốn có tên là Lưu Bột Bột, là vua khai sáng nước Hồ Hạ thời Thập Lục Quốc. Sư Đàm Thỉ sống vào thời Lưu Tống của Lưu Dụ (chứ không phải nhà Bắc Tống của Triệu Khuông Dẫn). Câu chuyện này xảy ra khi Lưu Dụ bận bịu truy kích tận diệt nhà Tiền Tần, Hách Liên Bột Bột thừa cơ vây hãm, đoạt lấy Trường An, xưng đế, thụy hiệu là Hạ Thế Tổ.

[9] Thác Bạt Đào (408-453) chính là Ngụy Thế Tổ Thái Vũ Hoàng Đế, là con của Thác Bạt Tự (Ngụy Minh Nguyên Đế), là một ông vua đầy tham vọng, chiến tranh liên miên, diệt các nước Hạ, Bắc Yên, Bắc Lương, kết thúc thời Ngũ Hồ Thập Lục Quốc, thống nhất phương Bắc. Vua ưa sử dụng hình phạt tàn nhẫn. Do tham vọng chiếm đoạt tài sản của Phật giáo và độc tôn Đạo giáo, ông đã hạ lệnh phế Phật dữ dội nhất (Sử thường gọi là Tam Vũ Diệt Phật, tức ba ông vua có đế hiệu là Vũ Đế hủy diệt Phật pháp, tức Ngụy Thái Vũ Đế, Châu Vũ Đế và Đường Vũ Tông).

[10] Theo Tiên Kinh của Đạo Giáo thì: “Bậc thượng sĩ bay lên hư không thì gọi là Thiên Tiên, bậc trung sĩ ngao du các danh sơn thì gọi là Địa Tiên, bậc hạ sĩ chết đi rồi mới thành tiên thì gọi là Thi Giải Tiên”. Dựa theo luận điểm này, các Đạo Sĩ đặt ra năm loại tiên (quỷ tiên, nhân tiên, địa tiên, thiên tiên và kim tiên), trong đó là Địa Tiên là những đạo sĩ đã tu luyện đến mức tinh khí thần hợp nhất, đắc năm môn thần thông, có thể hấp thụ tinh khí của nhật, nguyệt, thiên, địa nhằm bổ dưỡng thân mạng, nhục thân bất hoại, không còn Ngã Chấp và Pháp Chấp. Họ cũng báng bổ coi Phật chỉ là một trong số những vị Kim Tiên của Đạo Giáo. Nhà Phật gọi chung những thần thánh trong nhân gian là Địa Tiên nhằm phân biệt với chư thiên. Chữ Địa Tiên ở đây cũng có thể hiểu là Địa Hành Tiên, tức là một trong mười loại tiên được nhắc tới trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.

[11] Cao Hoan (496-547) là người Tiên Ty được Hán hóa, vốn có tên là Hạ Lục Hồn, là một tay quyền thần thời Bắc Ngụy và Đông Ngụy, từng nắm quyền Thừa Tướng, thâu tóm quyền hành nhà Ngụy, đặt nền móng cho nhà Bắc Tề. Do vậy, đôi chỗ gọi Cao Hoan là Cao Vương, tuy ông ta chưa hề xưng vương. Sách Nam Hải Từ Hàng cho rằng kinh Cao Vương Quán Âm là kinh do Vương Nguyên Mô được Quán Âm Bồ Tát truyền trong mộng, và do ông Nguyên Mô siêng năng trì tụng nên khi bị vua Bắc Tề xử tử, đao chém nhiều lần bị gãy. Vì Nguyên Mô được vua Bắc Tề (họ Cao) tha tội chết, nên bài kinh đó gọi là Cao Vương Quán Âm. Thật ra, Vương Nguyên Mô sống cùng thời với Thác Bạt Đào (Ngụy Thái Vũ Đế), bị Thác Bạt Đào đánh bại, toan đem ra hành hình, và Thác Bạt Đào mất năm 453, trong khi Cao Hoan mãi đến năm 496 mới sanh ra, tức là 43 năm sau khi Thác Bạt Đào đã chết. Hơn nữa, Cao Hoan chỉ là người thâu tóm chánh quyền Đông Ngụy, phế vua, lập cơ sở quyền bính cho con là Cao Tường soán ngôi nhà Đông Ngụy lập ra nhà Bắc Tề vào năm 550 (tức 3 năm sau khi Cao Hoan đã chết), chứ chưa bao giờ làm vua. Do vậy, Cao Vương không phải là Cao Hoan mà là Cao Tường. Nếu theo thuyết của Nam Hải Từ Hàng thì sự việc Nguyên Mô bị hành hình đã trễ hơn hơn 80 năm và lúc đó Nguyên Mô đã ngoài trăm tuổi!

[12] Thai Tông: Tông Thiên Thai.

[13] Ban Mã là Ban Cố và Mã Dung là hai văn học gia nổi tiếng. Ban Cố (32-92), tự là Mạnh Kiên, người xứ Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây, là thi nhân, kiêm sử gia thời Hán. Ông là tác giả của bộ sử Hán Thư (Tiền Hán Thư) nổi tiếng gồm 100 thiên. Trong thời gian ông biên soạn bộ này, có kẻ vu báng ông lén lút xuyên tạc quốc sử, nên bị hạ ngục. Em trai ông là Ban Siêu ra sức trần tình với Hán Minh Đế nên vua tha tội, phong Ban Cố làm Lan Đài lệnh sử. Ban Cố từng theo Đậu Hiến đánh Hung Nô, đảm nhiệm chức Hành Trung Tướng Sự. Sau khi đại phá Hung Nô, Đậu Hiến sai Ban Cố viết bài minh khắc trên núi Yên Nhiên. Về sau, do Ban Cố không khéo dạy dỗ con cái, gây hiềm khích với quan lại ở Lạc Dương, nên khi họ Đậu thất thế, tự sát, Ban Cố bị vu tội cấu kết bè đảng với Đậu Hiến, bị tống giam và chết trong ngục. Do bộ Hán Thư chưa soạn xong, Hán Hòa Đế bèn sai em gái ông ta là Ban Chiêu (Tào Đại Gia) soạn tiếp, nhưng chưa xong thì bà này cũng chết, vua phải sai môn nhân của bà là Mã Tục tiếp tục hoàn thành sự nghiệp biên soạn Hán Thư. Mã Dung (79-166), tự Quý Trưởng, người xứ Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây, là một nhà kinh học (chuyên viên về các kinh điển Nho gia) thời Hán. Ông tinh thông sách vở thởi ấy, từng chú thích các bộ Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Luận Ngữ, Hiếu Kinh v.v... biên soạn bộ Tam Truyền Dị Đồng Thuyết. Ngoài kinh điển Nho gia, ông còn chú thích Đạo Đức Kinh, Hoài Nam Tử, Ly Tao, Liệt Nữ Truyền. Những nhà chú giải kinh sách cổ nổi tiếng như Trịnh Huyền, Lô Thực đều là học trò của ông. Do vậy, từ ngữ “tăng trung ban mã” có ý ca ngợi ngài Niệm Thường có tài biên soạn sử liệu, chú giải kinh điển chẳng kém gì Ban Cố và Mã Dung.

[14] Trung Tán còn gọi là Trung Thừa, được lập ra từ thời Hán, có nhiệm vụ phụ tá Ngự Sử Đại Phu, đặc trách nhiệm vụ giám sát và đàn hặc các quan. Đến thời Minh, chức vụ này bị phế và thay bằng chức Đô Sát Viện. Đến đời Thanh, chức vụ Tuần Phủ thường kiêm nhiệm chức Hữu Phó Đô Ngự Sử của Đô Sát Viện trong một tỉnh nên Tuần Phủ cũng thường gọi là Trung Thừa hay Trung Tán.

[15] Tam Đế: Ba sự thật viên dung theo tông Thiên Thai, tức là Không Đế, Giả Đế, và Trung Đế.

[16] Đây là câu chú thích cho lời ca tụng trong nguyên văn “thống kỷ Dịch Đường, khắc thiệu anh nhi chi hạnh” (Dịch Đường tiếp nối giềng mối, quả nhiên tiếp nối hạnh anh nhi). Kinh Niết Bàn dùng hình ảnh Anh Nhi (trẻ thơ) không thể tự đi, lại, ăn, uống, nói năng để hình dung bậc chứng đắc đã dứt bặt tạo tác phiền não, không còn suy lường, đắm chìm trong ngôn từ hý luận hư huyễn.

[17] Thiện bản: Bản văn hoàn chỉnh, chánh xác nhất.

[18] Vua Giới Nhật (Siladitya, 589-674) là vua thứ sáu của triều đại Harsha (còn viết là Harshavardhana) ở Ấn Độ, lãnh thổ bao gồm vùng Punjab, Gurajat, Bengal, Orissa và phía Bắc vùng bình nguyên giữa sông Hằng và sông Narmada. Vua siêng năng chăm lo việc nước, đóng đô tại thành Khúc Nữ (Kanauj).

[19] Vô Giá đại hội: Vô Giá (無遮) có nghĩa là “không ngăn che”. Đây là một trai hội bố thí nhằm kết đại thiện duyên. Không phân biệt sang, hèn, tăng, tục, ngu, trí, thiện, ác đều nhất loạt đối đãi bình đẳng. Theo ngài Huyền Trang, tại Ấn Độ cứ năm năm tổ chức Vô Giá đại hội. Ở Trung Quốc, truyền thống này khởi đầu từ thời Lương Vũ Đế.

[20] Đây chính là vị quốc sư đã soạn Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp (thường gọi tắt là Thủy Sám). Quốc sư là người xứ Hồng Nhã, My Châu (nay thuộc Tứ Xuyên), pháp danh Tri Huyền, pháp hiệu Hậu Giác, xuất gia với pháp sư Pháp Thái năm 11 tuổi, chuyên nghiên cứu kinh Niết Bàn. Sở học của Sư vượt trỗi, năm 13 tuổi đã được tăng chúng chùa Đại Từ ở Tứ Xuyên cung thỉnh thăng tòa thuyết pháp, người nghe bội phục, than thở không thôi, thanh danh vang dội đến tận kinh thành tuy Sư mới chỉ là một chú tiểu! Đường Vũ Tông ham mê Đạo giáo, thích luyện đan tu tiên, bèn hạ lệnh Sư phải tranh luận với Đạo Sĩ nhằm hạ nhục Phật giáo. Ngài Tri Huyền biện luận lưu loát, vạch ra những chỗ xằng bậy của lũ Đạo Sĩ, can gián vua không nên mê tín. Sư nói rất thẳng, không nể nang chút nào, suýt mấy lần bị vua và lũ quần thần xu nịnh kết tội. Vua tuy không tin Phật, nhưng tâm gièm pha Phật giáo cũng giảm bớt mấy phần. Đến đời Đường Tuyên Tông, vua triệu ngài Tri Huyền vào cung giảng pháp, khâm phục khôn cùng, ban ca-sa tía, cho phép các chùa từng bị phế bỏ dưới thời Vũ Tông được trùng hưng. Từ đó, Sư du hóa khắp nơi, chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Đến đời Đường Ý Tông, vua tôn Sư làm Quốc Sư, ban tòa ngồi giảng pháp bằng trầm hương, giữ lễ đệ tử hết sức cung kính. Do vậy, Sư khởi tâm kiêu mạn, bị ghẻ mặt người mọc trên đầu gối, may được Ca Nặc Ca Bồ Tát hóa độ, thuyết pháp, chữa trị. Sư tỉnh ngộ, soạn bộ Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp. Do Trường An (nay là Tây An thuộc tỉnh Thiểm Tây) là kinh đô thời ấy, nên giọng đất Tần được coi là giọng chuẩn.

[21] Nguyên văn là “Tiết” là một miếng gỗ hay ngọc, có khắc phù hiệu để làm tin.

[22] Trừ Tịch (còn gọi là Đại Niên Dạ, Trừ Dạ, Tuế Trừ, Đại Hối Nhật) là đêm 30 Tết. Trừ () ở đây có nghĩa là chia ra. Vì đêm 30 Tết là đêm phân chia giữa năm cũ và năm mới nên gọi là Trừ Dạ, Trừ Tịch hay Tuế Trừ. Do là ngày kết thúc một năm nên gọi là Đại Niên Dạ. Đêm 30 Tết trời rất tối nên cũng gọi là Đại Hối Nhật (Hối () là tối tăm).

[23] Do Đạo Giáo tôn xưng Táo Quân là Đông Trù Tư Mạng Đế Quân, nên người ta thường gọi tắt ông Táo là thần Tư Mạng, tuy Tư Mạng thường được dùng để chỉ một vị thần thuộc Văn Xương Cung chuyên giám sát thiện ác, họa phước của nhân gian.

[24] Trương Cư Chánh (1525-1582), tự là Thúc Đại, hiệu Thái Nhạc, người xứ Giang Lăng, Hồ Quảng làm Thủ Phụ (Tể Tướng) từ năm 1572 đến năm 1582 (nhằm niên hiệu Long Khánh của Minh Mục Tông), mất năm Vạn Lịch thứ 10 (1582). Ông đậu Tiến Sĩ năm Gia Tĩnh 26 (1547), được bổ làm Hàn Lâm Viện Biên Tu vào năm ấy. Do sử sách Trung Hoa có thói quen gọi những nhân vật nổi danh theo chức tước cuối cùng của họ nên khó thể biết đích xác Du Đô làm gia sư cho Trương Cư Chánh khi nào (không biết khi ấy Trương Cư Chánh đã làm Tể Tướng hay chưa), ta chỉ có thể phỏng đoán là tối thiểu một vài năm sau khi Trương Cư Chánh đã ra làm quan và tối thiểu phải một vài năm trước khi Cư Chánh mất; vì vậy, câu chuyện này chỉ có thể xảy ra vào cuối niên hiệu Gia Tĩnh, trong khoảng niên hiệu Long Khánh hoặc vào đầu thời Vạn Lịch.

[25] Sách Lăng Nghiêm Chánh Mạch Sớ giảng câu này như sau: “Chữ Nhĩ () ở đây mang ý nghĩa nung luyện hòa hợp thành hoàn, thành bánh. Ăn uống những thứ ấy đạt được công hiệu, nên bảo là ‘thực đạo viên thành’Địa Hành Tiên thân thể khỏe mạnh, tuổi thọ lâu dài, nhưng chưa được nhẹ nhàng để bay lên, nên gọi Địa Hành (đi trên đất)”. Trong Đạo Giáo, “thực đạo viên thành” nghĩa là không cần ăn uống mà vẫn khỏe mạnh.

Do nguyên văn lời tán dương là “thốn lai châu khỏa, đẳng Đạo Gia phục nhĩ chi tiên” (nuốt hạt châu sa đưa tới, giống như vị tiên uống thuốc trong Đạo Gia) nên trong phần chú thích, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh mới dẫn câu kinh Lăng Nghiêm để chỉ rõ nguồn gốc chữ Phục Nhĩ. Do vậy, chúng tôi chỉ dịch ý: “Nuốt hạt son, giống như tiên nuốt thuốc Đạo Gia”.

[26] Câu Chi Quán Âm là gọt tắt của danh hiệu Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Quán Âm. Do vậy, chú Câu Chi Quán Âm chính là chú Chuẩn Đề.

[27] Lâm Giang Tiên là một điệu hát được các ca nhi dùng trong các tiệc rượu (nhất là trong các cuộc tửu lệnh, nghĩa là ca nhi ôm đàn hát, cứ mỗi một chữ, chén rượu được chuyền sang người bên cạnh. Khi tới chữ nào nằm đúng vần trong lời Từ hoặc khi ca khúc chấm dứt, người cầm chén lúc ấy phải uống cạn). Lời ca được viết theo Từ Điệu, tức là những bài thơ ngắn, không theo thể thức như thơ Đường hoặc các loại thơ khác, mà gieo vần và mẹo luật uyển chuyển hơn nhằm dễ diễn tả cảm xúc. Lâm Giang Tiên còn có tên là Tạ Thân Ân, Nhạn Hậu Quy, Họa Bình Xuân v.v... Bài từ này gồm 58 chữ, chữ dùng phải tuân theo luật bằng trắc nhất định, chia làm hai đoạn, những chữ ăn vần với nhau phải cùng vần bằng. Câu hai, ba, năm, bảy, tám, chín phải vần với nhau. Chẳng hạn, Dương Thận đã viết một bài Lâm Giang Tiên Từ như sau (những chữ in đậm là những chữ ăn vần với nhau): “Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy, lãng hoa đào tận anh hùng, thị phi thành bại chuyển đầu không, thanh sơn y cựu tại, kỷ độ tịch dương hồng, bạch phát ngư tiều giang chử thượng, quán khan thu nguyệt xuân phong, nhất hồ trược tửu hỷ tương phùng, cổ kim đa thiểu sự, đô phó tiếu đàm trung” (Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông, sóng mòi vùi lấp sạch anh hùng, đúng sai, thành bại hóa thành không, núi xanh còn đó y như cũ, mấy độ tà dương rực ánh hồng, bến nước ngư tiều đều bạc tóc, lặng ngắm trăng thu, hóng gió xuân, một bầu rượu đục mừng tao ngộ, bao chuyện xưa nay một trận cười).

[28] Thông thường, Bình có nghĩa là cái bình phong, ở đây chỉ có nghĩa là một trong nhiều bức tranh được treo sát liền nhau với nhiều bức tranh khác tạo thành một mảng lớn trên tường.

[29] Đây là một điển tích thường được gọi là “bôi cung xà ảnh”, thường được coi là xuất phát từ một câu chuyện do Ứng Thiệu chép trong chương Quái Thần của sách Phong Tục Thông Nghĩa. Theo đó, ông nội của Ứng Thiệu là Ứng Lâm làm ấp lệnh đất Cấp. Trong hôm Hạ Chí, Ứng Lâm mời viên Chủ Bạ dưới quyền là Đỗ Tuyên đến thưởng rượu. Khi ấy, trên bức vách phía Bắc của căn phòng có treo chiếc cung. Bóng cung chiếu vào chén trông như con rắn nhỏ đang duỗi mình. Đỗ Tuyên kinh sợ, nhưng không dám từ chối. Kể từ hôm ấy, ông ta đau bụng dữ dội, luôn cảm thấy rắn bò trong bụng, bỏ cả ăn uống, hình sắc tiều tụy, chữa chạy đủ cách nhưng không lành được. Sau đấy, Ứng Lâm có việc, đến thăm, hỏi duyên cớ. Đỗ Tuyên kể lại nỗi sợ bị con rắn chui vào bụng. Sau khi nghe Ứng Lâm giải thích, liền sai người chở Đỗ Tuyên đến chỗ cũ, chỉ cho thấy cái cung treo trên vách, và bảo Đỗ Tuyên ngồi đúng chỗ cũ, quả nhiên trong chén hiện bóng con rắn lờ mờ. Đỗ Tuyên vỡ lẽ, khỏi bệnh ngay lập tức. Trong bộ sử Tấn Thư, truyện Lạc Quảng cũng chép tương tự về người khách của Lạc Quảng. Do vậy, đây rất có thể là một câu chuyện ngụ ngôn lưu truyền đã lâu rồi được gán cho những nhân vật nổi danh.

[30] Nhũ Đầu Hương chính là Nhũ Hương (Frankincense hoặc Olibamum) là một loại nhựa cây trích từ những cây thuộc họ Nhũ Hương Mộc (có tên khoa học là Boswellia Thurifera hoặc Boswellia Sacra). Nhũ Hương còn được gọi là Huân Lục Hương, Mã Vĩ Hương, Tháp Hương, Tây Hương, Thiên Trạch Hương, Ma Lặc Hương, Đa Già La hương hay Mộc Hương. Loại cây này sống trong những điều kiện rất khắc nghiệt của vùng Trung Đông và cung cấp nhiều nhựa. Nhựa cây này có mùi thơm nhẹ và rất được khối Ả Rập và Tây Phương coi như nhiên liệu quý để dâng hiến trong các nghi lễ tôn giáo. Ở đây, ngài Đạo Hiến bảo thợ dùng Nhũ Hương làm chất keo để giữ cho màu vẽ dính vào giấy thay vì dùng chất keo chế bằng xương thú (như A Giao chẳng hạn).

[31] Xá Nhân là một chức quan. Thoạt đầu danh xưng này để chỉ người cầm đầu bọn tôi tớ nhà quý tộc, về sau được lập thành một chức quan. Tùy theo từng bộ, doanh hay thự khác nhau mà Xá Nhân có danh xưng, nhiệm vụ, cấp bậc khác nhau, chẳng hạn như Trung Thư Xá Nhân, Thái Tử Trung Xá Nhân, Thái Tử Xá Nhân, Khởi Cư Xá Nhân, Thông Sự Xá Nhân... Nói chung, Xá Nhân là viên quan phụ tá người đứng đầu một cơ quan. Nhan Sư Cổ giảng: “Xá Nhân là tiếng gọi chung những người thân cận”.

[32] Nguyên văn “bạt cống triều khảo”. Bạt Cống là một hình thức tuyển sinh viên vào học trường Quốc Tử Giám ở kinh đô dưới thời Thanh. Thoạt đầu, mỗi năm mở khóa thi hai lần, đến thời Càn Long quy định mỗi 12 năm mới mở khóa thi một lần. Quan Học Chánh các tỉnh chọn lựa những người có tài văn chương đã đỗ Cống Sinh (đậu thi Hương) trong tỉnh đưa về kinh đô dự thi, những người ấy được gọi là Bạt Cống Sinh. Khi lên kinh, họ được học ở Quốc Tử Giám rồi dự kỳ thi do triều đình tổ chức (gọi là Triều Khảo). Ai thi đậu hạng đầu sẽ làm quan bậc thất phẩm ở kinh đô, hạng nhì được cử làm Tri Huyện, hạng ba sẽ bổ làm Giáo Thụ tại các tỉnh. Những người thi rớt sẽ bị đuổi về, gọi là Phế Cống.

