Thế Giới Tây Phương Cực Lạc

 

 

Cực lạc, còn được gọi là An lạc quốc, là tên của Tây phương Tịnh độ, nơi Phật A-di-đà cai trị. Tịnh độ này được đức Phật A Di Đà tạo dựng lên bằng thiện nghiệp của mình và thường được nhắc đến trong các kinh Đại thừa. Tịnh độ tông cho rằng nhờ lòng tin kiên cố nơi Phật A-di-đà và kiên trì niệm danh hiệu của ngài hành giả sẽ được tái sinh nơi cõi này và hưởng một đời sống an lạc cho tới khi nhập Niết-bàn.

Tịnh độ này được nhắc nhiều trong các bộ A-di-đà kinhVô Lượng Thọ kinhQuán vô lượng thọ kinh. Đối với Phật tử và cũng theo kinh A-di-đà thì đây là một thế giới có nơi chốn hẳn hoi, nhưng trong một nghĩa sâu kín hơn thì đây là một dạng ưu việt của tâm thức.

Theo kinh sách, Cực lạc tịnh độ nằm ở phương Tây. Đây là một nơi đầy ánh sáng rực rỡ do A-di-đà phát ra. Thế giới này tràn ngập mùi hương thơm, đầy hoa nhạc và châu báu. Chúng sinh nhờ nguyện lực được sinh ở thế giới này sẽ thấy mình từ hoa sen sinh ra, mọi mong cầu sẽ được như ý, không còn già chết bệnh tật. Trong thế giới này, mọi chúng sinh đều cầu pháp và sẽ được nhập Niết-bàn. Nguồn hạnh phúc lớn nhất là được nghe A-di-đà giảng pháp, bên cạnh có hai vị Đại Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí.

 

Để mọi người có thể hiểu hơn về Thế Giới Cực Lạc Phương Tây, chúng ta có thể đọc bài viết sau được trích từ chương thứ năm trong tập sách Đường Về Cực Lạc do Hoà thượng Thích Trí Tịnh biên soạn. Nội dung của chương này miêu tả về cảnh giới Cực Lạc và đồng thời nói về cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân cõi ấy.

 

Quốc Ðộ

Trích thuật theo các kinh:

 “Vô Lượng Thọ”,

Quán Vô Lượng Thọ”,

A Di Ðà

Cực Lạc Thế Giới


Ðịnh Danh. Trong hội Kỳ Viên, đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: “Cõi đó vì sao gọi là Cực Lạc?” Rồi đức Bổn Sư tự giải thích: “Vì chúng sanh trong cõi đó không có các điều khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui, nên gọi là Cực Lạc.

 

Phần A

Cảnh Vật

1 – Bảo Ðịa

Toàn cõi Cực Lạc, đất lưu ly trong suốt. Phía dưới có tràng kim cương nâng đỡ. Tràng kim cương ấy tám góc đều đặn, mỗi mặt có trăm thứ bảo châu. Mỗi bảo châu phóng nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng có 84.000 màu, chói đất lưu ly sáng như nghìn ức mặt trời. Mặt lưu ly bằng phẳng, có dây vàng ròng cùng thất bảo giăng phân khu vực và đường xá. Mỗi dây báu phóng ra tia sáng trăm màu. Tia sáng ấy hình như hoa, như sao, như trăng, chiếu lên kết thành đài sáng chói ở giữa chừng không. Bên những đài sáng ấy có trăm ức tràng hoa, cùng vô số nhạc khí. Từ trong đài sáng thổi ra tám thứ gió nhẹ mát, làm rung động những nhạc khí ấy reo lên tiếng diễn nói pháp “Khổ, Không, Vô Thường, Vô ngã, Từ bi, Hỷ Xả, các môn Ba La Mật”.

