Truyền thuyết về Bồ Tát Quán Thế Âm

 

1. BỒ TÁT QUÁN ÂM CHỌN ĐẠO TRÀNG


Sau khi triều bái đức Phật ở Tây phương về, Quán Âm Đại sĩ muốn tìm một chỗ lập đạo tràng để truyền kinh thuyết pháp. Nga Mi Sơn đã có Phổ Hiền Bồ Tát nhanh chân lên trước, Ngũ Đài Sơn thì Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tuyển dụng, Cửu Hoa Sơn đã có Địa Tạng Bồ Tát ngự trị; Bồ Tát Quán Âm nhất định tìm một thánh địa đủ đẹp để sánh tày với những đạo tràng kia mới nghe.

Hôm ấy, Bồ Tát Quán Âm bước lên đóa mây liên hoa, đến biển Đông Hải, từ trên không nhìn xuống thấy chi chít những quả núi hay hòn đảo với hình thù kỳ quái, giống như từng viên, từng viên ngọc phỉ thúy ẩn hiện trong một tấm thảm nhấp nhô sóng biếc ngàn trùng, quang cảnh quả thật là đẹp! Tuy nhiên, giữa hơn một ngàn hòn đảo ngọc, nên chọn đảo nào là thích hợp nhất?

Bồ Tát Quán Âm dùng trí huệ chọn tới c
họn lui, thấy rằng đảo nào cũng được, nhưng lại hình như không có đảo nào hoàn mỹ cả. Ngài nghĩ, phải tìm một hòn đảo có đủ 100 đầu núi, thế mới xứng đáng được gọi là đất thánh cửa Phật.

Cuối cùng, ngài Quán Âm giáng đài sen xuống đỉnh cao nhất của ngọn Cù Sơn. Ngài thấy trên núi khói mây mù mịt, với những cây tùng xanh thẳng tắp, duới chân núi thì chập chùng sóng bạc trên một nền màu xanh ngọc bích, điểm thêm những cánh buồm màu vàng nghệ căng gió. Phong cảnh tú lệ như thế khiến ngài Quán Âm vô cùng đẹp lòng, thế là Ngài đi từ đông sang tây, từ nam lên bắc, và bắt đầu đếm đầu núi. 

Thấy ngài Quán Âm làm như thế, Long Vương ở dưới biển Đông thấp thỏm lo sợ. Biển Đại Cù rộng lớn diễm lệ vốn là kho báu của Long Vương, làm sao có thể để cho ngài Quán Âm lập đạo tràng ngay bên cạnh kho báu của mình được!

Thế là Đông Hải Long Vương bèn nổi gió to, dậy sóng lớn, che lấp những đỉnh núi, phá rối khiến cho ngài Quán Âm đếm đi đếm lại mà đếm hoài không xong. Ngài Quán Âm hiểu rất rõ nguyên do, nhưng Ngài cũng không muốn tranh đua cao thấp với Long Vương nên mau mau rời đi chỗ khác. Về sau người ta đặt cho tên đỉnh núi cao ấy là “Quán Âm Sơn”.

Bồ Tát Quán Âm rời Cù Sơn, tiếp tục tiến tới phía trước tìm kiếm, đột nhiên thấy một hòn đảo nhỏ ngay dưới mắt mình, non xanh nước biếc, có những tảng đá linh ngạo nghễ đứng thẳng, thật là một nơi lý tưởng để thuyết pháp truyền kinh. Ngài lập tức thâu mây lành về, bước xuống đài sen ở địa điểm cao nhất của hòn đảo nhỏ, ngồi xếp bằng và cẩn thận đếm những đầu núi. Nhưng từ phải đếm sang trái, từ trái đếm trở về phải, đếm trọn một vòng rồi đếm tới đếm lui, mà cuối cùng vẫn chỉ có 99 đầu núi mà thôi!

Ngài Quán Âm vô cùng tiếc rẻ, quyến luyến không muốn rời, bước lên đài sen cưỡi mây lành đi. Từ trên tận mây cao quay đầu nhìn lại hòn đảo nhỏ, Ngài định thần đếm lại một lần nữa, thì lần này đếm được 100 đầu núi không dư không thiếu! Thì ra ban nãy Ngài không cẩn thận, quên đếm ngọn núi nơi mình đang ngồi! Ngài định quay trở lại, nhưng nghĩ rằng trên biển Đông có hơn một ngàn hòn đảo lớn nhỏ, lẽ nào lại chẳng có chỗ khác làm cho mình mãn ý hơn, nên hướng về phía đông tìm một ngôi Phật địa khác. Hòn đảo này dầu sao cũng được ngài Quán Âm dừng chân, nên người sau đặt tên là đảo Sóng Phật (Phật Ba Đảo).

Ngài Quán Âm rời đảo Sóng Phật, cưỡi mây liên hoa vừa bay vừa nhìn xuống, và cuối cùng đến Phổ Đà Sơn.

Nhìn chung thì thấy núi sông chầu mặt trời, trên núi s
ương mai lượn lờ, có những cây chương cổ thụ tỏa hương, có những dòng suối biếc róc rách, cát vàng óng ánh trải trên bờ biển. Ngài Quán Âm rất vừa ý, vội thâu mây lại bước xuống chỗ cao nhất của đảo. Lần này Ngài rất thận trọng, bắt đầu đếm từ ngọn núi dưới chân mình, đếm đi đếm lại mấy lần mà cuối cùng vẫn chỉ có 99 đầu núi mà thôi. Ngài nghĩ có thể cũng giống như lần trước mình đã quên đếm đầu núi ngay dưới chân mình chăng? Vì Ngài quá ưa thích hòn đảo này nên chẳng có tâm trí đâu để suy nghĩ kỹ, bèn cộng thêm đầu núi mình đang ngồi với 99 đầu núi kia, thế là gom vừa chẵn 100 đầu!

Ngài hài lòng c
ười lên, thế là Phổ Đà Sơn được Ngài tuyển chọn. Về sau, chùa chiền am miếu được cất trên đảo càng ngày càng nhiều, có một thời lên đến hơn 300 ngôi! Từ đó, Phổ Đà Sơn trở nên “Quán Âm Đạo Tràng, Hải Thiên Phật Quốc”.

Kỳ thật, Quán Âm Đại sĩ thừa biết rằng đảo Phổ Đà không có đến 99 đầu núi chứ đừng nói gì tới 100 đầu! Chỉ vì Ngài quá ưa thích hòn đảo nhỏ xinh đẹp đầy linh khí này nên mới ở lại, thế thôi!

 

2. QUÁN ÂM KHIÊU

Quán Âm Đại Sĩ ở núi Phổ Đà đọc kinh thuyết Pháp và tu thành Phật rồi, bèn đi đến Tây Phương Cực Lạc tham bái Như Lai. Mới đó mà 81 ngày đằng đẳng đã trôi qua. 

Hôm ấy Ngài Quán Âm rời Lôi Âm Tự, bước lên đài sen, gió thổi mây bay đưa Ngài trở về đạo tràng của mình. Khi Ngài ở trên không nhìn xuống biển Liên Hoa thì thấy trên núi Phổ Đà có khí độc mịt mù, cây khô cằn, lá vàng úa. Thắng cảnh Nam Hải ngày xưa tươi đẹp bao nhiêu thì nay đã trở thành một ngọn núi trọc, bao bọc bằng một màn chướng khí dày đặc.