[33] Vào đời Minh, một Hộc là 50 lít.

[34] Ngài Đàm Vô Kiệt (dịch là Pháp Dũng), họ Lý, người xứ Hoàng Long, U Châu. Tu khổ hạnh từ lúc còn là sa-di, rất được thầy bạn trọng nể. Nghe chuyện ngài Pháp Hiển sang Thiên Trúc cầu pháp, Sư cũng lập thệ xả thân noi theo. Sư chiêu tập những người cùng chí hướng gồm 25 người như các vị Tăng Mãnh, Huyền Lãng v.v... sang Thiên Trúc vào năm Vĩnh Sơ nguyên niên (420) đời Lưu Tống. Sư và đồng bạn đi qua các nước Quy Tư, Sa Lặc, Thông Lãnh v.v... Sau khi vượt Tuyết Sơn, 12 người mất mạng. Sư đến được nước Kế Tân lễ bái bình bát của Phật, học tiếng Phạn, thỉnh được Quán Âm Thọ Ký Kinh, rồi sang xứ Nhục Chi lễ bái xương đỉnh đầu Phật, học giáo pháp Tam Thừa tại chùa Thạch Lưu ở phía Nam núi Đàn Đặc, thọ giới với đại sư Phật Đà Đa La (Giác Cứu). Khi sang Thiên Trúc, 8 người trong đoàn thị tịch, Sư gặp phải voi dữ và trâu hoang trong chuyến đi này. Sau khi đến được Nam Thiên Trúc, Sư mới theo thuyền trở về Quảng Châu. Không rõ Sư mất khi nào.

[35] Lý Thân (772-846), tự Công Thùy, là một thi nhân nổi tiếng giữa đời Đường. Ông là người Hào Châu (tỉnh An Huy). Cùng với Bạch Dị và Nguyên Chẩn, ông được tôn xưng là thủ lãnh của lối thơ Tân Nhạc Phủ. Ông từng làm quan đến chức Thượng Thư Hữu Bộc Xạ Môn Hạ Thị Lang, tước Triệu Quốc Công, hai lượt làm Tiết Độ Sứ. Hiện ông còn để lại những tác phẩm như Truy Tích Du Thi và Tạp Thi, nhưng nổi tiếng nhất là bài Mẫn Nông (thương nhà nông).

[36] Đạo Đầu là một bến thuyền ở Phổ Đà, cách đảo chừng 30m, có tên gọi đầy đủ là Đoản Cô Đạo Đầu, tức là gộp đá nơi dừng thuyền của chị em cô gái có kinh đã được nhắc đến trong lời chú thứ 10 của phần Ứng Hóa (2.4.1).

[37] Châu Thế Tông tên là Sài Vinh (921-959), do làm con nuôi của Quách Oai nên sử Trung Hoa thường gọi hắn là Quách Vinh. Y xuất thân từ một gia đình buôn trà, tánh tình quả cảm, tàn bạo, lắm thủ đoạn. Quách Oai lập ra nhà Hậu Châu chỉ làm vua được bốn năm rồi chết, Sài Vinh kế vị trở thành Châu Thế Tông. Với tham vọng mở rộng lãnh thổ, Sài Vinh tìm mọi cách có tiền và tận dụng kim loại để đúc vũ khí và tiền, nên đã hạ lệnh hủy diệt Phật giáo nhằm chiếm đoạt tượng đồng, chuông, khánh cũng như điền sản của nhà chùa để có phương tiện tiến hành chinh phạt, lấn chiếm lân quốc. Hắn ra lệnh nung chảy tượng Phật bằng đồng để đúc tiền Châu Nguyên Thông Bảo. Trong đại nạn Tam Vũ Nhất Tông Chi Nạn (nạn hủy diệt Phật giáo dưới thời ba vua Vũ và một vua Tông, tức Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Châu Vũ Đế, Đường Vũ Tông và Hậu Châu Thế Tông), Sài Vinh là người hủy diệt Phật giáo dữ dội nhất. Do đích thân cầm búa đập tượng Quán Âm, Sài Vinh bị ung loét ở ngực, lộ cả nội tạng ra, ngã bệnh trầm trọng trên đường vây hãm U Châu, đành phải rút lui, chết trên đường về, chỉ thọ 39 tuổi (tức là chỉ làm vua được 5 năm). Ngôi vua trao cho đứa con mới bảy tuổi là Sài Tông Huấn kế vị được vài tháng; rốt cuộc binh quyền bị Triệu Khuông Dẫn cướp sạch, lập ra nhà Bắc Tống, nhà Châu diệt vong!

[38] Chỉ người Hòa Lan hoặc Bồ Đào Nha. Khi ấy, Nhật Bản đã bị thực dân Tây Phương (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hòa Lan) ép Mạc Phủ (Bafuku: Chính quyền của đại tướng quân (shogun), giống kiểu chúa Trịnh ở Việt Nam) mở cửa giao thông, buôn bán với Tây Phương. Khi chưa chiếm được Trung Hoa, bọn thực dân Tây Phương thường xuất phát từ Nhật Bản tấn công các đảo dọc theo duyên hải miền Hoa Nam.

[39] Bạt (còn gọi là Não Bạt, Đồng Bạt, Đồng Bàn, Đồng Sát - cymbal), ta thường gọi là chập chõa hay chũm chọe, tức là một nhạc cụ giống như hai cái đĩa tròn hơi khum, ở giữa vun lên như hai cái bát, chính giữa có khoét lỗ để xỏ giây thành quai nắm. Khi đánh, người ta nắm hai giây quai, chập hai mép bạt vào nhau cho vang ra tiếng, hoặc chà xoay tròn hai mép bạt vào nhau để tạo từng hồi ngân dài (Cách này hầu như chỉ dùng trong các tự viện Chân Ngôn Tông Nhật Bản khi mở đầu lễ Hỏa Cúng). Tùy theo kích thước và vật liệu chế tạo mà có Tiểu Bạt (còn gọi là Tiểu Sát), Đại Bạt, Ngân Bạt v.v... Riêng trong các tự viện Phật giáo Trung Hoa, nhất là tại Đài Loan, trong khi tán tụng, thường dùng một loại não bạt nhỏ, thành mỏng, tiếng ngân không lớn lắm để đệm nhịp, gọi là Kha.

[40] Viên văn: Tánh Nghe viên thông.

[41] Ngô Đạo Tử (685-758) tên thật là Đạo Nguyên, Đạo Tử là tên tự, về sau đổi tên thành Đạo Huyền, là một họa sĩ trứ danh đời Đường, được tôn xưng là Đường Đại Họa Thánh (bậc thánh hội họa đời Đường).

[42] Ngài Thạch Sương được nói tới ở đây chính là ngài Khánh Chư, cao đồ của ngài Đạo Ngô, được nối pháp (pháp tự) của thầy, là sư huynh của ngài Tiệm Nguyên. Ngài Khánh Chư lập ra chùa Thạch Sương, nên người đương thời thường gọi Ngài là thiền sư Thạch Sương Khánh Chư. Truyền Đăng Lục chép truyện Tiệm Nguyên Trọng Hưng Thiền Sư rõ ràng hơn so với phần trích lục trong lời chú thích của cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, xin lược trích như sau: Khi ngài Tiệm Nguyên làm thị giả cho ngài Đạo Ngô, đến nhà một tín chủ điếu tang, ngài Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: “Sống ư? Chết ư?” Thầy đáp: “Sống cũng chẳng nói, mà chết cũng chẳng nói”. Tiệm Nguyên hỏi: “Vì sao chẳng nói?” Đạo Ngô đáp: “Chẳng nói, chẳng nói”. Về đến giữa đường, Tiệm Nguyên lại nói: “Hòa thượng hôm nay phải nói ra cho rõ đầu đuôi. Nếu không nói, con sẽ đánh hòa thượng”. Đạo Ngô nói: “Đánh thì cứ việc đánh, nói vẫn chẳng nói”. Tiệm Nguyên liền đánh thầy. Đạo Ngô trở về chùa bảo: “Ngươi phải rời nơi đây, chứ nếu thầy Tri Sự biết chuyện sẽ không tiện”. Tiệm Nguyên bèn từ biệt thầy ra đi, ẩn trong một ngôi chùa trong thôn. Sau khi nghe đồng tử tụng kinh Phổ Môn, tỉnh ngộ, bèn thắp hương hướng về phía thầy khấn: “Con thấu hiểu sâu xa lời thầy dạy, trọn chẳng vô cớ thốt ra. Chỉ vì con không hiểu nên trước kia oán thầy. Nay thầy đã khuất, chỉ còn Thạch Sương là đích tự, ắt con phải nhờ huynh ấy chứng minh”. Bèn qua chỗ ngài Thạch Sương, Thạch Sương trông thấy hỏi: “Sau khi lìa khỏi chỗ Đạo Ngô, ngươi đến chỗ nào?” Thưa: “Chỉ dừng chân trong chùa làng”. Thạch Sương nói: “Đã hiểu nhân duyên đánh thầy trước kia chưa?” Sư đứng dậy, thưa: “Xin hòa thượng ban một lời chuyển ngữ”. Thạch Sương nói: “Chẳng thấy đạo thì sống cũng chẳng nói, chết cũng chẳng nói”. Sư bèn kể lại nhân duyên đắc ngộ trong thôn, rồi lễ bái Thạch Sương, làm chay, sám hối.

[43] Xin đừng lầm vị này với ngài Hoàng Bá Hy Vận. Hoàng Bá Duy Thắng chính là Chân Giác thiền sư, quê ở Thụy Châu, là một trong những vị nối pháp của ngài Hoàng Long Huệ Nam, thuộc đời thứ 12 của tông Lâm Tế. Còn ngài Hoàng Bá Hy Vận (?-850) là người Phước Châu, thiền sư đời Đường là đệ tử của ngài Bách Trượng Hoài Hải, do trụ tại núi Hoàng Bá (huyện Nghi Phong, tỉnh Giang Tây), nên gọi kèm tên núi theo tên, là thầy của đại sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Ngài Hoàng Bá Hy Vận được coi là sáng tổ của tông Lâm Tế, tuy ngài Lâm Tế mới là người thật sự khai tông.

[44] Nguyên văn “hồ bính” (糊餅) là một món ăn vặt thường thấy tại một số địa phương thuộc Hoa Bắc như Bắc Kinh, Thiên Tân v.v... Người ta đem bột bắp pha nước sôi, thêm muối, bột nêm, ngũ vị hương, hành hoa, lòng đỏ trứng gà, trộn đều thành một dung dịch như người Việt làm bánh xèo, rồi đổ vào chảo đã tráng một lớp dầu mỏng để làm chín, bỏ thêm hẹ, tôm, mướp Tây (zucchini) vào, nhưng không cuộn lại như bánh xèo. Nói chung, Hồ Bính đổ dầy hơn và do bỏ đặc nghẹt mướp Tây và hẹ nên trông lổn ngổn, xù xì, thô tháp, không đẹp mắt, mịn màng và thanh cảnh như bánh xèo Việt Nam.

[45] Bộ sách này có tên đầy đủ là Bạch Vân Thảo Đường Kiên Cô Tập (Kiên Cô chứ không phải là Kiên Cố). Cô () có nghĩa là thư từ, tài liệu.

 

 

 

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích

Cảm Ứng Tụng

Quyển 3

觀世音菩薩本跡感應頌,

卷三

彭澤菩薩戒弟子許止淨述

Phần 2

Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn

Ấn Quang Đại Sư giám định

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang

 

2.4.6. Chứng quả

 

          1. Bèn có: Ưu Ba hệ niệm, thấy Bồ Tát bèn chứng Vô Sanh; Trừng Chiếu nương y, được chư thiên hộ vệ.

          2. Được sanh Đâu Suất, Từ Ân tay mắc tràng hoa. Ẩn nơi Hạ Lan, Vô Lậu thân thành kim sắc.

          3. Lợi Tân đêm ngủ trong kén, di tượng vẫn còn thiêng. Diệu Nghiêm ngói in vết lễ, dấu thơm càng linh dị.

          4. Vô Úy được xoa đầu thọ ký, hiện rộng rãi thần thông. Văn Tiệp chuyển Như Ý Chú luân, cũng thật nhiều kỳ tích.

          5. Ngồi quên suối tràn, Bích Phong được xưng là Phật sống; tụng chú đẩy lùi sóng biển, Hoằng Tế hiển từ tâm định.

          6. Quảng Ân ăn quả, trâu đắc giới, gà mổ hương. Huyền Lãng hiểu đạo, chim nghe kinh, vượn dâng bát.

          7. Trì kinh một quyển, Huệ Cung quả thật phước đức khó lường. Tụng chú ba năm, Chú Am gương trỗi vượt trời người.

          8. Tăng Thật cứu giảng đường sụp đổ, Trí Hiển dứt cuộc chiến Xuyên Nguyên.

          9. Chùa Quán Âm minh chú rành rành, viện Thánh Thọ đại bi danh trỗi.

10. Xưng danh chẳng ngớt, Tiềm Tử đạo cao soạn sách Đàm Tân; trì chú không ngơi, Tú Hằng quả vị đáng chứng La Hán.

11. Tiểu Tiên mộng được vời tới chốn hoa trắng, trúc tía. Linh Duệ vãng sanh Hải quốc Quang Minh Sơn.

Đấy chính là tín tâm trọn đủ, đã gieo nhân sâu từ đời trước, cho nên ngầm được Phật lực gia hộ, dần dần đạt được thánh quả. Đây chính là sự hoằng pháp thứ sáu của Đại Sĩ vậy.

 

          (1) Theo Thỉnh Quán Âm Kinh, trong thành Vương Xá có tỳ-kheo tên là Ưu Ba Tư Na bảo đại chúng: “Xưa kia, tôi sát sanh vô lượng, nghe chương cú sáu chữ của Quán Thế Âm Bồ Tát, hệ niệm một nơi, thấy Quán Thế Âm Bồ Tát liền được giải thoát, thành A La Hán”. La Hán (Arhat) dịch là Vô Sanh, nghĩa là Kiến Tư Hoặc hết sạch, không còn mang nhân thọ sanh trong tam giới nữa.

          Theo Linh Cảm Phú, luật sư Đạo Tuyên thời Đường thường tụng chú Đại Bi 108 biến, mộng thấy Đại Sĩ cởi y ca-sa trùm lên [thân Sư], phóng quang chóa mắt.

          Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, ngài Đạo Tuyên cảm được đồng tử cõi trời làm kẻ hầu thân cận. Con trai của thiên vương là Na Tra còn nói: “Ủng hộ hòa thượng lâu dài”. Trong niên hiệu Cảm Thông (860-874), triều đình truy tặng Sư thụy hiệu là Trừng Chiếu.

          (2) Theo Đường Tam Tạng Truyện, tượng Đại Sĩ ở Cô Sơn (Ấn Độ) oai thần đặc biệt. Thường có người cảm ứng, thấy Bồ Tát hiện thân. Cách tượng bảy bước có đặt lan can. Ngài Huyền Trang cầm tràng hoa, quỳ nguyện rằng: “Nếu con học thành tài, trở về nước được thì xin hoa này sẽ đậu trên bàn tay Ngài. Nếu được sanh về Đâu Suất thì hoa dính trên hai cánh tay. Nếu chúng sanh đều được thành Phật thì hoa mắc trên cổ Ngài”. Nguyện xong, tung hoa lên, đều được như lời nguyện.

          Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, ngài Vô Lậu cầu thấy Quán Âm. Quán Âm liền hóa thành một vị Tăng, bảo: “Ông có duyên với đất Đường, hễ gặp lan liền ở lại”. Sư bèn sang phương Đông, kết am tranh ở núi Hạ Lan[1][1]. Đường Túc Tông luyện binh tại Linh Vũ[2][2], nhiều lần mộng thấy người sắc vàng niệm Bảo Thắng Phật trước chỗ vua ngự, bèn vẽ hình sai người đi hỏi khắp nơi, kiếm được Sư. Quả nhiên Sư thường niệm Bảo Thắng Phật, vua sai Quách Tử Nghi đi trước, đón Sư vào chùa trong cung cúng dường.

          (3) Theo Cảm Thông Lục, đời Tấn, Lưu Tát Ha được cõi đời gọi là Lợi Tân Bồ Tát, hằng ngày thuyết pháp trên tháp cao. Đêm chui vào trong kén tằm tự ẩn nấp, đến sáng lại từ kén tằm chui ra, thoạt đầu chẳng ở trong nhà; vì thế cõi đời gọi Sư là Tô Hà Thánh. Trong tiếng Hồ, Tô Hà có nghĩa là “kén tằm”. Nay trong miếu có tượng Ngài đứng cực nghiêm trang, mỗi năm, tượng được đặt lên xe rước đi khắp thôn xóm. Nếu vẻ mặt tượng vui tươi thì trong thôn ấy ít có chết chóc. Nếu vẻ mặt thảm đạm thì trong thôn bị nhiều tai chướng.

          Theo Thần Viên Thức Dư, chùa Đàm Trá ở Bắc Kinh còn giữ phiến gạch in dấu tích lễ bái của công chúa Diệu Nghiêm nhà Nguyên. Hai vết bàn chân in sâu trên đó. Tương truyền, Diệu Nghiêm là con gái của Nguyên Thế Tổ[3][3], hằng ngày lễ Đại Sĩ, có nhiều chuyện linh dị trong thuở ấy.

          (4) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, ngài Thiện Vô Úy vào núi Kê Túc, được Quán Âm xoa đầu. Ngài trì chú đắc thần thông chẳng thể thuật trọn.

          Theo Mộng Khê Bút Đàm, đời Ngô, sư Văn Tiệp giới luật chuyên ròng, khắc khổ, những chuyện kỳ lạ cũng nhiều. Sư biết túc mạng, thường trì Như Ý Luân Chú, hễ tụng chú vào bình, nước lập tức trào ra. Sư cất giữ một viên xá-lợi, ngày đêm thường lăn trong bình lưu ly. Sư Văn Tiệp đi kinh hành nhiễu quanh [xá-lợi], đi nhanh thì xá-lợi chuyển động nhanh; đi chậm thì chuyển động cũng chậm. Nếu có ai xin [xá-lợi] đem đi thì lại tìm được viên khác trong tay bức tượng Quán Âm mà ngài Văn Tiệp đang thờ.

          (5) Theo Kê Cổ Lược, đời Minh, mẹ của thiền sư Kim Bích Phong có lần gặp vị Tăng trao tặng tượng Quán Âm, bảo: “Hãy thờ phụng cẩn thận thì trong đời này sẽ sanh được đứa con trai có trí huệ”. Về sau, Sư sang chơi Nga My, ngồi xếp bằng dưới cội cây to, nước suối trào dâng, bảy ngày sau nước mới rút, Sư vẫn ngồi như cũ. Sau này, Minh Thái Tổ đặt yên cơ đồ tại Kim Lăng (Nam Kinh), nơi nào Sư đặt chân đến đều giáo hóa [thì Phật pháp nơi đó] hưng thịnh chẳng khác gì thuở đức Phật tại thế.

          Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Nguyên, ngài Hoằng Tế thường tu Pháp Hoa Sám, cảm ứng linh dị. Năm Thái Định thứ hai (1325), bờ biển ở Diêm Quan (tỉnh Chiết Giang) bị hủy hoại, cư dân sợ bị [nước biển vùi lấp sẽ] biến thành cá, ba ba. Thừa Tướng Thoát Hoan xin ngài Hoằng Tế cầu đảo trước tượng Đại Sĩ ở chùa Thượng Thiên Trúc, lập trai hội Thủy Lục. Ngài Hoằng Tế nhập Từ Tâm tam-muội, lấy cát biển tụng thần chú Đại Bi, rải khắp nơi ấy. Dấu chân Sư đi đến đâu, bờ biển lại kiên cố như cũ, mọi người đều khâm kính Sư như thần.

          (6) Theo Giác Hổ Tập, thiền sư Quảng Ân bế môn, tuyệt thực, tụng chú Đại Bi. Khi ấy nhằm lúc tiết Đông rét dữ, đứa con nhà họ Hoắc tìm được hai quả đào trong đám cây hoang, tươi sạch đáng yêu, dâng cho Sư ăn. Từ đấy, Sư trì chú càng ứng nghiệm, lửa chẳng thể đốt, nước không thể chìm, kẻ tàn bạo chẳng thể hại được, đến mức gà mổ hương đem thắp, trâu thọ giới thuần phục, suối ngọt lại dâng đầy giếng cạn, một đấu gạo có thể cấp cho vạn người ăn. Có người phát tâm bố thí, nửa chừng đổi ý, trở về thấy bồ, sọt đầy ắp hoa sen, linh dị phi thường. Người ta gọi Sư là Bồ Tát.

          Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, sư Huyền Lãng lấy Bi Trí của Quán Âm để tự hướng dẫn, lễ tượng Quán Âm, cảm được ánh sáng ngũ sắc. Từ đấy vượn khỉ đến nâng bát, chim bay đến đậu lại nghe kinh. Sư sám hối cho con chó mù, hai mắt nó lại sáng.

