Số Mệnh Con Người Đã Được Định Sẵn Từ Trước?

 Chuyện Thái Tú Ngô Công Tài

Ngô Công Tài thời Đại Tống, tự là Đức Sung, người Dặc Dương (nay thuộc Giang Tây). Ngô Công Tài đọc sách ở trường Thái Học trong Kinh Thành, mãi đến 50 tuổi ông vẫn còn là một kẻ vô tích sự. Vì vậy, Ngô Công Tài không muốn tiếp tục tham gia khoa cử nữa, ông định trở về quê nhà. Hôm đó ông vào miếu Nhị Tướng Công cầu mộng, nghĩ sẽ theo nội dung trong giấc mộng mà quyết định có về nhà hay không.

Trong đêm, Ngô Công Tài mộng thấy một đồng tử nói với ông: “Vận khí của ông sang năm sẽ tốt, từ nay về sau đều sẽ gặp may mắn”. Ngô Công Tài tin lời trong mộng, liền lưu lại tiếp tục học. Năm thứ hai, Ngô Công Tài được tuyển vào Thái Học thượng xá, nhưng ông nghĩ mình tuổi tác đã già, nên lại muốn về nhà.

Trong đêm, Ngô Công Tài lại mộng thấy đồng tử kia nói với ông: “Ông sắp thi đậu rồi, không cần về nhà”. Năm thứ hai, Ngô Công Tài quả nhiên thi đậu khoa cử.

Sau khi Ngô Công Tài được trao chức quan, chuẩn bị rời kinh nhậm chức, lại mộng thấy đồng tử nói với ông: “Ngày sau ông làm quan không nên lại làm Thái Thú, bởi vì kiếp trước của ông đã từng làm Thái Thú, vì thẩm án không rõ, phán quyết sai một vụ án, dù là vô ý, nhưng âm ty vẫn vì vậy mà trách cứ ông, hơn nữa cho ông mù một con mắt. Vì vậy, ông ngàn vạn lần không nên làm Thái Thú nữa, để tránh nhận lấy tai họa”.

Sau khi Ngô Công Tài tỉnh mộng, nghĩ thầm: “Mình đến 52 tuổi mới nhận được một chức quan nhỏ, đến khi cáo lão hồi hương cũng không có khả năng làm Thái Thú. Huống hồ hai mắt mình sáng ngời, sao có thể nói mình mù một con mắt chứ?” Ngô Công Tài không tin lời nói trong mộng.

Ba năm sau, Ngô Công Tài bị bệnh đau mắt, sau đó quả thật đã mù một con mắt. Ngô Công Tài nhậm chức ở châu huyện, nhiều lần thay đổi, sau khi nhậm chức Huyện lệnh Kiền Châu Đô Huyện (nay là Giang Tây Vu Đô), lại nhiều lần nhậm chức thông phán ở Định Châu (nay là Hồ Nam Hành Sơn), Vĩnh Châu (nay là Hồ Nam Linh Lăng), Kiến Khang (nay là Giang Tô Nam Kinh).

Năm Tống Cao Tông Thiệu Hưng thứ mười (1142), Ngô Công Tài vào kinh thành Lâm An (nay là Hàng Châu), vừa muốn cầu làm một phó quan ở Châu Quận.

Lúc ấy, đang nhậm chức tham gia chính sự Vương Khánh từng có tình bạn học với Ngô Công Tài, Vương Khánh nói với Ngô Công Tài: “Anh đã nhiều năm làm chức thông phán ba Châu Quận, giờ tư lịch đã cao, lẽ ra thăng làm Thái Thú, sao anh chỉ yêu cầu một chức phó quan vậy?” Vì vậy, Vương Khánh liền hướng Tể tướng đề cử Ngô Công Tài, thăng Ngô Công Tài làm Thái Thú Nghi Xuân. Ngô Công Tài rất không vui, ông vừa về đến nhà đã qua đời.

Trong câu chuyện này ghi lại có mấy tin tức, thứ nhất là Ngô Công Tài đọc sách tại trường Thái Học, thi mãi đến 50 tuổi vẫn là một người vô tích sự, vì vậy muốn buông tay, không cố gắng phấn đấu nữa, ai ngờ trong số mệnh chú định ông sau 50 tuổi mới đổi vận, vì vậy mộng lần thứ hai đồng tử bảo cho ông biết, không cần về nhà, sắp thi đậu rồi.

Có thể nhìn ra, chính như những gì ghi chép lại, tin tưởng vào số mệnh, cũng không có nghĩa là buông thả cố gắng, phấn đấu; mà sự cố gắng phấn đấu cũng sớm đã được chú định trong số mệnh. Như câu chuyện này, nhân vật chính không muốn cố gắng thi nữa, nhưng trong số mệnh đã định vẫn có, nên đồng tử trong lần mộng thứ hai đã nhắc ông ở lại đi thi, quả nhiên thi đậu và nhận chức quan.

Có thể thấy được, một người có cố gắng hay không cố gắng, cũng là đã được chú định trong số mệnh. Trong pháp lý của số mệnh có hai cách cục (từ chuyên dùng trong bói toán), trong đó một loại tài cách là thực thương tổn sinh, loại số mệnh này là phải thông qua cố gắng phấn đấu mới có thể thành công.

Một loại khác là thuộc ấn cách, nhất là thần mệnh được thiên ấn, thường không cần cố gắng nhiều, sẽ có điều kiện hữu ý ở bên ngoài giúp đỡ, viện trợ, Quảng Đông có một câu nói địa phương: Con vẹt què chân tự nhiên có châu chấu đến (con vẹt què chân không thể đi, không thể bay, thì có châu chấu tự bay đến trước mặt nó để nó ăn), chính là chỉ loại số mệnh vô ý mà đắc được phúc khí.

Mọi người nếu lưu ý một chút, thực thần trong số mệnh, người có nhiều thương quan tinh, thường thường là vất vả, lao lực, bôn ba, cả ngày bận rộn không ngừng, bảo người đó dừng lại nghỉ ngơi một chút, liền cảm thấy toàn thân không được tự nhiên, luôn muốn tìm một việc gì đó để làm. Người có nhiều ấn tinh, có thể thường lười biếng, cả ngày đều không muốn hoạt động, đẩy người đó một cái, thì động một cái, ngồi mát ăn bát vàng, chính là đã được an bài trong số mệnh vậy.

Tin tức thứ hai là, bởi vì Ngô Công Tài kiếp trước đã làm Thái Thú, một lần phán quyết sai, vì vậy kiếp này ngàn vạn lần không nên tiếp tục làm Thái Thú, nếu không sẽ nhận lấy tai họa. Sau đó ông bất đắt dĩ, phải làm, kết quả ứng nghiệm rồi, đủ thấy số mệnh là đã được định trước, là căn cứ theo hành vi thiện ác kiếp trước mà quyết định.

 

 

 

 

Trần Tử Văn

 

Trần Tử Văn (1648-1709), người Hải Ninh tỉnh Chiết Giang, cống sinh (là chỉ tú tài của cả hai triều Đại Minh và Đại Thanh, thành tích cực kỳ ưu tú, có thể vào Quốc Tử Giám trong Kinh Sư đọc sách). Vào năm Khang Hy thứ 47 (tức năm 1708) được đề bạt làm Tri phủ Nam An, là một vị quan tốt. Thơ ca, thư pháp, nổi danh đương thời. Kỳ thư Truyền Pháp Tấn Nhân, từ triều Tần, Hán, Đường, Tống cho tới nay văn tự thu thập được rất phong phú, gọi chung là lời tựa biện chứng.

Khi Trần Tử Văn mới vừa làm quan ở An Ấp, ông mơ thấy đi đến một ngôi chùa trên núi, trong miếu, đại điện, hành lang và dãy nhà làm ở hai bên đại điện, tượng Phật đều được sắp đặt một cách cực kỳ hùng vĩ tráng lệ. Trông thấy ở góc Tây Bắc gần những bức tường thấp, có một hoa viên, có một ngôi đình mới sửa chữa, còn chưa lợp ngói. Bên cạnh có người chỉ vào ông và nói: “Đây là nơi anh sẽ chết”.

Đã qua ba mươi năm, Trần Tử Văn thăng chức đảm nhiệm Tri phủ Nam An. Khi ông nhận được chức Tri phủ Nam An, từng gửi thư cho bạn bè và nói: “Trong vườn hoa nha môn có một ngôi đình được người nhà Tống xây còn dang dở, ta chuẩn bị lúc rảnh rỗi sẽ xây dựng lại căn đình này, để lúc nghỉ ngơi sẽ ngâm thơ viết chữ ở đây”.

tSau khi đến nhậm chức, một ngày, ông đi dạo ở chùa Đông Sơn, cảm thấy đại điện và dãy nhà hai bên đại điện được bày đặt giống kiểu cách mà ông đã mơ thấy ba mươi năm về trước, trong nội tâm ông vô cùng kinh ngạc, bỗng nhiên trông thấy phía Tây Bắc xuyên qua khe hở của một rừng cây, có một vườn hoa, ở giữa có một ngôi đình được thi công sắp xong, chỉ là chưa lợp ngói. Bởi vì mới đến đây, cảnh vật xung quanh còn chưa quen thuộc lắm, sau khi hỏi thăm, mới biết được là vườn sau của nha môn tri phủ, ngôi đình đó chính là ngôi đình Lục Âm từ thời tri phủ Lý Di Canh triều Tống mà chính ông là người đã xây sửa lại.

Ông càng kinh ngạc hơn, nhớ lại giấc mộng trước kia, trong nội tâm vô cùng thấp thỏm lo âu, sau khi trở về liền bị bệnh không dậy nổi, rốt cuộc đã ứng nghiệm giấc mộng ba mươi năm trước.

Có lẽ một ít người cho rằng đây là tác dụng của tâm lý, cho là ông nhớ lại cái chết của mình trong mộng, khiến trạng thái tinh thần của ông buồn bực không vui, cuối cùng dẫn đến cái chết của ông.

Trong y học cũng có thể có luận thuật này, nhưng sau hơn ba mươi năm, trong giấc mộng nhìn thấy ngôi chùa kia đã qua hơn ba mươi năm, đây không phải là vấn đề tâm lý ám thị, mà là sự tình có tồn tại một cách chân thật, chẳng qua tồn tại ở một không gian thời gian khác, tại ba mươi năm trước thông qua một giấc mộng ngẫu nhiên mà cho ông biết.

Từ đó sau khi chứng kiến giấc mộng ba mươi năm trước, liền biết trước nơi sẽ chết vào ba mươi năm sau, có thể cho thấy số mệnh của con người khi còn sống, là đã được định trước rồi. Thường nói rằng sống chết có số, phú quý tại Thiên, chính là ý tứ này.

Số mệnh con người là tiền định, lý do lớn nhất khiến mọi người phản đối chính là, nếu số mệnh đã được định sẵn rồi, thì chẳng phải không cần cố gắng làm gì cả, không cần ra sức, ở nhà ngồi chờ là được rồi.

Thật ra, chúng ta nói số mệnh đã được định trước, là nói ngay cả việc cố gắng, phấn đấu của bạn… đều đã định bên trong số mệnh của bạn, đến thời điểm cần phấn đấu trong số mệnh của bạn, thì sẽ có một động lực thúc đẩy khiến bạn bắt đầu cố gắng, phấn đấu… khi đó bạn không muốn cố gắng cũng không được. Giống như hạt giống của cỏ cây, mùa xuân gieo hạt xuống đất, thì nó sẽ phá đất mà nẩy mầm lớn lên, bạn muốn không cho nó nẩy mầm cũng không được.

Khi chúng ta nói, số mệnh của hạt giống đó đã được định trước rồi, mùa xuân sẽ nảy mầm, mùa hè cành lá sum suê, trời thu kết hạt, mùa đông tàn lụi.

Cách nói này, tôi nghĩ sẽ không có ai cho là mê tín, cũng không ai cho rằng số mệnh của hạt giống là đã được định trước, vậy nên nó không cần cố gắng nảy mầm, không cần lớn lên! Bởi vì bản thân hạt giống đã bao hàm động lực nảy mầm khi gặp mùa xuân. Nhưng vì sao khi áp dụng lên số mệnh con người, sẽ nảy sinh ra nhiều hoài nghi và cách trở như vậy?

Thật ra mà nói, số mệnh con người đã được định trước rồi, chỉ cần bạn tận lực làm được tùy kỳ tự nhiên, thì chính là đã làm tốt những việc đã được định trước trong không gian khác của bạn, cư xử và hành vi đồng bộ với số mệnh của bạn ở không gian khác, chính là cách làm hợp lý nhất, cũng là đường tắt của đời người.

Mỗi người từ nhỏ đến lớn, đều xem qua rất nhiều câu chuyện tiểu sử thành công bằng vào những nỗ lực của cá nhân, những thứ này đều truyền lại một tín tức rằng, sự thành công của họ hôm nay, là vì những cố gắng và phấn đấu của họ ngày trước, dùng để khích lệ ý chí vươn lên của mọi người, việc này dù không sai nhưng còn khiếm khuyết, đó là khiếm khuyết gì vậy?

Nhân tố khiếm khuyết lớn nhất trong số mệnh, chính là trong số mệnh của bạn có những điều bạn cố gắng, mong muốn đạt được hay không. Thí dụ, tôi cố gắng tìm một viên Dạ Minh Châu trong một căn phòng, nhưng trong căn phòng đó căn bản không có Dạ Minh Châu; vì vậy, bạn càng cố gắng đi tìm, thất vọng càng lớn, thất bại càng lớn, chính là đạo lý này.

Thật ra, những điều gọi là dựa vào phấn đấu cố gắng vươn đến thành công của cá nhân, cho dù là Bill Gates cũng vậy, Matsushita cũng vậy, hãy mở bát tự của họ ra xem, tất cả những thành công của họ đều là có căn nguyên cả, trong mệnh học đều có loại kết cấu này.

Ví dụ như, thực thương sinh tài, phú quý tự thiên lai, và tòng tài (cách)… Đều là vì trước khi bạn chưa thành công, trong quá trình phấn đấu, liền từ trong số mệnh đã sớm định sẵn ngày giờ sẽ trở thành đại phú đại quý, quá trình cố gắng của họ, chẳng qua là biểu hiện bên ngoài để đi đến sự thành công đã được định trước mà thôi.

Người ghi tiểu sử, không có mấy ai hiểu được pháp lý của số mệnh, nên sẽ lấy biểu hiện bên ngoài để miêu tả cho căn nguyên của sự việc. (Ghi chú: Matsushita là thực thương sinh tài cách, Bill Gates là tòng thế cách).

Bạn đọc nếu không ngại hãy thử tìm xem, trong tất cả những bằng hữu của bạn đã từng đọc tiểu sử của các nhân vật thành công, liệu có mấy người trong số họ thông qua việc học tập noi gương những nỗ lực phấn đấu ấy mà có được thành công?