Ban đầu, Ngài không thấy rõ ràng nguyên nhân của sự thay đổi ấy, bèn đáp xuống núi Lạc Ca.

Thì ra trong 81 ngày mà Ngài Quán Âm đã vắng mặt
để lên Tây Phương Cực Lạc tham bái Như Lai thì ở cõi trần gian, thời gian ấy dài bằng mấy trăm năm. Trong thời gian đó, có một con rắn lửa đã thành tinh (Hồng Xà Tinh) từ động Vân Vụ của đảo Đông Phúc đến chiếm cứ Phổ Đà sơn, và tự xưng mình là Xà vương. 

Hồng Xà Tinh này thân đỏ như lửa, mắt như hai ngọn đèn pha, miệng thì như cái thúng lúa. Nó chỉ ngáp một cái là toàn đảo nồng nặc chướng khí đen nghịt. Hắn còn thích du ngoạn đó đây trong đảo để giết hại sinh linh.

Ngày hôm sau, Ngài Quán Âm đi tìm con xà tinh, thì thấy từ xa có một ng
ười đàn ông mặt đỏ từ động Phạm Âm bước ra. Người đàn ông này tiến đến trước mặt Ngài Quán Âm, dùng giọng thô lỗ mà hỏi: “Ê, ngươi đến đảo rắn để làm gì?”

Thấy thái độ của hắn như thế, Ngài Quán Âm biết ngay đây là hóa thân của Hồng Xà Tinh, bèn nhẫn nại thi lễ và hỏi:

– Ông hẳn là xà tiên rồi! Tại sao lại đến chiếm Phật môn thánh địa của ta, rồi còn làm hại sinh linh nữa?

Xà tinh trợn mắt, gầm lên:

– Ta ở trên đảo này đã hơn mấy trăm năm, sao lại dám nói ta chiếm đất Phật của ngươi?

Quán Âm thấy hắn lộ tướng hung dữ, giọng điệu ngạo mạn, biết rằng không thể nói phải trái cho hắn nghe được. Ngài nghĩ: “Con xà tinh này nóng nảy lỗ mãng, sao ta không dùng chút mưu kế để bắt hắn thần phục?” Nghĩ thế rồi, Ngài Quán Âm mới dùng lời nhã nhặn mà nói:

– Nguyên quán của ông vốn ở động Vân Vụ, bây giờ lại đến Phổ Đà sơn, chiếm cứ hai nơi như thế có ích gì? Thôi bây giờ xin ông phương tiện cho tôi mượn Phổ Đà sơn để dựng chùa thuyết pháp, được không?

Hồng Xà tinh thấy thái độ hòa nhã của Ngài Quán Âm, nghĩ rằng mình có thể tự tung tự tác, bèn nói:

– Vụ mượn núi thì có thể điều đình với nhau được, nhưng chỉ được mượn trong một thời gian ngắn thôi, không được mượn lâu.

– Không mượn lâu, không mượn lâu!

– Vậy thì
mượn bao giờ trả?

Ngài Quán Âm cười:

– Bao giờ không còn tiếng mõ trên núi Phổ
Đà, và sóng không còn vỗ trên bãi cát Thiên Bộ Sa thì ta sẽ trao trả đảo lại cho ông.

Con Xà Tinh nghe thế đùng đùng nổi giận: Thế mà dám nói là mượn, rõ ràng muốn chiếm đảo rắn của ta đây mà!

– Không cho mượn! Không cho mượn! Ngươi hãy đi khỏi núi Lạc Ca này mau lên!

Nói xong hắn quay mình bỏ
đi. Nhưng Ngài Quán Âm đâu chịu bỏ cuộc, Ngài vội chận Hồng Xà Tinh lại, hỏi:

– Không lẽ núi Lạc Ca cũng là của ông luôn sao?

Hồng Xà Tinh trả lời:

– Thì từ tr
ước tới giờ Phổ Đà Lạc Ca vốn là một ngọn núi, bộ ngươi không biết sao?

Ngài Quán Âm thấy Hồng Xà Tinh nổi giận, cố ý trêu tức thêm:

– Ông luôn miệng nói Phổ Đà sơn là của ông, vậy ông lấy gì làm chứng?

Hồng Xà Tinh dương dương tự đắc trả lời:

– Tại vì chân thân của ta có thể quấn
đảo này đúng một vòng.

Ngài Quán Âm nắm lấy cơ hội, tiến đến một bước nói khích:

– Thân ông dài chừng ấy sao? Ta không tin, ông thử quấn một vòng cho ta xem!

Con Hồng Xà Tinh muốn phô trương bản lĩnh của mình, không hề thấy dụng ý của Ngài Quán Âm, bèn rùng mình một cái, biến thành một con rắn thật to. Trong nháy mắt, hắn giãn thân ra càng lúc càng dài, ven theo chân núi ngoằn ngoèo khúc khuỷu làm một vòng chu vi của núi Phổ Đà, không bao lâu thì đầu đuôi của hắn tiếp giáp với nhau. Ngài Quán Âm nhẹ nhàng dùng chân đạp xuống một cái, khiến núi Lạc Ca tách ra khỏi Phổ Đà thật xa. Từ đó Phổ Đà và Lạc Ca trở thành hai ngọn núi khác nhau. 

Chờ Hồng Xà Tinh dùng thân quấn xong một vòng Phổ
Đà sơn, đầu đuôi gặp nhau rồi, Ngài Quán Âm đứng trên núi Lạc Ca cất tiếng cười khanh khách, nói với Hồng Xà Tinh rằng:

– Ông nói Phổ Đà và Lạc Ca chỉ là một ngọn núi, sao ông quấn một vòng Phổ Đà mà chưa quấn tới Lạc Ca?

Hồng Xà Tinh ngóc đầu lên nhìn, quả nhiên thấy núi Lạc Ca rất xa núi Phổ Đà, biết mình đã bị mắc mưu, không phục mà nói:

– Không tính, không tính, để ta quấn lại một vòng!

Ngài Quán Âm đưa ra một cái bát bằng vàng:

– Không cần ông quấn một vòng núi Phổ
Đà Lạc Ca nữa. Nếu ông có thể quấn một vòng cái bát bằng vàng này, thì ta nhường Phổ Đà sơn cho ông đó.

Hồng Xà Tinh nhìn cái bát vàng, nói một cách khinh miệt:

– Chuyện đó có khó gì?

Nói xong hắn lại biến thành một con rắn lửa. Chỉ thấy con rắn lăn một vòng trên mặt đất, sột soạt một tiếng, thân hắn co nhỏ lại dần, rồi nhẹ nhàng tung người lên cuộn trên miệng bát một vòng. Ngài Quán Âm lợi dụng thời cơ lấy ngón tay khẽ búng, Hồng Xà Tinh rơi vào bát cái “bộp”, rồi dùng tay đậy miệng bát lại khiến con rắn không còn hơi để thở, hổn hển luôn miệng kêu cứu:

– Quán Âm Đại sĩ tha mạng! Đại sĩ tha mạng!

Ngài Quán Âm suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Được, tha cho ngươi một con đường sống, nhưng ngươi hãy trở về động Vân Vụ.