          (7) Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, đời Tùy, trước lúc nhà Châu[4][4] phế pháp, ngài Huệ Cung đi hỏi đạo nơi vùng Kinh Dương. Bạn cùng chùa là Huệ Viễn sang Trường An nghe kinh. Hơn ba mươi năm sau, gặp lại nhau, ngài Huệ Viễn nói như suối trào, còn Huệ Cung trọn chẳng nói năng gì. Huệ Viễn nói: “Xa rời nhau nhiều năm như vậy, mừng có dịp gặp gỡ vui vẻ như thế này mà trọn không nói năng gì, thật sự đã đắc vô sở đắc đó chăng?” Huệ Cung nói: “Tôi chỉ tụng được một quyển Quán Thế Âm Kinh”. Huệ Viễn biến sắc, nói: “Kinh ấy thì đứa con nít nào cũng đều tụng được! Ông và Viễn lập thệ mong chứng đạo quả, há lẽ nào hơn ba mươi năm chỉ tụng một quyển kinh. Nếu không phải là ám độn, ắt là lười nhác, xin hãy đoạn giao!” Huệ Cung nói: “Quyển kinh tuy nhỏ nhưng do miệng Phật nói ra, tôn kính thì được vô lượng phước, khinh mạn sẽ mắc vô lượng tội. Xin hãy thôi giận, nghe tôi tụng một biến rồi sẽ chia tay nhau mãi mãi”.

Sư kết đàn, đảnh lễ, lên tòa, mở miệng đọc tựa đề kinh, mùi hương lạ thơm ngát khắp phòng ốc. Đến khi Sư đọc vào phần kinh văn, trên không trỗi nhạc, mưa xuống bốn thứ hoa, tiếng nhạc réo rắt rền vang hư không, hoa rơi phơi phới thơm ngát đất. Tụng xong, Sư xuống tòa, hoa và nhạc mới ngưng. Huệ Viễn đầu mặt sát chân đảnh lễ, tuôn nước mắt, cảm tạ: “Huệ Viễn là tử thi dơ thối mà dám đi dưới mặt trời, xin hãy cắm tích trượng dừng lại dạy dỗ”. Sư đáp: “Đấy chẳng phải là do khả năng của Cung mà là sức của chư Phật”, vái dài rồi đi.

          Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Thanh, Chú Am là người Dương Châu, lúc bé tánh tình thô lỗ, cục cằn, không giữ giới, bị vị Tăng chủ trì quở trách, phẫn hận muốn báo cừu, tính muốn tiềm tu để rửa thẹn, tụng chú Đại Bi nơi Tàng Kinh Các của ngôi chùa Sư đang trụ. Sư bế quan ba năm mới ra, thần thái khác hẳn, nhún mình, nhũn nhặn, chẳng thể suy lường Sư đã chứng đắc đến mức nào. Ngẫu nhiên, trong quán trà nghe khách mổ xẻ ý nghĩa kinh, vặn hỏi hết sức khó khăn, Sư cười bảo những lời bàn luận ấy đều có chỗ sai sót, rồi đọc ngay cuốn sách vừa được khách bàn luận. Vừa đọc, vừa giảng, lũ khách kinh hãi kiếp phục. Do vậy, Sư vang danh học rộng, hiểu sâu. Nếu có ai đem những cuốn tiểu thuyết hoa mỹ đến thử, Sư cũng ứng tiếng đọc ngay ra, mới biết là kinh điển nhà Phật hay sách vở thế tục, cửu lưu[5][5], bách gia[6][6], thậm chí tiểu thuyết, hết thảy văn tự không gì chẳng từng đọc qua, không gì chẳng thuộc lòng. Do vậy, sự thần dị được lưu truyền, Sư được gọi là “thánh tăng”. Khi ấy, Văn Đạt Công Nguyễn Nguyên nghe danh Sư, thử tài, Sư đối đáp lưu loát, Văn Đạt phải kinh ngạc, than thở, bảo: “Sở chứng vượt trỗi mức độ của một bậc thầy trời người”. Sư thấy tăng nhân vui chơi bèn than thở: “Tai hại sắp xảy đến rồi, lão tăng chẳng đành thấy. Các ngươi làm sao thoát được”. Sư thị tịch hơn một năm thì bọn giặc từ Quảng Đông[7][7] vây hãm Dương Châu.

          (8) Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, đời Châu, Tăng Thật mắt có hai tròng, nách có khối u hình trứng phượng, đạo cao đức trọng. Một hôm lên lầu gióng chuông, kêu tăng chúng hãy gấp dâng hương, bảo: “Trong thời khắc này, giảng đường chùa X... ở Giang Nam sắp xập, đè chết một ngàn người. Mọi người hãy cùng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để cứu họ”. Tiếng niệm Phật cùng lúc vang vọng khắp chùa. Về sau, tin từ Giang Nam báo tới cho biết ngày hôm ấy, tại giảng đường ở Dương Châu có một ngàn người nghe pháp, chợt nghe mùi hương lạ ngào ngạt và tiếng niệm tụng kinh văn theo cửa Bắc của giảng đường lọt vào, theo cửa Nam lọt ra. Mọi người kinh ngạc, bèn theo tiếng niệm đi ra, vừa kịp lúc giảng đường sụp xuống, không ai bị thương.

          Lại nữa, ngài Trí Hiển đời Đường thường niệm Quán Âm, hễ có ai bị khổ liền đến cứu. Cuối đời Tùy, vùng Xuyên Nguyên đánh nhau, ngài Trí Hiển đối trước chiến trận trì chú, đôi bên đều cùng rút lui.

          (9) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, sư Pháp Lãng tụng Quán Âm minh chú, nhiều lần tỏ lộ sự thần hiệu. Em gái Đường Cao Tông là Thành Dương Công Chúa bị bệnh ngặt nghèo, thuốc men vô hiệu. Vua vời Pháp Lãng lập đàn tụng chú, qua hôm sau, công chúa khỏi bệnh. Vua ban tiền, lụa, báu vật rất hậu. Pháp Lãng đối trước vua, đem những thứ ấy bố thí hết, vua bèn ban cho [ngôi chùa], đề hiệu là Quán Âm Tự để Sư ở.

          Lại nữa, vào đời Đường, sư Thần Trí trì chú Đại Bi. Sư tụng chú vào nước để cứu trăm loại bệnh tật. Người uống nước ấy phần nhiều lành bệnh. Hằng ngày Sư ban nước Đại Bi không đếm xuể, mọi người gọi Ngài là Đại Bi Hòa Thượng. Con gái của Tướng Quốc Bùi Hưu bị quỷ thần dựa, ngài Thần Trí trì chú bảy ngày liền bình phục. Tướng Quốc bèn tâu vua, xin ban biển đề “Đại Trung Thánh Thọ” cho ngôi chùa Sư đang ở.

          (10) Theo Tăng Bảo Truyện, đời Tống, ngài Khế Tung hiệu là Tiềm Tử đầu đội tượng Quán Âm, trì thánh hiệu Bồ Tát. Mỗi ngày niệm mười vạn tiếng, thấy Đại Sĩ rưới cam lộ. Từ đấy, chương cú trong kinh sách thế gian Sư không học mà thông hiểu. Sư soạn Thiền Môn Định Tổ Đồ, Truyền Pháp Chánh Tông Ký và Nguyên Giáo Luận. Tống Nhân Tông hâm mộ văn chương, đạo đức của Sư nên ban y tía và tặng danh hiệu Minh Giáo Thiền Sư. [Những bậc danh Nho thời ấy như] Hàn Kỳ, Âu Dương Tu đều tôn kính Sư. Sau khi Sư mất, trà-tỳ thì đỉnh đầu, tai, lưỡi, chỗ kín, xâu chuỗi đều không hư nát. Xương đỉnh đầu có xá-lợi, hồng, trắng, tinh sạch, hình như viên đậu lớn. Sư có bộ Đàm Tân Tập được lưu truyền trong cõi đời.

          Theo Giang Tây Thông Chí, vào đời Thanh, vị Tăng tên Hằng Tú tham học với ngài Vân Cư Hiển được khế nhập. Tuổi mới mười sáu mà đã ngồi lặng lẽ như cây khô, đi, dừng, ngồi, đứng, trong tâm chẳng quên trì chú Đại Bi và phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện. Một ngày nọ, Sư thấy hai đứa bé cầm tràng phan, cúi lạy nói: “Thượng sĩ trì Phật chú không ngừng, đáng chứng quả La Hán”. Sư bèn từ biệt đại chúng, niệm Phật viên tịch.

           (11) Theo Hoàng Vĩnh Tiểu Tiên Truyện, Tiểu Tiên là đứa hầu gái của Hoàng phu nhân vợ ông Đới Khê. Bà mẹ nằm mộng thấy nuốt một hạt xâu chuỗi bèn có mang [sanh ra Tiểu Tiên]. Khi Tiểu Tiên hơi lớn, giỏi thêu thùa, ưa sạch sẽ, xông hương, giặt áo không ngơi. Đến đêm, theo phu nhân chắp tay lễ Đại Sĩ, đóng cửa tịnh tọa trên gác, chẳng nghe nói năng gì. Chợt Tiểu Tiên ngã bệnh, bảo với người chung quanh: “Tôi mộng thấy có người cầm lệnh đến đòi, tha thướt lướt mây ra đi. Tôi nghĩ là người ấy ở trong chốn trúc tía, hoa trắng đấy chăng?” rồi mất.

          Theo Cao Tăng Truyện, tập 2, đời Đường, sư Linh Duệ trụ tại chùa Long Tịch. [Một hôm] trời chợt nổi trận gió to, có tiếng hô lớn: “Duệ pháp sư vào tháng Mười năm sau sẽ sanh về sườn Tây của núi Quang Minh trong Nam Hải Đại Quốc là chỗ của Quán Thế Âm Bồ Tát”. Đến kỳ hạn, thấy tràng phan, Bồ Tát đầy chùa. Linh Duệ nghiêm nét mặt, đứng qua đời, sừng sững không ngã. [Đại chúng] đỡ Sư về đặt nằm trong phòng, Sư chợt nhỏm dậy ngồi xếp bằng.

 

          1. Nhưng chưa mở huệ nhãn, khó ngăn hôn mê khi cách ấm, dẫu đắc thần thông, chưa khỏi mê mờ thuở lọt thai.

          2. Vì thế: Vân Môn, tăng sanh làm hoàng đế, Thảo Đường lại làm Tể Tướng.

          3. Ngũ Tổ đắm trong phận Học Sĩ, Đại Thành chuyển làm vị Trạng Nguyên.

          4. Bàn chuyện xuất thế cao xa, vẫn luân hồi như cũ.

          5. Do vậy, chưa hơn một kiếp, xương đã chất chật thành Phú La; cắt cỏ cây làm thẻ, khôn tính trọn số thân lãnh chịu.

          6. Thậm chí, buông lầm câu chuyển ngữ, đọa làm chồn hoang; chợt dấy động tà tâm, đắm chìm địa ngục!

          7. Do vậy, coi nhân thiên như quán trọ, xem ác đạo tựa nhà thường.

          8. Kể từ thời bảy vị Phật đến nay, vẫn mang thân kiến. Tám vạn kiếp sau, chưa thoát phận bồ câu. Kinh Niết Bàn dạy: “Nhất thất nhân thân, nan khả truy phục” (Hễ một phen đánh mất thân người, khó lòng có lại được). Nói, nghĩ tới đây, buồn đau chi xiết!(Từ đây trở đi là phần ca tụng phần quy kết của sự chứng quả trong việc hoằng pháp, gồm bốn đoạn. Đây là nối tiếp ý phần trên, ý nói: Người tu hành nếu tham Thiền tuy đắc trí huệ, nhưng chưa đoạn Kiến Tư phiền não, hoặc người tụng kinh, trì chú dẫu đắc thần thông nhưng chưa chứng La Hán sẽ khó thoát luân hồi. Chẳng thoát luân hồi thì dễ bị đọa lạc. Đấy thật sự là căn do vì sao Đại Sĩ phát tâm giữ lấy Tịnh Độ, độ người sanh về cõi tịnh vậy).

 

          (1) Theo tác phẩm Tịnh Độ Hoặc Vấn của ngài Thiên Như, trong Giáo có nói: “Thanh Văn ra khỏi thai bị mê muội, Bồ Tát còn hôn ám lúc cách ấm”.

Lại nữa, theo Tịnh Độ Thập Nghi Luận của ngài Trí Giả thì Sư Tử Giác Bồ Tát nguyện sanh lên trời Đâu Suất gặp ngài Di Lặc. Đến khi sanh lên trời, bị ngũ dục mê hoặc, trở thành quyến thuộc bên ngoài [8][8], trọn chẳng được thấy ngài Di Lặc.

          (2 & 3) Theo Vân Thê Hội Ngữ, [hậu thân của] Giới Thiền Sư là Tô Tử Chiêm (Tô Đông Pha), Thanh Thảo Đường trở thành Tăng Lỗ Công, Tốn trưởng lão trở thành quan Thị Lang họ Lý, Nam am chủ trở thành Trần Trung Tú, vị tăng Tri Tạng[9][9] trở thành Trương Văn Định, Nghiêm Thủ Tòa trở thành Vương Quy Linh, thậm chí ông Tăng núi Nhạn Đãng trở thành Tần Cối. Ngài Vân Môn ba lần [chuyển sanh] làm quốc vương bèn mất sạch thần thông. Giới thiền sư pháp danh là Sư Giới, trụ trì chùa Ngũ Tổ, nên mọi người gọi Sư là Ngũ Tổ Giới.

          Theo Tây Quy Trực Chỉ, cuối đời Minh, vị Tăng tên Đại Thành ở Ninh Ba tỉnh Chiết Giang, ôm bát đi xin cơm để cúng dường đại chúng. Trên đường đi ngang qua quán cơm nhà họ Sử, ông ta bèn dâng cơm đầy bát. Họ Sử không con; về sau, vợ chợt có thai. Lúc sanh con, họ đích thân thấy Đại Thành bước vào buồng ngủ. Sang chùa hỏi thì Đại Thành qua đời đúng hôm ấy. Do vậy, bèn đặt tên con là Đại Thành. Năm Ất Mùi (1655) đời Thuận Trị, [đứa con ấy] đỗ đầu thiên hạ.

          (5) Theo An Lạc Tập, kinh Niết Bàn có dạy là lấy cỏ cây trong cả tam thiên đại thiên thế giới cắt làm những cái thẻ dài bốn tấc dùng để đếm số lượng cha mẹ mà [một chúng sanh] đã đầu thai làm con trong một kiếp thì vẫn chẳng thể tự đếm hết. Kinh còn nói: Trong một kiếp, uống sữa mẹ còn nhiều hơn nước bốn đại hải. Kinh còn nói xương cốt nơi thân trong một kiếp đem chất lại sẽ [cao to] như núi Tỳ Phú La[10][10].

          (6) Theo Truyền Đăng Lục, đời Đường, hòa thượng Bách Trượng Hoài Hải thượng đường, có một cụ già theo đại chúng nghe pháp. Khi mọi người lui ra, ngài Bách Trượng hỏi cụ già là ai, [ông cụ] thưa: “Tôi không phải là người. Trong thời Ca Diếp Phật thuở quá khứ, tôi làm Tăng trụ tại núi này, người đến học hỏi ‘người tu hành có còn thuộc trong nhân quả hay không?’ Đáp: ‘Chẳng thuộc trong nhân quả’. Do vậy, trong năm trăm đời đọa làm thân chồn hoang, nay xin Hòa Thượng thay tôi nói một lời để xoay chuyển”. Ngài Bách Trượng bảo hôm sau, khi thượng đường, cụ già hãy nêu câu hỏi. [Ngày hôm sau, khi cụ già hỏi], Sư đáp: “Chẳng lầm nhân quả”. Cụ già đại ngộ, thưa: “Con đã thoát thân chồn, dám xin thầy theo lệ mai táng cho con như một vị Tăng đã mất”. Ngài Bách Trượng dẫn đại chúng ra sau núi, dùng trượng khều ra con chồn đã chết, đem hỏa táng.

Theo Lăng Nghiêm Kinh, tỳ-kheo Vô Văn đã chứng Tứ Thiền, xưng bừa là “ta đã chứng thánh”. Khi phước báo cõi trời đã hết, tướng suy hiện tiền, báng bổ A La Hán, nên phải tái sanh, đọa trong địa ngục A Tỳ.

(7) Trong An Lạc Tập có dẫn kinh nói chúng sanh đều lưu chuyển giống hệt như nhau, luôn ở trong tam ác đạo [nên gọi tam ác đạo] là “thường gia”, tạm sanh vào đường trời người rồi lại rời khỏi, cho nên gọi [cõi trời người] là “quán trọ”.

           (8) Trong Ngữ Lục của ngài Triệt Ngộ đời Thanh có hai câu này.

 

          1. Dẫu cho đã hiểu chắc bản lai diện mục, những gì huân tu trong đời trước chẳng lầm.

          2. Nhưng đoạn Kiến Hoặc như cắt đứt dòng nước rộng bốn mươi dặm, chứng Bất Thoái còn phải trải thời gian lâu một vạn kiếp.

          3. Như Khánh Hỷ đa văn, còn vướng dâm ma; Mục Liên thần thông, khó trốn nghiệp sát.

          4. Vạn năm khuyến hóa, Tu Bồ Đề đọa nhập độc long, nhiều kiếp tu hành, Xá Lợi Phất lui sụt vì kẻ xin mắt. Kinh Đại Tập dạy: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo” (Đời Mạt Pháp tu hành trong ức ức người hiếm có một kẻ đắc đạo) há phải nói sai ư? (Đoạn này ý nói dẫu chẳng mất thân người, quyết khó chứng Bất Thoái, nhằm bổ túc ý nghĩa cho đoạn văn phía trước để khuyên người hãy cầu sanh Tịnh Độ).

           

          (2) Triệt Ngộ Ngữ Lục: “Đoạn Kiến Hoặc giống như cắt đứt dòng chảy rộng bốn mươi dặm, huống là Tư Hoặc ư? Nếu Kiến Hoặc và Tư Hoặc còn tơ tóc nào chưa hết thì chẳng thể thoát lìa Phần Đoạn Sanh Tử được. Đấy gọi là ra khỏi tam giới theo chiều dọc, hết sức khó khăn”.

          An Lạc Tập: “Thân tu đạo liên tục chẳng ngừng, trải qua một vạn kiếp thì mới chứng địa vị Bất Thoái. Trong một kiếp, [số lần] thọ sanh còn chẳng thể biết nổi số, huống là trong vạn kiếp, oan uổng hứng chịu đau đớn, thiêu đốt. Nếu nguyện sanh Tịnh Độ, hoàn tất trong một đời, địa vị đạt đến Bất Thoái, ngang bằng công sức tu hành trong vạn kiếp. Chư Phật tử! Sao chẳng bỏ khó lấy dễ vậy?”

          (3) Lăng Nghiêm Kinh: “Nhĩ thời A Nan nhân khất thực thứ, kinh lịch dâm thất, tao đại huyễn thuật Ma Đăng Già nữ, dĩ Sa Tỳ Ca La Tiên Phạm Thiên Chú, nhiếp nhập dâm tịch. Dâm cung phủ ma, tương hủy giới thể” (Khi ấy, ngài A Nan do đi khất thực theo thứ tự, đi qua một nhà dâm nữ, gặp phải cô Ma Đăng Già có đại huyễn thuật, dùng chú Sa Tỳ Ca La Tiên Phạm Thiên lôi vào chỗ dâm, vuốt ve khêu gợi, gần như bị hủy giới thể). A Nan (Ānanda) dịch là Khánh Hỷ, là vị Đa Văn bậc nhất trong hàng đệ tử đức Phật.

Theo Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự, ngài Đại Mục Liên từng đi xét khắp địa ngục, xối trận mưa to, khiến những tội nhân đều được mát mẻ, thấy gã ngoại đạo X... chịu quả báo thân hình to lớn, năm trăm lưỡi cày bằng sắt cày lưỡi tuôn máu. Gã X... nói: “Nhân giả! Xin hãy báo với lũ đồ đệ của tôi rằng tôi nói tà pháp, đọa trong ngục Vô Gián. Họ cúng dường tháp của tôi thì tôi càng bị đau khổ dữ dội hơn”. Ngài Mục Liên [trở về dương gian] gặp đồ đệ của hắn ta nhắc lại lời ấy, ngoại đạo giận dữ nói: “Ngươi phỉ báng thầy ta!” dùng gậy đập ngài Mục Liên tan nát như đập lau lách. Ngài Mục Liên thần thông bậc nhất, do nghiệp đời trước đã chín muồi, ngay cả chữ Thần còn chẳng nhớ được, huống gì là phát khởi Thông! Ngài trở về lễ Phật, đọc kệ, rồi nhập Niết Bàn.

(4) Theo Soạn Tập Bách Duyên Kinh, đức Phật dạy: “Có vị tỳ-kheo thường hành khuyến hóa trong một vạn kiếp đem đến chỗ các tỳ-kheo cúng dường khắp các nơi. Ngẫu nhiên thốt lời ác, bảo ‘Tăng rất độc dữ, giống như rồng độc’ bèn đọa làm thân rồng độc suốt năm trăm đời. Nay [vị Tăng ấy] chính là Tu Bồ Đề. Do tập khí cũ nên nóng giận không ngớt, may gặp đức Thế Tôn, sám hối đắc đạo”.

Lại nữa, Mã Minh Bồ Tát tự kể ba đời hành Bồ Tát hạnh, bốn đời tu hạnh Nhẫn Nhục, sau năm trăm đời, do sanh sân hận bèn đọa làm thân rắn, chịu khổ sở to lớn.

Theo An Lạc Tập, ngài Xá Lợi Phất tu Bồ Tát hạnh đã sáu mươi kiếp, gặp phải nhân duyên có kẻ ác đến xin mắt mà liền bị thoái chuyển. Ngài Thiên Như nói: “Thân Tử [11][11] chứng lục tâm mà còn lui sụt, đọa trong ngũ đạo, huống gì kẻ tu hành lơ mơ ư?”