Tôi biết rõ một người bạn, anh ấy sau khi thất nghiệp không tìm được công việc khác, liền lên mạng đầu tư cổ phiếu, lúc bắt đầu cũng học tập những bài viết của bậc thầy đầu tư cổ phiếu, dạy anh ấy bắt đầu mua bán như thế nào, phân tích thị trường cổ phiếu ra làm sao… kết quả tổn thất nặng nề, mới nhận ra rằng thà không có sách còn hơn tin vào sách.

Có thể nhìn thấy, một người dù bạn cố gắng, nỗ lực, học tập, quan sát bao nhiêu nhân vật thành công trong tiểu sử của họ, đã tham gia lớp học thành công của danh nhân gì đó, nếu như trong số mệnh của bạn không có điều đó, thì sẽ không đạt được. Nếu bạn cố gắng làm ẩu, cách xa khỏi quỹ đạo vận mệnh của bản thân, thì bạn sẽ tạo nghiệp, và sẽ tự rước lấy hoạn nạn.

Trong mấy năm gần đây*, tình hình cục diện chính trị ở Trung Quốc khiến người ta cảm thấy hoa mắt chóng mặt, thật ra trong đó chính là một cặp ví dụ thực tế, xem việc tin tưởng vào sự cố gắng phấn đấu của cá nhân là tốt, hay là phát triển thuận theo tự nhiên mới là tốt nhất.

Một người tự nhận là bản thân rất có năng lực, mặc khác cũng có rất nhiều người nói người ấy có năng lực rất lớn, bản sự lớn, vì vậy một lòng muốn làm nhân vật số một trong 1 tỷ người, dùng hết mọi cố gắng, phấn đấu đến cuối cùng, không tiếc hết thảy thủ đoạn, chính là vì muốn leo lên cao, cướp lấy quyền lực cao nhất.

Vì để đạt được mục đích, sa đọa, lấy lòng, hăm dọa, ám sát… cái gì cũng dám đem ra dùng, ngay cả mổ sống cướp nội tạng đem bán kiếm lời cũng dám làm, kết quả là cố gắng phấn đấu quá mức, chuyện không nên làm cũng làm rất nhiều,. Hoàng đế chưa làm được, thì đã vào ngục giam. Cái này là do không tin vào định mệnh, tin tưởng bằng vào phấn đấu cá nhân có thể đạt được mong muốn, cuối cùng lại đạt kết quả tẩu hỏa nhập ma (ý nói trở thành người điên khùng ác độc).

Một người khác, từng bị cha ông cho rằng là đứa con “thuần phác không có tâm cơ”, ở lại Trung Quốc làm chính trị, về sau lại được đề cử làm người kế tiếp lãnh đạo tối cao nhất, tin tưởng rằng ông chưa bao giờ cố gắng đạt được chức vị này, chỉ là thuận theo tự nhiên mà thôi, thậm chí sau lần đại hội đảng lúc đó, truyền rằng ông từ chối không làm, cuối cùng vẫn là các phái đại lão bên trong nội các của đảng sau khi cân đối hiệp thương muốn ông phải làm.

Cuối cùng trước một người tận lực đi tranh giành, cũng không tranh được, thật sự là một ví dụ so sánh điển hình. Và cuối cùng vẫn ứng nghiệm câu châm ngôn kia: “Số mệnh có cuối cùng sẽ có, số mệnh không có chớ cưỡng cầu”.

 

 

 

Sử Hạo (1106 – 1194), tự là Trực Ông, đại thần của triều đại Nam Tống, là một thi sỹ, người huyện Minh Châu Ngân. Làm tiến sĩ vào năm Thiệu Hưng thứ mười lăm của triều đại Nam Tống (1145), đảm nhiệm quốc tử tiến sĩ, tham gia chính sự. Từng là thầy dạy học trong Đông cung của Tống Hiếu Tông, quan đến Hữu Thừa Tướng, phong Ngụy Quốc Công.

Lúc Thừa tướng Sử Hạo thi đậu khoa cử, vừa tròn 40 tuổi. Trước lúc thi đậu, gia cảnh ông cực kỳ nghèo khó. Có một năm, đêm giao thừa, ông tận lực chuẩn bị một ít đồ ăn thờ cúng tổ tiên, lễ bái tổ tiên xong ông chìm vào giấc ngủ. Trong lúc nằm mộng ông giống như ở trong kinh thành, có hai hàng ngựa chở quý nhân đến tuyên gọi ông, thúc giục ông đi nhanh hơn, Sử Hạo liền đi theo bọn họ vào phía dưới bên trong Đại Điện.

Có một người giống đế vương ngồi ở chính giữa, hai bên trái phải hai hàng tùy tùng đứng thẳng với trang phục hoa lệ, dung nhan đoan trang, khung cảnh long trọng. Hai quý nhân dẫn Sử Hạo tiến lên cầu kiến, thi lễ dập đầu bái kiến, nghi lễ bái triều rất giống với nhân gian. Hai bên đại điện bài trí một bàn dài, bên trên đặt để đủ loại dụng cụ bằng vàng bạc, long lanh chói mắt.

Chỉ chốc lát sau, tùy tùng trên đại điện truyền lời, tuân theo thánh chỉ ban thưởng cho Sử Hạo thêm nhiều tiền vàng, tiền bạc, tổng cộng bốn trăm bảy mươi thứ. Sử Hạo bối rối và kinh ngạc không dám nhận, hai người mặc áo xanh cầm cánh tay Sử Hạo giúp ông tạ lễ, lúc đó Sử Hạo mới quỳ xuống bái tạ, sau đó liền lui ra. Hai quý nhân kia lại dẫn ông trở về, trên đường đi qua một con sông lớn, vừa bước lên cầu vài bước, liền trượt chân rơi xuống dòng sông, khiến Sử Hạo giật mình tỉnh giấc.

Ngày hôm sau, đúng là ngày mùng một đầu năm, Sử Hạo kể về giấc mộng cho vợ nghe, vợ ông nghe xong liền cười bảo với ông: “Đêm qua là giao thừa, dân gian coi trọng ngày lễ này lắm, nhưng nhà chúng ta ngay cả một chén rượu một chút thịt cũng không có, uổng phí cả một năm. Làm sao có nhiều vàng bạc như vậy? Chỉ là quỷ hồn tà ác đùa giỡn với ông mà thôi”. Sử Hạo  cũng vì giấc mộng này mà bật cười.

Thoáng cái đã qua gần 3 năm, Tống Cao Tông thoái vị, Kiến Vương (Tống Hiếu Tông) thay thế, Tống Hiếu Tông phong Sử Hạo làm thừa tướng. Từ đó về sau Sử thừa tướng hưởng cuộc sống đại phú đại quý hơn 30 năm. Tính toán trước sau tổng cộng số tặng phẩm ban thưởng, vừa trùng khớp với con số 470 trong giấc mộng, nhất thời nhận được, vượt xa người khác.

Sự việc này có ghi lại trong (Tống) Hồng Mại ‘Di Kiên Chí’, Hồng Mại là học giả nổi danh có ảnh hưởng rất lớn thời Đại Tống. Ông từ thuở nhỏ thông minh lạ thường, đọc nhiều sách vở, kiến thức uyên bác, có thể nhìn qua là thuộc. Năm Tống Cao Tông Thiệu Hưng thứ mười lăm (1145) thi đậu tiến sĩ, nằm cùng bảng với Sử Hạo, đối với sự tình của Sử Hạo rất rõ ràng, sẽ không vô cớ thêu dệt.

Huống hồ, hai người đều là cùng thời kỳ, Hồng Mại không cần phải đem sự tình không có xảy ra mà ghi chép lại trong tác phẩm quan trọng của mình, bêu xấu danh dự của mình. Bởi vì ‘Di Kiên Chí’ và ‘Dung Trai Tùy Bút’, là Hồng Mại dùng tinh lực cả đời tập trung hoàn thành hai bộ kiệt tác ấy.

Từ những điều được ghi lại trong cuốn sách, vận mệnh của con người đã được định trước, lúc Thừa tướng Sử Hạo khốn đốn, Thượng Thiên liền báo mộng ngày sau ông sẽ được phúc lộc phú quý, ông và vợ lúc đó không tin, cho rằng quỷ hồn đùa giỡn, nào ngờ vài thập niên sau, kiểm lại phúc lộc cả đời ông nhận được, cùng phúc lộc nhận trong giấc mộng không sai chút nào.

Có thể thấy được, phúc lộc một đời được hưởng bao nhiêu cũng là có hạn, quá khứ có một cách nói: “Thực lộc tận tắc thì mệnh tận” (Phúc lộc mà hưởng hết thì cũng là lúc mệnh kết thúc), nếu một người hưởng dụng phúc lộc của mình quá sớm, sẽ tùy theo đó mà chết sớm.

Đại danh tướng thời Đường Lý Đức Dụ, có một lần mời một tăng nhân dự đoán cát hung, tăng nhân sau khi tính toán nói: “Tướng công cả đời ăn được một vạn con dê, hiện tại đã 9500 con rồi”. Lý Đức Dụ nghe vậy, ảm đạm nói: “Lão phu lúc tuổi còn trẻ từng có một giấc chiêm bao, đến Tấn Sơn du lãm, trông thấy bầy dê khắp núi, lúc bấy giờ mười mấy người chăn dê đến bái lạy ta, cũng nói những con dê này là phước cả đời của ta. Sau khi tỉnh mộng, bản thân ta cũng không tiết lộ cho người khác biết, không thể tưởng được bây giờ đại sư cũng đã tính ra”.

Hơn mười ngày về sau, vị tướng trấn thủ Linh Vũ tướng soái cho người mang đến 500 con dê tặng Lý Đức Dụ, Lý Đức Dụ sau khi biết đã thất kinh, bởi vì 500 con dê đã đến, vừa vặn góp đủ số lượng 1 vạn, vì vậy lập tức gọi tăng nhân đến thương nghị, nói: “Ta không ăn 500 con dê này, phải chăng có thể được cứu?”

Tăng nhân lắc đầu nói: “Việc đã đến bước này, 500 con dê kia đã quy tướng công sở hữu, ăn hay không ăn đều đã tính là tướng công đã nhận được lộc ăn”. Lý Đức Dụ nghe vậy cảm thấy chán chường. Quả nhiên, sự việc xảy ra không lâu, ông liền bị giáng chức đến vùng Man hoang, sau đó chết tha hương nơi ấy.

Có thể thấy được, không phải tiền tài càng nhiều là càng tốt, cùng với tướng mệnh của bản thân là tương xứng, nếu không sẽ mang đến tai họa hoặc chết sớm. Nhìn lại Trung Quốc đại lục hôm nay, tham nhũng tới hơn 100 tỷ đồng, quả thực chênh lệch quá nhiều so với mệnh của họ, cái người đó phải có cái mệnh mới xứng đáng hưởng trăm tỷ đồng mới có thể thừa hưởng được, nếu không, tù đày, tai họa và chết sớm sẽ là điều tất nhiên- tiền nhiều mệnh yểu chính là họa đó.

 

 

 

Tể tướng thời Bắc Tống Lữ Mông Chính (946-1011), người Lạc Dương, là trạng nguyên đầu tiên sau khi Tống Thái Tông lên ngôi; ông trải qua hai triều đại Thái Tông, Chân Tông, từng ba lần nhập kinh, dùng trung trinh khoan hậu, chính trực can đảm thành danh, là một trong những trạng nguyên cực kỳ có tư cách.

Trước kia, bởi vì mẹ đẻ và phụ thân bất hòa, ông và mẹ bị phụ thân trục xuất khỏi gia môn, sống nhờ ở chùa Lợi Thiệp Thiện tại núi Long Môn. Phương trượng thương xót mẹ con ông, lại tin chắc rằng Lữ Mông Chính quyết không phải là người bình thường, nên rất chiếu cố ông và mẹ, đặc biệt vì hai mẹ con ông mà tạo một hang động để ở.

Lữ Mông Chính và mẹ ở trong động chín năm. Dù phương trượng thỉnh thoảng tiếp tế, tương cứu lúc hoạn nạn, nhưng cuộc sống của hai người vẫn mười phần nghèo khó như trước, cũng vì vậy mà nhận đủ lạnh nhạt của người đời.

Có một ngày, Lữ Mông Chính đi bộ trên bờ Y Thủy, nhìn thấy một người bán dưa, ông muốn mua một trái nếm thử, lại không có đồng nào. Sau đó người bán dưa khi dọn đồ di chuyển, bỗng làm rơi lại một quả dưa. Lữ Mông Chính do dự rất lâu, cuối cũng vẫn nén lòng mà nhặt lên ăn hết. Một người ôm chí lớn, lại thảm đến tình trạng phải nhặt dưa ăn.

 

Về sau, Lại Bộ Thượng Thư Lưu Mỗ dùng phương pháp ném cầu vải chọn rể, con gái ông Lưu Đan Anh ném cầu vải nhiều màu cho người mặc dù nghèo khó nhưng tướng mạo đoan trang Lữ Mông Chính, cũng kiên định vào lựa chọn của mình mà chống lại ý cha mẹ ngại bần yêu giàu, cô vứt bỏ vinh hoa phú quý, theo Mông Chính kết hôn nơi Hàn Diêu (ý chỉ hang động nghèo hèn). Hai người trong gian nan tương thân tương ái, gắng gượng sống qua ngày.

Có một năm, tết Đoan Ngọ đã đến, kẻ có tiền đều giết ngỗng mổ dê, gói bánh chưng, trứng gà luộc, chuẩn bị đón mừng ngày lễ, người bình thường cũng có chút ít không khí vui mừng, duy chỉ có Lữ Mông Chính mỗi ngày đều gian nan, không thể chuẩn bị gì. Vì an ủi người vợ vốn quen cuộc sống vinh hoa, liền đề một bài thơ trước Hàn Diêu:

Tạm dịch:

Con gái nhà giàu gả bần phu,

Mai tết Đoan Ngọ thứ gì dùng.

Chớ để ngày lễ qua như thế,

Một gàu nước sạch cháo được đun.

Lưu Đan Anh từ ngoài xa mang chút gạo trở về, thấy câu thơ trên vách động, thấu hiểu tâm tình của chồng, liền khôi hài thuận miệng đáp:

Tạm dịch:

Người nào trên vách đề loạn thơ?

Mai tết Đoan Ngọ ta đâu ngờ.

Một mai đến ngày thời vận đổi.

Mỗi ngày là tết nào phải mơ.

Thái Tông thái bình phục hồi đất nước hai năm (977), cuộc sống gian nan của Lữ Mông Chính rốt cuộc cũng hết, thi lần đầu đã đoạt giải nhất, đậu trạng nguyên, sáu năm sau làm quan đến Hàn Lâm học sĩ, tham gia chính sự, về sau còn nhanh làm đến Tể tướng.