Nói xong Ngài thả Hồng Xà Tinh xuống biển. Hồng Xà Tinh lại cầu xin:

– Động Vân Vụ đã không có mây cũng không có s
ương mù, lại hoang vu, một năm bốn mùa mặt trời như thiêu như đốt, thật khó cho tôi nương náu. Xin Đại Sĩ cho tôi ở chỗ khác!

Ngài Quán Âm thuận tay bẻ một đóa hoa sen, tung lên không trung, đóa sen biến thành một áng mây hình hoa sen. Ngài nói với hồng xà:

– Ngươi mà biết cải tà quy chính thì áng mây hình hoa sen này sẽ che nắng cho ngươi hoài. Còn nếu làm ác trở lại, ta sẽ không dung thứ!

Hồng Xà Tinh khấu đầu bái tạ, theo áng mây mà trở về động Vân Vụ. Cho đến nay, áng mây hình hoa sen này vẫn còn lãng đãng trên nền trời của động Vân Vụ!

Ngài Quán Âm đuổi được con rắn lửa rồi, bèn tung người lên nhảy từ núi Lạc Ca đáp xuống núi Phổ Đà. Trên tảng đá mà Ngài đáp xuống, hiện nay còn lưu lại một dấu chân thật sâu đậm, mọi người gọi tảng đá đó là “Quán Âm Khiêu”.

3. LONG NỮ BÁI QUÁN ÂM

Trong những hình tượng của Quán Âm đại sĩ, thường có một cặp đồng nam đồng nữ đứng hai bên. Đồng nam tên là Thiện Tài, đồng nữ tên là Long Nữ.

Long Nữ vốn là con gái út của Long Vương ở biển Đông Hải, xinh xắn thông minh, được Long Vương cưng chìu hết mực. Một hôm, Long Nữ nghe nói ở nhân gian có lễ rước đèn rất nhiệt náo, cô bèn nằng nặc đòi đi xem.

Long Vương lắc đầu, bộ râu rồng rung rung:

– Chỗ ấy đất lạ, người lại hỗn tạp, con là công chúa rồng, không thể đến nơi ấy.

Long Nữ hết nhõng nhẽo
đến giả bộ khóc lóc, nhưng Long Vương vẫn không nhường. Cô bé chu chiếc miệng nhỏ xíu nghĩ thầm: “Phụ vương không cho phép, nhưng con vẫn cứ đi!”

Vào canh hai, Long Nữ lẻn ra khỏi Thủy tinh cung khô
ng một tiếng động, biến thành một cô gái đánh cá xinh đẹp, bước lên ánh trăng thênh thang hướng đến chỗ rước đèn náo nhiệt kia.

Đó là một thị trấn chuyên nghề đánh cá, ở ngoài đường đèn lồng vô số kể! Có đèn con tôm, đèn con cua, đèn con sò, đèn con ốc biển và cả đèn san hô nữa. Long Nữ hết quay qua bên phải nhìn xong quay qua bên trái ngắm, càng nhìn càng ngắm càng vui thích.

Tại một ngã t
ư đường, cô nhìn thấy hết đèn con cá này tới đèn con cá khác, hết núi đèn này tới núi đèn khác, muôn màu muôn sắc, sáng rực chói lọi, thật là hứng thú nên cô đứng trước một ngọn núi đèn mà ngắm nghía một cách say mê, xuất thần.

Lúc ấy, từ một cái lầu cao bên đường, có người hắt xuống nửa chén trà lạnh. Nước trà quái ác không hắt xuống bên này hay bên kia, mà lại nhắm đúng đầu của Long Nữ mà hắt xuống. Long Nữ giật bắn người la oai oái! Số là, một khi công chúa rồng biến thành một thiếu nữ, nếu chạm phải nước thì phải hiện lại nguyên hình. Lòng cô nóng như lửa đốt, sợ rằng giữa đường mà hiện tướng rồng thì mưa to gió lớn sẽ nổi lên, các ngọn đèn lồng muôn màu muôn sắc sẽ bị hư hoại hết. Vì thế, không đếm xỉa tới gì khác nữa, cô gắng sức lách ra khỏi đám đông chạy về phía bờ biển. Vừa tới bãi cát, có tiếng “phù phù” vang lên, và Long Nữ lập tức biến thành một con cá rất lớn, nằm sõng soài trên cát, vô phương động đậy.

Không bao lâu sau, có một anh ngư phủ đến bãi cát, thấy con cá to lớn toàn thân vẩy màu vàng kim óng ánh, liền bắt lấy vác ra chợ rao bán.

Chiều hôm ấy, đang ngồi chơi trong rừng trúc tím, Quán Âm đại sĩ nhìn thấy rõ ràng những gì đã xảy ra ở thị trấn kia nên khởi từ bi tâm. Ngài nói với Thiện Tài đứng bên cạnh:

– Con hãy mau đến thị trấn đánh cá mua một con cá lớn, đem ra biển phóng sinh.

Thiện Tài khấu đầu bạch:

– Bồ Tát ơi, đệ tử lấy đâu ra tiền mà mua cá?

Quán Âm bật cười, dạy:

– Con bốc một nắm tro trong lư hương là được.

Thiện Tài gật đầu, vội vàng chạy về Quán Âm viện bốc một nắm tro, bước lên một đóa hoa sen và vun vút lướt như bay về phía thị trấn đánh cá.

Lúc ấy anh chàng ngư phủ kia đã vác cá ra đến đường cái rồi, mượn một cái rìu sửa soạn chặt đầu cá để bán lẻ. Đột nhiên trong số người đang vây quanh nhìn, có một cậu bé chỉ vào mắt con cá mà kêu lên:

– Con cá đang khóc kìa! Con cá khóc!

Mọi người nhìn kỹ, quả nhiên từ đôi mắt cá tuôn xuống hai hàng lệ châu lóng lánh. Điều ấy khiến cho người nhìn phải kinh ngạc và cảm động, có người cho là kỳ quái, có người thì tán thán, tiếng bình luận lao xao nổi lên tứ phía.

Anh chàng ngư phủ sợ rằng của trên trời rơi xuống mà mình mới nhặt được sẽ biến thành mây khói, bèn vội vàng vung chiếc rìu lên toan chém xuống, thì đột nhiên từ phía sau lưng có tiếng người kêu lên:

– Đừng chặt! Đừng chặt!

Người ta chỉ thấy một chú sa di nhỏ chạy đến vừa thở hổn hển vừa nói:

– Tôi muốn mua con cá này!

Vừa nói chú v
ừa dúi một nắm bạc vào tay anh chàng ngư phủ, và luôn miệng hối anh ta vác cá ra bờ biển trở lại. Anh chàng ngư phủ vui mừng thầm nghĩ:

– Đúng là tiền lời, số ta hôm nay hên quá! Ta vác cá ra bờ biển, rồi biết đâu khi chú tiểu quay lưng đi, cá lại rơi vào tay ta trở lại như trước!

Anh chàng ta vác cá đi theo chú tiểu ra bờ biển và thả cá xuống nước. Con cá vừa chạm nước biển thì lập tức quẫy mình khiến bụi nước bắn tung lên và bơi ra thật xa, thật xa. Ra tới ngoài khơi rồi, cá mới quay mình lại hướng về phía chú tiểu mà gật đầu, rồi biến mất trong nháy mắt.