 

2 - Bảo Thọ

Trên bảo địa có vô số cây Chiên-đàn hương, vô số cây Kiết Tường quả, ngay hàng thẳng lối, nhánh, lá, bông, trái đều đặn chỉnh tề. Mỗi cây cao 8.000 do tuần. Thân, lá, bông, trái đều là chất thất bảo. Hoặc thứ cây thuần vàng, thuần bạc, thuần lưu ly, thuần pha lê, thuần xa cừ, thuần mã não, thuần chơn châu. Hoặc thứ cây gốc vàng thân bạc, nhánh, lá, thân, trái cũng phân vàng bạc, đây là cây hai chất báu. Có thứ cây gốc vàng, thân bạc, nhánh lưu ly, lá, bông, trái cũng phân vàng, bạc, lưu ly, đây là cây ba chất báu. Hoặc thứ cây thời bốn chất báu, thứ thời năm chất báu, thứ thời sáu chất báu, thứ thời bảy chất báu, cùng xen lẫn nhau hiệp thành.

Tất cả Phật sự trong cõi Cực Lạc đều hiện rõ bóng trong cây, và cả thập phương thế giới cũng hiện bóng rõ trong cây, như trong gương sáng.

Mỗi lá rộng 25 do tuần, một nghìn màu, đồng phát ánh sáng đẹp, làm gân lá như chuỗi ngọc.

Những bông xinh đẹp sắc vàng diêm phù đàn xen trong kẽ lá, sáng rỡ như những vòng lửa. Trên bông tự nhiên có trái thất bảo hình như chiếc bình quý của Thiên Ðế. Nơi trái phóng ra ánh sáng lớn tụ thành vô lượng tràng phan cùng bảo cái. Trong bảo cái ấy chói hiện tất cả Phật sự trong nước Cực Lạc cùng cả thập phương thế giới.

Bảy lớp lưới kết bằng diệu chơn châu giăng trên mỗi bảo thọ. Mỗi khoảng lưới có cung điện xinh đẹp như cung trời Phạm Vương. Trong cung điện tự nhiên có các Thiên đồng. Mỗi Thiên đồng đeo chuỗi năm trăm hột ngọc ma ni. Mỗi hột ma ni chiếu sáng trăm do tuần, làm cho trên cây chiếu sáng như trăm ức mặt trời mặt trăng hiệp lại.

 

3 - Bảo Trì

Cực Lạc thế giới nơi nơi đều có ao tắm. Thành ao bằng thất bảo. Ðáy ao trải cát Kim Cương nhiều màu. Ao rộng trăm nghìn do tuần xem như biển cả.

Mỗi ao có sáu mươi ức hoa sen thất bảo. Mỗi bông tròn lớn 12 do tuần, đủ các màu đẹp, màu nào chiếu ánh sáng màu nấy. Trong ao, nước bát công đức từ Như Ý Châu Vương sanh, màu thất bảo, lên xuống theo cọng sen chảy lòn vào cánh bông. Tiếng nước chảy thanh tao diễn nói pháp mầu: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, các môn Ba La Mật.

Nơi Như Ý Châu Vương phóng ánh sáng sắc vàng ròng. Trong ánh sáng hóa thành các thứ chim đẹp đủ màu, bay lượn, kêu hót hòa nhã diễn nói pháp: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ Ðề, bát chánh đạo, cùng ca ngợi niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng.

Mặt nước, làn sóng gợn lăn tăn, nổi lên nhiều tiếng dịu dàng: tiếng Phật, Pháp, Tăng; tiếng không, vô ngã, đại từ bi; tiếng ba la mật; tiếng thập lực, vô úy, bất cộng; tiếng thần thông, trí tuệ; tiếng vô tạo tác, bất sanh diệt, vô sanh nhẫn; nhẫn đến tiếng cam lồ quán đảnh, cùng vô biên diệu pháp. Người nghe đến những tiếng nầy, tâm liền thanh tịnh, thiện căn thành thục, hẳn không thối chuyển nơi đạo vô thượng Bồ Ðề.

Các thượng thiện nhơn, người Cực Lạc, lúc vào ao để tắm, nếu ý muốn ngập chơn, thời nước chỉ ngập chơn, nếu ý muốn nước đến bụng thời nước liền ngang bụng, cho đến ý muốn nước đến cổ thời mặt nước liền lên cao đến cổ. Nước ao tùy theo ý muốn của mỗi người mà sâu cạn, ấm mát điều hòa rất thuận thích. Người tắm, thân thể nhẹ nhàng khoan khoái, tâm thần vui vẻ, tịch tịnh, sáng suốt.