Khi Lữ Mông Chính còn chưa đi thi, từng cùng Trương Tề Hiền, Vương Tùy, Tiễn Nhược Thủy và Lưu Hiệp mấy người bạn, bái Quách Duyên Khanh người Lạc Dương làm thầy. Một ngày, thầy trò sáu người cùng nhau qua Y Hà, đi tìm đạo sĩ Vương Bão Nhất đoán mệnh, không ngờ Vương đạo sĩ ra ngoài chưa về, chỉ có một tăng nhân trông coi nhà.

Mọi người thấy một tăng nhân lại đi theo tùng đạo sĩ thì cảm thấy khó hiểu, tăng nhân giải thích là vì ông theo Vương đạo sĩ học đoán mệnh, đã học được ba mươi năm. Vừa nghe như vậy, mọi người đều nhờ ông đoán mệnh cho, tăng nhân liền cự tuyệt, mời mọi người ngày mai lại đến. Ngày kế tiếp, mọi người cùng nhau đến, quả nhiên nhìn thấy Vương đạo sĩ.

Vương Bão Nhất mời mọi người tùy ý ngồi, Lữ Mông Chính ngồi đối diện với Vương đạo sĩ, Trương Tề Hiền và Vương Tùy ngồi thứ hai, Tiễn Nhược Thủy và Lưu Diệp thì ngồi sau cùng. Vương đạo sĩ xem xét, vỗ tay thở dài thật lâu, mấy vị vội vàng thỉnh giáo, chủ nhân nói: “Ta từng du lịch thiên hạ, Đông thì đến biển, Tây đến vùng sa mạc, Nam đến Lĩnh Ngoại, Bắc thì sa mạc, tìm kiếm người gọi là quý nhân, để kiểm nghiệm thuật xem tướng có linh nghiệm chăng, rốt cuộc cũng khó được như ước nguyện, nào có thể đoán được hôm nay quý nhân đều tại trên ghế!”

Mọi người nghe xong đều mừng rỡ, Vương Bão Nhất thuận theo đó mà từ từ nói tiếp: “Lữ quân thi đậu trường thi, không người có thể áp chế, không đến mười năm là thành tướng, mười hai năm sau đi ra phủ Hà Nam, xuất tướng nhập tướng, ngồi hưởng ba mươi năm phú quý trường thọ; Trương quân ba mươi năm cũng làm Tể tướng, đồng dạng phú quý trường thọ; Tiễn quân có thể làm đến Chấp Chính (tham gia chính sự, phó Tể tướng), bất quá chỉ được một trăm ngày; Lưu quân tuy có danh là Chấp Chính, lại không có thực quyền. Về phần Vương quân, ra làm quan sớm, nhưng thăng tướng trễ nhất, không ngoài một năm thì qua đời, thật đáng tiếc!”

Mỗi đồ đệ đều lần lượt được xem, duy chỉ có thầy Quách Duyên Khanh là không. Quách Duyên Khanh không nhịn được, giận dữ chỉ trích đạo sĩ ngôn từ vô căn cứ: “Chẳng lẽ ngồi hôm nay có nhiều Tể tướng vậy sao?”

Vương đạo sĩ mặt không đổi sắc, bình thản trả lời, ta cũng không lấy tiền, các ngươi nhất quyết hỏi, mới chi tiết bẩm báo: “Ngươi khoa cử như cũ vô vọng, một mực đến mười hai năm sau, lúc Lữ quân chấp chưởng phủ Hà Nam, ngươi mới có thể thi đậu kỳ thi của vùng, tuy ngươi có công danh thi đậu, vẫn không được làm quan ở Kinh thành.”

Quách Duyên Khanh nghe nói chúng đệ tử đều có thể làm tướng, mà chính mình lại không thể làm quan, càng thêm phẫn nộ. Các đồ đệ đều trở nên bất an, nhanh chóng cùng nhau ra về. Nào đoán được, sau này vận mệnh mỗi người đều như lời đạo sĩ.

Năm thứ hai, Lữ Mông Chính thi đậu trạng nguyên, Quách Duyên Khanh vẫn không đậu. Về sau, mười năm sau Lữ Mông Chính quả nhiên làm Tể tướng, mười hai năm đảm nhiệm phủ doãn phủ Hà Nam. Mười mấy năm qua, Quách Duyên Khanh hàng năm đều thi, nhưng không đậu. Về sau, Tiễn Nhược Thủy được tham dự chính sự, không đến trăm ngày đã bị trục xuất. Trương Tề Hiền và Vương Tùy lần lượt làm tướng.

Về sau, Hoàng đế cố ý để Lưu Diệp nhập các, mời tể thần thương nghị, nhưng chiếu thư chưa truyền, Lưu Diệp đã bị bệnh mà chết. Hoàng đế đành phong tặng Lưu Diệp là tham dự chính sự – danh Chấp Chính, nhưng không thật sự tham dự chấp chính. Hết thảy đều ứng nghiệm.

Lữ Mông Chính thấy thầy bảy mươi mấy tuổi vẫn là thường dân, trong tâm không đành, vì vậy lấy tư cách Tể tướng, thỉnh cầu Hoàng đế, Hoàng đế đặc cách phê Quách Duyên Khanh xuất thân tiến sĩ. Quách Duyên Khanh chịu đựng cả đời, rốt cuộc đổi được cái công danh. Quách Duyên Khanh đến tám mươi mấy tuổi, suy nghĩ một chút lời tiên đoán hai mấy năm trước.

Lữ Mông Chính trở lại triều đình, thăng quan lần nữa, tâm Quách Duyên Khanh lại động đậy. Có lẽ Vương Bão Nhất ngàn đúng, vạn đúng, nhưng tiên đoán cho mình chưa chắc chính xác, dựa vào cái gì mình cả đời không thể ra làm quan? Quách Duyên Khanh không cam lòng bản thân chỉ có danh phận tiến sĩ, lại cả đời không được làm quan.

Vì vậy, Quách Duyên Khanh tìm đến Lữ Mông Chính, Lữ Mông Chính tuyệt bút vung lên, tại lục bộ cho thầy một chức quan béo bở. Quách Duyên Khanh vô cùng cao hứng tiến về phía trước nhậm chức, nhưng đến kinh thành không được hai tháng, thì nhiễm bệnh nặng, và qua đời ngay sau đó.

Chuyện này dựa theo quan điểm chủ nghĩa duy vật là điều không thể. Người thầy nhiều năm thi đều không đậu, dạy một đám đệ tử, trước sau đều thành Tể tướng Đại Tống, người thầy dù là học thức, hay kinh nghiệm đều phong phú hơn trò, mới trở thành thầy, thế mà vì sao dạy đệ tử đều thi đậu, bản thân một mực thi đến già, vẫn phải dựa vào đệ tử làm trưởng quan địa phương, được thơm lây mà có chức quan, lại vẫn không thể làm quan ở kinh thành. Cái này không thể không tin số mệnh rồi.

Vì vậy, Lữ Mông Chính về sau viết một quyển sách “Phá Diêu phú”, trong đó có hai câu:

“Ngày xưa ta bị nhốt trong hang động, ban ngày nhờ cơm thầy tu, ban đêm giữ lấy hang động, quần áo không đủ che thân, đồ ăn không đủ bổ sung cơ bắp, người trên ghét, kẻ dưới đè, đường đời ta hèn mà không hèn vậy, còn bây giờ, là mệnh vậy, là vận vậy.

Ngày nay quan đến cực phẩm, đứng hàng thứ ba, quỳ dưới một người, đứng trên vạn người, quần áo có ngàn rương, đồ ăn có trăm vị quý lạ, người trên kính, người dưới mong, đường đời ta quý mà không quý vậy, còn bây giờ, là mệnh vậy, là vận vậy, không bởi tài năng của ta.”

Có thể thấy được, Lữ Mông Chính hoàn toàn tin tưởng vận mệnh đấy. Không như một ít người ngày nay, có được một chút thành công nho nhỏ, tự cho mình là giỏi, khắp nơi diễn thuyết, khoe khoang: Ta đã nỗ lực thế nào, thông minh ra sao, nắm cơ hội thế nào, làm sao cao hơn người khác một đầu; cũng có quy công lao cho cái gọi là nhờ Đảng và Quốc gia bồi dưỡng. Từ khi Trung Quốc mở khoa cử đến nay hơn 1300 năm, trạng nguyên qua các triều đại có 671 người, gần đây biết thêm 3 người, tổng cộng 674 người. Chưa từng nghe nói qua có người nào thi đậu trạng nguyên, mà nói cảm tạ công triều đình bồi dưỡng.

 

 

 

 

 Có một cá nhân chưa được sinh ra, nhưng lại có người có thể biết trước được tương lai người đó, biết được vào những năm về sau người này sẽ đi qua những đâu, sinh mệnh sống được bao nhiêu năm thì kết thúc, trong những năm còn sống thì làm quan chức gì, người thường liệu có tin được những sự việc như thế chăng ? Bởi vì người đó vẫn chưa hề được sinh ra, họ dựa vào cái gì mà biết được tương lai sau này của người kia sẽ phát sinh những sự việc gì ? Tuy vậy người tu luyện sẽ tin vào những điều này.

Người tu luyện có một loại công năng gọi là túc mệnh thông, loại công năng này có thể nhìn thấy quá khứ và tương lai của một cá nhân. Vì thế, vận mệnh của một người chắc chắn là phải được định sẵn hết từ lúc sinh ra rồi thì những người có công năng mới có thể nhìn thấy được những sự việc sẽ phát sinh trong tương lai.

Theo một đoạn ghi chép lại trongMặc Kýcủa Vương Trất thời nhà Tống: Thời Ngạn (?~1107),tự là Bang Ngạn, là người ở Khai Phong tỉnh Hà Nam. Tống Thần Tông năm Nguyên Phong thứ 2 (1079) đã là Trạng Nguyên.

Sau khi Thời Ngạn trúng cử Trạng Nguyên, từng xử lý các hoạt động vận tải của tỉnh Giang Đông. Có một ngày, khi ông đang đi giám sát trên thuyền qua một con sống lớn, đột nhiên có một cơn gió mạnh, ông bèn để chiếc thuyền dừng lại tại một ngọn núi nhỏ ở ven sông, lúc đó ông chỉ mang theo 2, 3 người đi cùng lên núi. Ngọn núi nhỏ rất dốc, bọn họ loay hoay trong đám bụi cỏ để tìm đường đi tiếp.

Khi đến được lưng chừng núi, họ đột nhiên phát hiện trên đỉnh núi có một miếu tự nhỏ, và rất nhanh sau đó có một vị lão tăng đi xuống núi đón tiếp, vị lão tăng hỏi: “Người đến đây chẳng phải là Trạng Nguyên hay sao ?” Thời Ngạn cảm thấy vô cùng kinh ngạc, trong tâm nghĩ … mình không hề đem theo tùy tùng, khu vực này lại hoang vu hẻo lảnh, mình cũng chưa từng đi qua đây, lão tăng này làm sao mà biết ta đến đây nhỉ ?

Lão tăng nhìn thấy vẻ kinh ngạc của vị Trạng Nguyên, bèn giải thích: “Có một người viết lên bức tường đằng sau Phật điện của tự viện, người đó viết: ‘vào ngày này tháng này năm này Trạng Nguyên sẽ đến đây’. Tôi nhớ sự việc này đã xảy ra nhiều năm trước rồi. Ngày hôm nay chính là thời gian được viết trên tường, cho nên tôi đã dậy từ rất sớm và đã đợi khá lâu rồi”. Lúc này Thời Ngạn mới thú thực, thừa nhận mình chính là người mà vị lão tăng đang đợi, nhưng trong tâm vẫn không thực sự tin vào lời ông ta lắm.

Bọn họ cùng nhau đi lên núi, đến đằng sau Phật điện, quét sạch bụi ở bức tường phía sau thì phát hiện thực sự có dòng chữ để lại, nội dung trên tường so với những lời vị lão tăng nói không hề sai chệch. Ở phía dưới còn có ghi thời gian mà những dòng chữ ấy được viết lên, lạ ở chỗ thời gian dòng chữ được viết lên là lúc mà Thời Ngạn vẫn còn chưa được sinh ra. Anh ta lại nhìn sang bên cạnh còn một dòng chữ nhỏ “Sau đó ba mươi năm, làm quan tứ phẩm” Thời Ngạn bèn ghi lại tất cả những nội dung trên đó rồi quay về chiếc thuyền để trở về. Anh ta đã kể với mọi người rất nhiều lần về lai lịch bất minh của những dòng chữ ấy.

Đến năm đại quan nguyên (1107)Thời Ngạn được làm Kinh Sư tại Bộ Thượng Thư, chính là quan tứ phẩm, tính từ lúc đọc được dòng chữ kia đến lúc bấy giờ vừa đúng tròn 30 năm.

Những ghi chép này, dùng quan niệm người thường mà xét, đây thực là những câu chuyện như ở trên trời, không thể nào tượng tượng ra được, một người chưa được sinh ra, vậy làm thế nào mà biết được những sự việc sau này của anh ta ? Tuy nhiên trong con mắt của người tu luyện, lại thấy đây là một sự việc hết sức bình thường.

Vào một ngày nọ, có một người tu luyện đã được khai mở công năng túc mệnh thông đến miếu tự kia, ông ta ngẫu nhiên sử dụng công năng của mình, trong não anh ta xuất hiện hình ảnh ngôi miếu tự những năm sau này, ông nhìn thấy một vị Trạng Nguyên đi đến tự viện này, bèn để ý một chút đến tương lai của vị ấy, thì nhìn thấy ba mươi năm sau vị này được thăng chức quan tứ phẩm, cảm thấy rất cao hứng mà viết lại lên bức tường sau phật điện vài dòng chữ để cho người đời sau kiểm nghiệm, sự việc chính là đã xảy ra như thế. Qua sự việc này chúng ta có thể thấy, số mệnh của con người từ khi sinh ra đã được định sẵn cả rồi.

 

 

Phương Quan Thừa (1696~1789) tự Nghi Điền, người thành An Huy triều đại nhà Thanh. Từ một bình dân không xu dính túi, không qua khoa cử, không có quân công, bỗng trở thành một viên Đại tướng nắm giữ chính quyền một phương nơi biên cương, làm quan đến Tổng Đốc Trực Đãi, Thái Tử Thái Bảo, là một đại danh thần triều Thanh, một trong “Ngũ Đốc Thần” của vua Càn Long.