Anh chàng ngư phủ thấy cá đã bơi ra xa rồi mới bỏ ý nghĩ bắt cá lại kiếm chác, bèn móc túi lấy bạc ra đếm. Nào ngờ mới mở lòng bàn tay ra thì bạc kia liền biến thành tro nhang! Hắn quay đầu lại tìm chú tiểu, nhưng chú tiểu cũng đã cao bay xa chạy rồi!

Trở lại Long cung, từ khi khám phá công chúa nhỏ đã biến mất, cung trong cung ngoài gì cũng
đều loạn lên như cái tổ ong. Long Vương giận đến nỗi râu rồng dựng đứng, Thừa tướng rùa cuống quýt duỗi đầu cổ ra thật dài, Tướng quân sò giữ cửa sợ đến nỗi phun bọt trắng loạn xạ, và các cung nữ tôm ngọc cứ khom lưng mà run lẩy bẩy… Cứ thế mà hỗn loạn cho tới khi trời sáng, Long Nữ về tới Thủy tinh cung, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm!

Long Vương tức giận vì con gái út tự tiện đi ra ngoài, vi phạm quy luật của cung đình, hầm hầm mắng cô một trận rồi còn nghĩ rằng: “Chuyện này mà đến tai Ngọc Hoàng Thượng Đế thì thế nào cái tội ‘dạy con gái không nghiêm’ cũng sẽ rơi lên đầu”. Trong cơn tức giận, Long Vương đang tâm đuổi con gái ra khỏi thủy tinh cung!

Long Nữ đau khổ cùng cực, biển Đông mang mang, biết đâu là chỗ dung thân? Cô khóc tức tưởi, bơi đến biển Liên Hoa. Tiếng khóc của cô vọng đến rừng trúc tím, Bồ Tát Quán Âm nghe thấy biết ngay là Long Nữ đã đến, bèn sai Thiện Tài đi đón Long Nữ về. Thiện Tài tung tăng nhảy nhót đến trước mặt Long Nữ hỏi:

– Long Nữ muội muội, có nhận ra chú tiểu hôm nọ không?

Long Nữ vội vàng chùi nước mắt, đỏ mặt nói:

– Huynh là ân nhân cứu mệnh tiểu muội, làm sao tiểu muội không nhậ
n ra được? 

Nói xong liền khấu đầu lễ. Thiện Tài đưa tay kéo Long Nữ dậy:

– Đi, chúng ta đi, Bồ Tát Quán Âm bảo huynh đi đón muội về!

Thiện Tài và Long Nữ nắm tay nhau chạy về rừng trúc tím. Long Nữ thấy Bồ Tát Quán Âm đoan tọa trên tòa sen, liền sụp xuống lễ. 

Bồ Tát Quán Âm rất mến thương Long Nữ, nên để cho hai anh em ở chung trong động đá Triều Âm cách đấy không xa. Về sau, người ta gọi động đá này là “Thiện Tài Long Nữ động”.

4. CHỮ TÂM TRÊN ĐÁ(hay QUÁN ÂM ĐỘ THIỆN TÀI)

Từ nhỏ, Thiện Tài là đứa trẻ không cha không mẹ, sống rất khổ sở, phải gánh nước đi bán mà sống. Cậu nghèo thật là nghèo, nghèo đến nỗi không có lấy một cái thùng, mà phải lấy da trâu mỏng lót kín hai cái giỏ tre để đựng nước mà gánh.

Một hôm, Thiện Tài đến bờ giếng múc nước, bỗng nhiên nghe tiếng kêu ồm ồm:

– Thiện Tài! Bớ Thiện Tài!

Thiện Tài nhìn sang bên trái không thấy ai, nhìn sang bên phải cũng chẳng có bóng ng
ười. Cậu tưởng mình nghe lầm bèn gánh giỏ tre bỏ đi, nhưng không ngờ tiếng kêu lại vang lên nữa:

– Bớ Thiện Tài, tôi đang ở trong giếng đây! Cứu tôi với, tôi sẽ báo đáp cho cậu xứng đáng!

Thiện Tài là một đứa trẻ rất tốt bụng, nghe nói ở dưới giếng có người đang cần cậu cứu, bèn nhảy ùm xuống nước ngay. Cậu mở to mắt nhìn quanh, trong ánh sáng lung linh dưới đáy giếng cậu thấy có một khoảng trống rộng rãi nhưng chả thấy ai cả. Cậu mò bên trái, mò bên phải, giữa hai khe đá mới mò thấy một chiếc bình nhỏ bèn vớt lên, vặn nắp bình nhưng vặn hoài không ra, lắc thật mạnh thì không nghe gì cả, thì ra đó là một chiếc bình không. Cậu đập mạnh cho bể, “xoảng” một tiếng, từ trong bình bay ra một cụm mây đen như mực, cụm mây kết lại thành một người to lớn vạm vỡ, toàn thân đen như lọ nồi, nhảy ra trước mặt Thiện Tài nói lớn:

– Cậu đã cứu tôi ra khỏi bình!

Thiện Tài gật đầu:

– Đúng rồi.

Người ấy vội quỳ xuống đất, hướng về Thiện Tài mà lạy ba lạy. Thiện Tài vội ngăn lại:

– Đừng lạy! Đừng lạy! Ông là ai?

Gã đen khổng lồ nói:

– Tôi là Hắc xà tinh! Năm trăm năm về trước, Bồ Tát Quán Âm nhốt tôi trong bình và liệng bình xuống biển Liên Hoa. Ai ngờ biển Liên Hoa thông với đáy giếng này, nên sóng nước đã đẩy cái bình đến đây.

– Vậy sao, thôi ông hãy
đi đi! Tôi đi gánh nước đây!

Thiện Tài nói xong bèn đặt đòn gánh lên vai toan bỏ đi. 

– Chờ một chút!

Thiện Tài ngoảnh đầu lại nhìn, thấy xà tinh lè cái lưỡi đỏ như máu ra như muốn ăn tươi nuốt sống cậu. Thiện Tài giật mình sợ hãi:

– Ông muốn gì?


Xà tinh đáp:

– Ta bị nhốt trong bình suốt 500 năm không ăn không uống, bây giờ đói muốn chết đây! Mi đã làm ơn thì làm ơn cho trót, hãy để cho ta ăn thịt mi đi!

Thiện Tài thu hết can đảm đáp:

– Hồi nãy ông nói sẽ báo đáp cho tôi xứng đáng, tại sao đã không giữ lời còn muốn ăn thịt tôi?

Xà tinh nói một cách đắc ý:

– Mi phải biết, “lấy oán báo ơn” là cách đền ơn xứng đáng nhất.

Thiện Tài phẫn nộ nói:

– Nói bậy, thiên hạ đâu có cái loại lý lẽ gì kỳ cục vậy!

Xà tinh ngước mặt lên trời cười ha hả. Tiếng cười của hắn làm cho cuồng phong nổi lên, gió thổi cây đổ nhà sập, thổi luôn Thiện Tài ngã nhào xuống đất khiến cậu sợ hãi tê điếng cả người. Xà tinh trợn trừng mắt, há miệng thật to, tiến từng bước, từng bước đến gần Thiện Tài nói:

– Đói thì muốn
ăn thịt người là một lẽ phải, hiểu chưa? Mi sắp sửa chết rồi, còn gì nói nữa không?