 

4 - Bảo Lâu

Bốn phía ao báu, những thềm bực đường sá do vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.v… hiệp thành. Trên có vô số cung điện nhiều từng.

Những tòa lâu đài nầy đều bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.v… nhẫn đến vô lượng chất báu xây thành.

Giảng đường, tịnh xá, lầu các cung điện của A Di Ðà Phật, của chúng Bồ Tát, Nhân dân, trăm nghìn muôn lần quý hơn cung điện của Tự Tại Thiên Vương nơi cõi Ta Bà nầy.

Những đền đài ấy, có thứ nổi lên ở giữa chừng không như mây, cao lớn tùy theo ý muốn của người ở. Có hạng không theo ý muốn mà trụ trên bảo địa. Ðó là do công hạnh tu hành sâu dày hay kém ít nên chỗ ở khác nhau như thế. Nhưng những sự hưởng dụng như ăn mặc v.v… đều bình đẳng.

Bốn phía đền đài đều trang nghiêm với những hoa tràng cùng vô lượng nhạc khí. Gió mát nhẹ rung những nhạc khí ấy hòa reo thành tiếng pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, Từ Bi, Hỷ Xả, các môn ba la mật.

 

5 - Bảo Tọa

Cực Lạc thế giới, đức Phật, chư Bồ Tát, cùng nhân dân đều ngồi trên tòa sen báu. Những tòa sen ấy, từ một chất báu, hai chất báu, nhẫn đến vô lượng chất báu hiệp thành, màu sắc đẹp lạ, quang minh sáng chói, lớn nhỏ xứng theo thân người ngồi.

Dưới đây là tòa sen báu của đức Phật ngự.

Tòa sen nầy có 84.000 cánh. Mỗi cánh rộng 250 do tuần, 100 màu. Trên mỗi cánh sen có 84.000 lằn gân phóng ra 84.000 tia sáng. Xen vào mỗi cánh sen có trăm ức hột châu ma ni. Mỗi hột châu ma ni phóng nghìn tia sáng. Các tia sáng nầy kết tụ nhau lại như hình cây lọng.

Đài sen bằng chất Thích-ca-tỳ-lăng-già bảo. Trang nghiêm với tám muôn thứ ngọc kim cương, ngọc ma ni, cùng mành lưới kết bằng chơn châu.

Trên đài sen, tự nhiên có bốn trụ báu. Mỗi trụ báu cao đẹp như trăm nghìn muôn ức núi Tu Di. Trên đầu bốn trụ báu, mành lưới trùm giăng rộng lớn như cõi trời Dạ Ma. Mành lưới báu ấy có năm trăm ức hột bảo châu. Mỗi bảo châu chiếu ra 84.000 tia sáng. Mỗi tia sáng ấy có 84.000 thứ kim sắc. Các sắc vàng sáng ấy chói khắp mặt bảo địa, nơi nơi biến hóa thành những tướng trạng khác nhau: hoặc hóa ra đài kim cương, hoặc hóa ra lưới chơn châu, hoặc hóa làm những lùm cây hoa đẹp sáng v.v… hiện thành Phật sự ở khắp các nơi trong cõi Cực Lạc…

Khi giảng xong sự lớn đẹp vi diệu của tòa sen báu, đức Bổn Sư kết rằng: Tòa sen báu ấy có ra đó, là do nguyện lực thuở tiền thân của Phật A Di Ðà, ngài Pháp Tạng Bồ Tát.

 

Phần B

Nhơn Dân

1 – Liên Hoa Hóa Sanh

Phàm thân mình có ra, ban sơ đều do thần thức gá vào một nơi để thành. Khác hẳn với người cõi Ta Bà gá nơi bụng bà mẹ, người tu tịnh nghiệp lúc vãng sanh Cực Lạc thế giới, thời thân thể gá trong hoa sen báu nơi bảo trì mà hóa sanh. Tịnh Ðộ Luận nói: “Nhơn dân thanh tịnh của đức Phật A Di Ðà từ hoa báu trí giác hóa sanh”.