 

1. Ấy là vì sống trong đời ác Ngũ Trược, chẳng khỏi bị tám khổ nung tâm.

2. Thiều hoa[12][12] dễ qua, thường thương thân khỏe chẳng bằng người. Kiếm sống khó khăn, đói khát lại xua đuổi cái thân.

3. Đêm dài dằng dặc, Phật đạo đã khó nghe! Nghèo hèn, nhỏ nhoi, bệnh ma lại mặc sức tung hoành.

4. Phát tâm xuất thế, ắt bị người nhà chỉ trích; hỏi đạo, tham Thiền, thường bị ác hữu mù quáng dẫn dắt.

5. Chẳng có đường tắt tu hành, há khỏi ở mãi trong nhà lửa ư?

6. Ắt cũng thọ mạng vô lượng, lìa nỗi buồn đau già lụn, cơm áo tự nhiên, thoát khỏi lui tới mừng lo.

7. Pháp âm lưu truyền, tiếng mõ gỗ thường tuyên. Tướng hảo trang nghiêm, thể Kim Cang cùng trọn.

8. Chẳng nghe vòng xuyến, phạm đoạn nhiễm ô. Thường được un đúc, ở cùng thượng thiện.

9. Mãi lìa nhân tạo ác, tự đắc quả chứng chân. Như vậy thì chẳng quy về Tịnh Độ, thì còn quy về đâu nữa đây? (Đoạn này đem sự khổ trong cõi Sa Bà, sự vui trong cõi An Dưỡng để song song đối chiếu, nhằm dấy động lòng ham ưa [Cực Lạc] và chán ghét [Sa Bà] của con người. Dương Thứ Công nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà. Niệm chẳng nhất, chẳng sanh Cực Lạc”. Chán nhàm nhơ trược quả thật là căn bản để đoạn Ái. Ưa tịnh chính là phương tiện nhất niệm vậy).

     

(1) Ngũ Trược là Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Não Trược, Chúng Sanh Trược, Mạng Trược. Tám khổ là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ (khổ vì yêu thương mà phải chia lìa), oán tắng hội khổ (khổ vì oán ghét mà cứ phải gặp gỡ), cầu bất đắc khổ (khổ vì mong cầu chẳng được), và ngũ ấm xí thịnh khổ (khổ vì Ngũ Ấm lừng lẫy).

(2) Theo Tả Truyện, Chúc Chi Vũ nói: “Thần chi tráng dã, do bất như nhân” (Sức khỏe của thần vẫn chẳng bằng người khác). Sách ấy cũng chép Trịnh Trang Công nói: “Quả nhân có đứa em trai mà chẳng thể hòa thuận với nó được, khiến cho nó phải kiếm ăn khắp bốn phương”[13][13].

Đỗ Phủ có câu thơ: “Cơ lai khu ngã xuất môn khứ” (Đói đến đuổi ta ra khỏi cửa).

(3) Trong bài Phạn Ngưu Ca của Ninh Thích[14][14] có câu: “Trường dạ man man hà thời đán” (Đêm dài dằng dặc khi nào sáng).

Kinh Vô Lượng Thọ có câu: “Chư Phật kinh đạo nan đắc, nan văn” (Kinh đạo của chư Phật khó được, khó nghe).

(4) Kinh Thi: “Thất nhân giao biến trích ngã” (Người trong nhà cùng nhau chỉ trích ta). Trong bài Chứng Đạo Ca của ngài Vĩnh Gia có câu: “Tìm thầy hỏi đạo để tham thiền”.

(5) Thơ của ngài Thiện Đạo có câu: “Duy hữu kính lộ tu hành, đản niệm A Di Đà Phật” (Chỉ có đường tắt tu hành, chỉ niệm A Di Đà Phật).

(6) Theo Vô Lượng Thọ Kinh, Vô Lượng Thọ Phật thọ mạng trường cửu chẳng thể tính kể. Còn chúng Thanh Văn, Bồ Tát, trời, người thọ mạng dài hay ngắn cũng giống như thế.

Thơ của Nhạc Vũ Mục [15][15] có câu: “Thiếu tráng bất nỗ lực, lão đại đồ thương bi” (Trẻ mạnh chẳng gắng sức, già lụn luống bi thương).

Theo Vô Lượng Thọ Kinh, [trong cõi Cực Lạc] cung điện để ở, y phục, thức ăn, những vật trang nghiêm như các thứ hoa hương đẹp đẽ đều là những vật tự nhiên giống như trên Đệ Lục Thiên. Như khi ăn uống thì bát đựng bằng bảy báu, tự nhiên [hiện ra] ở trước mặt, thức ăn trăm vị tự nhiên đầy ắp [trong những bát ấy]. Lại nữa, trong cõi Vô Lượng Thọ, quần áo, thức ăn, hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, tràng phan, âm thanh vi diệu, nhà cửa để ở, cung điện, lầu, gác, xứng với hình sắc. Cao, thấp, lớn, nhỏ, hoặc bằng một thứ báu, hai thứ báu, cho đến vô lượng thứ báu, tùy theo lòng mong liền ngay lập tức xuất hiện.

Hóa Thực Truyện trong Sử Ký có câu: “Thiên hạ hy hy giai vị lợi lai, thiên hạ nhưỡng nhưỡng giai vị lợi vãng” (Thiên hạ hớn hở đều vì lợi đưa đến, thiên hạ nháo nhác đều vì lợi bị mất đi) [16][16].

(7) Theo Vô Lượng Thọ Kinh, gió nhẹ khẽ lùa, thổi qua các cây báu, diễn ra vô lượng tiếng pháp âm nhiệm mầu. Âm thanh ấy lưu truyền trọn khắp các cõi Phật. Người nghe âm thanh ấy đắc Pháp Nhẫn sâu.

Luận Ngữ: “Thiên tương dĩ phu tử vi mộc đạc” (Trời dùng phu tử làm cái mõ gỗ). Sách Châu Lễ chú giải [câu này như sau]: “Thuở xưa, khi sắp có vị quan cai trị mới, [các viên chức địa phương] ắt sắp sẵn mõ gỗ để [gõ lên] báo cho mọi người biết”.

Theo Vô Lượng Thọ Kinh, nguyện thứ ba [của A Di Đà Phật] là: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân, bất tất chân kim sắc giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật mà [thân thể của] trời người trong nước tôi chẳng đều có sắc vàng ròng thì chẳng giữ ngôi Chánh Giác). Nguyện thứ hai mươi mốt là: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân, bất tất thành mãn tam thập nhị đại nhân tướng giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật mà trời người trong nước chẳng đều thành tựu viên mãn ba mươi hai tướng đại nhân thì tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác).

(8) Theo Niết Bàn Kinh, cách vách nghe tiếng chuỗi ngọc, vòng, xuyến của nữ nhân, tâm sanh yêu đắm thì tịnh giới bèn bị phá hủy.

Trong Bồ Tát Giới Kinh, có những điều như phạm nhiễm ô, phi phạm nhiễm ô v.v...

Kinh Di Đà: “Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? Đắc dữ chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ” (Chúng sanh nghe rồi hãy nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy. Vì cớ sao vậy? Được ở cùng một chỗ với các vị thượng thiện nhân).

(9) [Trong Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận], ngài Diệu Hiệp viết: “Lục Tổ bảo: ‘Người Tây Phương tạo tội cầu sanh về cõi nào?’ Đấy chính là lời nói quyết liệt nhằm răn con người chớ nên tạo tội, chứ không phải là Tây Phương thật sự có kẻ tạo tội. Như Lục Tổ nói: ‘Tâm chẳng tịnh thì Phật chính là phàm phu’, há lẽ nào thật sự có vị Phật bất tịnh trở lại làm phàm phu ư?”

Hơn nữa, ngài Trí Giả đã so sánh giữa An Lạc và Đâu Suất như sau: “Thiên cung Đâu Suất không có nước chim, rừng cây, gió vang tiếng nhạc khiến cho người nghe niệm Phật, phát Bồ Đề tâm. [Trời Đâu Suất] lại có nữ nhân, tăng trưởng tâm ái dục, chẳng bằng Di Đà Tịnh Độ, có nước, chim, rừng cây, gió vang tiếng nhạc, khiến cho người ta niệm Phật, phát Bồ Đề tâm. Lại không có nữ nhân, Nhị Thừa, thuần nhất bạn lành Đại Thừa thanh tịnh. Vì thế, phiền não, ác nghiệp trọn chẳng dấy lên, bèn đạt đến địa vị Vô Sanh”.

 

1. Huống sanh về cõi tịnh không chi hơn An Lạc, cách tu giản dị chẳng gì vượt được trì danh.

2. Đã chẳng chọn lựa trí, ngu; lại chẳng nệ tu hành lâu, mới.

3. Nhất niệm tương ứng, tùy nguyện vãng sanh.

4. Phàm phu đới nghiệp, được vượt ngang lên thánh vị.

5. Quả thật là phương tiện thù thắng, lạ lùng của đức Như Lai, là tâm từ bi thấu xương của bậc Đại Sĩ.

6. Vì thế, thị hiện ở trong cõi này, cam lòng bụi bặm lấm thân, nhiếp thọ chúng sanh, nguyện buông dao đồ tể thành Phật.

7. Ấy là vì trước hết tạo gương cao đẹp, ngõ hòng nêu khuôn phép cho người sau.

8. Sáu môn trình bày theo thứ tự thuận, quả thật đã dung nhiếp lẫn nhau chẳng sót. Nẻo Niết Bàn duy nhất, nguyện vị lai không hề lầm lẫn (Đây là đoạn thừa tiếp tụng văn trong phần trước để ca tụng pháp môn Niệm Phật giản dị nhất, mà cũng viên đốn nhất. Vì thế Đại Sĩ hiện thân trong các cõi nhiều như vi trần, không gì chẳng nhằm lôi kéo người niệm Phật sanh về Tịnh Độ. Hai câu tụng tiếp đó là lời mào đầu giới thiệu chung sáu môn nhiếp độ chúng sanh. Ba môn đầu trong sáu môn ấy là nhân, ba môn sau là quả, nhưng nhân ắt phải có quả, quả ắt phải có nhân. Thật ra, sáu môn này chẳng thể tách rời, nhưng do lối hành văn phải theo thứ tự, nên thuận theo lệ ấy).

 

(1) Châu An Sĩ có viết về mười thứ cảnh thù thắng cõi Tây Phương, do văn từ rườm rà nên chẳng trích lục đầy đủ.

(2) Ngài Liên Trì có hai mươi câu Phổ Khuyến Niệm Phật[17][17], cũng chẳng dẫn trọn.

(3) Vô Lượng Thọ Kinh: “Chư hữu chúng sanh, văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, nãi chí nhất niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, tức đắc vãng sanh” (Chúng sanh trong các cõi nghe danh hiệu của Ngài, tín tâm, hoan hỷ, thậm chí chỉ trong một niệm, chí tâm hồi hướng nguyện sanh về cõi ấy, liền được vãng sanh).

(4) Theo phần Chín Phẩm Vãng Sanh trong Quán Kinh thì ba bậc Hạ đều là phàm phu tạo nghiệp, lúc lâm chung xưng danh hiệu Phật được sanh về cõi Phật.

Sách Tịnh Độ Hoặc Vấn dẫn một thí dụ từ kinh Na Tiên: “Đại thạch trí chư thuyền thượng, thạch bất một thủy” (Tảng đá to đặt lên trên thuyền thì đá chẳng chìm xuống nước). Đá ví như ác nghiệp, thuyền ví như Phật lực. Vì thế có thuyết “đới nghiệp vãng sanh”.

Theo Tỳ Bà Sa Luận của ngài Long Thọ thì tu hành có Nan Hành Đạo và Dị Hành Đạo: Như người thọt chân đi bộ, mỗi ngày chỉ đi được mấy dặm, đó là Tự Lực; còn Dị Hành Đạo giống như kẻ yếu ớt theo Chuyển Luân Vương, một ngày đi khắp bốn thiên hạ, đó là Tha Lực. Cậy vào Tự Lực là ra khỏi tam giới theo chiều dọc (thụ xuất), có nghĩa là từ Sơ Phát Tâm Trụ tu hành trọn một vạn kiếp, tu đến địa vị thứ sáu là Chánh Tâm Trụ, nếu càng thêm tăng tấn thì sẽ đạt đến địa vị thứ bảy là Bất Thoái Trụ. Cậy vào Tha Lực là thoát khỏi tam giới theo chiều ngang (hoành xuất), nghĩa là tin vào đại bi nguyện lực của A Di Đà Phật nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật liền phát Bồ Đề tâm, hành Niệm Phật tam-muội mà được vãng sanh.

(5) Theo Khởi Tín Luận, sơ học Bồ Tát trụ trong thế giới này, nếu gặp những cảnh khổ như lạnh, nóng, đói kém v.v... hoặc thấy chúng sanh bị tam độc trói buộc, quen hành ác pháp, tâm sanh khiếp nhược muốn lui sụt thì hãy nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng, chuyên niệm A Di Đà Phật, dùng các thiện căn hồi hướng nguyện được vãng sanh, quyết định được vãng sanh, thường thấy đức Phật ấy, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển.

Theo Thủ Hộ Quốc Giới Kinh, bi tâm của Bồ Tát như cắt da thịt, còn lòng đại bi của Như Lai thì khắc sâu đến cốt tủy.

(6) Theo Vô Lượng Thọ Kinh, hai vị Bồ Tát Quán Âm và Thế Chí thị hiện trong thế giới này nhiếp độ người niệm Phật sanh về cõi kia.

Theo Pháp Hoa Kinh, trưởng giả muốn dẫn dụ con mình, bèn mặc áo thô, xấu, dơ bẩn, bụi đất lấm thân.

Theo Niết Bàn Kinh, gã đồ tể Quảng Ngạch sẽ thành Chánh Giác trong Hiền Kiếp.

(7) Lăng Nghiêm Kinh: “Thử thị vi trần Phật, nhất lộ Niết Bàn môn” (Đây là con đường Niết Bàn duy nhất của các vị Phật số nhiều như vi trần). Kinh còn chép: “Lại nguyện gia bị đời vị lai, khiến cho đối với pháp môn này không sanh lầm lạc”.

 

2.5. Nhiếp độ chúng sanh

 

          Trong phần này, chia làm sáu đoạn:

          1. Chí thành.

          2. Tin sâu.

          3. Phát nguyện.

          4. Đạt được sự linh nghiệm.

          5. Tiếp dẫn.

          6. Ứng hiện tướng lành.

          Ba phần đầu vốn xuất phát từ Quán Kinh, nhưng Chánh Trực Tâm, Thâm Trọng Tâm, Đại Bi Tâm như Khởi Tín Luận đã nói hoàn toàn giống như ba điều này (đây là dựa theo bản dịch đời Đường).

 

2.5.1 Chí thành

 

          1. Bèn có tu tập Đại Bi Định, Pháp Tông chín năm trải lòng Thành; tu khổ hạnh, đốt tay, Minh Chứng ba năm không ngủ.

          2. Xỉ Diên tinh tấn, trong mộng nghe tiếng tụng niệm vang vang, Nguyên Lễ chánh quán, dứt bặt tướng huyền công [18][18] cuồn cuộn.

          3. Tôn Lương hai mươi năm, nhật khóa niệm Phật vạn câu; Tư Chiếu ba mươi năm, thường hệ niệm Tam Thánh.

          4. Tả Thân tạo tượng, mộng cảm người to lớn. Tống Mãn bày cỗ chay, hóa Phật vọt lên không.

          5. Lễ Phật hơn trăm vạn lạy, Tùng Nhã lòng thành tha thiết. Trích huyết hai mươi bảy năm, Tổ Nam xương cốt khô khao.

          6. Ông Ngô đốt tay viết bốn chữ cầu sanh; bà Liễu cắt tay, đắc tam nghiệp thanh tịnh.

          7. Phát tâm đốt tay, thân Vạn Dật nhanh chóng rỗng không; vẽ tượng, chép kinh, máu Thản Như rốt cuộc khô cạn.

          8. Hoằng Đạo sáu thời, tưởng thành tịnh cảnh; Nhất Tâm trăm lạy, khi mất hiện tường quang.

          9. Thành tâm sám hối, Diệu Đức chỉ ứa lệ, không nói; bày tượng, quán tưởng, vợ Tây Ấn nhịn ăn để đợi.

          10. Dùng máu vẽ ngàn bức Tam Thánh, trinh nữ ao báu hóa sanh; uống nước bốn mươi ngày, Châu Thị sen vàng thân gởi.

          11. Khen Khương Tư tinh tấn, sớm đoạn ân tình; ngợi Quảng Châu viết, trì, càng tròn hiếu đễ.

          12. Ấy đều là nghe danh hiệu bèn bi hỷ, có lòng Thành lông dựng, lệ trào. Thề thoát tử sanh, ôm lòng kinh sợ vực sâu, băng mỏng.

          13. Chẳng trái phạm oai nghi, công đức vô lượng.

          14. Vĩnh viễn chẳng có tướng trạng cong quẹo thì trên sẽ xuất ly giống hệt Như Lai, chết sạch tấm lòng chụp giật, nên được Bồ Tát tiếp dẫn. Đấy chính là sự nhiếp thọ chúng sanh thứ nhất của Bồ Tát vậy.

 

          (1) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đời Tống, sư Pháp Tông tu Đại Bi tam-muội suốt chín năm, hễ có cầu nguyện gì đều ứng nghiệm. Sư bèn lập đạo tràng Tịnh Độ, khắc thánh tượng Tây Phương Tam Thánh, đốt năm ngón tay cúng Phật. Sư bị bệnh nhẹ, mộng thấy Tam Thánh đến đón, bèn tắm gội, thay áo, qua đời.

          Lại nữa, vào đời Minh, ngài Minh Chứng ở Cối Kê gặp vị Tăng lông mày che mắt dạy trước hết hãy hành khổ hạnh. Ngài Minh Chứng ngày học chú Lăng Nghiêm, chỉ tụng một chữ, đêm lễ Quán Âm đến tận sáng, chẳng ngủ. Ba năm tụng chú xong, thân như được thay xương, túc huệ liền mở mang.

          (2) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Trương Xỉ Diên hằng ngày trì chú Đại Bi và Phật hiệu, hồi hướng vãng sanh Tây Phương, chép phẩm Phổ Môn, khắc in, bố thí. Mộng nuốt đóa hoa sen, càng thêm tinh tấn, phát nguyện tụng phẩm Phổ Môn một vạn hai ngàn biến. Dẫu trong lúc ngủ say, tiếng tụng vẫn sang sảng. Chợt đàm trào lên nghẹt họng, tay giơ lên lần xâu chuỗi, mắt trợn ngược qua đời.

Lại nữa, vào đời Thanh, cha mẹ Phạm Nguyên Lễ bị bệnh, ông đều cắt đùi [nấu cháo dâng lên]. Trước kia, ông học phép Đạo Dẫn[19][19], về sau chuyên tâm nơi Tịnh Độ, càng tinh tấn quán tưởng, từng khuyên mẹ hãy tưởng Quán Âm. Lúc lâm chung, mẹ nói: “Bồ Tát đến tiếp dẫn ta tới chốn thắng diệu”. Nguyên Lễ bèn lập kỳ hạn niệm Phật một trăm ngày cho mẹ. Trong khi chỉ tịnh, mộng thấy huyền công thuở trẻ chợt hiện, cảm thấy khí của trời đất cuồn cuộn rót vào miệng mũi, hòa hợp cùng nguyên khí [của bản thân], khinh an chẳng thể nào diễn tả, ví dụ được! Lại có đứa bé cao mấy tấc ra vào trên đỉnh đầu, [Nguyên Lễ] bèn thời thời giác chiếu, cảnh ma bèn diệt. Ông lại khuyên bà cụ Trầm niệm Phật được sanh về Tây Phương, chính ông ta cũng tự biết trước lúc mất, niệm Phật qua đời.

          (3) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Tôn Lương thọ Bồ Tát giới, hằng ngày công khóa niệm Phật một vạn tiếng, suốt hai mươi năm chẳng thiếu sót. Lâm chung, ông chắp tay hướng lên không trung, nói: “Thế Tôn, Bồ Tát đã rủ lòng giáng lâm” rồi ngồi qua đời.

          Lại nữa, vào đời Tống, ngài Tư Chiếu trích huyết chép kinh Pháp Hoa, tu Niệm Phật tam-muội, khắc tượng Tam Thánh. Canh tư liền dậy bắt đầu niệm Phật, hệ niệm Tam Thánh suốt ba mươi năm. Một hôm, Sư bảo với đồ đệ: “Đêm qua thầy mộng thấy Tam Thánh đến, kim thân trượng sáu. Đấy chính là điềm vãng sanh vậy”. Sư xướng niệm Phật hiệu, qua đời.

          (4) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Tả Thân vâng giữ giới luật nghiêm nhặt, tạo tượng Tam Thánh, sáng tối kiền thành lễ tụng cầu sanh Tịnh Độ, tụng được ba ngàn bốn trăm bộ Pháp Hoa. Ông mộng thấy ba người to lớn đứng trên bờ sông, gọi Tả Thân lên thuyền, chớp mắt đến phương Tây. Ông Thân biết là đã có phần vãng sanh; về sau, thấy Phật quang bèn qua đời.

          Lại nữa, đời Tùy, Tống Mãn niệm Phật dùng hạt đậu để nhớ số, niệm được cả ba mươi thạch. Sắp đặt cỗ chay cúng Phật, Tam Thánh hóa làm ba vị Tăng đến khất thực, ăn xong, hương hoa đầy khắp không trung, bay vọt lên không đi mất. Không lâu sau, ông Mãn ngồi hướng mặt về phía Tây, qua đời.