Thiện Tài từ dưới đất lồm cồm bò dậy, lại thu hết can đảm mànói:

– Chết thì phải chết cho chính đáng, ăn cũng phải ăn cho có lý. Ta phải đi tìm ng
ười làm trọng tài phân xử xem lý của ai đúng.

Xà tinh nghĩ: “Trước sau gì ta cũng ăn thịt mi, muốn phân xử thì phân xử!”. Thế là cả hai cùng đi tìm người phân xử.

Cả hai đi vòng qua một lối rẽ, v
ượt qua một con đường núi, đi hoài đi mãi. Đột nhiên, từ dưới chân núi vọng lên tiếng cãi cọ. Thiện Tài chạy xuống dốc núi nhìn, thì ra có một ông lão đứng dưới một gốc cây, tay cầm rìu, dáng vẻ giận dữ. Thiện Tài chạy đến hỏi:

– Thưa cụ, cụ đang làm gì thế?

– Cây không ra quả nữa thì chặt phứt
đi làm củi đốt lửa chứ để làm gì!

Thiện Tài nhìn xung quanh, chỉ thấy có mỗi một mình ông lão, bèn hỏi:

– Thưa cụ, hồi nãy cụ cãi lộn với ai vậy?

Ông lão đáp:

– Ta muốn đốn cây mà cây không cho ta đốn, nên ta cãi lộn với cây.

Cây ăn quả đột nhiên nói:

– Lúc tôi còn trẻ, tôi cho quả
đầy cây, quả vừa thơm vừa ngọt, ông ta ăn không hết còn đem bán lấy được nhiều tiền. Bây giờ ông ta chê tôi già, không ra quả nhiều nữa nên đòi đốn tôi đi, cậu nghĩ xem lý lẽ gì lạ vậy?

Ông lão nói:

– Cây do ta trồng, ta muốn đốn thì
đốn, đó mới chính là lẽ phải!

Cây ăn quả không đồng ý, trả lời:

– Đó là ông lấy oán báo ân!

– Lấy oán báo ân thì đã sao, ta cứ đốn!

Ông lão nói xong vung rìu lên, “ầm” một tiếng, cây ăn quả bị đốn ngã xuống
đất. Xà tinh thấy thế vui quá cười lên ha hả, nói với Thiện Tài:

– Mi nghe thấy chưa? Lấy oán báo ân mới là lẽ phải, bây giờ mi chịu thua rồi chứ?

Thiện Tài vội vàng nói:

– Khoan đã, khoan đã, ng
ười thì nói có lý, người thì nói vô lý. Có lý hay vô lý đều chưa rõ rệt, chúng ta phải tìm một người khác phân xử.

Xà tinh nói:

– Dù sao mi cũng không thoát khỏi tay ta, muốn kiếm người phân xử nữa thì cứ kiếm!

Thế là cả hai lại đi tiếp. Ra khỏi rừng cây ăn trái, đi hoài, đi mãi, đi tới một bờ sông nhỏ, thấy một con ếch xanh rất lớn nổi trên mặt nước, miệng kêu “oa, oa”. Thiện Tài vội vàng chạy đến bờ sông, kể lại mọi sự cho ếch nghe, nhờ ếch phân xử xem đâu là lẽ phải.

Con ếch nghe xong, “bịch” một tiếng nhảy lên bờ, nhì
n hắc khổng lồ đứng sau lưng Thiện Tài rồi ra sức mà kêu to:

– Bớ xà tinh! Ăn hiền gặp lành, ăn ác gặp ác, nếu còn làm ác, họa giáng lên đầu!

Xà tinh nghe vậy giận đùng đùng lòi cả hai con mắt ra ngoài, gầm lên rằng:

– Con ếch nhỏ mọn kia, đừng có nói b
ậy! Mi tài giỏi bao nhiêu mà dám dạy đời ta? Coi chừng ta ăn thịt mi trước bây giờ!

Thiện Tài vội vàng chen vào giữa ngăn lại:

– Đừng! Đừng! Đừng giận cá chém thớt rồi đòi ăn thịt ếch!

Xà tinh đẩy Thiện Tài ra, tiến lại phía con ếch một cách hung tợn. Con ếch bay lên trời rồi “bõm” một tiếng, lặn xuống đáy sông mất hút. Xà tinh không bắt được con ếch thì giận dữ vô cùng, trợn trừng đôi mắt đỏ ngầu như máu, mở miệng toác hoác bày răng nanh ra, cười gằn:

– Thiện Tài ơi, mi còn nói gì nữa thì nói đi, để ta ăn thịt mi cho rồi!

Thiện Tài sợ quá vội vắt giò lên cổ mà chạy trốn. Thiện Tài chạy, Xà tinh
đuổi, thấy như sắp bắt kịp rồi. Nào ngờ không biết từ đâu xuất hiện ra một cô gái nhỏ xông ra che chở cho Thiện Tài. Thiện Tài thấy cô, vội vàng đem mọi sự kể lại nhờ cô phân xử. Cô gái nhìn Xà tinh từ đầu tới chân rồi lắc đầu nói:

– Tôi không tin. Một cậu bé con như thế làm gì cứu nổi một vị khổng lồ như ông từ giếng lên?

Xà tinh vội vàng biện hộ:

– Thật mà, thật mà! Năm trăm năm trước Bồ Tát Quán Âm trách tôi tàn hại sinh linh, vi phạm giới luật của Phật nên nhốt tôi trong một cái bình nhỏ.

Cô gái cười vang:

– Tính ác của ngươi không chừa, bộ không sợ Bồ Tát Quán Âm phạt ngươi một lần nữa hay sao?

Xà tinh lắc đầu:

– Bồ Tát Quán Âm ở tận Nam Hải Phổ Đà xa lắc, làm sao biết được mà phạt!

Cô gái lấy một chiếc bình nhỏ ra, để trong lòng bàn tay. Xà tinh nhìn thấy giật mình kinh hoàng:

– Á! Tịnh bình!

Đột nhiên, cả vạn tia sáng bắn ra, từng áng, từng áng mây lành kết lại, cô gái nhỏ biến thành Bồ Tát Quán Âm. Xà tinh thấy tình thế không ổn bèn vội vàng biến thành một cụm mây đen bay lên không trung mà trốn. Ngài Quán Âm đưa tay lên, tịnh bình bèn cưỡi một áng mây ngũ sắc bay lên đuổi theo. Mây đen chạy, mây ngũ sắc đuổi, đấu pháp với nhau trong không trung tưng bừng. Từ từ, mây đen chống đỡ không lại, biến thành một làn khói xanh, phất phơ phất phới chui vào trong tịnh bình.

Ngài Quán Âm thâu tịnh bình về, nói với Thiện Tài rằng:

– Tuy con là người hiền lành nhưng xem ra con không biết phân biệt người thiện với người ác, thôi con hãy theo ta về núi Phổ Đà mà tu tập nhé!

Thiện Tài mừng khấp khởi, quỳ xuống đất liên tục dập đầu bái tạ…. và từ đó trở thành Thiện Tài đồng tử.