Năm Khang Hi thứ năm mươi, đã xảy ra một nạn lớn làm khiếp sợ vua và dân mang tên “Nam Sơn Tập”, gia tộc họ Phương liên quan đến trong đó, bị đả kích trầm trọng, nên cao tổ, ông cố, ông nội, cha của Phương Quan Thừa, bốn đời đều bị sung quân nơi biên cương; Phương Quan Thừa và anh trai Phương Quan Vĩnh còn nhỏ, miễn sung quân. Không thể không nương nhờ tại chùa Thanh Lương Sơn ở Nam Kinh, từ đó trở thành cô nhi dựa vào tiếp tế của tăng nhân mà sống.

Đợi đến lúc Phương Quan Thừa và anh lớn tuổi hơn một chút, bởi vì mong nhớ cha ông, nên đi bộ vạn dặm, qua lại giữa Hắc Long Giang và Nam Kinh. Nghìn núi vạn sông, thường ngày đi trăm dặm, không một bữa cơm.

Một năm nọ, trong một lần lên bắc thăm người thân, Phương Quan Thừa đi một mình trên đường tại Sơn Đông, đúng lúc Thẩm Đình Phương người Hàng Châu và Trần Tiêu người Hải Nam cũng cùng nhau đón xe đến kinh đô dự thi, hai người nhìn thấy Phương Quan Thừa tuổi trẻ lại một đường đi bộ, áo quần xộc xệch, mệt mỏi rã rời, nhưng tài hoa xuất chúng, cử chỉ đoan nghiêm, không khỏi hỏi thăm, trong lúc nói chuyện với nhau, Thẩm Đình Phương và Trần Tiêu biết được thân thế trải nghiệm của Phương Quan Thừa, vô cùng cảm thông, vì vậy mời Phương Quan Thừa lên xe cùng đi.

 

Nhưng thùng xe nhỏ hẹp, chỉ có thể chở hai người, cho nên họ quyết định trên đường đi mỗi người thay nhau đi bộ ba mươi dặm, ngồi xe sáu mươi dặm. Ba người cứ như vậy một đường phong trần đến kinh thành. Lúc hai người Thẩm, Trần và Phương Quan Thừa chia tay nhau, lại đưa cho Phương Quan Thừa một bộ đồ mới và nón lá, để phòng cái lạnh trên đường.

Vài thập niên sau, thân đã trở thành đại tướng nơi biên cương, Phương Quan Thừa biết được Thẩm Đình Phương (Hậu quan Viện Hàn Lâm biên tu, ngự sử), Trần Tiêu (hậu quan tỉnh Vân Nam) vào kinh thành báo cáo công tác dọc đường có đi qua phủ nơi ông đóng quân, liền lập tức phái người đem hai người Thẩm, Trần đến quý phủ, người xưa gặp lại cảm xúc vạn phần, nhịn không được nước mắt tuôn rơi. Đây là đoạn sau câu chuyện.

Lại nói đoạn Phương Quan Thừa mỗi năm lại đến phía bắc Vạn Lý Trường Thành thăm hỏi phụ thân, đều là một mình đi bộ vạn dặm mà không cảm thấy vất vả, mọi người cùng quê đều kính trọng ông, nhưng nhà ông dần dần nghèo khó. Về sau, có một lần trên đường trở về ông đã dùng hết lộ phí, đành phải đi về Ninh Ba hướng đông tìm một người họ hàng làm quan, hy vọng được trợ giúp một chút.

Đến Ninh Ba, sắp bước sang năm mới. Phương Quan Thừa nhìn thấy người giữ cửa trước nhà người thân đều mặc áo khoác bằng da người Hồ, vênh váo hung hăng, mà bản thân lại quần áo tả tơi, chỉ sợ khi gặp sẽ bị quát mắng, vì vậy không dám tiến lên phía trước. Sau đó, một đồ tể (người làm nghề giết mổ gia súc) thu lưu ông, để ông ghi nợ giúp, khi vào rừng lại tặng ông ít tiền và áo quần.

Phương Quan Thừa từ biệt người đồ tể, lúc đi qua Hàng Châu, một vị thầy bói xem tướng trông thấy ông, lập tức đứng dậy thở dài nói: “Quý nhân đến.” Phương Quan Thừa tức giận nói: “Ta không xem tướng, cớ gì trêu chọc ta!” Thầy tướng số vội vàng thu thập sạp hàng, dẫn ông đến trong một miếu chùa, mời ông ngồi xuống, rồi nói: “Ngươi đến năm nọ sẽ làm quan, làm đến Tổng Đốc, bây giờ quan tinh đã hiển lộ, ngươi cần chạy nhanh đến kinh thành bắt lấy kỳ ngộ, không nên bỏ qua.”

Phương Quan Thừa thở dài nói: “Tôi sắp thành ăn mày rồi, kiếm miếng cơm ăn còn khó sao đủ để lên phía Bắc chứ!” Thầy tướng số nói: “Cái này không khó.” Ông lập tức về nhà cầm hai mươi lượng bạc, đưa cho Phương Quan Thừa, và một trang giấy có ghi sẵn tên một người, nói: “Tương lai có người tên này làm thống lĩnh trong quân làm hỏng việc quân cơ bị chém đầu, cầu ngươi cứu vớt hắn, chính là báo đáp ta vậy.”

Phương Quan Thừa đi vào kinh thành, lại dùng hết tiền, bất đắc dĩ đành phải dựng sạp làm thầy bói sống tạm. Một ngày, Vương gia Phúc Bành của Mãn Thanh trên đường vào triều, đi qua cửa Đông Hoa, kinh ngạc khi nhìn thấy công lực thư pháp viết trên chiêu bài xem bói của Phương Quan Thừa, ngừng kiệu nói chuyện, phát hiện Phương Quan Thừa là một người có kiến thức không giống học trò thế gia bình thường, lập tức mời ông đến làm phụ tá trong phủ, nhận lễ tri ngộ.

Năm Ung Chính thứ mười (năm 1732), Phúc Bành 24 tuổi được nhậm chức Định Biên Đại Tướng Quân, xuất chinh đến Chuẩn Cát Nhỉ. Ông lập tức thượng tấu muốn mời Phương Quan Thừa làm thư ký riêng, theo quân xuất chinh. Hoàng Đế Ung Chính ngạc nhiên về trải nghiệm của Phương Quan Thừa, sau khi triệu kiến hỏi thăm, liền phong làm Trung Sách.

Không đến mười năm, Phương Quan Thừa liền đảm nhiện Tổng Đốc Thiểm Cam, quả nhiên có một tổng binh giống với tên thầy tướng số đã đưa. Người tổng binh này làm hỏng việc quân cơ bị hoạch tội, Phương Quan Thừa dốc lòng giúp người này giải vây, sau khi hỏi thăm thân thế kỹ càng, mới biết được người này chính là con trai của thầy tướng số.

Năm Càn Long thứ hai mốt, Phương Quan Thừa trở về đảm nhiệm Tổng Đốc Trực Đãi. Phương Quan Thừa đảm nhiệm tổng đốc Trực Đãi hơn hai mươi năm, về sau chỉ còn lại cánh tay chống đỡ giang sơn Đại Thanh lung lay sắp đổ Lý Hồng Chương, có nhiệm kỳ dài hơn ông.

Từ đó mà xem, lúc Phương Quan Thừa gặp rủi ro, thầy tướng số đã nhìn ra quan tinh của ông đã hiển lộ, cần phải chạy vào kinh thành bắt lấy kỳ ngộ. Cho đến việc con trai mình làm tổng binh, hỏng việc quân cơ, cầu ông cứu giúp, về sau hết thảy đều ứng nghiệm; vận mệnh là định trước vậy đấy, là bạn thì nhất định là bạn. Thầy tướng số kia, xem như có ánh mắt trong cõi trần, có thể thấy rõ thiên cơ, lại cam nguyện lưu lạc tại giang hồ làm người buôn bán nhỏ, thật khiến để người ta than thở !

 

 

 

Con người khi còn sống thường gặp nhiều giấc mộng, phần lớn giấc mộng là kỳ lạ cổ quái, nhiều giấc mộng không có liên quan gì đến bản thân. Trong đời người chỉ có một, hai loại giấc mộng là thật sự liên quan đến chính chúng ta, chính là linh tính của một người đi vào không gian khác, nhìn thấy hoặc nghe về người hoặc sự vật ở không gian đó, loại giấc mộng này mười phần rõ nét, rõ ràng không giống với loại giấc mộng cổ quái kỳ lạ kia, chỉ có loại giấc mộng này mới là tồn tại chân thật, trên sử sách cũng thường có ghi chép lại.

Kỷ Hiểu Lam (1726 ~ 1805), người huyện Trực Đại Hiến (Kim Chúc Hà Bắc). 24 tuổi đậu kỳ thi hương, 31 tuổi thành tiến sĩ,  từ quan biên tu (sử quan thời xưa) đến hầu hạ học sĩ ở Hàn Lâm Viện. Sau làm quan đến Lễ Bộ Thượng Thư, tham gia đại học sĩ, hiệu là “Văn Đạt” ‘Duyệt Vi Thảo Đường Bút ký’ là tác phẩm lúc tuổi già của Kỷ Hiểu Lam, trong đó có một chương là “Giải mộng”.

“Lúc Uông Thủ Hòa làm biên tu thi tú tài, mộng thấy ông ngoại làm phó quan chép sử có dẫn một người cùng đến nhà, ông ngoại của ông chỉ vào người đó và nói: ‘Đây là người cùng năm đồng đăng bảng với con – Kỷ Hiểu Lam, tương lai là thầy của con đó’. Cho nên ông lén nhớ kỹ áo quan và hình dáng tướng mạo của người này.

Về sau, vào năm Kỷ Dậu Uông Thủ Hòa được đề bạt công phận ứng thi vào Lễ bộ, chính là tôi đã chấm điểm cậu ấy, chấm ông vào loại ưu. Sau khi nhận được chức quan, ông đến bái kiến tôi, đã tường tận kể lại giấc mộng kia, cũng nói áo quan và hình dáng tướng mạo của người trong mộng giống hệt tôi bây giờ không sai chút nào, nên lấy đó làm ấn chứng cho giấc mộng kia. Đợi đến lần thi hội năm Gia Khánh, tôi làm quan tổng tài (chức quan đứng đầu cơ quan soạn sách thời Thanh ở Trung Quốc), bài thi của ông vừa vặn đưa đến cho tôi duyệt. (Phàm là quan coi phòng thi đề cử bài thi nào, đều do quan giám thị ngự sử đưa trước cho một vị quan chủ khảo để duyệt định, sau đó lại thay phiên mà chấm). Ông lại trúng tuyển, thi đình thì đậu thứ hai. Thế mới biết giấc mộng kia là vì để hoàn thành chuyện này đấy”.

Từ những gì ghi lại trong quyển sách này có thể nhìn ra, giấc mộng của Uông Thủ Hòa là thuộc về loại giấc mộng xuất hiện rất chân thật, từ lời văn mà thấy, việc trước đó ông không nhận ra Kỷ Hiểu Lam, nhưng ông ngoại của ông trong mộng đã nói rõ là: Kỷ Hiểu Lam là thầy tương lai của ông, đợi sau khi ông dự thi được loại ưu, bái yết lúc nhận chức quan, mới thật sự gặp Kỷ Hiểu Lam, cũng nói áo quan và hình dáng tướng mạo của người trong mộng giống Kỷ Hiểu Lam không sai chút nào. Đến lúc thi hội, Kỷ Hiểu Lam làm tổng tài, bài thi của ông lại được đưa cho Kỷ Hiểu Lam duyệt trước, ông lại trúng tuyển, thi đình đỗ vị trí thứ hai.

Có thể thấy, vận mệnh của mỗi người đã sớm tồn tại trong các không gian khác, cho nên có một số người có thể thông qua giấc mộng mà tiến vào không gian khác, có thể thấy hoặc nghe được chân tướng tồn tại ở không gian đó, đồng thời nhìn thấy được vận mệnh tương lai của bản thân tồn tại ở không gian đó.

 

 

Tuần phủ thời nhà Thanh Trâu Minh Hạc (1793~1853), xuất thân ở Giang Tô, đậu Tiến sĩ năm Đạo Quang (niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Thanh, 1821-1850). Trước khi ông trở nên giàu sang, có một lần trong mộng, ông hỏi một người bạn làm quan trông coi sách dưới âm phủ, nghe ngóng vận mệnh cuộc đời của ông sẽ như thế nào. Người bạn viết cho ông tám chữ, ghi là “Quan cư tứ phẩm, hồng thủy vi tai”. Ông đang muốn hỏi rõ hơn, thì đã tỉnh mộng.

Năm Đạo Quang, Trâu Minh Hạc được điều tới nhậm chức tri phủ Khai Phong ở Hà Nam, đúng vào lúc sông Hoàng Hà làm vỡ đê, nước chảy vào thành, nguy hiểm khó lường. Ông đem giấc mộng kia nói cho người khác biết, nghĩ rằng bản thân lần này khó thoát hiểm, nhưng cuối cùng lại bình yên vô sự.

Về sau ông nhậm chức tuần phủ Quảng Tây, bởi vì bất lực trong việc tiêu diệt quân Thái Bình mà bị cách chức. Sau khi trở về cố hương, ông nhận được thông báo của Tổng đốc Lưỡng Giang là Lục Kiến Doanh lệnh phải tới Kim Lăng, trợ giúp tiến hành chuẩn bị công tác phòng ngự, và bị giết chết khi quân Thái Bình công vào thành.

Triều đình chỉ thị chiểu theo đạo viên quy cách mà ban thưởng cho người thân của Trâu Minh Hạc. Lúc này mọi người mới nhận ra câu “Quan cư tứ phẩm” quả thực đã ứng nghiệm. “Hồng thủy vi tai” ở đây là chỉ Hồng Tú Toàn.

 

Tại đây gặp đúng nạn hồng thủy, sau khi sự việc xảy ra mới biết được đã ứng nghiệm tại Hồng Tú Toàn, cùng bộ sấm ký nổi tiếng lịch sử “Vong Tần Giả Hồ Dã” có hiệu quả giống nhau đến kỳ lạ, năm đó Tần Thủy Hoàng vì cầu thuốc trường sinh bất tử, sai phương sĩ Lô Sinh đi tìm ở núi Bồng Lai, sau khi Lô Sinh trở về, báo cáo với Tần Thủy Hoàng rằng không tìm được thuốc trường sinh, mà lấy được một cuốn “Tiên thư”, trên sách có viết một lời tiên tri: “Vong Tần Giả, Hồ Dã”.

Khi thực lực dân tộc Hung Nô mạnh dần lên, thường xâm phạm biên giới, là một nạn lớn. Vì vậy, Tần Thủy Hoàng nghĩ rằng “Hồ” trong lời tiên tri là chỉ dân tộc Hung Nô (Người Hồ), nên ông đã xuất 30 vạn đại quân, dùng con trai trưởng trợ giúp Tô Vi thị giám quân sĩ, Bắc tiến chinh phạt quân Hung Nô, chấm dứt nạn nhà Tần vong, lại xây dựng Vạn Lý Trường Thành để phòng người Hồ xâm nhập ở phía Nam.