Lúc thần thức được Phật và Bồ Tát rước về Cực Lạc liền hóa vào hoa sen, khi hoa còn búp thời gọi là “ở thai sen”. Dầu thân hình chưa ra khỏi búp hoa, nhưng cảnh tượng và những sự hưởng thọ ở trong hoa đã vui đẹp hơn ở các cõi ở Ta Bà.

Những hoa báu để thác sanh, sự quý đẹp có khác nhau, và thời gian hoa nở cũng chậm mau không đồng. Ðó là vì công đức và trí tuệ của mỗi thần thức thác sanh có hậu bạc cùng sâu cạn không đồng nhau.

Do sự không đồng nầy nên Cực Lạc thế giới có chín phẩm liên hoa: ba phẩm thượng, ba phẩm trung, ba phẩm hạ.

Ba phẩm bực thượng thời liên hoa bằng chất kim cương, bằng vàng tử kim, hay huỳnh kim. Thời gian hoa nở thời vừa thác sanh liền nở, hay cách đêm, hoặc một ngày đêm. Ðây là phần của những vị trước khi vãng sanh, tu hạnh đại thừa, phát Bồ Ðề tâm, thâm ngộ diệu lý vô sanh, tự hành hóa tha, công đức dày, trí huệ sâu mà hồi hướng nguyện sanh về Cực Lạc thế giới.

Sáu phẩm dưới thời liên hoa bằng chất thất bảo. Thời gian hoa nở: hoặc nở liền, hoặc bảy ngày đêm, hoặc hai mươi mốt ngày hoặc bốn mươi chín ngày v.v…

Ba phẩm liên hoa bực trung là phần của những người trai giới tinh nghiêm, cùng người hiếu thảo, những nhà từ thiện, mà dốc lòng cầu về Cực Lạc thế giới.

Ba phẩm bực hạ là phần của những người không biết tu tập, không biết làm lành, cho đến những kẻ ở đời gian ác, đến khi sắp chết, lúc hấp hối, mà biết ăn năn tội lỗi rồi chí tâm xưng niệm “Nam mô A Di Ðà Phật” thiết tha cầu sanh Cực Lạc thế giới.

Cứ nơi chín phẩm liên hoa đây, thời thấy rằng: Cực Lạc thế giới là chỗ đồng về của tất cả Thánh và Phàm ở mười phương. Chẳng những là đạo tràng của các vị đại thừa Bồ Tát, của những bực đại tâm Thanh Văn, Duyên Giác, của những người tinh tấn tu trì, của các nhà từ thiện làm lành tránh dữ, mà Cực Lạc thế giới cũng là gia hương của những kẻ tội ác; nhẫn đến mọi loài. Nếu ai tin chắc chí tâm niệm Phật rồi hồi hướng cầu sanh thời đều được về cả, vì nhờ sức nhiếp thọ tiếp dẫn của đức Từ Phụ và chư Bồ Tát. Chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp. Sau khi được vãng sanh Cực Lạc thời thành bực Thượng Thiện, trụ bực Bất Thối, đồng dự hải hội.

Nơi Cực Lạc, người từ liên hoa hóa sanh. Phật Bồ Tát và nhơn dân đều ngồi tòa sen báu. Vì thế nên Cổ Ðức kêu Cực Lạc thế giới là “Liên Bang” (cõi sen), gọi Thánh Chúng là “Liên Trì Hải Hội”, đặt tông Tịnh Ðộ là “Liên Tông”, gọi hội niệm Phật là “Liên Xã”, kêu bạn niệm Phật là “Liên Hữu” (bạn sen).

 

2 – Thân Thể

Nhơn dân nơi Cực Lạc thế giới, thân kim cương từ hoa sen báu sanh ra, da màu huỳnh kim. Tất cả mọi người đều đủ 32 tướng hảo đại nhơn, đồng xinh đẹp như nhau.

Ðức Bổn Sư từng hỏi Tôn Giả A Nan: “Như gã ăn mày đứng bên vị Ðế Vương, thời hình dung của hai người có giống nhau không?”.

Tôn Giả đáp: “Bạch Thế Tôn! Gã ăn mày hình dung xấu xí nhớp nhúa, đâu sánh với vị Ðế Vương được”.