Ngài Quán Âm trở về Phổ Đà Sơn, nhốt hắc xà tinh đưới một tảng núi đá ở Tây thiên. Con ếch xanh thấy vậy bèn nhảy “phóc, phóc” đến gần xà tinh kêu “oa, oa” để thử tâm xà tinh.

Cho đến nay xà tinh vẫn còn bị giam ở dưới chân núi đá, chỉ còn có thể nghểnh dài cổ ra, nhìn con ếch xanh ngóc đầu ưỡn ngực một cách hằn học nhưng không dám làm điều chi xằng bậy.

Về sau có người khắc một chữ “tâm” thật lớn trên tảng đá ở đằng trước đầu rắn, đó chính là “Tâm tự thạch”, ý nghĩa là “tâm Phật, tâm rắn, thiện ác phân minh”.

5. QUÁN ÂM ĐỘ VI ĐÀ

Vi Đà là một vị thiên tướng hộ Pháp của Phật giáo. Tương truyền rằng ngài là một trong 8 vị đại thần tướng của Nam phương Tăng Trưởng Đại Thiên Vương, một trong bốn Đại Thiên Vương, và là người đứng đầu 32 vị thần tướng thuộc quyền của bốn Đại Thiên Vương.

Tượng của ngài thường ở dưới dạng một người trai trẻ, thân mang áo giáp mũ sắt, hoặc một tay án chày kim cương, hoặc hai tay nâng chày lên, đứng trong điện Thiên Vương đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện với Phật Thích Ca Mâu Ni.

Tại sao Vi Đà lại được thờ ở Thiên Vương Điện, đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện với Phật Thích Ca?

Đó là vì ngài đã từng lập công trạng rất lớn trong việc diệt giặc bảo hộ Phật Pháp. Vi Đà, trong thánh điển Phật giáo còn được gọi là “Thần Hành Thái Bảo”, vì ngài nổi danh là có tài đi như bay. Tương truyền lúc Như Lai nhập Niết-bàn, có một con quỷ mệnh danh là “nhanh như chớp” đến trộm hai cái răng của Phật rồi chạy mất. Vi Đà cấp tốc đuổi theo, không lâu sau bắt kịp tên cướp, lấy lại răng Phật. Từ đó, Vi Đà trở nên một vị thần hộ pháp nổi danh.

Lúc còn trẻ, Vi
Đà là một chàng trai anh tuấn, uy phong lẫm lẫm, ăn mặc như một võ tướng nên được tạo tượng khá giống các dũng tướng Trung Quốc như Triệu Vân, Mã Siêu... Vi Đà cũng là hộ pháp của Bồ Tát Quán Âm, nếu ngài tu thành chính quả cũng là nhờ sự giáo hóa của Bồ Tát vậy. 

Hồi xưa, Vi Đà là một chàng thanh niên sống ở nông thôn, ven bờ sông Lạc Dương, thuộc phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến.

Cậu là người siêng năng, lanh lẹ và tốt bụng, thông minh tài giỏi, nổi tiếng là một người thợ khéo trong vùng. Nhà cậu ở bên bờ sông Lạc Dương. Sông này rất rộng, nước chảy xiết, vì không có cầu bắc ngang nên dân chúng hai bên bờ qua lại rất gian nan, phải lệ thuộc vào những chiếc thuyền chở khách. Bởi vì nước chảy xiết và trũng nước xoáy lại nhiều, lúc trời tốt qua sông đã không an toàn mà khi mưa to sóng lớn hay bão bùng thì lại càng nguy hiểm hơn nữa, nên nạn lật thuyền rất thường xảy ra, người táng thân vào bụng cá cũng không phải là ít. 

Vi Đà đã bao lần chính mắt trông thấy những thảm cảnh lật tàu như thế, bèn lập nguyện xây một cây cầu bắc ngang sông, nên trong mấy năm trời ngày bán giày cỏ, đêm đi đập đá để dành từng đồng từng cắc. Lúc cậu sắp sửa xây cầu thì Bồ Tát Quán Âm vân du ở phủ Tuyền Châu, và Ngài có một đoạn nhân duyên với Vi Đà từ đó.

Mùa xuân năm ấy, một hôm Bồ Tát Quán Âm tay cầm tịnh bình, chân đạp mây lành, đứng trên không trung nhìn xuống sông Lạc Dương, bỗng nhiên nghe vọng lên tiếng la khóc cầu cứu. Ngài cúi xuống, thấy dưới chân mình có dòng sông lớn cuồn cuộn trào dâng, một ông lão lái đò đang chèo thuyền sang sông và chiếc thuyền đang bị dòng nước xiết kéo tới một con nước xoáy. Ông lái thuyền cuống cuồng chống đỡ nhưng chiếc thuyền bị con nước xoáy làm cho quay mòng mòng, dường như sắp sửa bị lật, hành khách trên thuyền kinh hoảng trăm bề, đàn bà trẻ con khóc la thảm thiết, tiếng kêu cầu thấu tới mây xanh và tới tai ngài Quán Âm.

Bồ Tát Quán Âm đại từ đại bi vội lấy nhành dương liễu từ tịnh bình ra, ném xuống chiếc thuyền đang lâm nạn trên mặt biển, thi thố thần lực áp cho sóng lặng xuống. Dòng nước giận dữ đang làm cho ba đào cuộn dâng, nước xoáy trũng sâu đang làm cho con thuyền lắc lư nghiêng ngửa bỗng tự nhiên bình lặng hiền hoà, con thuyền nhờ thế được thoát cơn hiểm nạn.

Dĩ nhiên, ông lái thuyền không biết mình đã
được Bồ Tát Quán Âm cứu giúp, thấy con thuyền không còn tròng trành xoay vần và thoát ra khỏi con nước xoáy thì thở hổn hển, phần thì mừng rỡ, phần thì cố lấy lại can đảm để chèo nốt con thuyền đến bờ đối diện. Khách trên thuyền ai cũng tự cảm thấy mình đã may mắn thoát chết, và nhớ lại cảnh nguy hiểm vừa trải qua, ai cũng rùng mình rởn ốc.

Hơn ai hết, ngài Quán Âm hiểu rõ những ý nghĩ, những mong cầu của chúng sinh, vì thế Ngài lập tức quyết định ra tay làm một điều lợi ích cho dân. Thế là Ngài hạ mây xuống, biến thành một cô gái chài lưới trẻ tuổi xinh đẹp, bước lên khoang nói chuyện với ông lão chèo thuyền, hỏi ông có thể chèo trở về bờ bên kia ngay không? Lúc đó, một vài người dân làng cũng vừa đến và muốn qua sông. Ông lão còn chưa lấy lại hồn vía, bảo rằng:

– Lúc nãy suýt nữa thuyền bị lật, thoát
được hiểm là một điều may mắn không ngờ. Dòng sông này nước chảy quá mạnh, mỗi lần chèo thuyền tôi đều nơm nớp phập phồng. Nói thật, bây giờ tôi hãy còn quá sợ, không muốn chèo thuyền về bên kia nữa, nhỡ có chuyện gì xảy ra thì sao?

Dân làng gấp muốn qua sông,
xuống nước năn nỉ:

– Ông lão
ơi, ông không đưa thì chúng tôi làm sao về được? Ông là tay nghề lão luyện, ai cũng đặt tin tưởng vào ông, xin ông chịu phiền một chút giùm đi!