Tần Thủy Hoàng cho rằng từ đó về sau có thể vô lo vô nghĩ, nhưng không ngờ nhân tố khiến Tần diệt vong không phải người Hồ, mà là con nhỏ của ông Hồ Hợi. Đại nhân Trịnh Huyền đời Đường cho rằng: “Hồ giả, Hồ Hợi, Tần nhị thế chi danh”, thì ra “Hồ” này không phải tộc người “Hồ” kia.

Trong trường hợp này, tuần phủ Trâu Minh Hạc thông qua một người bạn ở không gian khác (trong câu chuyện này là âm phủ) mà biết được vận mệnh tương lai của mình, bởi vì ở một không gian khác, không tồn tại thân thể con người và đôi mắt thường này, nên có thể nhìn thấy chân tướng của sự việc, cũng minh chứng vận mệnh con người tại không gian khác đã được định sẵn từ trước, nên mới có thể từ không gian khác mà tra tìm được.

Nhưng dù đã nhìn thấy chân tướng ở không gian khác, một khi đã liên quan đến sinh tử tồn vong hoặc thiên cơ trọng đại, phần lớn sẽ dùng ẩn ý, sẽ không nói rõ, cũng là thuận theo Pháp lý “thiên cơ không thể tiết lộ rõ ràng”; bởi vì thế giới nhân loại và quỷ thần có không gian gián cách ở giữa, thường sau khi xảy ra sự việc con người mới nhận ra.

Ví như, Lý Quang Địa (1642 ~ 1718), thủ lĩnh người Hồ ở Tuyền Châu An Khê. Từng giữ chức tuần phủ Trực Lệ, Thị lang Bộ Binh, Lại Bộ Thượng Thư, năm 1705, nhậm chức Đại Học Sĩ ở Văn Uyên Các (tương đương với Tể tướng). Lý Quang Địa lúc chưa phát tài phú quý, từng gặp giấc mộng kỳ lạ trong thần miếu ở đầm Cửu Long. Thần tặng ông một bộ câu đối: “Phú quý vô tâm tưởng, công danh lưỡng bất thành”. Lý Quang Địa cảm thấy bộ câu đối này nhiều điềm xấu, trong tâm ông luôn cảm thấy không được tự tại.

Về sau, Lý Quang Địa đậu Tiến sĩ năm Mậu Tuất, làm quan đến Tể tướng. Thế mới biết hai chữ “Mậu Tuất” như chữ “Thành”, cũng không phải chữ “Thành”; nói một cách khác, “công danh lưỡng bất thành” ý là “Công danh tại Mậu Tuất”.

“Tưởng” (“”) xóa bộ tâm (“”) phía dưới, chính là tướng (“”). Đổi câu nói, “Phú quý vô tâm tưởng” (vô tâm tưởng nghĩa đen là không thể tưởng; còn hiểu theo ẩn ý của Thần là: vô tâm tức là xóa bộ tâm ở chữ “tưởng” thành ra chữ Tể tướng), chính là “Phú quý là Tể tướng”.

Thần ban lời tiên đoán cho con người thường sẽ không nói rõ, phần lớn là dùng ẩn ý. Trong câu chuyện này cũng có thể nhìn thấy, các vị Thần ở không gian khác, cũng sớm biết công danh ngày sau và thời gian phát tài, mới có thể dùng phương thức này ám chỉ cho ông. Nói một cách khác, Lý Quang Địa lúc chưa trở nên giàu có, thì sự giàu có trong lương lai của ông đã được định sẵn ở một không gian khác.

Trong hai câu chuyện này đều liên quan đến vấn đề thế giới Quỷ Thần, một số người có thể sẽ nói: “Theo quan niệm khoa học ngày nay mà nhìn, thì trên thế giới này không có Quỷ Thần”. Còn lấy loại quỷ thần này để làm dẫn chứng nữa.

Thật ra, truyền thống văn hóa năm nghìn năm của Trung Quốc đều tin có Phật, Đạo, Thần, Quỷ… và những hiện tượng tồn tại ở không gian khác, chỉ là đến 100 năm gần đây, du nhập khoa học phương Tây, thật ra là do trong những năm 60 tại Trung Quốc đại lục đã cưỡng ép giáo dục vô thần luận, mới khiến con người dùng khoa học hiện đại để từ chối sự tồn tại của Phật, Đạo, Thần, Quỷ ở không gian khác, đồng thời xem những hiện tượng về Phật, Đạo, Thần, Quỷ cho là phong kiến, mê tín, ngu muội, lạc hậu…

Tôi nhớ rõ có một quyển sách trên mạng dạo trước có nói: khi Trương Mạn Ngọc diễn kịch trong vai ‘Nguyễn Linh Ngọc’, nhà nhiếp ảnh đã tận mắt nhìn thấy linh hồn của Nguyễn Linh Ngọc, đứng ở bên người Trương Mạn Ngọc và lúc nào cũng đi theo nàng, thậm chí Trương Mạn Ngọc còn trò chuyện với linh hồn của Nguyễn Linh Ngọc. Vì vậy, có comment của độc giả đại lục nói rằng: “Thật là bốc phét quá đi!” Họ cho rằng chỉ cần bạn đề cập đến quỷ thần, liền không cần suy xét, dùng chút tri thức nông cạn học từ thuyết vô thần luận, mà cho rằng đó là sự bốc phét.

Trên thực tế, dùng khoa học hiện đại chẳng những không thể chứng minh sự tồn tại của quỷ thần, thậm chí ngay cả sự khởi đầu của nhân loại cũng không chứng minh được. Ban đầu dựa vào thuyết tiến hóa của Đác-uyn, tin rằng nhân loại là do khỉ tiến hóa mà thành, nhưng theo sự phát triển của ngành khoa học sinh hóa, ngành khảo cổ học và các ngành khoa học khác, theo các nghiên cứu khảo sát, ngày càng nhiều bằng chứng chứng minh thuyết tiến hóa của Đác-uyn là sai lầm, là không có cơ cở tồn tại. (Tham khảo Hộp đen của Đác-uyn – DARWINS’ BLACK BOX và Michael. Và cuốn sách ‘Thuyết tiến hóa: nguy cơ từ lý luận – EVOLUTION: A THEORY IN CRISIS’.

Mọi người ngày nay nghĩ rằng khoa học đang rất phát triển, nhưng so sánh với những hiện tượng xuất hiện UFO trong những năm gần đây, thì khoa học kỹ thuật của nhân loại lại tỏ ra vô cùng yếu kém, UFO có thể đến một cách vô hình, và biến đi không có dấu vết, nói đến là đến, nói đi là đi, hoàn toàn không giống quy tắc vận hành của nhân loại, duy chỉ bọn họ biết rõ chúng ta, tùy ý tiến vào không gian của chúng ta, vậy mà khoa học kỹ thuật vẫn được nhân loại lấy làm kiêu ngạo. Vì không thể tiến được vào không gian của họ, nên khoa học đành phải nói rằng UFO là không tồn tại.

Mắt thường nhìn không thấy liền cho rằng không tồn tại, đây là một loại tự cao tự đại của nhân loại khi tin tưởng rằng khoa học thực chứng ngày nay là vạn năng, thật ra là tâm lý ‘ếch ngồi đáy giếng’ mà nhìn trời cao.

 

 

Trương Đoan Lâm người Hải Xương thời nhà Minh, cha của ông làm sĩ quan cấp úy tại Vân Nam, đã chết khi còn nhậm chức. Trương Đoan Lâm đem linh cữu của cha về quê an táng, trên đường đi qua Hồ Quảng, ông phát hiện ở đó giá gạo rất rẻ, liền đem toàn bộ số ngân lượng mang theo, mua 800 thạch (đơn vị dung tích khoảng 100 lít) gạo cho lên thuyền, dùng thuyền vận chuyển về Hà Nam. Trên sông gặp gió lớn, rất nhiều đội thuyền đều phải cập bờ dừng lại.

Khi thuyền đi vào một thôn xóm, bốn phía đều là sông, thuyền chở khách đậu vòng quanh, trong đó có một đại gia đình, tường lớn cao dày,  đội thuyền ngừng trước cửa nhà này cũng rất nhiều, Đoan Lâm liền lên bờ tản bộ, ngẫu nhiên đi vào một quán rượu nhỏ, một mình uống rượu. Nghe khách trong quầy thảo luận, nơi này có một lão Lương Ông xem bói, biết quá khứ tương lai của một người, tính được lành dữ họa phúc, vô cùng linh nghiệm.

Đoan Lâm liền đến người khách hỏi thăm, mới biết được người ở trong nhà đó, nhận được chân truyền của một dị nhân, dùng Đại Lục Nhâm mà nổi danh, người xem bói chưa cần mở miệng đã biết được chuyện muốn hỏi, vì vậy sau khi lập nghiệp đã phát tài rất nhiều.

Gần đây vì tuổi già, mỗi ngày chỉ đoán mười hai quẻ, người nào muốn cầu xem bói phải đến nhà ông từ sáng sớm, giao phí đăng ký là 100 văn tiền, phí đoán một quẻ là một lượng, người đến sớm được liệt kê trong danh sách, thì mới có thể được xem bói. Đến chậm đăng ký không được, thì không được xem. Mọi người đều giành nhau đến trước, cũng có người xa nghìn dặm đến xin chỉ giáo nữa, cho nên trước cửa thường đậu rất nhiều thuyền bè.

Đoan Lâm cũng nảy sinh ý muốn cầu một quẻ, sáng sớm hôm sau liền mang theo ngân lượng đến nhà ông ấy, người gác cổng bố trí quầy hàng, trưởng quầy chính là người thân của ông, nên liền đăng ký được một số.

Đợi đến lượt Đoan Lâm đi vào, mười hai số đã treo kín, Đoan Lâm cầu ông xem thêm một số, ông nói: “Tôi không phải là chủ, không dám tự tiện tăng thêm”. Khi người cầm sổ gọi mười hai vị khách đi vào, Đoan Lâm cũng theo họ vào phòng xem.

Chỉ thấy trong phòng bày biện tinh nhã, có vị lão Ông gần tám mươi, đầu đội băng quan tứ phẩm, ngồi ở đó, trên bàn án trước chỗ ông ngồi bày đặt một ống quẻ bằng ngà voi, hai bên có bốn tiểu đồng chấp bút nghiên mực phục mệnh.

Trưởng quầy mở sổ ghi chép gọi: “Vị khách thứ nhất, xin mời rút trù (thẻ bằng tre, gỗ hoặc ngà voi)”. Khách rút trù đưa cho lão Ông phía trước, lão Ông xem trù thoáng tính toán, rồi nói với đám học trò: “Mỗi khách có một giờ đồng hồ, với mỗi một sự việc được hỏi, ông nói rõ quẻ chủ cát hung như thế nào”, các đồ đệ chắp bút ghi lại không ngừng, đều giải đáp cho khách rất ưng ý, không sai một ai. Sau khi tất cả mười hai quẻ đều đã đoán hết, khách cũng lần lượt rời đi.

Đoan Lâm nghe đến mắt nhìn chăm chú tâm thần ngưng tụ, quên cả ra về. Lão Ông bỗng nhiên nói với Đoan Lâm: “Khách từ phương xa đến không kịp đăng ký số, lão già cổ hủ ta tặng anh một quẻ, làm hết nghĩa tình của một người chủ. Anh họ Trương, từ Điền Nam đến phải không?” Đoan Lâm trả lời: “Đúng vậy, sao ông biết được vậy?”

Lão Ông nói: “Chỗ anh đang ngồi thuộc cung Ly, lại đang lúc buổi trưa, tính toán giá trị trương tinh, nên ta biết. Hôm nay là ngày Ất Mão, tam truyền lấy Thân, Dậu, Tuất làm ngày tài quan trong số Quý Thần, Bạch Hổ, Thái Thường, Huyền Vũ, Bạch Hổ hung thần đồng quan, có liên quan tới tôn thuộc, bên trong thuyền của anh ắt có chứa quan tài của phụ thân anh.

Tuất là địa ngục, cha anh lúc còn sống từng làm quan cai ngục. Thái Thường là lúa mạch, kèm theo Dậu Kim, nên có chứa gạo. Lưỡng kim lặp lại tứ số, gạo là 800 thạch phải không? Khóa Trung Dần nhất xung, Ki Tinh động hĩ (Ki Tinh chủ phong). Ngày mai giờ Dần gió sẽ chuyển hướng Tây Bắc, thuyền chạy rất thuận lợi.

Vị Truyền là địa, Tuất Mão tác hợp, ứng nghiệm tháng 12 ngày Mão sẽ trở lại nguyên quán, nhưng gạo mang về chẳng những không bán được giá tốt, mà một hạt cũng không còn, lý do là tài đã nhập Huyền Vũ nên tiêu tan hết, tận hóa thành Quỷ Hỹ trong Tam Truyền, anh nhất định phải đối đãi cẩn thận”.

Sau khi đoán xong, Đoan Lâm trả ngân lượng rồi trở về thuyền của mình, quả nhiên canh năm rạng sáng ngày hôm sau thuyền thuận gió, giương buồm mà tiến, ngày Mão 26 tháng Chạp, thuận lợi về đến Vương Gia Kiều.

Đã gần đến ngày lễ cuối năm, không có thời gian rỗi để an táng, nơi ông ngừng thuyền có người anh rể tên Lục Mỗ, là thương nhân buôn bán gạo. Liền mượn anh rể một khoảng đất trống, tạm thời chôn quan tài của cha; bởi vì nghĩ đến việc khi gạo mang về nhà, họ hàng sẽ cưỡng ép mượn, không như gia đình của chị gái, nên gửi gạo lại nhà chị.

Sau đó Đoan Lâm lấy lý do phải mừng năm mới cùng mẹ để trở về, qua tết, Đoan Lâm trở lại nhà chị gái, gõ cửa bước vào, chị gái khóc lóc nói với Đoan Lâm: “Anh rể của em thiếu nợ khách hơn ngàn lạng vàng, nên gạo năm trước em gửi ở đây, đều bị khách cưỡng đoạt cướp hết rồi. Anh rể không dám nhìn mặt em, bây giờ cũng không biết anh ấy trốn ở đâu nữa”.

Lúc này Đoan Lâm mới nhớ đến quẻ bói của Lương Ông, cảm thán nói: “Số đã định trước rồi, quả nhiên không thể tránh được. Chị không cần lo lắng, chúng ta là thân thuộc, giá gạo không cần tính toán, bây giờ chúng ta đi tìm anh rể trở về nhà thôi”.