          (5) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, Tùng Nhã lễ Phật Thích Ca ba mươi vạn lạy, lễ Phật Di Đà một trăm vạn lạy, niệm Phật hiệu năm ngàn vạn câu, mong sanh về Tịnh Độ. Lúc mất, nhạc trời rộn rã hư không, trong nhà có mùi hương lạ, Tam Thánh đến đón.

          Lại nữa, vào đời Tống, Tổ Nam trích huyết chép năm trăm quyển kinh Di Đà, một trăm quyển kinh Kim Cang, mười bộ Pháp Hoa, dâng máu để chép kinh suốt hai mươi bảy năm, máu khô, xương mòn, niệm Phật không dứt. Một hôm ngồi xếp bằng, Tam Thánh đến đón bèn qua đời.

          (6) Theo Thánh Hiền Lục, đời Thanh, Ngô Doãn Thăng do niệm Phật, trì chú Đại Bi nên té xuống nước, được cứu thoát, càng tinh tấn, đốt hương trên cánh tay thành bốn chữ “cầu sanh Tây Phương”. Ông mở hội Niệm Phật, khuyến hóa thật đông; xây mới điện Tây Phương và tạo tượng trượng sáu, cảm Thế Chí Bồ Tát phóng quang. Lâm chung, ông Ngô thấy vô số Bồ Tát kinh hành trước mặt bèn qua đời.

          Theo Nhân Quả Thực Lục, Lâm Tự Lân sống lại, kể: “Có thiện nữ nhân là Liễu Thị mất đi, đến cõi Âm, Diêm Vương tra sổ, bảo: ‘Cắt thịt bắp tay cứu mẹ chồng, bố thí, trai tăng, tu bổ cầu đường, làm những điều lành cực nhiều. Thân khẩu ý nghiệp không phạm lỗi mảy may, thường niệm phẩm Phổ Môn, ăn chay theo Quán Âm Trai hơn năm mươi năm. Người này đáng sanh về Tây Phương Tịnh Độ, thỉnh kim đồng, ngọc nữ, tràng phan, lọng báu đưa về Tây Phương. Bổn ty cũng sắp đặt âm nhạc, hương hoa, chim tiên theo hộ tống”.

          (7) Theo Thánh Hiền Lục, đời Thanh, Tiền Vạn Dật có một đứa con mắc bệnh lao, khuyên con niệm Phật qua đời. Lại khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật, chính ông ta bị ho ra máu, niệm Phật càng thêm khẩn thiết, suốt đêm không ngủ. Người khác hỏi: “Có mệt nhọc hay không?” Ông nói: “Không ngủ được càng có lợi, niệm Phật được nhiều hơn”. Chợt thần thức bị mê loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, bảo [người nhà] đốt ngón tay. Người họ hàng là Tạ Phong Ngô bảo: “Ông đã phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay, chẳng bằng dốc một lòng hướng về Tây Phương!” Ông Tiền liền dũng mãnh niệm Phật, thần chí an định. Lại được những người trợ duyên suốt mấy ngày đêm niệm Phật liên tục. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh, quang minh, tướng hảo, đứng trước mặt, toan tung mình lên kim đài thì [Tam Thánh] bảo: “Thân ông chưa sạch”. Ông Tiền liền dùng nước thơm tắm gội, Tam Thánh lại hiện ra như trước. Ông Tiền nói: “Thần thức tôi đã qua nơi Tịnh Độ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, vui sướng chẳng thể nào diễn tả được!” Lại chỉ vào thân bảo: “Đây chẳng phải là thân ta” rồi qua đời.

          Lại nữa, vào đời Minh, Cố Thản Như quy y ngài Liên Trì, thọ Bồ Tát Giới. Mẹ bị bệnh, thuốc men vô hiệu, ông bèn niệm danh hiệu Quán Âm, mẹ được lành bệnh. Mười hai năm sau, mẹ lại ngã bệnh, cắt đùi [nấu cháo dâng lên mẹ] vẫn không chữa được, ông bèn ăn chay, trích máu chép các kinh Viên Giác, Pháp Hoa, Thập Lục Quán, Kim Cang, Báo Ân v.v... Lại vẽ tượng Phật, tượng Quán Âm bằng máu, thảy đều tinh diệu. Lâu sau, máu khô cạn, ông bèn tắm gội, thay áo, qua đời.

          (8) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, vào đời Minh, sư Hoằng Đạo tham Thiền thấu triệt, sáu thời lễ tượng Đại Sĩ, cầu sanh Tịnh Độ. Sư thị hiện mắc bệnh, bảo đồ đệ: “[Thấu hiểu] tâm cảnh chẳng thể đắc thì có thể quán dơ là sạch, chẳng trở ngại duyên sanh, tưởng thành, tướng khởi, duy sắc, duy tâm, cho nên hiển hiện ngay tại nơi ấy. Ta tu Niệm Phật tam-muội, hãy nên lấy pháp này làm chuẩn tắc”. Nói xong, qua đời.

          Lại nữa, vào đời Thanh, ngài Nhất Tâm dốc chí tu Tịnh nghiệp, lễ Di Đà, Quán Âm, mỗi ngày một trăm lạy suốt hai mươi bảy năm như thế. Sư thị hiện bị bệnh, bảo đệ tử: “Đã gần đến ngày ta sanh về Tịnh Độ”. Sau đấy, ở phương Tây hiện ánh sáng tốt lành, Sư bèn qua đời.

          (9) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, bà Châu Diệu Đức ăn chay trường, niệm Phật, hết sức nghèo khó, thiếu ăn, tụng chú Đại Bi thay cho người ta để đổi lấy tiền sống qua ngày. Khi bệnh ngặt nghèo, cô em họ là Lập Đức đến thăm, bảo: “Người ta nói chị tinh tấn, chứ tôi nói là tâm chị vẫn chưa tha thiết”. Bà Châu ứa lệ, sám hối. Từ đấy trở đi, ai hỏi đến đều chẳng đáp, tay chỉ chắp lại, chảy nước mắt. Đến nửa đêm, bà chợt cười bảo: “Tam Thánh đến rồi!” Niệm Phật mấy chục câu rồi tịch.

          Theo Linh Cảm Phú, vào đời Minh, Thích Tây Ấn, họ ngoài đời là Lưu, vợ ông ta chuyên niệm Quán Âm, bày tượng quán tưởng, nhịn ăn để đợi, cả nhà thấy ánh sáng trắng chiếu ngời trong phòng, bà ta an nhiên qua đời.

          (10) Theo Linh Cảm Phú, vào đời Tống, trinh nữ Tịnh Tâm ở Tứ Minh trích huyết vẽ tượng Tam Thánh trên tấm ván bằng gỗ cây La cả ngàn bản để tặng cho người khác, và đề rằng: “Nguyện tịnh nghiệp đã tu mau được thành tựu, hóa sanh trong ao sen”. Về sau, cô ta được Phật đến đón bèn qua đời.

          Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Châu Thị trì danh hiệu Phật suốt ba mươi năm. Về sau nhịn ăn, uống nước suốt bốn mươi ngày, mộng thấy ba vị tỳ-kheo tay cầm hoa sen, bảo: “Trước đây, ta đã vì ngươi trồng hoa này, nay nó sắp nở, nên đến đón tiếp ngươi”. Bà Châu bèn niệm Phật qua đời.

           (11) Theo Linh Cảm Phú, vào đời Thanh, Ngô Khương Tư là vợ của ông Tào, hiếu thảo với bố mẹ chồng. Năm ba mươi mấy tuổi, vợ chồng ngủ riêng, tụng kinh, ấn tống, tinh tấn mấy chục năm. Chợt thấy Tam Thánh đến đón, phan, lọng, hoa, hương, thiên nhạc đầy khắp, theo Phật vãng sanh.

          Lại nữa, Hạng Quảng Châu ở Thái Thương, trai giới thờ Phật, lễ các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, chép Vô Lượng Thọ Kinh, phẩm Phổ Môn, trai tăng, bố thí, càng dốc lòng hiếu đễ. Xâu chuỗi chẳng rời tay. Về sau, thấy hai đứa bé đến đón, bèn niệm Phật qua đời.

          (12) Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Giác Kinh: “Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn ngã thuyết Tịnh Độ pháp môn, tâm sanh bi hỷ, thân mao vi thụ giả, đương tri thử nhân, quá khứ túc mạng, dĩ tác Phật đạo dã” (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe ta nói pháp môn Tịnh Độ, mà tâm sanh bi hỷ, lông trên thân dựng cả lên thì hãy nên biết là người ấy trong đời quá khứ đã từng tu Phật đạo).

          Đại A Di Đà Kinh dịch là: “Văn A Di Đà Phật danh hiệu công đức, từ tâm hỷ duyệt, chí ý thanh tịnh, mao phát tủng nhiên, lệ tức xuất giả, giai tiền thế thường hành Phật đạo, hoặc tha phương Phật sở thường vi Bồ Tát, cố phi phàm nhân” (Ai nghe danh hiệu, công đức của A Di Đà Phật mà sanh lòng Từ, vui sướng, chí ý thanh tịnh, lông tóc dựng đứng, trào nước mắt thì đều là trong đời trước đã từng tu Phật đạo, hoặc thường là Bồ Tát trong các cõi Phật nơi phương khác. Vì thế, chẳng phải là phàm nhân).

          Luận Ngữ: “Như lâm thâm uyên, như lý bạc băng” (Như vào vực sâu, như dẫm trên băng mỏng).

          (13) Phẩm Nhập Pháp Giới kinh Hoa Nghiêm có câu: “Như chư Bồ Tát, dữ thành nguyện ngữ, hành chỉ vô vi, vô lượng công đức nhân chi xuất sanh” (Nếu các Bồ Tát, thệ nguyện, lời nói chân thành, xử sự không trái phạm thì vô lượng công đức sẽ do đấy mà phát sanh).

          (14) Lăng Nghiêm Kinh: “Thập phương Như Lai đồng nhất đạo cố, xuất ly sanh tử, giai dĩ trực tâm, tâm ngôn trực cố. Như thị nãi chí chung thỉ địa vị, trung gian vĩnh vô chư ủy khúc tướng” (Mười phương Như Lai do cùng một đạo này mà thoát lìa sanh tử, đều do tâm thẳng thắn mà tâm và lời lẽ ngay thẳng. Như vậy từ địa vị ban đầu cho đến [khi chứng đắc] địa vị cuối cùng, trong thời gian ấy không có các tướng trạng ngoắt ngoéo).

          Di Đà Yếu Giải: “Tử tận thâu tâm, bảo thử nhất hạnh” (Chết sạch cái tâm chụp giật, trân quý một hạnh này).

 

2.5.2. Tin sâu

 

          1. Bèn có: Cùng trụ Thật Tế, Từ Vân thỉnh Phật chứng minh; mười niệm thành công, Minh Chiêm chẳng buồn trễ tràng, già lụn.

          2. Mông Nhuận hết bệnh, chuyên tu Tam Muội bảo vương; Vĩnh Minh được ban biện tài, quyết định vạn người tu vạn người sanh.

          3. Huệ Hanh soạn kệ, giữ quyết tâm nhất định vãng sanh; Dụng Khâm dạy người, làm chuyện tột cùng của hàng xuất gia.

          4. Niệm Phật chẳng tiếc thân mạng, đứa nhỏ đáng khen; Tịnh Độ chỉ ở cạnh nhà, được thấy Ông Nhi.

          5. Tùy tài nghệ Nhụ Nhân[20][20], buông tay liền đi được; trừ nghi cho đệ tử, phơi ngực hòng chứng nghiệm.

          6. Tiết phụ lành bệnh càng thêm kiền thành; bà mẹ mù được sáng mắt, càng thêm siêng gắng.

          7. Mậu Sư nhất định canh tư ra về; thiện nữ quyết đi trong hôm Trùng Cửu.

          8. Vợ ông Cố trong biển khổ, mừng ba ngày sẽ thoát trần gian, cô họ Vương thân bệnh tật, Phật đến đón trước một tháng.

          9. Nhạn bay mất, ảnh chìm lỉm, đi vốn chẳng phải đi; thần hồn rời, ánh sáng rọi, sanh ắt quyết định sanh.

          10. Ấy là vì tịnh niệm tiếp nối, trọn không lúc nào gián đoạn. Vì thế, kiếp hỏa rỗng rang, đạt thẳng đến cõi trang nghiêm.

          11. Bèn có Huệ Diên cầu chỉ dạy, cảm đại sư từ phương Tây tới; bà Trương hoài nghi, chỉ chỗ người nhà thọ sanh.

          12. Chẳng những tự tin vào đời trước, lại còn răn người trong thân sau.

          13. Thậm chí như Hùng Tuấn tạo tội, rốt cuộc đạt được bảo đài; Duy Cung chuộng rượu, kỹ nhạc đưa đến.

          14. Tuy xú phụ[21][21] chẳng thể bắt chước nhíu mày, càng thấy rõ tâm tin thì có thể thành Phật. Vì thế kinh Đại Bi dạy: “Duy trừ nghi giả, tùy nguyện vãng sanh” (Chỉ trừ những kẻ nghi ngờ, [những ai có lòngtin] đều tùy nguyện vãng sanh). Đây chính là sự nhiếp sanh thứ hai của Đại Sĩ vậy.

         

          (1) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đời Tống, sư Tuân Thức được vua ban hiệu Từ Vân, thấy được Quán Âm rưới cam lộ, trí huệ, biện tài vô ngại. Lâm chung, Sư thỉnh tượng Quán Âm, đốt hương, nguyện rằng: “Con quán Quán Thế Âm, tiền tế chẳng đến, hậu tế[22][22] chẳng đi.Mười phương chư Phật cùng trụ Thật Tế, nguyện nhận nén hương của con, chư Phật chứng minh, vãng sanh An Dưỡng”. Có kẻ hỏi Sư đi về đâu, Sư đáp: “Tịch Quang Tịnh Độ”.

          Lại nữa, đời Đường, ngài Minh Chiêm trong niên hiệu Trinh Quán (627-649), vào cung vua, ngồi lên giường ngự, bàn luận rộng rãi cách cai trị của bậc minh quân, trước hết phải chú trọng dùng lòng Từ che chở dân chúng. Thái Tông vui thích, hạ chiếu truyền khắp thiên hạ mỗi năm ba tháng sáu ngày ngưng giết mổ. Tuổi già, Sư tu Tịnh nghiệp. Nếu có kẻ gièm chê là chậm trễ, già cả, ngài Minh Chiêm đáp: “Mười niệm thành công còn được thấy Phật, tôi còn lo gì nữa?” Lâm chung, Sư bảo: “Phật đến”, lại bảo: “Hai vị Bồ Tát đến. Ta thành tựu pháp quán thứ 12 trong Quán Kinh, nay thấy tướng lành sẽ ra đi vậy”.

          (2) Theo Thánh Hiền Lục, đời Nguyên, ngài Mông Nhuận xuất gia, lễ tượng thần Già Lam, tượng đều bị đổ. Ngài khổ công tu học đến nỗi ngã bệnh, tu tập Thỉnh Quán Âm Sám[23][23] được ứng nghiệm, lành bệnh, tâm sáng suốt, nhạy bén bội phần. Ngài tu Đại Bi Sám cũng được điềm lành ứng nghiệm. Về sau, Sư chuyên tu Niệm Phật tam-muội, biết trước lúc mất, niệm danh hiệu Phật qua đời.

          Lại nữa, đời Tống, thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ kiêm tu Thiền - Tịnh. Trong Định, Tổ thấy được Quán Âm rưới cam lộ vào miệng, bèn đắc đại biện tài, soạn bài Tứ Liệu Giản, có câu: “Không Thiền, có Tịnh Độ, vạn người tu, vạn về; chỉ được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ”.

           (3) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, sư Huệ Hanh dựng gác báu, lập tượng Tam Thánh, được xưng tụng là thù thắng đặc biệt nhất. Có Giang Tự Nhậm mộng thấy tòa báu từ trên hư không hạ xuống, vang ra tiếng: “Hanh luật sư hãy nên lên tòa này”. Lâm chung, Sư đọc kệ: “Di Đà khẩu khẩu xưng, bạch hào niệm niệm tưởng, trì thử bất thoái tâm, quyết định sanh An Dưỡng” (Di Đà miệng luôn niệm, bạch hào tâm thường tưởng, giữ tâm bất thoái ấy, quyết định sanh An Dưỡng).

          Lại nữa, trong đời Tống, sư Dụng Khâm theo ngài Đại Trí học Luật, nghe ngài Đại Trí dạy đại chúng rằng: “Lúc sống hoằng dương Tỳ Ni [24][24], lúc mất về An Dưỡng, xuất gia học đạo, phải thành tựu được việc này”. Sư liền dốc lòng nơi Tịnh Độ, hằng ngày công khóa niệm Phật ba vạn tiếng. Thần thức Sư thường ngao du Tịnh Độ, thấy Phật và Đại Sĩ, các thứ tướng lạ, nói: “Ngày mai ta sẽ đi”. [Hôm sau], Sư chắp tay hướng về Tây qua đời.

          (4) Theo Thánh Hiền Lục, đời Minh, Tôn Thúc Tử dứt ăn mặn, niệm Phật siêng khổ, chẳng tiếc thân mạng. Chợt thấy hai vị tỳ-kheo cầm hoa sen đứng trước mặt, nói: “Bé con lành thay! Nhất tâm nơi Tịnh Độ”. Ông lại thấy có người hóa hiện, tụng kinh Kim Cang, giật mình, ngồi dậy nói: “Di Đà, Quán Âm đều đến đón ta”, liền tịch.

          Lại nữa, vào đời Thạch Tấn, Trương Kháng làm quan đến chức Hàn Lâm Học Sĩ, công khóa tụng chú Đại Bi mười vạn biến, cầu sanh Tây Phương. Ông ta bị bệnh, bảo mọi người: “Tây Phương Tịnh Độ chỉ tại phía Tây của căn nhà này, Ông Nhi đang lễ bái, vui chơi trên cát vàng bên ao sen”. Ông Nhi là cháu nội của Trương Kháng, đã chết sớm.

          (5) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Trương Trật Tư, vợ là Dương Thị bị bệnh nặng, mờ mắt, thấy Đại Sĩ bảo: “Chủng tử hoa sen đã có công một nửa. Nửa còn lại tùy thuộc vào tài nghệ của ngươi!” Hỏi: “Con nên dốc sức vào nơi đâu?” Đáp: “Buông tay liền đi được”. Bà ta liền chắp tay xướng Phật hiệu, qua đời.

          Lại nữa, vào đời Tống, sư Tư Chiếu hằng ngày tụng hai bộ kinh sen[25][25], kiêm trì danh hiệu Phật. Một hôm, bảo đệ tử: “Hồi đêm thầy thấy Phật, Bồ Tát cùng đến tiếp dẫn”. Đệ tử thưa: “Sợ là ma thử thì làm sao?” Đáp: “Sau này hãy nhìn vào ngực ta để xét nghiệm”. Sau khi thiêu hóa, trên ngực Sư có nét vằn đỏ tươi như hoa sen.

          (6) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, có tiết phụ họ Tiền là vợ của Hứa Chiếu. Từ bé, do mẹ bị bệnh nên hằng ngày niệm Phật một ngàn câu, mẹ được khỏi bệnh, thờ Phật càng thêm kiền thành. Khi đã góa bụa, bà niệm kinh Kim Cang, hồi hướng sanh về Tây Phương, mộng thấy Quán Âm Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn, bèn niệm Phật qua đời.

          Lại nữa, vào đời Tống, bà cụ họ Lương lúc bé bị lòa, trì kinh Di Đà suốt ba năm, hai mắt chợt sáng, bèn trì danh hiệu Phật không sót hở. Một hôm thấy phan, lọng từ không trung hạ xuống, Phật và hai vị Bồ Tát cùng đến tiếp dẫn, bèn qua đời.

          (7) Theo Thánh Hiền Lục, Xương Mậu xuất gia ở Nam Hải Tích Thiện Đường, siêng tu Tịnh Độ, bị bệnh bao tử, nói: “Bồ Tát đã đến, canh tư tôi sẽ đi” rồi niệm Phật qua đời.

          Lại nữa, đời Thanh, con gái ông Vương Kinh Thạch ăn chay trường, thọ giới, sáng tối lễ tượng Đại Sĩ, tu tập khắc khổ suốt năm năm, nói trước là sẽ ra đi vào ngày Trùng Cửu. Tới kỳ hạn, cô kết ấn, đứng sững qua đời.

          (8) Theo Chủng Liên Tập, vào đời Thanh, vợ ông Cố Kim là Tiền Lan Trinh mắc bệnh, niệm thánh hiệu Quán Âm được lành, bèn dốc lòng nơi Tịnh Độ. Mỗi đêm bà thắp hương niệm danh hiệu Đại Sĩ. Ngày mồng Tám tháng Mười năm Đạo Quang 29 (1849), bà bảo: “Biển khổ mênh mông, ba ngày nữa sẽ thoát”. Sáng mồng Mười, bà nói: “Quyết định vãng sanh trong ngày hôm nay”, vẫn trì thánh hiệu Đại Sĩ. Trong khoảnh khắc, bà chợt xưng danh hiệu Phật rồi qua đời.

          Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, con gái nhà họ Vương là người xứ Thường Thục, chuyên trì chú Bạch Y và niệm thánh hiệu Quán Âm. Cô ta mắc bệnh lao, thưa với mẹ: “Đáng lẽ ra, giữa tháng Tám con sẽ qua đời. Do con bệnh khổ, cầu Bồ Tát, Ngài đã hứa đến đón con trước một tháng”. Bà mẹ không tin. Tới kỳ hạn, cô bảo: “Bồ Tát đến rồi!” Bà mẹ nghi là yêu quái, vung dao dọa. Cô đoạt dao, bảo: “Ôi chao! Bồ Tát đấy mà, hãy mau lễ bái để khỏi bị mắc tội”. Bà mẹ lễ xuống, vừa đứng lên thì con gái đã qua đời.

          (9) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, Trí Liêm kiêm tu Thiền - Tịnh. Một hôm, Sư từ biệt đại chúng, bảo: “Trong Định ta thấy Tam Thánh thuyết pháp, Phật dạy: ‘Chư thiện nhân hãy nên khởi tâm tin tưởng to lớn, tu các thiện pháp, sanh về nước ta’. Ta nay ắt vãng sanh”. Sư viết kệ: “Nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thủy, vô diệt vô sanh, liên hoa quốc lý” (Nhạn bay qua trời thẳm, bóng chìm nước lạnh căm, vô sanh nào còn diệt, ở giữa cõi hoa sen), rồi hướng về Tây qua đời.      

          Lại nữa, đời Đường, ngài Khải Phương thần thức sang chơi Tịnh Độ, thấy Phật Di Đà ngồi trên hoa sen lớn nhất, quang minh chói ngời. Khải Phương làm lễ, hỏi: “Chúng sanh niệm Phật có được sanh về cõi này hay chăng?” Phật dạy: “Chớ nghi! Quyết định sanh về cõi ta”.

          (10) Lăng Nghiêm Kinh: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). Phẩm Hạnh Nguyện trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn” (Niệm niệm liên tục, không có gián đoạn).

Vô Lượng Thọ Kinh: “Ư nhất trú dạ, tư duy bỉ sát, cập Phật thân công đức, thử nhân mạng chung, giả sử tam thiên đại thiên thế giới, mãn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sanh bỉ quốc độ” (Trong một ngày đêm tư duy cõi ấy và công đức nơi thân Phật, khi người ấy mạng chung, giả sử lửa lớn đầy ngập tam thiên đại thiên thế giới vẫn có thể vượt qua, sanh về cõi ấy).

          (11) Theo Thánh Hiền Lục, Trí Giả đại sư nhập tịch, đệ tử là Huệ Diên muốn biết đại sư sanh về đâu, bèn chép kinh Pháp Hoa để cầu Sư ngầm chỉ dạy. Đến đêm, mộng thấy Sư theo Quán Âm từ phía Tây đến, bảo: “Đã dứt lòng nghi chưa?”

          Lại nữa, Trương Xỉ Diên sau khi mất, người ta nói: “Quyết định sanh về Tây Phương”, vợ ông ta không tin, thắp hương cầu khẩn chồng báo mộng. Tới đêm, mộng thấy có người nói: “Người trong nhà bà đã vượt khỏi mười vạn ức cõi Phật rồi!” Bà ta chẳng hiểu câu ấy nghĩa là thế nào, hỏi mọi người mới biết đấy là chứng nghiệm rõ ràng [chồng mình] đã sanh về Tây Phương.

          (13) Theo Thánh Hiền Lục, đời Đường, Hùng Tuấn thường trì danh hiệu Phật, nhưng thiếu giới hạnh, chết đột ngột, đi vào cõi âm. Diêm Vương phán tống ông ta vào địa ngục. Hùng Tuấn kêu ầm lên: “Quán Kinh dạy: ‘Tạo tội Ngũ Nghịch, lâm chung mười niệm liền được vãng sanh’, Tuấn tuy tạo tội, chẳng đến mức phạm Ngũ Nghịch, có công niệm Phật đáng sanh Tịnh Độ. Nếu không, ba đời chư Phật liền thành vọng ngữ”, rồi chắp tay niệm Phật. Đài báu chợt hiện, cỡi đài bay lên không về Tây.

          Lại nữa, Duy Cung thường chuyên cờ bạc, rượu chè, rảnh rỗi bèn tụng kinh cầu sanh An Dưỡng. Thường nói: “Ta tuy có tội, nhưng cậy vào Phật lực, mười niệm vãng sanh, há lại đọa vào nẻo ác ư?” Một hôm, Duy Cung bị bệnh chết, có người thấy mấy thiếu niên cầm nhạc khí, hỏi họ từ đâu đến, đáp: “Từ Tây Phương đến để đón Cung thượng nhân”. Một người ôm một đóa sen, có ánh sáng lạ, rảo bước đến chùa. Duy Cung bèn chết.

          (14) Sách Trang Tử có đoạn: “Tây Thi bệnh tâm nhi tần, xú phụ mỹ chi, diệc phủng tâm nhi tần. Phú giả kiến chi, bế môn bất xuất, bần nhân khiết thê tử nhi khứ chi” (Tây Thi đau lòng nhíu mày, người đàn bà xấu xí trông thấy [Tây Thi] càng đẹp, cũng cố ý nhíu mày. Người giàu trông thấy, đóng cửa không ra khỏi nhà; người nghèo trông thấy, dẫn vợ con bỏ đi).

          Phẩm Hiền Thủ kinh Hoa Nghiêm có câu: “Tín năng siêu xuất chúng ma lộ, thị hiện vô thượng giải thoát đạo” (Tín có thể vượt thoát các đường ma, thị hiện đạo vô thượng giải thoát). Phẩm kinh ấy còn có câu: “Tín năng thị hiện nhất thiết Phật, tín năng tất đáo Như Lai địa” (Tín có thể thị hiện hết thảy Phật, tín có thể [làm cho hành nhân] ắt đạt đến địa vị Như Lai).

 

2.5.3. Phát nguyện

 

          1. Bèn có: Liên xã nổi danh, một trăm hai mươi ba người theo Sơ Tổ; bài ký viện Báo Ân, học bốn mươi tám nguyện Di Đà.

          2. Xoa đỉnh Tự Giác, lợi vật làm đầu; nước rưới Nguyện Đăng, dạy người chẳng mệt.

          3. Triệu Vinh giáo hóa chúng, dốc hết tài sản, bán quan tài; Pháp Vân thờ mẹ, cảm Phật quang chiếu vào nhà.

          4. Thêu thành kinh tượng, Như Nhất rộng lợi quần sanh; hư không hiện thuyền, xe, Lục Thị cứu mạng khắp các loài vật.

          5. Đấy đều là công đức tu hành, chẳng tham đắm tự thân, tùy thuận Bồ Đề, ắt nhiếp thủ đại chúng.

          6. Trọn đủ tâm nguyện rộng lớn ấy mới là thật sự cúng dường Như Lai (gồm hai đoạn, phần này ca tụng đại nguyện độ sanh).

 

          (1) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đời Tấn, ngài Huệ Viễn trụ tại chùa Đông Lâm, đào ao trồng sen, khắc hoa sen bằng gỗ [thả xuống ao] để hoa sẽ nở hoặc cụp tùy theo sóng nước, nhằm phân biệt ngày đêm hòng định thời khóa tu tập. Tăng và tục kéo đến tụ hội gồm một trăm hai mươi ba người. Sư bảo: “Các ông đã đến đây, há lại chẳng nghĩ đến Tịnh Độ ư?” Bèn tạo tượng Tây Phương Tam Thánh, lập liên xã, sai Lưu Di Dân soạn bài văn phát nguyện, sai nhóm các ông Vương Kiều Chi soạn Niệm Phật Tam Muội Thi để bày tỏ chí hướng. Sư đề tựa rằng: “Danh hiệu các tam-muội thật nhiều, nhưng công cao, dễ tiến, Niệm Phật làm đầu. Ai nhập vào Định này sẽ ngầm mất sạch những thứ tri kiến hư vọng, tức là biến cái sở duyên thành cái được xét soi. Xét soi thấu suốt thì sự chiếu soi bên trong sẽ soi rọi lẫn nhau, muôn hình tượng bèn sanh khởi, chẳng phải là chỗ tai mắt có thể phân biệt được, chỉ thấy nghe mà hành. Nếu đấy chẳng phải là sự tuyệt diệu tột cùng trong đời thì còn có gì sánh bằng được nữa?” Người đời sau tôn Sư làm Liên Tông Sơ Tổ.

Lại nữa, vào đời Nguyên, ngài Minh Bổn (tức thiền sư Trung Phong) được vua ban hiệu là Phật Từ Viên Chiếu Quảng Huệ thiền sư, viết một trăm lẻ tám bài Hoài Tịnh Độ Thi (thơ nhớ mong Tịnh Độ) và Báo Ân Viện Ký để tán dương Tịnh Độ. Trong hôm Phật Đản, Sư đối trước tượng Quán Âm Bồ Tát, phát bốn mươi tám nguyện. Về sau, Sư đọc kệ, qua đời, có cái mống (cầu vồng) trắng vắt ngang đỉnh núi, diện mạo Sư vẫn tươi tắn như đang còn sống.

Lại nữa, vào đời Thanh, ngài Thật Hiền hiệu là Tỉnh Am, cũng phát bốn mươi tám nguyện và soạn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn nhằm khích lệ tứ chúng. Người đời sau tôn Ngài làm Liên Tông Cửu Tổ.

(2) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, sư Tự Giác phát nguyện mãi mãi theo Đại Bi Bồ Tát (Quán Thế Âm Bồ Tát), lại phát nguyện lập chùa thờ tượng Đại Bi, dùng vàng ròng tạo tượng Quán Âm cao bốn mươi chín thước, chùa cũng xây xong. Sư tụng niệm trước đàn, tới canh ba đêm ấy, thấy hai luồng ánh sáng màu vàng, đức Phật đi giữa hai luồng sáng ấy giáng hạ, Quán Âm, Thế Chí đi theo hai bên Phật. Đức Phật duỗi cánh tay sắc vàng xoa đảnh Tự Giác bảo: “Giữ nguyện đừng thay đổi, lợi vật làm đầu, sanh về ao báu, ai chẳng được thỏa nguyện?”

Theo Chủng Liên Tập, vào đời Thanh, ngài Tư Ngạn, tự là Nguyện Đăng, hằng ngày niệm Phật sáu vạn câu, những công đức đã làm trong đời đều hồi hướng Tịnh Độ. Do nhọc nhằn chất chứa thành bệnh, con của Sư bèn đón về nhà phụng dưỡng. Tháng Chín năm Quang Tự 15 (1889), Sư bảo Tăng chúng mở Phật thất, bảo: “Ngày Mười Tám này là kỳ hạn vãng sanh của ta”. Nhắm mắt hồi lâu rồi bảo mọi người: “Quán Âm Đại Sĩ rưới nước lên đỉnh đầu tôi, Phật bảo tôi dặn mọi người hãy chuyên ròng niệm Phật, ngày sau sẽ gặp lại nhau nơi Tịnh Độ”.

(3) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Trịnh Triệu Vinh ăn chay từ bé, thích làm lành, bỏ ra vạn đồng để giúp người nghèo, hồi hướng Tịnh Độ. Tuổi già, đem những cỗ quan tài bằng gỗ sa-la, gỗ phương đã chuẩn bị từ lâu đem bán lại cho người khác, cầm xâu chuỗi và tiền đến xóm nghèo khuyên họ niệm Phật. Mùa Đông rét mướt, hễ gặp ai kêu lạnh bèn cởi áo cho người ấy mặc chẳng tiếc. Trong niên hiệu Gia Khánh (1796-1820), ông tự biết lúc mất, bảo những người đến thăm: “Hãy vì ta niệm Phật, Bồ Tát giáng lâm rồi”. Mọi người ngửi thấy mùi hương lạ thì ông đã qua đời.

Đời Lương, sư Pháp Vân tròn mười tuổi liền lên tòa thuyết pháp, nghĩ mẹ tuổi đã già, tạ tuyệt mọi sự trở về phụng dưỡng. Mẹ bệnh, Sư vì mẹ tụng kinh Di Đà, tỏa ánh sáng chiếu khắp nhà, mẹ vui vẻ qua đời. Sư mộng thấy mẹ bảo: “Nhờ sức niệm Phật của con, ta nay đã vãng sanh”. Mọi người khâm phục đạo hạnh cũng như tôn trọng lòng hiếu thảo của Sư. Về sau, Tam Thánh cũng đến đón Sư về.

(4) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, bà Châu Như Nhất dùng lụa vàng chép kinh Pháp Hoa, thêu kinh trên nhung biếc. Lại thêu thánh tượng Di Đà, Quán Âm. Lại cho khắc hình Phật để khuyên người khác niệm Phật. Những người được bà hóa độ số đến hai mươi vạn người. Bà thị hiện mắc bệnh nhẹ, nằm trên hông phải qua đời.

Lại nữa, vào đời Thanh, vợ ông Trương Quý Tư là Lục Thị, tuổi vừa mười bảy liền ăn chay trường niệm Phật, tụng chú Đại Bi hồi hướng Tây Phương. Thấy kẻ sát hại mạng loài vật, bà liền phát nguyện cứu độ. Trong niên hiệu Khang Hy, thấy trên không trung có xe và thuyền đi về phương Tây, những người điều khiển, chèo chống đều là Tăng, chưa đầy ba ngày sau, bà niệm Phật qua đời.

(5) Theo Vãng Sanh Luận, Bồ Tát thiện xảo phương tiện hồi hướng là đối với hết thảy công đức do tu tập năm môn tu hành như lễ bái v.v... chẳng cầu chính mình sẽ nắm giữ những điều vui sướng [do những công đức ấy mang lại], mà muốn cứu khổ cho hết thảy chúng sanh nên nguyện nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng sanh về cõi Phật An Lạc. Luận còn bảo: Y theo Trí Huệ Môn, chẳng cầu sự vui sướng cho chính mình, xa lìa tâm chấp Ngã, tham đắm tự thân. Y theo Từ Bi Môn nên dẹp khổ cho chúng sanh, xa lìa tâm không làm cho chúng sanh yên vui. Y theo Phương Tiện Môn, nên thương xót chúng sanh, xa lìa tâm cúng dường, cung kính thân mình, xa lìa ba thứ trái nghịch Bồ Đề, được tùy thuận pháp Bồ Đề.

(6) Theo Hạnh Nguyện Phẩm, cúng dường bằng cách lợi ích chúng sanh, cúng dường bằng cách nhiếp thụ chúng sanh. Phẩm kinh ấy còn nói: “Tu hành như thế mới là cúng dường chân thật”.

 

1. Còn như Đạo Ngang chí quyết, trời Đâu Suất đến đón, chẳng theo! Hoài Ngọc phẩm cao, khước từ ngân đài tiếp dẫn.

2. Duy Ngạn vẽ tượng, tùy ý để đồng tử đi theo; Thiện Vinh chép kinh, tròn lời ước hẹn với ông Tuyên.

3. Oánh Kha thống hối, được sớm lìa đời trược; Minh Chứng càng siêng, mừng chẳng đọa hồng trần.

4. Đệ tử Hiển Siêu, van thầy lưu lại mười lăm năm; Xuân Hoa vì bạn, vĩnh quyết chậm lại hai ngày.

5. Biện Tài đốt ngón tay, ứng nghiệm được thấy quang minh; Phương Quả bẻ cành, bảy ngày càng thêm tươi biếc.

6. Cụ Trương xứ Dư Hàng, vợ chồng cùng mất; sa-di Vấn Châu, lớn nhỏ cùng tịch.

7. Vì Tôn Trung ở lại hồi lâu để trẻ nhỏ cùng nhau chiêm ngưỡng; hứa cùng Diêu Thị lưu lại đôi chút để bà Phạm cùng được thấy.

8. Bà Trầm chúc nguyện, hiện tượng Phật trang nghiêm; cô Vương hiếu thảo, thân mẹ xú uế tiêu trừ.

9. Không gì chẳng hễ cầu ắt ứng, thường được như nguyện.

10. Nguyện giỡn trước tượng, rốt cuộc còn thành tướng quân oai vũ; huống chi phát lòng chí thành, lo chi hoa sen không làm cha mẹ? Đấy chính là sự nhiếp thủ chúng sanh thứ ba của Đại Sĩ vậy(đoạn này ca tụng ý “có nguyện ắt sẽ đắc quả”).

 

(1) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đời Đường, sư Đạo Ngang giảng Hoa Nghiêm Địa Luận, giơ bàn tay phóng quang, sáng rực điện đường, đại chúng kinh dị. Đạo Ngang nói: “Ánh sáng này trong tay luôn có, đâu đáng để kinh ngạc!” Sư thường dốc chí nơi Tây Phương, nguyện sanh An Dưỡng. Về sau, biết đã đến lúc mất bèn lên tòa cao. Chợt thấy thiên chúng nhộn nhịp, đàn sáo réo rắt. Sư bảo mọi người: “Đây là trời Đâu Suất đến đón ta, nhưng thiên đạo vẫn là căn bản sanh tử, ta chẳng mong muốn! Ta thường cầu sanh Tịnh Độ, cớ sao nguyện chẳng được thỏa?” Nói xong, thiên nhạc liền im bặt, từ Tây Phương hương, hoa, âm nhạc như mây ùn tới, Tam Thánh đến đón, Sư liền qua đời.

Lại nữa, vào đời Đường, sư Hoài Ngọc tụng kinh Di Đà ba mươi vạn biến, công khóa mỗi ngày niệm Phật năm vạn câu. Một hôm, Sư thấy thánh tượng Tây Phương [Tam Thánh] số nhiều như cát sông Hằng. Một người bưng đài bạc đến đón, Hoài Ngọc nói: “Ta thề lấy đài vàng, cớ sao chẳng được!” Thánh tượng bèn ẩn. Hoài Ngọc càng bội phần tinh tấn, nghe trên không trung có tiếng nói: “Đầu đã tỏa vầng sáng rồi, xin hãy ngồi xếp bằng, kết ấn chờ Phật đến”. Ba ngày sau, ánh sáng lạ chiếu khắp nhà, mùi thơm đầy ắp không trung, Phật và hai vị Bồ Tát thân màu tử kim cùng ngự kim cang đài đến đón. Hoài Ngọc mỉm cười qua đời.

(2) Theo Thánh Hiền Lục, đời Đường, ngài Duy Ngạn một hôm thấy Quán Âm và Thế Chí hiện trong không trung. Duy Ngạn đảnh lễ thưa: “Nhục nhãn may mắn được thấy thánh dung, tiếc là không truyền cho hậu thế được”. Bèn mời thợ vẽ, nhưng họ không vẽ được. Chợt có hai người đến xin vẽ, vẽ xong không thấy đâu nữa. Duy Ngạn bảo mọi người: “Ta vãng sanh có ai đi theo hay không?” Có một tiểu đồng thưa: “Con xin đi theo”. Cậu bé tắm gội, thay áo, niệm Phật qua đời. Duy Ngạn nói: “Tiểu tử đi trước ta ư?” Sư viết kệ ca ngợi bức vẽ, niệm Phật qua đời.

Lại nữa, vào đời Tống, Liễu Tuyên và Thiện Vinh cùng làm lành. Thiện Vinh dùng mực pha vàng để chép các kinh, Liễu Tuyên giúp cho thành tựu. Hai người kết nguyện vãng sanh. Một hôm, Liễu Tuyên nói: “Ngày về đã quá gần, sẽ gặp lại nhau nơi Tịnh Độ”. Thiện Vinh nói: “Đúng là tôi muốn nhìn thấy bản lãnh của ông”. Liễu Tuyên đọc kệ, qua đời. Ba năm sau, Thiện Vinh nhóm đại chúng niệm Phật, bảo: “Ta đi ước hội với ông Tuyên”.

(3) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Oánh Kha nhậu nhẹt luông tuồng, chợt nghĩ mình sắp đọa ác đạo; do vậy bèn nhịn ăn niệm Phật. Sư mộng thấy Phật và Đại Sĩ bảo: “Ngươi còn thọ mười năm nữa, hãy tự gắng lên”. Oánh Kha thưa: “Diêm Phù trược ác, dễ mất chánh niệm, nguyện sớm sanh về An Dưỡng, hầu hạ thánh chúng”. Phật dạy: “Ngươi có chí như thế thì ba ngày sau sẽ đến đón ngươi”. Tới kỳ hạn, Sư nói: “Phật và thánh chúng cùng đến” rồi mất.

Lại nữa, đời Minh, sư Minh Chứng một hôm chợt không vui, nói: “Một đời cầu sanh Tịnh Độ, sao còn đọa trong hồng trần vậy?” Càng thêm siêng năng tụng niệm suốt ba năm, cười bảo: “Nay ta chẳng còn đến chốn hồng trần nữa!” Sư ngồi ngay ngắn niệm Phật, niệm danh hiệu Quán Âm, Thế Chí, [đến chữ] Thanh Tịnh Đại liền ngậm miệng, đại chúng nghe trên không có tiếng tụng “Hải Chúng Bồ Tát” vang rền, mùi hương lạ sực nức.

(4) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, sư Hiển Siêu trong khi bị bệnh thấy Phật và Bồ Tát đến đón, hoa sen trọn khắp, âm nhạc tấu rền. Đệ tử xót xa van thầy ở lại cõi đời nhằm cứu khổ cho chúng sanh. Tướng tịnh dần dần biến mất. Sư trụ thế mười lăm năm nữa, lại nghe thiên nhạc, mùi hương lạ, Phật và thánh chúng cùng hiện trên không trung, bèn qua đời.