Ông lão lái thuyền không từ chối
được, đành để cho Bồ Tát Quán Âm cùng một vài người dân làng bước lên thuyền, một lần nữa đưa mái chèo hướng bờ đối diện, một mặt nói:

– Quý vị không biết chèo thuyền trên con sông Lạc D
ương này nguy hiểm tới mức nào đâu! Mười năm trở lại đây, ngày nào tôi cũng chèo thuyền, gặp không biết bao nhiêu là cảnh nguy hiểm, tạm cho là tôi cứng tay nghề nên may mắn, lần nào cũng từ cõi chết trở về được. Trên dòng sông này, tôi đã chính mắt thấy vô số con thuyền bị lật, vô số người chết chìm làm mồi cho cá. Tôi già rồi, không còn khoẻ nữa, trước sau gì tôi cũng sẽ phải bỏ thuyền bỏ lái thôi!

Bồ Tát Quán Âm bèn xen vào hỏi:

– Thưa cụ, sông này nước chảy xiết, xoáy nước nhiều, chèo thuyền quả thật nguy khốn, làm sao không xảy ra tai nạn cho được! Tại sao chúng ta không xây một chiếc cầu bắc ngang qua sông? Cháu từ xa tới, chỗ cháu ở, nếu có dòng sông nào nguy hiểm như thế này cũng đều có cầu bắc qua cả.

Ông lão lái thuyền thở dài lắc đầu, một khách đi thuyền tiếp lời, nói:

– Trăm họ ở đây trông mong xây một cái cầu từ lâu rồi, quan huyện cũng mấy lần công bố xây cầu, nay thì kêu gọi
đóng góp tiền tài, mai thì yêu cầu đóng góp thóc gạo, năm nào cũng ra công bố nhưng mấy năm rồi, cầu đâu không thấy, chỉ thấy hầu bao của quan huyện mỗi năm mỗi phồng to lên thôi.

Ngài Quán Âm hỏi:

– Dân chúng tự mình đứng ra xây cầ
u không được sao?

Ông lão nghe thế, c
ười buồn mà rằng:

– Nói thì dễ, muốn xây cầu thì một là phải có tiền, hai là phải có thợ giỏi. Dân chúng làm gì có chừng
đó tiền, và cũng làm gì có người đủ tài để đứng ra tổ chức một việc to lớn như thế. Tuy nhiên cách đây vài năm có một anh chàng tên là Vi Đà cũng đã từng đề cập tới việc xây cầu. Đó là một thanh niên có chí lớn, cũng là một tay thợ khéo nổi tiếng tài giỏi ở vùng này. Một hôm thấy tôi chèo thuyền quá nguy hiểm, cậu đã nói với tôi là nhất định sẽ xây cầu. Thế mà về sau lại không thấy cậu xuất hiện nữa. Có người nói cậu đang ở nhà để dành tiền chuẩn bị việc xây cầu, mấy năm nay không thấy động tĩnh, có lẽ cậu không để dành được tiền. Chuyện xây cầu thật không phải dễ!

Quán Âm nghe thế bất giác cảm thấy
hoan hỉ, nghĩ rằng ở đây mà có một chàng trai trẻ tuổi như thế thật là hy hữu, có cùng một chí nguyện với mình, về sau giao cho anh ta đứng ra tổ chức việc xây cầu không phải là một điều thích hợp lắm hay sao?

Một người dân bình thường khó mà có thể trù liệu được cần phải có bao nhiêu tiền để xây cầu, muốn cho việc xây cầu này thành tựu thì chính Ngài phải đứng ra tìm biện pháp mới xong.

Lúc ấy thuyền đã cặp bến, những ng
ười dân làng đã lên bờ và chia tay nhau ai về nhà nấy, nhưng cô gái chài lưới không lên bờ mà còn ngồi lại trong thuyền, chìm trong suy nghĩ. Ông lão chèo thuyền cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi:

– Cô nương, sao cô không lên bờ?

– Thưa cụ, cô gái chài lưới đáp, cháu đang suy nghĩ tới việc xây cầu. Vừa rồi cụ nói có anh chàng gì đó quyết tâm xây cầu, thật là hy hữu. Nhưng anh ấy một mình kiếm tiền thì chắc cả đời kiếm cũng không đủ. Tại sao tất cả chúng ta không cùng tìm cách giúp đỡ anh ấy?

Ông lão lái thuyền đáp:

– Cách nào bây giờ, ở đây ai cũng nghèo khổ cả, còn những người tài chủ có tiền thì ai mà chịu cắt núm ruột của mình ra! 

Cô gái chài lưới đáp:

– Cụ à, muốn tìm biện pháp thì không khó, cháu nghĩ trên sông này hễ ch
ưa có cầu là còn có tai nạn, vì thế cháu muốn giúp một tay.

Ông lão chèo thuyền nghe thế cảm thấy kỳ lạ:

– Cô ư? Cô có biện pháp nào? Trừ phi nhà cô có tiền và muốn làm việc thiện.

Cô gái đáp:

– Nhà cháu không có tiền nhưng cháu có biện pháp. Chẳng hạn, mình có cách nào lấy tiền của nhà giàu không?

Ông lão lái thuyền đáp:

– Lấy tiền của nhà giàu? Nhà giàu đời nào để cho mình lấy tiền, cô thật khéo mơ tưởng viển vông.

Có gái dân chài nói:

– Cụ ơi, cháu có cách này nhưng cần cụ giúp đỡ. Nếu cụ chịu làm chung việc này với cháu thì mình có thể lấy tiền của nhà giàu được.

Nói xong cô gái tới gần thầm thì to nhỏ vào tai ông lão, khua tay múa chân ra dấu, còn ông lão thì cứ thế mà gật gù từ đầu tới cuối.

Cuối cùng ông nói:

– Được, vậy bắt đầu từ ngày mai chúng ta bắt đầu thi hành kế hoạch của cô.

Hôm sau, vừa vặn đúng ngày mồng ba tháng ba, đó là ngày hội đình chùa lớn nhất trong năm ở phủ Tuyền Châu. Dân chúng từ bốn phương tám hướng đổ dồn về dự hội, người đi người về thật là náo nhiệt.

Hôm ấy ông lão cũng chèo thuyền nh
ư mọi ngày nhưng hôm nay có điểm khác biệt là có một cô gái vô cùng xinh đẹp ngồi trong thuyền, còn ông lão thì cười tươi như hoa, thuyền không cập bến mà lại ngừng ở ngay chính giữa dòng sông.

Sông Lạc Dương rộng khoảng năm mươi thước, thuyền ở ngay giữa dòng sông tức là cách xa hai bên bờ khoảng hai mươi mấy thước. Ông lão lái đò cùng cô gái cứ ở giữa dòng sông như thế mà chuyện trò, không chịu đưa thuyền về bến. Người muốn qua sông cứ đứng hai bên bờ mà réo:

– Ông lão
ơi, mau chèo thuyền rước khách, chúng tôi muốn qua sông đây!