Trong quyển sách này ghi lại thầy bói Lương Ông, được dị nhân chân truyền, quả thật là lợi hại, khi Trương Đoan Lâm đến, chưa kịp nói một câu, chỉ dựa vào chỗ anh ta ngồi cùng thiên can địa chi và thời thế, mà có thể tính ra họ của ông, đến từ đâu, đi hướng nào, hiện đang làm chuyện gì, kết cục sẽ như thế nào… Mà sau đó quả thật đã ứng nghiệm; Trương Đoan Lâm cũng than thở viết: “Số đã định trước rồi, quả nhiên không thể tránh được. Mọi chuyện đều đã có định số, bất kỳ việc gì nảy sinh cũng không phải là ngẫu nhiên”.

 

 

 

 

Thời nhà Minh, Từ Cự Nguyên người Nam Xương, tự là Thế Phổ, đỗ tiến sĩ năm Sùng Trinh, nổi tiếng về thư pháp, người thân họ Trâu mời ông đến để mở lớp dạy học. Trên đường đi, Từ Cự Nguyên gặp một cơn gió lạ, thổi ông lên tầng mây, thấy một người mặc trường bào, tay cầm thẻ quan đến đón ông và nói: “Minh phủ tạo cung điện, kính mời tiên sinh viết câu đối”.

Từ Cự Nguyên đi theo người này, đến một chỗ như là nơi của Đế Vương, những tấm biển câu đối đã sắp xếp xong, chỉ là chưa viết chữ. Hoành phi là: “Nhất thiết duy tâm tạo” (Hết thảy đều do tâm tạo thành). Liên ngữ là: “Tác sự vị kinh thành tử án, nhập môn do khả vọng sinh hoàn” (Sự việc chưa làm xong đã phải chết, đến cửa rồi vẫn mong sao còn được sống). Sau khi Từ Cự Nguyên viết xong, Diêm Vương suy nghĩ nên tạ ơn như thế nào, thì ông xin cho mẹ tăng thêm 12 năm tuổi thọ, Diêm Vương đã đáp ứng.

Lúc này, Từ Cự Nguyên thấy phán quan cầm sổ ghi chép sinh tử, liền xin tra giúp mình một chút, phán quan nói: “Đây là sổ ghi chép người chết bình thường, ông là chết oan. Không có ghi trong sổ này”. Nói xong phán quan lấy ra một cuốn sổ ghi chép khác có chữ Hỏa (), trong đó viết: “Vào tháng đó ngày đó, Từ Thần Nguyên bị chết cháy”. Từ Cự Nguyên vô cùng sợ hãi, cầu xin Diêm Vương sửa lại.

Diêm Vương nói: “Đây là ý Trời. Thế nhưng, ta tạm thời đáp ứng yêu cầu của anh, nhưng anh phải nhớ kỹ ngày giờ, đến lúc đó không nên tới gần lửa là được”.

 

Từ Cự Nguyên cảm ơn và từ biệt Diêm Vương, trở về, vội vàng chạy tới nhà họ Trâu. Chủ nhân thất kinh, hỏi: “Một năm nay tiên sinh đi đâu vậy? Kiệu phu vì ném tiên sinh đi, bị người bẩm báo cho quan phủ, vì có điều nghi ngờ nên họ đã bị giam giữ trong ngục giam trong trấn một thời gian rất lâu rồi”. Từ Cự Nguyên kể hết duyên cớ sự tình, rồi đi đến quan phủ, giải thích mọi việc rõ ràng.

Thời đó, Hùng Văn Kỷ là người cùng huyện với ông, hiệu là Tuyết Đường, là Lại Bộ Thị Lang (Cổ xưa gọi là Thiếu Tể) đã về hưu, nhàn cư ở nhà. Một ngày, Hùng Văn Kỷ mời Từ Cự Nguyên đến uống rượu, chưa uống xong, Hùng Văn Kỷ bỗng không uống nữa, rồi nói: “Bụng tôi đau quá, không thể tiếp anh nữa rồi”.

Từ Cự Nguyên hay đùa nói: “Cổ đại có Tái Tể Bì, hôm nay lại có Thiếu Tể Bệnh sao?” Hùng Văn Kỷ nghe vậy cảm thấy rất không vui. Từ Cự Nguyên trước khi về, có viết lại một bài thơ Đường tứ tuyệt “Thiên Sơn Điểu Phi Tuyệt”* của Liễu Tông Nguyên lên vách tường, nhưng ông viết ngược lại bốn câu thơ đó, thành ra, bốn chữ cuối câu ghép lại thành “Tuyết ông diệt tuyệt”. Hùng Văn Kỷ nhìn thấy bốn chữ này, nên trong lòng ghi hận Từ Cự Nguyên.

Về sau, Từ Cự Nguyên nhớ lời nhắc lúc ở Minh phủ, đặc biệt sợ lửa, nên không dám gần vật dụng bằng gỗ, ở trong núi xây một gian phòng đá, đem theo lương thực, ở trong phòng đá tránh tai họa. Lúc ấy, bọn cướp hoành hành, Hùng Văn Kỷ phái người tung tin đồn, nói trong động ở núi Tây Sơn của Từ Cự Nguyên giấu rất nhiều vàng. Bọn cướp nghe vậy, liền lên Tây Sơn cướp bóc, kết quả không tìm thấy vàng, bọn chúng đã dùng bàn ủi thiêu đốt toàn thân Từ Cự Nguyên, khiến ông chết cháy.

Trong cuốn sách này ghi lại,  kết luận số mệnh có ý tứ rất rõ ràng, một người sẽ chết bình thường, hoặc chết ngoài ý muốn, ghi rõ là chết vì lửa, ở không gian khác đều đã có ghi lại. Từ Cự Nguyên cầu xin Diêm Vương, Diêm Vương nói là ý Trời, cũng đáp ứng sẽ giúp đỡ, nhưng chính ông cần phải không được đến gần lửa. Vì vậy, Từ Cự Nguyên dứt khoát ngay cả vật dụng bằng gỗ cũng kiêng kỵ, ở trong phòng đá, nghĩ rằng đã không còn dính dáng gì đến lửa, ai ngờ người tính không bằng trời tính, cuối cùng vẫn bị bọn cướp dùng bàn ủi thiêu chết.

Có thể có người nói, những thứ bạn viết đều có sử dụng nội dung quái, lực, loạn, thần, những nội dung đó sớm đã bị khoa học ngày nay vứt bỏ rồi, vậy mà còn lấy những thứ này làm minh chứng. Thật ra, những điều bị coi là quái, lực, loạn, thần này rất nhanh sẽ được xem là tân tiến, là những thứ thâm sâu ảo diệu nhất, là điều tối căn bản của nhân loại và vũ trụ để nghiên cứu.

Gần đây, trên web Đại Kỷ Nguyên có đăng một bài “Sự Bất Tử Của Linh Hồn Được Các Nhà Khoa Học Chứng Minh Bằng Cơ Học Lượng Tử”, độc giả có thể xem ở link bên dưới:

http://vietdaikynguyen.com/v3/8292-su-bat-tu-cua-linh-hon-duoc-cac-nha-khoa-hoc-chung-minh-bang-co-hoc-luong-tu/

Trong bài báo có viết: Gần đây, nhà khoa học Robert Lanza của nước Mỹ đã chứng minh sự bất tử của linh hồn căn cứ vào cơ học lượng tử đã được giới truyền thông truyền rộng trên khắp thế giới, tạo nên sự quan tâm của mọi người.

Giáo sư Robert Lanza tại Đại học Y Wake Forest North Carolina thông qua nghiên cứu đã phát hiện, trong cơ học lượng tử đã có đầy đủ căn cứ chứng minh chính xác rằng con người sau khi chết không biến mất, cái chết chỉ là ảo giác do ý thức của nhân loại tạo thành.

Lanza nói: “Khi tim người ngừng đập, máu ngừng chảy, tức là lúc nguyên tố vật chất ngừng hoạt động, thì ý thức của con người vẫn có thể hoạt động, ngoài sự hoạt động của thân thể xác thịt này, còn có tín tức lượng tử khác siêu việt thân thể cũng hoạt động, thường gọi là “linh hồn”.

Như vậy, linh hồn rốt cuộc tồn tại ở đâu? Giáo sư Lanza cho rằng, linh hồn chẳng những có thể tồn tại trong vũ trụ này của chúng ta, nó còn có thể tồn tại trong vũ trụ khác. Năng lượng của ý thức linh hồn tại một thời điểm nào đó có thể được gọi trở về để nhập vào một thân thể khác. Cùng lúc đó, nó có thể tồn tại không cần thân thể vật chất ở một thế giới chân thực nào khác, tức là có thể là một vũ trụ khác.

 

 

 

Có người hỏi ông Luân Hồi là chuyện gì, ông trả lời: “Luân Hồi không phải một câu là có thể giải thích rõ ràng. Chết có vài hình thức, sống cũng có vài hình thức. Người có công đức lớn, có thể trở thành Thần Phật; người có lai lịch lại bị vô cớ giáng chức, vẫn có thể trở về vị trí trước kia; nếu không có công đức, cũng không có lai lịch, nhưng vận số còn chưa tản hết, tùy lúc có thể đầu thai làm người; nếu người nào vận số tản hết, thì sống chẳng khác nào chết, chết thì chính là chết luôn.

Nhưng, tiểu hồn tiểu phách như khói bếp bị gió thổi, nhất thời chưa thể tiêu tán, thường tụ tập thành một đoàn khí, bay tới bay lui, có khi bị gió thổi đến dưới núi Âm phủ, vô cùng rét lạnh, chỉ có ngày đông chí, mới có một tia ánh sáng mặt trời chiếu lên ngọn núi Âm phủ, lúc này, đám quỷ từ từ di động, bắt đầu hồi phục, dọc theo ánh sáng hướng lên trên mà đi, lúc này mới lên đến thế gian, đầu thai trở thành thân người.

Dù những người này đầu thai thành một người, nhưng trên thân người đó thường tụ tập rất nhiều linh hồn, mà không chỉ có một linh hồn. Những người không được ánh sáng chiếu tới, chỉ đành ở lại dưới núi Âm phủ như trước, đợi ngày đông chí năm sau”.

Có người hỏi: “Có người nào lần đầu tiên đầu thai làm người không?” Ông trả lời: “Loại tình huống này rất nhiều. Ví dụ như cỏ cây, nếu không có rễ cũ mà trực tiếp sinh trưởng, chính là lần đầu tiên trở thành cỏ; tương tự như vậy, chưa từng đầu thai làm người, thì chính là lần đầu tiên làm người”.

Lại hỏi: “Quỷ cũng có thể hóa thành vật sao?” Ông trả lời: “Có. Đại khái là, quỷ hồn của kỹ nữ hóa thành côn trùng, bươm bướm; quỷ hồn của người ác thì hóa thành rắn độc, mãnh hổ”.

Lại hỏi: “Quỷ mà bị sấm sét đánh chết, thì biến hóa thế nào?” Ông trả lời: “Hóa thành con giun”.  Đàm Tử ‘Hóa Thư’ đã nói: “Phàm là bị sét hay điện làm chết, lấy chất lỏng của con giun bị đập nát, đặt ở trên rốn của người đó, người đó có thể sống lại”. Xem ra, những lời này là có căn cứ vậy.

Một ví dụ khác là Kỷ Quân đời nhà Thanh (1724 – 1805, Lễ Bộ Thượng Thư, tham gia Đại Học Sĩ) viết: Anh họ An Thiên Thạch của ông đã từng bị ốm, hồn du đến Âm phủ, có hỏi thăm quan quản lý sổ sách.

Quan nói: “Có Luân Hồi, cũng có không Luân Hồi. Luân Hồi có ba loại tình huống: Có phúc được báo đáp, có tội bị báo ứng, có ân có oán thì có hồi báo. Không Luân Hồi cũng có ba loại tình huống: Thánh hiền Tiên Phật không tiến vào Luân Hồi; người phạm tội nặng nhập địa ngục Vô Gian thì không được Luân Hồi, không có tội cũng không có phúc thì mặc cho người đó đi đi lại lại ở nơi mồ mả, dư khí đã hết thì tạm thời tồn tại, dư khí biến mất thì quy về tiêu hủy triệt để.

Như là giọt sương bong bóng, chợt có chợt không, như là nhàn hoa cỏ dại, tự mình sinh trưởng tự mình điêu tàn, giống như vậy thì không thể Luân Hồi. Hoặc là có hồn phách không nơi nương tựa, bám lên thân người mà thành bào thai, gọi là sống tạm bợ. Tăng nhân đạo nhân có chí lớn tu hành lại thuần khiết, thì chuyển thế tá hình, gọi là đoạt xá. Đây đều là ngẫu nhiên biến hóa ra, không ở trong Luân Hồi bình thường.

 

 

Triều đại nhà Thanh, bên cầu Tiên Kiều ở Hàng Châu có một gia đình họ Hứa, nghe nói, trong nhà của gia đình đó có một con quỷ chuyên thắt cổ người; một người tên là Chu Thập Nhị làm nghề giết mổ gia cầm gia súc, ỷ vào sự dũng mãnh của bản thân, cầm dao mổ heo lên lầu nhà đó, đốt nến nằm ngủ.

Sau canh ba, ánh nến biến thành màu xanh, quả nhiên có một bà lão tóc tai bù xù, cầm một sợi dây đến. Chu Thập Nhị dùng đao chém bà, bà lão liền dùng dây thừng trói anh ta, đao chém vào sợi dây, dây thừng đã đoạn; nhưng trong chốc lát liền dài lại, hoàn hảo như lúc đầu; dây thừng quấn trên cây đao, đao cũng giống như sương mù, bị dây thừng cuốn quanh.

Hai người chiến đấu thật lâu, bà lão dần dần không còn khí lực, mắng: “Chu Thập Nhị, ta không phải sợ ngươi, đơn giản là vì ngươi còn phúc phận, còn có mười lăm ngàn đồng chưa đạt được, cho nên, ta tạm thời bỏ qua cho ngươi. Chờ ngươi đạt được số tiền kia, lại đến xem thử thủ đoạn của Kim lão nương!” Nói xong, bà lão kéo dây thừng bay đi.

 

Chu Thập Nhị đi xuống lầu, đem chuyện này kể cho mọi người, mọi người nhìn thấy đao của anh ta, trên nó có vết máu màu tím, hơn nữa rất hôi. Hơn một năm sau, Chu Thập Nhị bán đi nhà ở, kiếm được mười lăm ngàn đồng. Đêm đó, anh ta quả nhiên đã chết.