Ðức Bổn Sư phán: “Vị Ðế Vương dầu là sang đẹp, nhưng sánh với Chuyển Luân Thánh Vương thời cũng như gã ăn mày. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Chuyển Luân Thánh Vương cũng không bằng Thiên Ðế Thích. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Thiên Ðế Thích cũng không bằng Tự Tại Thiên Vương. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Tự Tại Thiên Vương sánh không bằng các vị Thượng Thiện Nhơn nơi Cực Lạc thế giới, nhơn dân của đức Phật A Di Ðà".

 

3 - Thuần Vui Không Khổ

Nhơn dân nơi Cực Lạc thế giới không có tất cả sự khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui thanh tịnh.

Phàm những sự thống khổ của muôn loài nhiều đến vô lượng. Tóm lại thời có 8 điều: 1.- Khổ khi sanh ra. 2.- Khổ khi già yếu. 3.- Khổ lúc bịnh. 4.- Khổ về sự chết. 5.- Khổ vì phải ly biệt người thân mến. 6.- Khổ vì gặp phải kẻ oan thù. 7.- Khổ vì không được toại vọng. 8.- Khổ vì thân tâm đòi hỏi phóng túng.

Nơi Cực Lạc thế giới, người từ hoa sen báu hóa sanh, thời là không “sanh khổ". Thâm kim cương luôn khương kiện, trẻ đẹp, thời không là “lão khổ” và không “bịnh khổ”. Thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp mãi đến bổ xứ thành Phật, thời là không “tử khổ”. Không cha mẹ, vợ con, thời là không “ái biệt ly khổ". Chư Thượng Thiện Nhơn thường chung cùng hội hiệp, thời là không “oán tắng hội khổ". Cầu muốn điều chi hay vật chi đều liền được toại ý, thời là không “cầu bất đắc khổ”. Không thân kiến mà tâm luôn thanh tịnh, thời không “ngũ ấm xí thạnh khổ".

Khổ gì có được ở thế giới, mà nơi ấy sự trang nghiêm thanh tịnh đã đến tuyệt đích!

Cực Lạc thế giới, ngoài các sự vui đẹp về vật chất như ăn mặc, ao tắm, nhà ở v.v…, người Cực Lạc đồng được hưởng những điều vui cao quý hy hữu: 1.- Thường được thấy Phật gần Phật. 2.- Chư đại Bồ Tát là thầy là bạn cùng chung hội hiệp. 3.- Luôn được nghe tiếng diễn nói pháp mầu, không luận chỗ nào và lúc nào, nếu muốn nghe. 4.- Thường được chư Phật hộ niệm. 5.- Sống lâu vô lượng kiếp đồng với Phật. 6.- Không còn lo bị đọa vào ác đạo. Ở Cực Lạc, danh từ ác đạo còn không có thay huống là sự thật! 7.- Vĩnh viễn thoát ly luân hồi. 8.- Thọ dụng tự nhiên, khỏi bận rộn bê trễ công phu hành đạo. 9.- Ðược vào bực chánh định không còn thối thất đạo vô thượng. 10.- Hiện một đời thành Phật.

 

4 - Thọ Dụng Tự Nhiên

Cực Lạc thế giới từ cung điện đền đài, bảo trì, bảo thọ cho đến tất cả vật dụng, đều bằng thất bảo tự nhiên hiện thành, không phải xây dựng tạo tác.

Người Cực Lạc lúc muốn mặc thời y phục đúng pháp tự nhiên ở trên thân.

Ðến giờ ăn nếu là người muốn bát dĩa vàng, thời bát dĩa vàng liền hiện ra trước mặt. Người muốn bát dĩa bạc, hay bát dĩa lưu ly, thủy tinh, minh nguyệt châu, như ý châu v.v… thời bát dĩa đúng như ý muốn hiện ra trước mặt. Thức ăn thức uống thơm ngon đựng sẵn trong dĩa bát, vừa theo lượng người ăn không dư, không thiếu. Ăn xong, bát dĩa tự ẩn đi, đến giờ ăn lại hiện đến, khỏi dọn khỏi cất. Vật thực vào thân tự nhiên tiêu tan lần, hóa thành hơi thơm theo lỗ chưn lông tiết ra ngoài, không còn cặn bã, tẩm bổ thân thể thêm sự khỏe mạnh, tâm được an vui như bực vô lậu.