Lại nữa, vào đời Thanh, Tạ Xuân Hoa do niệm Phật được lành bệnh cổ trướng[26][26], tín tâm càng thêm thiết tha. Không Phật hội nào ông chẳng dự. Ngày Hai Mươi Sáu tháng Tư năm Quang Tự 15 (1889), ông mộng thấy Tây Phương Tam Thánh, biết là điềm vãng sanh, bảo Diêu Minh Trai rằng: “Hôm Hai Mươi Tám ta sẽ về Tây, hãy nên đến niệm Phật tương trợ”. Ông Diêu bảo: “Hôm ấy không rảnh”. Hỏi: “Ngày Hai Mươi Chín được không?” Đáp: “Cũng không rảnh”, bèn chậm thêm một hôm nữa để [ông Diêu] đến đưa đi. Tới kỳ hạn, ông Tạ mỉm cười qua đời, mùi hương lạ mấy ngày không tan.

(5) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, sư Nguyên Tịnh được vua ban hiệu là Biện Tài, đốt ba ngón tay bên trái và hai ngón bên phải để cúng Phật, cầu Quán Âm phóng quang, quang minh liền hiện.

Theo Tịnh Độ Luận, đời Đường, Khải Phương và Viên Quả trong niên hiệu Trinh Quán cùng kết kỳ hạn niệm Phật suốt một hạ (ba tháng). Họ đặt một cành dương vào tay tượng Quán Âm, thề rằng: “Nếu con niệm Phật được vãng sanh thì nguyện cành dương bảy ngày chẳng héo”. Đến kỳ hạn, cành dương càng thêm tươi xanh.

(6) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, vợ chồng cụ Trương ở Dư Hàng ăn chay, kiền thành thờ Quán Âm, dốc chí niệm Phật, tạo sẵn hai cái khám. Một hôm, tắm gội, thay áo, vào khám niệm Phật, cùng qua đời.

Lại nữa, vào đời Tùy, có hai sa-di ở Vấn Châu cùng niệm Phật, người lớn tuổi hơn thần thức du cõi Tịnh, bạch Phật: “Có tiểu sa-di cùng tu, người ấy có cùng được vãng sanh với con hay không?” Phật dạy: “Do anh ta khuyên ông, ông mới phát tâm. Ông hãy về đi, ba năm nữa, anh ta cũng cùng đến”. Đến kỳ hạn, Tam Thánh đến đón, đại địa chấn động, thiên hoa bay lượn, người lớn, kẻ nhỏ cùng mất.

(7) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Tôn Trung đào ao trồng sen, phía trên dựng gác, tạo tượng, quy y. Thấy Tam Thánh hiện trên không, liền bạch rằng: “Nguyện Phật lưu lại đôi chút để hai đứa con của con cùng được thấy”. Phật liền trụ lại hồi lâu. Một tối, ông Tôn kết ấn qua đời, trên hư không có mùi hương lạ, nhạc trời. Hai đứa con về sau cũng niệm Phật qua đời.

Lại nữa, bà Diêu và bà Phạm làm lành. Bà Phạm khuyên [bà Diêu] niệm Phật. Bà Diêu lâm chung, Phật hiện trên không, hai vị Bồ Tát đứng hầu hai bên. Bà Diêu cầu Phật lưu lại đôi chút để từ biệt bà Phạm. Khi bà Phạm đến, Phật vẫn trụ nghiễm nhiên, bà Diêu bèn đứng sững qua đời.

(8) Theo Thánh Hiền Lục, đời Minh, Trầm Giao Xuân, vợ là Phí Thị thờ tượng Phật tam thế và tượng Đại Sĩ bằng đàn hương, hằng ngày niệm Phật ngàn câu. Trong thời Sùng Trinh, ông Trầm thờ Đại Sĩ ở nhà con rể, hễ dâng hương, ắt nguyện đến thẳng cõi Phật. Chợt mùi hương vờn quanh lầu mấy ngày, trên tường vôi hiện tượng Phật tam thế, trang nghiêm tinh diệu. Người chiêm lễ đông nghẹt, nếu dùng khăn sạch lau thì màu sắc càng tươi sáng. Ông chợt quay về chỗ ở cũ, giữa Ngọ, bảo: “Phật đến rồi” bèn qua đời.

Lại nữa, vào đời Tống, con gái nhà họ Vương hằng ngày tụng kinh Di Đà, Quán Âm, Kim Cang. Mẹ mất, xác chảy máu. Con gái nguyện: “Nếu con có lòng hiếu chân thật thì xin thân mẹ chẳng bị dơ thối”. Thề xong, máu thôi chảy, cũng không có mùi hôi.

(10) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, sư Giám Không lúc chưa xuất gia cảnh ngộ khốn khổ, đến Hàng Châu, gặp một vị Phạm tăng lấy quả táo cho ăn, Sư đốn ngộ đời trước, hỏi bạn học là Ngộ pháp sư đang ở đâu? Phạm tăng nói: “Há ông chẳng nhớ ông ấy đã đùa bỡn phát đại nguyện trước tượng đá ở Hương Sơn ư? Nếu chẳng chứng Bồ Đề, nguyện làm vị võ tướng hùng dũng. Nay ông ta đã làm đại tướng quân rồi!”

Thỉnh Quán Âm Kinh: “Liên hoa hóa sanh vi phụ mẫu” (Hóa sanh, hoa sen làm cha mẹ).

 

2.5.4. Được ứng nghiệm

         

          1. Bèn có: Ba lượt chiêm ngưỡng thánh tượng, điện Thần Vận nêu danh; cùng nghe Pháp Hoa, hội Linh Sơn chưa tan.

          2. Đài sen, hàng cây, chiếu rạng Huệ Thành; mão trời, bình báu, sáng chói Pháp Trí.

          3. Khải Phương, Viên Quả, đều ngao du ao sen, Chân Thanh, Huệ Tài, cùng thọ ký giới hương.

          4. Bồ Tát tinh tấn, đất lại hiện lưu ly; pháp sư Ngũ Hội, thân hai lượt vào hang vàng.

          5. Bang Hoa, Vinh Tổ, thân thường trong quang minh; Hy Trạm, Hám Sơn, tùy ý ngắm tướng hảo.

          6. Từ Vân, Nguyên Tịnh cùng được xá lợi giữa mày; Đại Thiện, Hành Đồng, nuốt xâu chuỗi vào miệng.

          7. Hoa trao Đào Thị, Phật đứng trên hộp kinh; sao Mai ứng mộng, bà Châu sen nở tim nhang.

          8. Ngộ Thông lòng thành cảm mộng, mây ùn đưa thuyền tới; Diệu Viên vui thích xem đèn, Phật ngự trên chiếc lá.

9. Hạo Tượng nhập Định, thuyền bơi giữa ao sen; Sở Thạch Thiền sâu, tâm ngầm hợp Phật cảnh.

10.        Thị nữ khắc khổ, chợt thành Thiên Nhãn Thông; cụ Thiệu tinh thành, cũng thấy Tây Phương thù thắng.

11. Ngoài song Đường công, Phật ngồi trên núi thần; trong lầu Liêm Thị, tượng sanh ra xá-lợi.

12. Ấy là vì tịnh tâm công đến tột bậc, đã dần dần phá tan Sắc Ấm; lắng tưởng ngày càng sâu, nên được hóa thành thiện cảnh.

13. Xét ra: Tam tâm đã phát trọn, liền một niệm hoành siêu.

14. Tự tin vãng sanh, cần gì cầu ứng nghiệm tầm thường?

15. Há nên chẳng tin tự tánh chẳng chân, chấp Như Lai rồi cầu thật hay chăng?

16. Chẳng biết Thiên Như cầu ứng nghiệm, thật ra là roi đe ngựa hèn, Pháp Chiếu dạy người, cũng thấy nghe trống bôi chất độc.

17. Chẳng nghĩ là thánh, lo chi ma tà?

18. Huống hồ những điều [ứng nghiệm] này là do tưởng “chán, ưa” tạo thành, mà cũng chính là công cứ tiếp dẫn. Đây chính là sự nhiếp độ chúng sanh thứ tư của Đại Sĩ vậy.

 

(1) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Viễn Công ở Lô Sơn ba mươi năm dốc chí nơi Tịnh nghiệp, lắng lòng quán tưởng, ba lượt thấy thánh tượng. Đêm Ba Mươi tháng Bảy năm Nghĩa Hy 12 (416), Sư thấy Phật Di Đà thân chật hư không. Trong viên quang có các hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên. Nước tỏa quang minh, diễn nói những âm thanh Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Phật bảo Viễn Công: “Ta do sức bổn nguyện đến an ủi ông. Bảy ngày sau ông sẽ sanh về nước ta”. Đúng kỳ hạn, Sư thị tịch.

Lại theo Lô Sơn Chí, Viễn Công sắp đi qua núi La Phù, đêm ngủ tại Lô Sơn, cảm sơn thần báo mộng. Sư bồi hồi lên núi xem, thấy không chỗ nào để kết lều tranh. Một tối mưa sấm tối sầm, nước trên núi ào ạt chảy tới. Nhìn ra giữa giòng có một bãi đất bằng, hoa cỏ, cây cối mọc la liệt trên đó. Do vậy, Thái Thú Hoàn Y dựng điện thờ Phật, đặt tên là Thần Vận.

Lại nữa, đời Tùy, Trí Giả đại sư đến núi Đại Tô lễ thiền sư Huệ Tư. Ngài Huệ Tư vừa thấy mặt liền nói: “Khi xưa cùng nghe Pháp Hoa tại Linh Sơn, túc duyên xui khiến, nay lại đến đây”. Sư bèn tu Pháp Hoa tam-muội, thân tâm rỗng rang, thấy mình cùng với thầy là Huệ Tư ở trên núi Linh Thứu trong cõi Tịnh Độ bảy báu, nghe Phật thuyết pháp. Sư viết Tịnh Độ Thập Nghi Luận, đề xướng Tịnh Độ, công lao to lớn nhất.

(2) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tùy, Huệ Thành nương theo ngài Nam Nhạc Huệ Tư thiền sư, được dạy hãy nhập các môn tam-muội như Quán Âm, Pháp Hoa v.v... để tiêu nghiệp chướng cũ. Ba năm sau, Sư đắc Giải Chúng Sanh Ngữ Ngôn tam-muội. Mỗi khi nhập Định, thường thấy đài sen, cây báu nơi Tịnh Độ. Đêm hôm Sư tịch diệt, có người mộng thấy Sư ngồi đài sen bay về Tây.

Lại nữa, vào đời Tùy, ngài Pháp Trí niệm Phật ở chùa Quốc Thanh, cảm Quán Âm, Thế Chí hiện thân, lại cảm mão trời, bình báu sáng ngời trên thân.

(3) Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, đời Đường, sư Khải Phương và sư Viên Quả trong lúc quán tưởng, cảm thấy thân vào ao báu, thấy Quán Âm, Thế Chí ngồi trên hoa sen to, có ngàn vạn hoa sen che khắp cả ao. Phật Di Đà ngồi trên hoa sen to nhất, quang minh chói ngời. Lại mộng thấy trong cái ao to, có trướng báu lớn, bèn bay vào đó. Có vị Tăng nói: “Chỉ chuyên niệm Phật thì sẽ cùng sanh về đây”. Lại thấy Quán Âm duỗi chân ngồi, Khải Phương và Viên Quả nâng chân Bồ Tát đảnh lễ.

Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Minh, sư Chân Thanh trì Quán Kinh và phẩm Tâm Địa của kinh Phạm Võng. Một đêm mộng thấy cung điện lóng lánh, xinh đẹp, cây báu san sát, thấy Di Đà, Quán Âm, Thế Chí, trong khi Sư trải tọa cụ, lễ bái thì bên cạnh có sa-di trao cho tấm thẻ đề “giới hương huân tu”. Sư tỉnh giấc biết mình sẽ vãng sanh trong Trung Phẩm, bèn nhịn ăn, viên tịch, vẻ mặt hồng nhuận như còn sống. Lúc trà-tỳ mùi thơm xông sực nức.

Lại nữa, vào đời Tống, ngài Huệ Tài trì chú Đại Bi, mộng thấy đến gác báu, có người bảo: “Ông sanh vào Trung Phẩm”. Lúc lâm chung, Sư soạn kệ khen ngợi Phật, nói: “Ta quyết sanh về Tịnh Độ” rồi thị tịch.

(4) Theo Thánh Hiền Lục, đời Đường, sư Đại Hạnh tu Phổ Hiền Sám, cảm Đại Sĩ hiện thân. Tuổi già, Sư trì tụng kinh Di Đà, thấy Phật và Đại Sĩ hiện thân trên đất lưu ly. Một năm sau lại thấy đất lưu ly, bèn nói: “Kỳ hạn An Dưỡng đã tới rồi”, Sư nằm bên hông phải mạng chung, được vua ban hiệu là Thường Tinh Tấn Bồ Tát.

Lại nữa, vào đời Đường, ngài Pháp Chiếu thoạt đầu từ trong bát cháo thấy Đại Thánh Trúc Lâm Tự. Về sau đến Ngũ Đài, được Thiện Tài dẫn vào nơi trang nghiêm bằng đất vàng, cây báu. Văn Thù và Phổ Hiền ngồi trên tòa sư tử thuyết pháp cho đại chúng đông đến cả vạn đang vây quanh. Hai vị Bồ Tát cùng duỗi cánh tay sắc vàng xoa đầu Pháp Chiếu nói: “Nguyện sớm thành Phật, không gì hơn được niệm Phật”. Sư lại cùng đại chúng đến hang Kim Cang, Pháp Chiếu chợt thấy nơi ấy rộng lớn trang nghiêm, cung điện bằng tịnh lưu ly. Văn Thù và Phổ Hiền đều ở cùng một chỗ. Sư lại một mình đến hang, ngài Phật Đà Ba Lợi dẫn vào chùa Kim Cang Bát Nhã, [chùa được] trang nghiêm bằng các thứ báu lạ lùng, quang minh chói ngời. Do vậy, Pháp Chiếu dốc chí niệm Phật, thấy ngài Phật Đà Ba Lợi bảo: Hoa của ngươi đã trổ, ba năm nữa sẽ nở”. Đến kỳ hạn, Sư từ biệt đại chúng qua đời. Ngài Pháp Chiếu lập ra Ngũ Hội Niệm Phật Đạo Tràng, vì thế được gọi là Ngũ Hội Pháp Sư.

(5) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Minh, Dương Gia Vỹ, tự là Bang Hoa, lâm chung nói: “Hoa sen xanh hiện ra trước mặt, chẳng phải là cảnh Tịnh Độ ư?” Khi mạng chung, ông nói: “Ta thường ở trong quang minh”.

Lại nữa, vào đời Thanh, Mã Vinh Tổ ăn chay trường tu Tịnh Độ, mộng thấy trên không hiện ra nhiều chữ Thọ chẳng thể tính đếm được, quang minh chói ngời. Về sau, ông ngã bệnh, nói: “Tam Thánh hiện tiền, vì ta thuyết pháp, ta thường ở trong đại quang minh”. Hôm sau, lại nói: “Bồ Tát dùng tịnh thủy tắm ta, gột sạch cho ta trần cấu từ xưa, liền được thanh lương”. Hai ngày sau, nói: “Phật đến đón ta” liền qua đời.

Lại nữa, đời Tống, Hy Trạm dựng điện Di Đà, tu Tịnh nghiệp. Lâu sau, thường thấy hình tướng Tam Thánh.

Lại nữa, vào đời Minh, ngài Đức Thanh hiệu là Hám Sơn, một hôm mộng thấy Phật Di Đà hiện thân trên hư không, quang tướng phân minh, từ đấy thánh tượng sáng ngời luôn hiển hiện trước mắt.

 (6) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, sư Nguyên Tịnh theo học với ngài Từ Vân. Về sau, làm chủ giảng nơi giảng tòa của ngài Từ Vân, tu ròng Tịnh nghiệp, chưa từng tạm ngưng. Một hôm, giữa mày có ánh sáng lập lòe, sờ vào thì nhặt được mấy hạt xá-lợi. Về sau, nơi chỗ nằm thường có xá-lợi. Lúc sắp mất, Sư nói: “Ta tịnh nghiệp đã thành, lòng mong muốn đã toại”, rồi mất.

Lại nữa, vào đời Tống, sư Hành Đồng chùa Đại Thiện mộng thấy có người đàn bà cầm xâu chuỗi bảo Sư há miệng ra, xâu chuỗi liền lọt ngay vào miệng. Thầy của ngài Hành Đồng nói: “Ấy là Thế Chí trao cho ngươi Niệm Phật tam-muội”. Mấy hôm sau, Hành Đồng mộng thấy Quán Âm, Thế Chí cầm hoa tòa trao cho, bảo: “Bảy hôm nữa, ngươi sẽ cưỡi lên tòa này sanh về Tịnh Độ”. Đến kỳ hạn, Sư nói: “Bồ Tát đến!” rồi qua đời.

(7) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, Đào Thập Lục Nương trì phẩm Phổ Môn, mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ đưa hoa sen bảo nuốt, tâm thần sáng suốt. Một đêm, trong phòng phóng quang như ban ngày, A Di Đà Phật hiện thân đứng trên hộp kinh. Do vậy, bà càng tụng niệm kiền thành hơn. Trên quyển kinh hiện ra xá-lợi, dồn lại được hơn cả vốc.

Lại nữa, vào đời Minh, mẹ bà Châu Tiết Thị mộng thấy sao Trường Canh (Kim Tinh)[27][27] chui vào bụng liền sanh ra bà. Bà Châu chuyên tu Tịnh nghiệp, thờ Quán Âm Đại Sĩ, khói hương đọng thành nhụy, kết thành hoa sen. Bà tự biết đã đến lúc, niệm Phật qua đời. Người trong nhà ngửi thấy mùi hoa sen.

(8) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Trầm Ngộ Thông thọ Bồ Tát Giới niệm Phật, thệ nguyện sanh về Tây Phương. Một tối mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ ngồi trong thuyền, trang nghiêm kỳ diệu, có mây ngũ sắc ùn lên đưa thuyền từ Tây Phương đến. Tỉnh giấc, ông càng dũng mãnh niệm Phật. Do dùng sức quá mãnh liệt, nên bệnh trở nên nguy ngập. Ngày mồng Tám tháng Tư, ông bảo người nhà: “Hôm nay là Phật Đản, ta đi đây”. Lại lớn tiếng kêu: “Phật đến tiếp dẫn” rồi qua đời.

Lại nữa, vào đời Thanh, Châu Diệu Viên và con gái là Lập Tu, cháu gái là Diệu Đức cùng ăn chay trường niệm Phật. Một đêm, hoa đèn trong Phật đường của bà Diệu Viên kết thành một cánh sen, trên cánh sen có một vị Phật đứng. Ba người cùng trông thấy. Lâm chung, bà Châu bảo con gái: “Con niệm Phật hiệu, ta nghe tiếng sẽ dùng tâm tưởng theo”. Đứa con út khóc thưa: “Chúng con chưa báo ân sâu, mẹ nỡ lòng nào bỏ đi”. Bà cười bảo: “Ta tu Tịnh nghiệp, chuyện cõi trần chẳng để mảy may trong lòng”. Bà thầm niệm Phật theo đại chúng, chợt nói: “Phật đến rồi”. Có một luồng sáng trắng từ từ chiếu về Tây.

(9) Theo Thánh Hiền Lục, đời Đường, Cao Hạo Tượng tụng Vô Lượng Thọ Kinh, cảm thấy thân bồng bềnh trong ao sen, kim dung chói ngời. Sau đó, thấy Quán Âm, Thế Chí đến đón bèn qua đời.

Lại nữa, vào đời Minh, ngài Phạm Kỳ, tự là Sở Thạch, tham Thiền đắc ngộ, nhưng niệm Phật chưa hề lười nhác. Một hôm, Sư ngồi xếp bằng quán hoa sen, thấy Như Lai tướng hảo trang nghiêm ngồi trên ấy, bạch hào phóng quang, soi thấy lầu, đài, ao chuôm, hàng cây, lan can, các thứ báu xen lẫn, nước, chim, thiên nhạc, diễn pháp Khổ, Không, Vô Ngã. Quán Âm, Thế Chí đứng hai bên, Thanh Tịnh Hải Chúng vây quanh. Sư ra khỏi Định, quán ngược lại: Người quán chẳng thể được, mà cái chẳng thể được ấy cũng chẳng thể được. Sau đấy, Sư bảo người khác: “Ta đi đây!” Hỏi: “Ngài đi đâu”. Đáp: “Tây Phương”.

(10) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, vợ ông Lã Hoằng là Ngô Thị dốc chí thanh tu, có hai đứa tớ gái. Một đứa thích Thiền, một đứa giữ giới khắc khổ niệm Phật, thường suốt ngày không ăn, chỉ uống Quán Âm tịnh thủy do bà Ngô đã tụng chú. Một hôm, cô ta chợt thấy loáng thoáng trên hoa sen vàng [có người] ngồi xếp bằng, rồi dần dần thấy gối, thấy thân, rồi thì đầu mặt đều hiện, tướng hảo đầy đủ: Chính giữa là A Di Đà Phật, hai bên là Quán Âm, Thế Chí. Rồi thì cung điện, rừng cây rõ ràng như từng đường chỉ trong bàn tay. Nam tử thanh tịnh kinh hành trong khoảng đó. Suốt ba năm như thế, chẳng ngăn cách chừng bằng nháy mắt nào. Nếu có ai hỏi cô ta có nghe thuyết pháp hay không. cô nói: “Tôi đắc Thiên Nhãn, chưa đắc Thiên Nhĩ”. Về sau, cô ta tự biết lúc mất, qua đời.

Lại nữa, vào đời Thanh, bà cụ họ Thiệu niệm Phật tinh tấn. Trong niên hiệu Đạo Quang, cụ ngồi trong phòng kín, hướng về Tây, tâm chợt mở mang, thấy cảnh thù thắng cõi Tây Phương. Về sau, lại thấy kim tượng của Bồ Tát sáng ngời tâm mục. Cụ mất rồi, vẻ mặt giống như còn sống.