Quyển sách này ghi lại tuy đơn giản, nhưng đã nói ra một Pháp lý vô cùng sâu sắc trong cuộc đời một người: Chính là phúc lộc của một người đã được định trước. Quỷ hồn của bà lão lần trước không thể thắng, là vì tuy bà ở không gian khác thấy phúc phận của Chu Thập Nhị đã tận, nhưng còn mười lăm ngàn đồng chưa đạt được. Sau này khi Chu Thập Nhị bán đi nhà ở, vừa đủ mười lăm ngàn đồng, chính là phúc lộc đã dùng tận; quả nhiên như bà lão nói, màn đêm buông xuống liền chết.

Có thể thấy được, lời xưa truyền lại, thực lộc tận thì mệnh tận, không phải là một câu nói bừa.

Thật ra, mỗi người sinh ra đều có một túi tiền (Ngoại trừ chết yểu hoặc chết oan), túi tiền mỗi người lớn nhỏ là không giống nhau; người có phúc đức lớn, túi tiền có thể mang được ngàn, vạn đến trăm triệu, người phúc đức nhỏ, túi tiền chỉ chứa mười vạn trăm vạn hoặc ít hơn.

Đương nhiên, bối cảnh thời đại khác nhau, giá trị tiền cũng khác nhau, ví như có thể chia làm ba loại túi tiền, lớn,vừa và nhỏ . Người từ nhỏ mà mang theo túi tiền lớn thường có tỷ lệ nhỏ nhất (ví như năm 2014, toàn cầu chỉ có 1645 người), là phải từ kiếp trước, nhiều kiếp trước tu thành được phúc đức lớn, đưa đến kiếp này, chuyển đổi thành tỷ phú.

Phần lớn đều là người bình thường, bình thường chỉ có thể mang túi tiền nhỏ đi đầu thai, đủ bình thường ăn, mặc, ở, đi lại, có thể ấm no là được. Cũng có một phần ít người mang theo túi tiền vừa, chính là giai tầng trung lưu như giới chuyên nghiệp, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật, quản lý, cùng với các thành phần tri thức khác.

Toàn bộ xã hội, các ngành các nghề, nhiều vô số, đều là có sinh mệnh cao cấp an bài, tiến hành đâu vào đấy, tương đương một cái giỏ một cái hố, người người đều từ trong số mệnh của mình mà sống, làm việc trong một giai tầng nhất định, đó là phúc phận từ kiếp trước, hoặc nhiều kiếp trước của mỗi người mà tạo thành.

Nếu có người muốn phá vỡ hiện trạng này, muốn dựa vào bản thân hoặc các nhân tố xã hội khác, từ túi tiền nhỏ muốn tiến vào giai tầng tỷ phú, như Trung Quốc hiện nay, chính là một xã hội biến đổi không còn bình thường, một thời kỳ hỗn loạn, hết thảy pháp chế không kiện toàn, tự do cạnh tranh trong kinh doanh chưa được thành lập, trong tình huống mà kiểm soát dân chủ hoàn toàn khuyết thiếu, vì vậy họ đều dựa vào các con đường không đúng đắn và các mối quan hệ bất chính, mà thật sự đã tạo nên không ít tỷ phú.

Đương nhiên, có một số người thật sự là có mệnh tỷ phú, tức là trong số mệnh có phúc đức nhiều, điều này từ trong Bát Tự có thể nhìn ra được, loại người này có thể bảo trì tài sản, bởi vì đó là thứ mang theo từ trong số mệnh.

Nhưng có một nhóm người, cũng là tỷ phú trong xã hội ngày nay, nhưng trong mệnh của họ lại không có phúc đức tỷ phú, nhưng ngày nay lại tạm thời đạt được, cuối cùng cũng sẽ mất đi, phải dùng tính mạng hoặc tai ương lao tù mà hoàn trả lại, bởi vì đó là Phép tắc của vũ trụ, lực lượng vũ trụ cân bằng những chuyện này.

Chuyện này như trò đu dây, bạn có thể gặp được cơ hội hiếm có khó tìm mà đạt được tiền tài tỷ phú, nhưng sẽ nhanh chóng trở lại vị trí ban đầu, bởi vì đó không phải là điều bạn đáng được, dù đã nhận được cũng sẽ mất đi; bởi vì trong số mệnh của bạn không có phúc đức lớn như vậy. Hết thảy tiền tài trong cuộc sống, hưởng dụng vật chất đều dùng đức trong mệnh của bản thân mà đổi lấy.

Gần đây, báo chí Trung Quốc đưa tin: Tại sao các tỷ phú Trung Quốc lần lượt mất mạng? Theo phóng viên báo “Tin tức kinh tế” hàng ngày thống kê, từ đầu thập niên đến nay, liên tiếp xuất hiện nhiều vụ án đột tử của các giám đốc xí nghiệp nổi danh hoặc những công ty thị trường chứng khoáng; vẻn vẹn từ tháng 1/2010 đến tháng 7/2011, trong vòng 19 tháng, đã xuất hiện 19 giám đốc, chủ tịch, quản lý cấp cao qua đời, đa số vì bệnh bộc phát đột tử mà chết.

Trong những người đó, có 6 người hơn 36 tuổi, 5 người hơn 40 tuổi, 7 người hơn 50 tuổi; đều đang ở độ tuổi trẻ trung cường tráng lại chết sớm, tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với những người làm công việc khác, quả thật không bình thường chút nào!

Cũng có bài báo viết: 10 năm gần đây, có 73 tỷ phú tại Trung Quốc đã chết oan chết uổng, phần lớn là trung thanh niên, là hiện tượng vô cùng hiếm thấy. Đó không phải là tỷ lệ chết bình thường, nó chiếm trị trí thứ hai, gần với tỷ lệ tử vong của cảnh sát,.

Trong 73 người chết, 15 người vì tranh chấp làm ăn mà bị giết chết; 17 người không chịu được áp lực tự tử chết; 7 người đã xác định là chết vì bệnh, nhưng có rất nhiều tin đồn; 14 người vì làm ăn trái pháp luật mà bị xử tử hình; 19 người vì dốc sức kiếm tiền mà qua đời vì bệnh, bình quân tuổi thọ của những người này là 48 tuổi.

Cho nên có người nói, ở Trung Quốc, tỷ phú là nhóm nghề nghiệp có nguy cơ cao, cũng có người phân tích nói, bởi vì nó có sứ mệnh lớn, có trách nhiệm và tinh thần phấn đấu, mới khiến những tinh anh này trổ hết tài năng, cũng bởi vì địa vị cao, gánh chịu trách nhiệm phát triển tồn vong của công ty, rất nhiều quản lý cấp cao đã đến mức quên mình, bỏ qua đồng hồ sinh học trong cuộc sống cá nhân, quên nhu cầu của người nhà, bỏ qua thể xác và tinh thần.

Còn có say rượu, hút thuốc, ít vận động, thức đêm, mệt nhọc, thể chất a-xit, nguyên tố vi lượng mất ổn định, ô nhiễm môi trường…rất nhiều nguyên nhân.

Nhưng chả lẽ những ngành nghề khác không tồn tại những nguyên nhân trên sao? Như ngành sản xuất mỏ, nông dân cày cấy giữa trời nắng gắt, kiến trúc, cửu vạn … công nhân các ngành nghề khác, so với tổng giám đốc, chủ tịch, quản lý thì vất vả hơn không biết bao nhiêu lần, nhưng không xuất hiện tỷ lệ tử vong cao như vậy, tìm những nguyên nhân bên ngoài là phân tích không thông vấn đề này.

Hơn nữa, tỷ phú (chỉ tài sản vượt qua 1 tỷ USD) ở Trung Quốc, trong năm 2014 trên toàn thế giới có 1645 người chỉ chiếm 152 người, so với 492 tỷ phú của Mỹ thì ít đi vài lần, nhưng không thấy hiện thượng nhiều tỷ phú chết non ở độ tuổi trung tráng niên như vậy, chẳng lẽ tỷ phú nước Mỹ không khổ cực, không lao lực, không chịu áp lực lớn? Họ sẽ không có sứ mệnh lớn, trách nhiệm và tinh thần phấn đấu? Bọn họ làm tổng giám đốc, chủ tịch rất dễ dàng sao? Không phải vậy.

Bởi vì nước Mỹ là một xã hội mà quy tắc tự do cạnh tranh đã vô cùng thành thục, tăng thêm giám sát của truyền thông, người dân tự do tuyển cử, pháp chế kiện toàn, ngăn chặn phần lớn những thủ đoạn không bình thường, đường dây, quan hệ bám váy các loại để phát tài, vì vậy ngăn chặn cơ hội của những người vốn không có mệnh tỷ phú dựa vào cơ hội bất chính, thủ đoạn bất chính hoặc nhân duyên nào đó mà đi vào hàng tỷ phú. Tỷ lệ những tỷ phú mà không phù hợp với tiêu chuẩn và bị phép tắc vũ trụ đào thải này đã được giảm bớt rất nhiều.

Những người có mệnh tỷ phú, trong số mệnh vốn có phúc đức lớn như vậy, cho nên dù gây dựng sự nghiệp gian khó thế nào, công tác vất vả ra sao, trải qua bao nhiêu gian khó, khi vận mệnh của những người này chưa đạt được thành tựu xứng đáng, thì sẽ không chết sớm, đây chính là sự khác nhau căn bản giữa họ.

Xã hội loài người có một quan niệm thâm căn cố đế, cho rằng người làm việc càng nhiều, càng cố gắng, chỗ tiền kiếm được sẽ càng nhiều; đơn cử người Trung Quốc thường nói, làm nhiều được nhiều, là thiên kinh địa nghĩa (hợp với đạo lý của đất trời). Thật ra, cái mà người ta gọi là dựa vào sức lao động công tác trong xã hội kiếm được tiền, trên thực tế chính là lấy số tiền có trong túi số mệnh của mình đưa ra mua bán bên ngoài, đổi thành tiền của quốc gia hiện thời mà thôi.

Nếu tiền trong số mệnh của bạn sử dụng hết quá sớm, thọ mệnh của bạn trong kiếp này cũng chấm dứt. Cho nên Chu Thập Nhị bán đi phòng ở, tưởng là buôn bán lời mười lăm ngàn, thật ra chính là đem mười lăm ngàn cuối cùng trong số mệnh của mình dùng hết, cho nên liền chết. Người tại trong mê, nhìn không rõ, bà lão Kim thủ không bị trói buộc trong thân người, có thể nhìn thấy chân tướng, nên mới biết trước được khi anh ta dùng hết số tiền kia sẽ phải chết.

Cái mà con người gọi là kiếm tiền, thật ra chính là hao phí tiền từ trong số mệnh của mình mà được, lợi nhuận càng nhiều, tiền trong số mệnh mang theo càng ít, khi tiền kiếm được vượt qua số tiền trong mệnh của người nào đó, mượn một câu tục ngữ: người này chính là game over rồi. Hơn nữa, trong đó còn liên quan đến một vấn đề, tiền mang theo từ số mệnh, cùng tiền kiếm được trên thế gian, là có bản chất khác nhau.

Tiền mang theo từ số mệnh là một hình thức tồn tại của đức, là sinh có thể mang theo đến, chết có thể mang theo đi, tùy theo nguyên thần của người đó mà đi. Một khi đem nó chuyển đổi thành tiền tài trong cuộc sống này, tức là đi ra làm công kiếm tiền, dẫu người đó kiếm được là USD, hay nhân dân tệ, liền trở thành một đống giấy sinh không mang theo đến, chết không mang theo đi mà thôi.

Như vậy xuất hiện một vấn đề, một người trong cuộc sống cố gắng phấn đấu kiếm tiền, chẳng khác nào cố gắng đem đức quý giá trên người mình chuyển đổi thành một đống giấy phế liệu không thể dùng ở không gian khác mà thôi, giống như dùng vàng để đổi thành đá.

Mọi người cố gắng vất vả, chỗ tiền kiếm được, phần lớn chi tiêu vào việc mua biệt thự, quần áo đồ dùng; theo công tác thống kê, một biệt thự xa hoa, có 70% diện tích là để đó không dùng; một phòng quần áo đồ dùng, có 70% là không cần. Cả đời dẫu kiếm được nhiều tiền hơn nữa, 70% là giữ lại cho người khác chi tiêu. Mà hết thảy những điều này, đều phải dùng thứ quý giá nhất trong sinh mệnh của bạn – đức mà đổi lấy, bạn cảm thấy có lợi sao?

Xã hội hiện nay ở Trung Quốc tồn tại một loại hiện tượng phổ biến, chính là mọi người đều hướng đến tiền, đều tiếp nối nhau kiếm tiền, phát tài, hết thảy hoạt động xã hội đều vây quanh tiền. Làm như vậy, trên thực tế chẳng khác nào vội vàng đem đức của mình tiễn đưa ra ngoài, đem đức trong sinh mệnh đổi thành tiền giấy, có thể đổi bao nhiêu liền đổi bấy nhiêu, đổi không được nữa, đức dùng hết rồi, liền lừa gạt cướp đoạt, có khác chi liều mạng! Đây cũng một trong những nguyên nhân tạo ra rất nhiều người trong xã hội phải chết oan chết uổng.

Trái lại, xã hội nước ngoài, người dân không xem kiếm tiền là mục tiêu duy nhất trong cuộc sống, thực tế là một ít quốc gia ở Châu Âu, người dân càng coi trọng cuộc sống nhàn nhã, thoải mái dễ chịu, tự do tự tại, cuộc sống không ràng buộc, kiếm tiền chỉ là một trong những phương thức để duy trì cuộc sống, thực sự không phải là mục đích duy nhất đây mới là cuộc sống bình thường của con người.

Cuối cùng, nói thêm câu nữa, tiền cũng không phải bạn muốn kiếm liền có thể kiếm được; cũng không phải bạn không muốn kiếm tiền thì tiền sẽ không đến. Người trong số mệnh có đức lớn, hoặc người trong số mệnh có nhiều phúc đức không dùng, lúc được thời vận giúp đỡ, dù bạn không có ý định kiếm tiền, tiền tài kia cũng sẽ vô tình mà tự động tìm tới tận cửa nhà của bạn, bạn không nhận không được.

Có một số người làm lụng cả đời, chỗ kiếm được tiền vừa vẹn tương xứng với số tiền mang theo trong túi số mệnh của mình, thì chính là lúc về hưu tuổi già, nếu bạn còn muốn làm tiếp kiếm thêm nhiều tiền; hoặc về hưu rồi, nhưng tiếp tục ra ngoài kiếm tiền, bạn sẽ rất nhanh phát hiện, tiền bạn kiếm được sau này liền tiêu mất một cách không thể hiểu được, hoặc bị người khác dùng, hoặc lái xe gặp chuyện không may, cần phải dùng mấy ngàn (nhân dân tệ) để sửa chữa, đây là vì túi tiền bạn kiếm được đã đầy, bạn lại thêm tiền vào, tăng thêm bao nhiêu, tự nhiên sẽ bị rò rĩ bấy nhiêu, tương đương với làm không công. Nếu không ngộ, phải dùng tính mệnh để hoàn trả, hết thảy đều thuận theo tự nhiên là tốt nhất.