 

5 – Tâm Tánh Và Thần Thông

Cực Lạc thế giới, người đều trí huệ sáng suốt, biện tài vô ngại. Không một ai dung ngu. Lúc nghĩ tưởng, thời đều thuần là quan niệm đạo đức. Vì thế nên lời nói ra thuần là đúng chánh pháp. Mọi người đều yêu kính nhau. Không tham, không sân, không si, không thân kiến. Các căn tịch tịnh, không phóng dật, không vọng duyên.

Người người đều đủ 5 thứ thần thông:

1.- Thiên nhãn thông, thấy suốt mười phương, người kém nhứt cũng thấy được trăm nghìn ức na do tha thế giới.

2.- Thiên nhĩ thông, nghe thấu mười phương. Người kém nhứt cũng nghe được tiếng thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha đức Phật. Nghe rồi đều nhớ hiểu được cả.

3.- Tha tâm không, rõ biết tâm niệm của người khác, người kém nhứt cũng biết được những tâm niệm của các loài chúng sanh trong trăm nghìn ức na do tha thế giới.

4.- Túc mạng thông, nhớ rõ những đời trước. Người kém nhứt cũng biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na do tha kiếp về quá khứ và vị lai.

5.- Thần túc không, trong khoảng thời gian một niệm đi khắp mười phương, người kém nhứt cũng đi được trăm nghìn ức na do tha thế giới.

 

6 – Công Việc Thường Ngày

Nhân dân Cực Lạc, mỗi sáng sớm, đem bông báu đẹp cúng dường Bổn Phật (A Di Ðà) và vô lượng chư Phật ở thế giới khác. Nếu muốn cúng dường hoa hương, kỹ nhạc, hoặc muốn cúng dường y phục, bảo cái, tràng phan v.v… đương lúc ở trước chư Phật nơi thế giới khác, do oai thần nguyện lực của Bổn Phật A Di Ðà, đồ cúng dường quý đẹp đúng theo ý muốn, liền hiện trên không nhóm lại như mây, rồi uyển chuyển nhẹ nhàng rơi xuống đạo tràng thành cúng dường. Lại còn dùng âm thanh vi diệu ca tụng công đức của chư Phật, kính nghe kinh pháp của chư Phật dạy. Cúng dường nghe pháp xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về, đến bổn quốc (Cực Lạc) vẫn còn trước giờ ăn.

Người Cực Lạc sau khi dùng bữa xong đi kinh hành tư duy diệu pháp, hoặc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Người Cực Lạc, sau khi tắm nơi bảo trì, rồi ngồi trên hoa sen báu tu tập đạo pháp.

Nơi Cực Lạc thế giới, người thời ở trên hư không mà giảng kinh, người thời tụng kinh, người thời tự thuyết kinh, người thời dạy kinh, người thời nghe kinh, người thời tư duy diệu nghĩa, người thời tọa thiền nhập định, người thời đi kinh hành v.v…

Hoặc có những người ở trên bảo địa mà giảng kinh, tụng kinh, thuyết kinh, dạy kinh, nghe kinh hay là tư duy diệu pháp, tọa thiền nhập định cùng đi kinh hành v.v…

Do sự hành đạo nầy, người chưa chứng tứ quả thời chứng tứ quả, người chưa nhập bất thối địa thời nhập bực bất thối…

 

7 - Ðức Vị

Ở Cực Lạc thế giới, mọi người đều trụ bực bất thối chuyển, nghĩa là sau khi đã được sanh về cõi Cực Lạc, thời tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng chính giác, không còn bị thối chuyển lui sụt, tiến mãi đến bực nhứt sanh bổ xứ (Ðẳng Giác) và thành Phật.

Ðược như trên, là vì ở Cực Lạc cảnh duyên trang nghiêm thanh tịnh, thuần một mặt giúp thêm sự tăng tấn cho đạo hạnh: (Bảy duyên lành dưới đây trích ở tập “Thập Nghi Luận” của Trí Giả Ðại Sư).