(11) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Minh, Đường Thời tham học với ngài Liên Trì, được dạy pháp môn Niệm Phật. Các quyến thuộc đều có thể tụng thuộc lòng phẩm Phổ Môn và kinh Kim Cang; đến đêm cùng nhóm họp hồi hướng trước tượng Đại Sĩ. Ông ta thường nói: “Tu tịnh thì hãy nên trong lúc ăn cơm, mặc áo, thường quán tưởng, hoặc thần thức ngao du nơi biển sen, trong hoa lễ Phật, hoặc ngồi chiêm ngưỡng cõi báu, Phật quang chiếu thân. Tịnh tưởng đã thành thì còn chờ gì mà chẳng vãng sanh”. Một hôm, ông Đường đẩy cửa sổ, thấy từ trong biển cả vọt lên một quả núi, Phật ngồi trên đó, quang minh chiếu thấu suốt bốn phía, tường vách, rừng cây đều rỗng không, chẳng hiện. Lúc lâm chung, hiện tướng lành rồi qua đời.

Theo Linh Cảm Phú, đời Tống, bà Cung Nhân vợ của Liêm Trung Đại Phu thêu tượng Di Đà cao trượng sáu, xá-lợi hiện trong lầu. Lâm chung, Tam Thánh đến đón.

Lại nữa, vào đời Tống, phu nhân Chung Ly khắc tượng Phật bằng đàn hương cao bốn tấc tám phân, đội trên đầu để kinh hành. Từ nơi chặng mày tượng ấy hiện ra xá-lợi. Về sau, Tam Thánh cũng đến đón.

(12) Lăng Nghiêm Kinh: “Tịnh tâm công cực, hốt kiến thập phương sơn hà, giai thành Phật quốc, cụ túc thất bảo, quang minh biến mãn” (Tịnh tâm, công phu đến tột bậc thì chợt thấy núi sông trong mười phương đều thành cõi Phật, trọn đủ bảy báu, quang minh chiếu khắp). Ở đây, [tụng văn] nói là “Lắng lòng quán tưởng ưa chán lâu ngày, tưởng lâu ngày sẽ hóa thành [những cảnh giới thanh tịnh], đấy gọi là thiện cảnh giới”.

(13) Đời Tống, trong bài tán của ngài Nguyên Chiếu có đoạn: “Tam tâm phát trọn vẹn, một dạ hướng Tây Phương”. Ngài Linh Phong nói: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm sanh, niệm niệm tương ứng niệm niệm sanh”.

Vô Lượng Thọ Kinh: “Hoành tiệt ngũ ác thú, thăng đạo vô cùng cực” (Cắt ngang năm đường ác, đạt lên đạo không có cùng tột).

(15) Lăng Nghiêm Kinh: “Vân hà tự nghi nhữ chi chân tánh, tánh nhữ bất chân, thủ ngã cầu thật” (Cớ sao tự nghi chân tánh của ông, ông ngỡ tánh là chẳng thật, rồi chấp lấy cái Ngã để cầu cái thật)[28][28]

(16) Theo tác phẩm Tịnh Độ Hoặc Vấn của ngài Thiên Như, cổ nhân có ba điều đau đáu nghĩ tưởng: một là báo ân, hai là quyết chí, ba là cầu được ứng nghiệm. Ấn Quang Văn Sao có câu: “Niệm Phật lấy chuyên ròng làm chủ. Nếu tâm thật sự chuyên nhất thì sẽ tự có cảm thông. Khi chưa chuyên nhất chớ nên có tâm vọng động cầu được cảm thông trước”. Nhưng sự cầu được ứng nghiệm như ngài Thiên Như đã nói chính là hoàn toàn không có cảm thông, sợ là chuyên ròng chưa đến mức, nên nói: “Roi đánh để răn đe hạng ngựa kém hèn”. Chữ “cầu” có nghĩa là chỉ cầu nơi công phu của chính mình, đừng rong ruổi tìm cầu bên ngoài thì sẽ đạt được.

Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, Pháp Chiếu tuy từng thấy những điều linh dị, nhưng chẳng nói với ai. Một vị Phạm tăng bảo: “Ông đã thấy cảnh giới Ngũ Đài, sao chẳng truyền dạy cho người đời?” Pháp Chiếu đáp: “Chẳng phải là tôi dám ẩn giấu thánh đạo, chỉ sợ họ sanh nghi, gièm báng mà thôi!” Phạm tăng nói: “Đại Thánh Văn Thù hiện ở trong núi này, còn chuốc lấy tiếng gièm báng của người ta, ông còn tiếc gì? Chỉ nên đem những gì đã thấy nói với mọi người khiến cho họ phát Bồ Đề tâm, tạo duyên của cái trống bôi thuốc độc[29][29] vậy”. Pháp Chiếu bèn chép lại những điều đã thấy để lưu truyền trong đời.

(17) Lăng Nghiêm Kinh: “Nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà” (Nếu hiểu là chính mình đã chứng thánh thì sẽ rớt vào lũ tà).

(18) Tô Đông Pha mang tượng Phật Di Đà về phương Nam, bảo: “Đây là công cứ vãng sanh của Thức[30][30] vậy”.

 



[1][1] Núi Hạ Lan (Alaša Aɣula) nằm trên ranh giới giữa Ninh Hạ Hồi Tộc Tự Trị Khu và Nội Mông Cổ Tự Trị Khu, phía Tây núi này là sa mạc Tengger. Mạch núi dài đến 200 km, ngọn núi có độ cao nhất là 3.556m.

[2][2] Linh Vũ có tên cũ là Linh Châu, nằm trong khu Dẫn Hoàng Quán của tỉnh Ninh Hạ. Đây là một thị trấn trù phú ở vùng Ninh Hạ, thường được gọi là Tái Thượng Giang Nam (xứ Giang Nam ngoài cửa ải).

[3][3] Nguyên Thế Tổ chính là Hốt Tất Liệt (Khubilai, hoặc Kublai). Nguyên Sử ghi ông ta có tên gọi đầy đủ là Bột Nhĩ Chỉ Cân Hốt Tất Liệt, con của Đà Lôi (Tolui) và vương phi Khách Dĩ Liệt (Sorghaghtani Beki - thật ra Khách Dĩ Liệt không phải là tên của bà ta mà là tên của bộ tộc vì bà này xuất thân từ bộ tộc Kereyid), Hốt Tất Liệt chính là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn.

[4][4] Tức nhà Hậu Châu của Châu Thế Tông (Sài Vinh). Đây là một trong bốn lần Phật giáo gặp pháp nạn tại Trung Hoa.

[5][5] Cửu Lưu là cách phân loại, hệ thống hóa các học phái thế tục và địa vị trong xã hội Trung Hoa thời cổ, chủ yếu là thời Xuân Thu Chiến Quốc. Theo như thiên Nghệ Văn Chí trong Hán Thư, Cửu Lưu là:

1. Nho gia.

2. Đạo gia.

3. Âm Dương gia: Chuyên nghiên cứu Âm Dương, Ngũ Hành, Dịch học, đại biểu là Trâu Diễn, Quỷ Cốc Tử v.v...

4. Pháp gia: Chuyên nghiên cứu pháp luật, đề xướng trị dân bằng pháp luật nghiêm khắc, cường điệu vai trò tuyệt đối của nhà vua và trung ương tập quyền trong việc bình trị xã hội. Những nhân vật đại biểu là Quản Tử, Hàn Phi, Thân Bất Hại, Thương Ưởng v.v...

5. Danh gia: Tập trung biện luận Danh và Thật, chú trọng luận lý, nhiều khi trở thành bàn chuyện viễn vông, chỉ lo công kích mạt sát lẫn nhau, tạo nên những tranh luận ồn ào, chẳng ích lợi gì cho xã hội. Có những người trở thành ngụy biện như Công Tôn Long chủ trương ngựa trắng không phải là ngựa, đá cứng không phải là đá (do vậy, thường được gọi là Kiên Bạch học thuyết).

6. Mặc gia: Những người theo chủ trương Kiêm Ái của Mặc Địch, học phái này gần như diệt mất từ thời Hán Vũ Đế.

7. Tung Hoành gia: Những chính khách hay thuyết khách theo chủ trương liên kết hay chia rẽ các nước chư hầu nhà Châu để tạo thế lực. Những nhân vật nổi tiếng nhất là Trương Nghi, Tô Tần, Cam Mậu, Phạm Chuy v.v...

8. Tạp gia: Những người kiêm nhiều học phái, hoặc tận dụng mọi học thuyết để đạt mục đích như Lã Bất Vy chẳng hạn.

9. Nông gia: Chủ trương phát triển nông nghiệp, nghiên cứu tạo giống lúa mới và cải tiến kỹ thuật canh tác. Nhân vật xuất sắc nhất trong học phái này là Hứa Hành.

[6][6] Bách gia: Gọi đủ là chư tử bách gia, nhưng người Việt thường quen gọi là “bá gia chư tử”. Chư Tử là những nhà triết học thời Tiên Tần (tức thời kỳ trước khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu Lục Quốc) như Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Cáo Tử v.v... Bách gia (thường bị đọc trại là “bá gia”) là từ ngữ phiếm chỉ các trường phái học thuật đông đảo thời ấy.

[7][7] Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn khởi xướng từ Quảng Đông.

[8][8] Trời Đâu Suất có ngoại viện và nội viện. Nội viện là nơi Di Lặc Bồ Tát và các vị Pháp Thân Bồ Tát ở (thường gọi là Di Lặc Tịnh Độ), còn ngoại viện là chư thiên trời Đâu Suất, họ tham đắm dục lạc thế gian nên tuy cùng ở cõi trời Đâu Suất mà chẳng thấy được Nội Viện, huống là gặp gỡ, thân cận Di Lặc Bồ Tát.

[9][9] Tri Tạng là một trong ba chức Chấp Sự trong Thiền Đường, chịu trách nhiệm quản thủ Tàng Kinh Các và tất cả kinh điển, sách vở, tài liệu tham khảo trong chùa. Vị sư Tri Tạng còn có trách nhiệm phân công sao chép, sắp xếp, tu bổ kinh điển, tài liệu bị hư rách cũng như thỉnh các kinh điển, sách vở cần thiết.

[10][10] Tỳ Phú La (Vipula) còn phiên âm là Vỹ Bố La, hay Bệ Phù La, dịch nghĩa là Quảng Đại, Quảng Bác, nằm ngoài thành Ma Kiệt Đà (Magadha). Núi rất to nên thường được Phật và chư Tổ dùng để thí dụ những gì to lớn.

[11][11] Thân Tử là cách dịch nghĩa chữ Xá Lợi Phất theo lối cổ.

[12][12] Chữ “thiều hoa” có hai cách hiểu:

1. Thời gian tươi đẹp, thường dùng để chỉ mùa Xuân, như trong bài Mộ Xuân Cảm Hoài (Cảm hoài chiều xuân) của Đới Thúc Luân đời Đường có câu: “Đông hoàng khứ hậu thiều hoa tận, lão phủ hàn hương biệt hữu thu” (Chúa Xuân đi mất, thiều hoa hết; vườn cũ lạnh hương bặt sắc Thu).

2. Chỉ tuổi thanh xuân tươi đẹp, như trong Trào Thiếu Niên (ghẹo thiếu niên) của Lý Hạ có câu: “Mạc đạo thiều hoa trấn trường tại, bạch phát diện sứu chuyển tương thời” (Chớ bảo thanh xuân còn mãi mãi, mặt nhăn, đầu bạc chẳng lâu đâu).

[13][13] Đây là lời chú thích những từ ngữ được dùng trong lời Tụng. Lời Tụng nguyên văn là: “Thiều hoa dị thệ, mỗi thương tráng bất như nhân. Hồ khẩu duy nan, hựu hữu cơ lai khu ngã”. Từ ngữ “tráng bất như nhân” (khỏe chẳng bằng người khác) trích từ câu nói tự than thân của Chúc Chi Vũ trong Tả Truyện. Chữ “hồ khẩu” lấy từ câu nói của Trịnh Trang Công: “Quả nhân hữu đệ, bất năng hòa hiệp, nhi sử hồ kỳ khẩu vu tứ phương”. Hồ Khẩu có nghĩa đen là không đủ ăn, chỉ khuấy cháo lỏng húp sống đỡ qua ngày. Do vậy, “hồ khẩu” (糊口) có nghĩa là kiếm ăn gian nan vất vả, miễn cưỡng duy trì cuộc sống, ý nghĩa gần giống như câu “vắt mũi đút miệng”.

[14][14] Ninh Thích là người nước Vệ, chăn trâu, thường gõ sừng trâu ca hát. Tề Hoàn Công nghe hát, biết là hiền tài, đón về phong làm đại phu. Quả nhiên Ninh Thích trở thành một cố vấn đắc lực của vua Tề.

[15][15] Vũ Mục là thụy hiệu được nhà Tống truy tặng cho Nhạc Phi vào năm 1162 (tức là sau khi ông bị Tần Cối hại chết 20 năm). Tống Hiếu Tông ra lệnh khôi phục chức tước Thiếu Bảo Vũ Thắng Định Quốc Quân Tiết Độ Sứ, Vũ Xương Quận Khai Quốc Công, ban lộc cho con cháu của Nhạc Phi. Trong chiếu chỉ truy tặng vào ngày 12 tháng Chạp năm Thuần Hy thứ 5 (1178) đã viết: “Vũ Mục: Ngăn chặn, chống trả cường địch là Vũ, ban bố đức, giữ nghĩa là Mục”. Năm Gia Tường thứ 4 (1204), Tống Ninh Tông gia phong Nhạc Phi làm Ngạc Vương. Tống Lý Tông gia phong thụy hiệu Trung Vũ, Tống Định Tông tặng thêm thụy hiệu Trung Văn, nhưng người đời sau chỉ gọi Nhạc Phi là Nhạc Vũ Mục vì thụy hiệu này ca ngợi thích đáng phẩm đức, công nghiệp của ông.

[16][16] Đây là câu chú thích cho từ ngữ “hy nhưỡng” được dùng trong tụng văn: “Tất dã thọ mạng vô lượng, ly lão đại chi thương bi. Y thực tự nhiên, miễn vãng lai chi hy nhưỡng” (Ắt cũng thọ mạng vô lượng, lìa nỗi buồn đau già lụn, cơm áo tự nhiên, thoát khỏi mừng lo lui tới).

[17][17] Tổ Liên Trì có viết Phổ Khuyến Niệm Phật Ca và Phổ Khuyến Niệm Phật Văn (nội dung gần giống nhau, Phổ Khuyến Niệm Phật Văn nhằm giải thích rộng hơn ý nghĩa của Phổ Khuyến Niệm Phật Ca). Gọi là hai mươi câu, nhưng thật ra là hai mươi đoạn ngắn. Chúng tôi xin dẫn lại bài văn ấy theo sự trích dẫn của pháp sư Văn Châu trong tác phẩm A Di Đà Kinh Giải Nghĩa: “Pháp môn Niệm Phật bất luận nam, nữ, Tăng, tục, quý, hèn, hiền, ngu, không có một ai là chẳng niệm Phật được! Nếu là người phú quý, của cải dư dả thì đúng là phải niệm Phật. Nếu là kẻ bần cùng, nhà hẹp, của ít, thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người có con cháu, việc cúng bái tổ tiên đã có chỗ nhờ cậy thì rất nên niệm Phật. Nếu là người không con, trơ trọi một thân tự do thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai có con hiếu thuận, yên hưởng con cái phụng dưỡng thì rất nên niệm Phật. Nếu ai có con ngỗ nghịch, chẳng sanh lòng yêu thương thì thật đúng là phải niệm Phật. Nếu ai vô bệnh, thân thể khỏe mạnh thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai có bệnh, rất gần cơn vô thường thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai già cả, tháng ngày chẳng còn mấy thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tuổi trẻ tinh thần sáng suốt thì thật là rất tốt để niệm Phật. Nếu ai an nhàn, tâm không bị sự gì khuấy động thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu là người bận rộn, được đôi lúc nhàn rỗi giữa khi bận rộn thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người xuất gia, tiêu dao ngoài cõi đời thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là kẻ tại gia biết cõi đời đúng là nhà lửa thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai thông minh, thông hiểu Tịnh Ðộ thì rất nên niệm Phật. Nếu là kẻ ngu si, thô lỗ, không thể làm gì khác được thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu ai trì luật mà Luật lại do Phật chế ra; vì thế, rất nên niệm Phật. Nếu ai đọc kinh thì kinh là do Phật dạy, càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tham thiền thì do Thiền là tâm Phật nên càng phải nên niệm Phật. Nếu ai ngộ đạo thì ngộ cần phải được Phật chứng; cho nên càng phải niệm Phật”.

[18][18] Huyền công: Công phu tu hành của Đạo Gia.

[19][19] Đạo Dẫn là tên gọi chung cho những đường lối tập Khí Công của Đạo gia, bao gồm những tư thế vận động đi kèm phương thức hô hấp (thường gọi là “thổ nạp”) chủ yếu nhằm dưỡng sinh và tăng tấn nội công. Thật ra, Đạo Dẫn bắt nguồn từ thời Xuân Thu Chiến Quốc với những bộ sách như Hùng Kinh, Điểu Thân. Dần dần, Đạo Dẫn được tô vẽ như một pháp tu bí truyền của Đạo gia do tiên nhân Xích Tùng Tử truyền dạy. Họ cũng đưa thêm vào đó cách điểm huyệt, kiêng nhổ nước miếng, nhìn mặt trời thổ nạp nhằm thâu hút nguyên khí của trời đất v.v...

[20][20] Nhụ Nhân (孺人): Danh xưng này có ý nghĩa khác nhau tùy thời đại. Thời cổ, vợ quan đại phu được gọi là Nhụ Nhân như thiên Khúc Lễ sách Lễ Ký giảng: “Vợ của thiên tử gọi là Hậu, vợ chư hầu gọi là Phu Nhân, vợ của đại phu gọi là Nhụ Nhân, vợ của nho sĩ gọi là Phụ Nhân, vợ của dân thường gọi là Thê”. Đến đời Đường, chỉ có vợ bé của vương gia mới được gọi là Nhụ Nhân. Đến đời Tống, quy định chặt chẽ như sau: Vợ quan Nhất Phẩm và Nhị Phẩm là Phu Nhân, vợ quan Tam Phẩm gọi là Thục Nhân, vợ quan tứ phẩm gọi là Cung Nhân, vợ quan Ngũ Phẩm gọi là Nghi Nhân, vợ quan Thất Phẩm, Bát Phẩm và Cửu Phẩm gọi là Nhụ Nhân. Đến đời Minh - Thanh, chỉ vợ quan Thất Phẩm mới được gọi là Nhụ Nhân. Về sau, Nhụ Nhân là tiếng gọi chung tỏ vẻ tôn quý vợ của người khác. Ở đây, chữ Nhụ Nhân chỉ bà Dương, vợ ông Trương Trật Tư.

[21][21] Xú phụ (醜婦): Người đàn bà xấu xí.

[22][22] Tế () là bờ mé. Tam Tế (cách dịch khác của chữ Tam Thế) gồm:

1. Tiền Tế (Pūrvānta): Quá khứ.

2. Trung Tế (Madhyānta): Hiện tại.

3. Hậu Tế (Aparānta): Vị lai.

[23][23] Thỉnh Quán Âm Sám: Sám pháp được soạn theo kinh Thỉnh Quán Âm Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni.

[24][24] Tỳ Ni (Vinaya) còn phiên âm là Tỳ Nại Da, là Luật Tạng. Do vậy, hoằng dương Tỳ Ni chính là hoằng dương giới luật.

[25][25] Liên Kinh: Gọi tắt của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Theo sách Dậu Dương Tạp Trở, Tố hòa thượng chùa Đại Hưng Thiện tụng được ba vạn bảy ngàn bộ kinh Pháp Hoa, có một vị Tăng đề thơ: “Tam vạn liên kinh, tam thập xuân, bán sanh bất đạp viện môn trần” (Ba vạn kinh sen, ba chục xuân, cửa chùa nửa kiếp chẳng len chân).

[26][26] Cổ trướng là một chứng bệnh bụng sưng to như cái trống, tứ chi phù thũng, hình thể tiêu điều, héo hon. Vào thời cổ, người ta tin có một loại độc trùng gọi là Cổ Trùng do các dân tộc thiểu số ở ngoài biên ải nuôi dưỡng, có thể tùy ý trộn vào thức ăn hay thấm vào khăn áo để làm hại người khác. Độc trùng vào trong bụng sẽ sinh trưởng, tấn công nội tạng khiến cho người bệnh bụng sưng to, tay chân rũ liệt rồi chết. Thật ra, chứng Cổ Trướng phần nhiều là do bị bệnh viêm gan hay ung thư gan.

[27][27] Trường Canh là tên gọi khác của Kim Tinh. Ngôi sao này còn mang tên khác là Khải Minh hay Thái Bạch. Do đầu đêm người ta thấy sao này mọc sớm nhất ở phía Tây bầu trời nên thường gọi là sao Hôm (Trường Canh), khi gần sáng lại thấy sao này mọc ở phương Đông nên gọi là sao Mai (Khải Minh).

[28][28] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của pháp sư Viên Anh trong bộ Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, quyển 4.

[29][29] Đây là một thí dụ trong kinh Đại Thừa: Ví như cái trống có bôi thuốc độc, đánh lên thì người xa kẻ gần nghe tiếng trống ấy đều trúng độc mà chết.

[30][30] Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, còn có hiệu là Tử Chiêm.