Có thể nhìn ra, kiếm tiền không phải là mục đích duy nhất trong cuộc đời, cũng không phải kiếm được càng nhiều tiền càng tốt, đủ chi tiêu trong sinh hoạt, hơi có lợi nhuận là tốt rồi, vì sinh mệnh của mình mà tích thêm nhiều đức, đó mới là trân quý nhất, là điều duy nhất có ý nghĩa.

 

 

Trạng Nguyên Mã Đạc (1366 ~ 1423) thời đại nhà Nguyên, tự Ngạn Thanh, hiệu Mai Nham, người thôn Lĩnh Nam, Đàm Đầu, huyện Trường Nhạc, tỉnh Phúc Kiến. Vĩnh Lạc năm thứ 10 (tức năm 1412), trong kỳ khoa cử năm Nhâm Thìn ông là người đỗ đầu bảng tiến sĩ (trạng nguyên), được làm quan tu soạn trong Hàn Lâm Viện, rất được Minh Thành Tổ tín nhiệm, được giao làm phụ tá cho thái tử Chu Cao Sí.

Có tư liệu lịch sử ghi lại rằng vào năm Vĩnh Lạc thứ 16 (năm 1418), Lý Kỳ – người đỗ trạng nguyên khoa Mậu Tuất này là người em cùng cha khác mẹ với ông, cho nên “Một mái nhà hai trạng nguyên” đã trở thành giai thoại được lưu truyền.

Mã Đạc từ nhỏ đọc sách mười phần chú tâm khắc khổ, mỗi ngày vùi đầu dưới cửa, đọc không ngừng. Lúc 13 tuổi, ông vào Huyện tham gia cuộc thi dành cho học trò tuổi nhi đồng, vốn đã được định là đỗ đầu, nhưng vì giám khảo rất thích bài thi của ông, nên để riêng một bên, kết quả lại bị mất, khiến ông thi rớt.

Ba năm sau mới cùng Lý Kỳ – một trạng nguyên khác ở Trường Nhạc cùng nhau đi học. Về sau, họ lại cùng nhau đến Đông Khê tinh đài ở bản huyện bái một nhà nho danh tiếng tên là Trần Tuân Nhân làm thầy. Trần tiên sinh cũng là người Trường Nhạc, năm Hồng Vũ thứ mười tám đỗ tiến sĩ (năm 1385), làm quan đến Cấp Sự Trung, bởi vì can gián nói thẳng, đã đắc tội với Hoàng Đế, nên thoái ẩn ở nông thôn. Tài văn chương của ông nổi danh một thời, nên tri huyện Vương Tuân Đạo của Trường Nhạc đặc biệt mời ông dạy học ở Đông Khê tinh xá. Mười học trò đắc ý của ông sau này đều đỗ tiến sĩ.

Sau khi Mã Đạc vào tinh xá không lâu, cha mẹ ông lần lượt qua đời, gia đạo ngày càng khó khăn. Về sau lại nhiều lần thi Hương không thuận, cuối cùng đến ba bữa cơm cũng không đủ, đã từng một lần phải dựa vào bói toán mà sống qua ngày; bởi vì tài ăn nói không tốt, không quen xu nịnh, lại không muốn dọa dẫm lừa gạt khách hàng, nên việc làm ăn này cũng không tốt, ông và vợ phải trải qua một thời gian sinh sống gian nan.

Năm Vĩnh Lạc thứ chín (năm 1406), một người cùng học ở Đông Khê Tinh Xá với ông là Trần Toàn (cháu trai của Trần tiên sinh) thi trúng Bảng Nhãn, mà Cao Nhược Châu – vợ của ông lại là tiểu muội của Trần Toàn. Mã Đạc đang ở trong hoàn cảnh khốn khó, sau khi biết được sự việc đã rất chấn động, ông càng thêm chăm chỉ dốc lòng cầu học.

Năm Vĩnh Lạc thứ chín (1411), Mã Đạc lấy tư cách cống sinh vào kinh thành thi hội, lộ phí ít ỏi đều là mượn của bạn bè thân hữu, cho nên chỉ có thể chân mang giày rơm, lưng mang túi ba lô, đi bộ vào kinh thành.

Một ngày, ông đang chạy nhanh, bắt gặp thi thể một người nữ ở bên đường, tâm không đành lòng, ông không chỉ cởi áo phủ lên thi thể, mà con nghĩ cách an táng vào một ngôi mộ. Bởi vậy, làm trễ không ít thời gian, nhìn thấy cánh đồng mênh mông bát ngát, màn đêm bốn bề, đang lúc buồn bã, bỗng thấy có một ngọn đèn xa xa.

Ông đi đến xem, thì ra là bên trong cánh rừng thưa thớt có một gian phòng, liền lấy can đảm gõ cửa xin nhờ qua đêm. Không ngờ người mở cửa lại là một người thiếu phụ. Thiếu phụ kia rất đúng mực, sau khi biết được ý định của ông, liền cho ông tá túc, điều này cũng khiến cho Mã Đạc có chút do dự, nhưng trời đã quá tối, bản thân bôn ba một ngày nên rất buồn ngủ, đành phải mạo muội vào nhà xin nghỉ ngơi.

Ông cúi đầu không dám nhìn thiếu phụ, cũng không nói nhiều lời, bỏ hành trang liền ngã đầu ra ngủ, rất nhanh đã tiến vào mộng đẹp. Cho đến khi tỉnh lại, trời đã sáng, liền vội vàng cáo biệt thiếu phụ tiếp tục lên đường. Thiếu phụ cũng không nói nhiều, xuất khẩu thành thơ nhất tuyệt: “Hàn dạ đa thiếp gia, lô trung vô hỏa vị phanh trà. Lang quân thử khứ đăng kim bảng, vũ đả vô thanh cổ tử hoa.”

Dịch thơ:

Đêm lạnh tối om đến nhà thiếp

Trong bếp không lửa không pha trà

Lang quân lần này trèo lên bảng,

Mưa rơi im ắng cổ tử hoa.

Mã Đạc một bên nghe một bên cúi đầu đi ra, cảm thấy ba câu đầu dễ hiểu, chỉ có câu cuối là khó hiểu, nên muốn hỏi cho rõ. Vừa quay đầu lại, khiến ông giật nẩy người:   Nhà tranh, thiếu phụ đâu còn? Chỉ thấy cây cối sum suê, một mảnh đất vàng, chỗ ngủ thì ra là táng đả lớn bên cạnh ngôi mộ! Giật mình thì giật mình, những vì đang vội nên cũng đành phải đi.

Lại một ngày, Mã Đạc xuyên qua một đường mòn bên bờ ruộng, bờ này chỉ đủ cho một người đi qua. Đi tới đi tới, đột nhiên thấy một người nữ nông thôn gánh củi chặn đường đi. Mã Đạc nghĩ lui lại, nhưng nếu lui lại thì phải lui nửa dặm đường (~500m), cảm thấy có chút chần chừ.

Nông phụ nhìn ra tâm tư của ông, nên chủ động đáp lời: “Tiên sinh có lẽ đang vào kinh thi cử nhỉ? Tôi ra một câu đối, ngài đối được, thì tôi tình nguyện vượt bùn nước chảy mà nhường đường; nếu không, ngài chỉ có thể hạ mình xuống ruộng hoặc quay đầu lại, ngài thấy sao?” Mã Đạc nghĩ thầm, bị một cô gái nông thôn làm khó, thì mình còn vào kinh thi cái gì chứ? Liền sảng khoái đáp ứng.

Nông phụ nâng một chân lên và nói với Mã Đạc: “Con gái của tôi giỏi thêu thùa, còn rất thích hoa tú cúc. Đôi giày này của tôi là con gái tôi làm. Nhưng giày của nó thì thêu hoa cúc, giày của tôi thì là nhụy cúc. Tôi hỏi nó là vì sao? Nó nói: ‘Mẹ mỗi ngày sáng sớm ra ngoài, cỏ ven đường nhiều sương sớm, nhụy gặp sương sớm không phải sẽ nở ra hay sao?’ Nhưng nhụy trên đôi giày này đến giờ vẫn không có nở, cho nên đùa giỡn thành một câu vế dưới: “Thanh hài tú cúc, triêu triêu thích lộ nhị nan khai.’ (Giày xinh thêu hoa cúc, ngày ngày gặp đá nhụy khó khai) Nhưng vế trên tôi nghĩ không ra, tiên sinh là người học thức uyên bác, kính xin tiên sinh chỉ giáo.”

Vừa nghe xong, Mã Đạc cảm thấy không khó, nhưng chăm chú cân nhắc, xác thực có phần khó khăn. Mấy ngày qua nóng lòng chạy vội, thấy mình cũng sắp giống kiệu phu rồi, mạch suy nghĩ cũng khô khan mất linh. Nghĩ một lát, cảm thấy nhất thời còn đối không tốt, lại không muốn chậm trễ nhiều thời gian, đang định cởi giày xuống nước nhường đường, bỗng nhiên một âm thanh vang lên, giống như có đồ vật gì đó bay qua.

Ông ngẩng đầu, người nông phụ đã không còn thấy, trước mắt là bờ ruộng ngang dọc tung hoành, đường mòn thẳng tắp thông hướng đường lớn. Thì ra là do đi quá sớm, đi nhầm vào một đường cụt mà thôi. Vui vẻ bước nhanh trên con đường lớn, vừa đi vừa nhớ lại tình cảnh lúc ấy, nghiền ngẫm câu đối vừa rồi, cảm thấy cực kỳ kinh ngạc.

Cuối cùng cũng đến kinh thành, và thuận lợi vượt qua hội thi. Khi đem nộp bài thi, quan chủ khảo thấy tóc ông đã điểm bạc, tướng mạo cũng giống Vĩnh Lạc Đế mười phần, trong nội tâm âm thầm cảm thấy kỳ lạ. Đọc qua bài văn của ông, thấy bút lực mạnh mẽ, hỏa hầu thuần thục, liền yêu thích, muốn tuyển làm trạng nguyên.

Không ngờ, Tể tướng Bạch Vân Khánh lúc bấy giờ có ái nữ mới trưởng thành, muốn tuyển trạng nguyên làm con rễ, mà người ông ta thích là Lâm Chí. Lâm Chí là người Phúc Châu, thi Hương đứng đầu, thi Hội cũng đứng đầu, lại còn trẻ tuổi anh tuấn, đúng là người tốt nhất để lựa chọn làm con rể. Bản thân Lâm Chí cũng nghĩ rằng mình nắm chắc trạng nguyên. Về sau nghe nói định Mã Đạc làm trạng nguyên, trong nội tâm anh ta có vẻ không vui, rất không phục.

Bạch Vân Khánh biết trạng nguyên là người gần năm mươi, cũng vô cùng tức giận, liền đem hết trăm phương ngàn kế, muốn vì Lâm Chí mà vãn hồi kết quả thi. Nhưng quan chủ khảo một bước cũng không nhượng bộ.

Ngày dán bảng, Vĩnh Lạc Đế nghe nói chọn trạng nguyên có tranh luận, liền cho hai người lên phỏng vấn. Hai người lên điện lễ bái rồi đứng qua một bên, Vĩnh Lạc đế thấy tuổi Mã Đạc tuy lớn, nhưng vô cùng vững vàng, tướng mạo lại rất giống mình, cũng âm thầm thấy kỳ lạ; lại thấy Lâm Chí còn trẻ, khí vũ hiên ngang, cũng là nhân tài.

Lúc ấy Vĩnh Lạc Đế trong tay cầm một chiếc quạt có vẽ một nhành hoa mai, liền lấy quạt làm đề, yêu cầu hai người so tài. Hoàng Thượng ra câu đối là: “Bạch phiến họa mai, nhật nhật nghênh phong hoa bất động”. (Quạt trắng vẽ nhành mai, ngày ngày đón gió hoa bất động). Lâm Chí nhất thời không đối đáp được. Mã Đạc lập tức đối: “Thanh giày tú cúc, triêu triêu thích lộ nhị nan khai.”

Vĩnh Lạc Đế cao hứng gật đầu, lại chỉ một chậu cỏ Linh Nhi ở ngoài điện: “Phong xuy bất hưởng linh nhi thảo.” Mã Đạc lại thuận miệng đáp: “Vũ đả vô thanh cổ tử hoa”.

Linh Nhi thảo, tức Sa Sâm, là cây cỏ lâu năm, mọc thẳng đứng, chẳng phân biệt được cành, mùa thu nở hoa, giống hoa chung (xem ở bản thảo cương mục). Cổ tử hoa, tức là hoàn hoa, là hoa lâu năm thân cỏ. Câu đối hoa mặc dù mọc ở trên mây gọi là “Linh Nhi”, thực tế là cỏ, cho nên gió thổi tự nhiên sẽ không vang. Cổ tử hoa dù có tên cổ tử, vẫn là hoa, khó trách mưa rơi im ắng. Đối như vậy rất thỏa đáng, ngụ ý tuyệt diệu, thật giống như trời đất tạo ra vậy.

Vĩnh Lạc Đế thấy Mã Đạc đối đáp mau lẹ lại thỏa đáng, không ngớt lời khen ngợi: “Đúng là Trạng nguyên! Đúng là Trạng nguyên đây rồi!” Đủ loại quan lại dưới thềm đồng thanh xưng phải, Lâm Chí cũng tỏ vẻ bội phục. Mã Đạc cứ như vậy đã lấy được chức Trạng nguyên.

Quyển sách này ghi lại Mã Đạc, trên đường đi thi, xuất phát từ sự đồng tình và thiện tâm, chôn thi thể cô gái trên đường, trong lúc vô tình làm một việc đại thiện, tích đại đức, liền gặp được thiện báo. Nguyên Thần của cô gái kia ở không gian khác trước hóa thành thiếu phụ, sau hóa thành nông phụ làm phép giúp ông biết trước đáp án tốt nhất, giúp ông có cơ hội đăng khoa.

Bởi vì người sau khi chết, linh hồn (nguyên thần) thoát khỏi thân người trói buộc, ở không gian khác có thể nhìn thấy bản chất của sự vật, có thể thấy tương lai khi ông tới cung điện, Hoàng Thương sẽ ra câu đối gì và đáp án tốt nhất, nên liền cho ông biết, để báo ân ông đã chôn cất mình.

Đương nhiên, linh hồn của cô gái ở không gian khác cũng nhìn ra Mã Đạc có mệnh trúng trạng nguyên, cho nên mới nói: “Lang quân lần này trèo lên bảng”, như vậy mới có thể giúp được ông. Có thể thấy, mọi sự trên đời đều đã được định trước.