1.- Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật nhiếp trì. Như ở trên tàu to, không bị sóng nhồi nước đắm.

2.- Quang minh của Phật thường chiếu đến thân, làm cho Bồ Ðề tâm tăng tấn. Như được ánh sáng mặt trời, khỏi xa hầm sụp hố.

3.- Thường gần gũi Quan Thế Âm, Ðại Thế Chí, chư đại Bồ Tát, được Bồ Tát dắt dìu gia hộ, mọi người ở quanh mình đều thuần là bực Thượng Thiện, không tà sư ác hữu. Như gần đèn được sáng.

4.- Nước, chim, cây, lưới, gió, nhạc, quang minh v.v… đều luôn diễn nói pháp mầu. Tai nghe tiếng pháp thời tâm liền thanh tịnh.

5.- Ðồ ăn, thức uống, nước tắm rửa đều làm thêm lớn thiện căn.

6.- Tâm ý trọn không kiến chấp vọng duyên, không ác niệm phiền não, chánh niệm thường hiện tiền.

7.- Thân thể lại là kim cương bất hoại. Không già yếu, không tật bịnh, sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp. Không bị già bịnh làm trở ngại công phu. Khỏi phải vô thường làm gián đoạn đạo hạnh.

Ðủ các thắng duyên như trên thời có thể nào thối thất đạo tâm mà không quyết định thành Phật:

Như trong kinh Di Ðà nói: “Chúng sanh sanh về Cực Lạc thế giới đều là bực bất thối chuyển”. Lại nói: “Những người nguyện về Cực Lạc thế giới, đều được bất thối chuyển nơi đạo vô thượng Bồ Ðề".

Trong Khởi Tín luận có lời: “Người sanh về Cực Lạc vì thường được thấy Phật, nên trọn không thối chuyển”.

Lời Phụ - Pháp môn Tịnh Ðộ ngoài công hạnh chuyên niệm Phật rất trọng nơi “Tín” và “Nguyện”.

Rõ biết nhơn địa cùng quả địa của đức Phật và hai vị Ðại Sĩ, đấng Cha Lành cùng những bậc Thầy sáng suốt của ta sau này, ta đã nhận chắc rằng: Từ bi nguyện lực của các ngài đương ôm trùm lấy ta, quang minh của các ngài đang soi phủ lấy ta cùng tất cả những người niệm Phật, do đó lòng tin tưởng của ta sẽ nồng hậu, sâu chắc.

Hiểu rành cảnh Cực Lạc vi diệu trang nghiêm là gia hương vĩnh viễn của ta sau này, biết rõ thân tâm của người Cực Lạc thanh tịnh siêu thoát, mà cũng sẽ là báo thân trường tồn của ta, do đó nguyện vọng của ta sẽ tha thiết mãnh liệt.

Tín tâm” đã sâu, “chí nguyện” đã thiết, tất công hạnh của ta cũng tự chuyên cần. Như thế chín phẩm sen vàng ta đã nắm phần chắc trong tay rồi.

Huống nữa nếu ai được xem nghe y báo và chánh báo ở Cực Lạc thế giới rồi thiết tha hâm mộ muốn về, luôn luôn khắn nhớ rành rẽ nơi lòng không một giây xao lãng, tất sẽ được thành tựu quán hạnh. Hiện tiền được thấy cõi Tịnh Ðộ cùng Phật và Bồ Tát, lâm chung sẽ vãng sanh thượng phẩm.

Vì có những lợi ích lớn như vậy, nên đức Bổn Sư ta nhiều lần thuật đi nhắc lại trong các pháp hội như khi thuyết kinh: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bảo Tích, Bi Hoa, Tiểu Bổn Di Ðà v.v… Ðầy đủ nhứt là những pháp hội thuyết Quán Kinh và Vô lượng Thọ Kinh.

Nơi các quyển sau của bộ “Ðường Về Cực Lạc” này, chúng ta sẽ được đọc những truyện tích của những người trước ta đã được các sự kết quả tốt đẹp như vừa kể ở trên.

Mong mọi người đều trân trọng chú tâm nơi các chương “Thân tướng”, “Quốc Ðộ”.