Nhưng họ kêu mấy cũng mặc họ, ông lão không hề màng đến, vẫn bình an giữa dòng sông. Khách chờ thuyền càng ngày càng đông, ai cũng nhìn thấy chiếc thuyền của ông lái và ai cũng tò mò không biết ông muốn làm gì, và càng đông họ càng ồn ào. Nhất là khi họ thấy ngồi trên thuyền là cô gái chài lưới có một nhan sắc hơn người. Cô gái này thật sự lôi cuốn người ta, cô mặc một cái áo trên ngắn thêu hoa nhiều màu, dưới là chiếc váy màu xanh lá cây nhạt thanh nhã nổi lên trên cái quần màu đỏ sậm, đầu bới tóc cao, tai đeo khuyên bạc, khuôn mặt trái soan đoan trang diễm lệ, da trắng nõn mịn màng, mắt như nước hồ thu gợi tình, người nào nhìn cô cũng phải khen thầm là đẹp tuyệt. 

Trong những người đứng nhìn, có một số là con nhà hào phú, họ nhìn cô gái mà hồn phách điên đảo, thần trí rối loạn. Người nào cũng kêu ầm lên:

– Ông lái ơi, mau trở về chèo thuyền qua sông!

Thấy người chờ càng ngày càng đông, ông lão mới đủng đỉnh đứng dậy nhìn hai bên bờ mà vừa chỉ cô gái dân chài mà nói:

– Các vị nghe đây, hôm nay tôi không chèo thuyền vì tôi có cô cháu tức là cô nương đây, đã đi từ mãi tận Tô Châu lên đến phủ Tuyền Châu này. Cháu tôi năm nay vừa chẵn đôi tám, muốn tìm một chàng trai có duyên có số với mình để gá nghĩa trăm năm. Từ ngày hôm nay trở đi, cháu tôi sẽ ngồi trên thuyền, nếu có chàng trai nào muốn cưới cô về làm vợ, bất kỳ là người nào, đều phải tham dự vào cuộc thi này. Điều kiện duy nhất là phải ném một đồng tiền đồng hay một đồng tiền bạc về phía cháu tôi, nếu ai ném trúng người cô ấy thì coi như có duyên có số với cô vậy. Tôi sẽ đứng đây làm trọng tài, mọi người làm chứng, tuyệt đối không nói sai lời.

Lão lái thuyền nói xong, mọi ng
ười mới vỡ lẽ ra. Những người trai trẻ trong đám đông hiểu đây là một cuộc thi ném bạc kén chồng. Họ nhìn có gái xinh đẹp, ai cũng nghe tim đập rộn ràng, tinh thần sung mãn, nhất là đám vương tôn công tử thì trở nên như điên như cuồng vậy. Đó là những người hiếu sắc và có tiền, họ thấy cô gái này đẹp hơn tất cả những cô gái khác mà họ đã từng gặp, nên ai cũng muốn ném tiền trúng người cô ấy để cưới cô về làm vợ, được như thế thì thật là tuyệt vời! 

Cô gái
ngồi trên chiếc thuyền đang bồng bềnh ngay giữa lòng sông, cách hai bên bờ không quá hai mươi mấy thước, nhìn thì thấy tợ như gần ngay bên cạnh, lo gì ném không trúng? Những vương tôn công tử, người nào cũng thèm rỏ dãi, sốt ruột, muốn chính mình là người đầu tiên ném trúng cô nương. Họ bèn lập tức lấy tiền đem theo tùy thân tranh nhau ném về phía cô gái. Trong chốc lát, những đồng tiền từ hai bên bờ sông bay tới khoang thuyền như mưa.

Tuy nhiên, lạ lùng thay, tuy bờ không xa và cô gái thấy gần như thể ở ngay bên cạnh, và chàng thanh niên nào cũng nhắm cô gái cẩn thận trước khi ném nhưng tiền cứ rơi lên thuyền, không có đồng nào trúng được người cô. Đám vương tôn công tử cảm thấy giống như đang ở trong một canh bạc, hễ hết tiền thì sai người hầu chạy về nhà lấy thêm. Họ cùng nhau tranh dành, cãi nhau chí choé, thi nhau mà ném từng giỏ, từng giỏ bạc vụn. Những đồng tiền ấy chỉ trượt bên cô gái trong đường tơ kẽ tóc, cho nên họ vừa hận vừa mừng, cho rằng ném lại một lần nữa thì chắc chắn thế nào cũng trúng. Và như thế, họ không ngừng thử ném trở lại, ném cho tới khi trời tối mà rốt cuộc vẫn chưa ai ném trúng được người đẹp. 

Lúc ấy ông lão lái thuyền mới nói với mọi ng
ười là trời đã tối, không thể tiếp tục ném nữa, ngày mai hãy trở lại ném tiếp.

Chuyện kén ch
ồng trên thuyền đã làm chấn động cả phủ Tuyền Châu, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn ngàn. Ngày hôm sau, ông lão lại chèo thuyền ra giữa giòng sông, và cô gái chài lưới lại ngồi trên thuyền. Người ham vui đến xem càng lúc càng đông, chen lấn nhau ở bên này và bên kia bờ sông, trong ngoài chật ních. Hai bên bến phà huyên náo giống như một buổi hát xiệc. Những vương tôn công tử chiều qua không ném trúng cô nương nhưng vẫn chưa mất hy vọng, tiếp tục chuyển tiền tới, những anh chàng này tâm hồn hoàn toàn si mê điên đảo trước nhan sắc của tuyệt thế giai nhân nên tổn phí bao nhiêu cũng không tiếc, tiền họ ném có thể đong thành bồ, thành sọt vậy. 

Cứ thế hai ngày liền mà vẫn chưa có ai ném trúng cô nương mà chỉ thấy những đồng tiền cứ rào rào rơi xuống bên cạnh cô xuống tới khoang thuyền.

Lúc Bồ Tát Quán Âm lập kế kiếm tiền bằng cách kén chồng ở giữa dòng sông, Vi
Đà cũng nghe nói đến sự việc lạ lùng ấy nên cũng tìm đến xem khung cảnh huyên náo. Vi Đà là một chàng thanh niên trẻ tuổi, nhìn thấy cô gái chài lưới trên thuyền cũng bị nhan sắc tuyệt vời của mỹ nhân hớp hồn, nên cũng đứng ngây người ra nhìn người ngọc. Cậu thọc tay vào túi, trên thân cũng có vài đồng tiền. Tâm cậu bị chấn động nên cũng muốn chen vào ném, nhưng lập tức cậu đè nén ý muốn ấy, nghĩ rằng bao nhiêu đó người ném mà chưa ai ném trúng, mình không nên ném mấy đồng tiền một cách oan uổng, thì thôi nên bỏ ý nghĩ ấy đi.

Nhưng vừa vặn lúc ấy có Lữ Động Tân, một trong Bát Tiên, cũng vân du đến chỗ này. Ông nhìn thấy bên dưới người đông như kiến, không biết đang có chuyện gì nên đáp mây xuống lẫn lộn trong đám đông người chen vào xem. Ông biến thành một ông lão tóc trắng như bông, mới nhìn cô gái chài lưới trên thuyền liền biết ngay đó chính là Bồ Tát Quán Âm và hiểu ngay tự sự, nên rất ngầm thán phục phương pháp kiếm tiền của ngài Quán Âm, nhưng đồng thời không khỏi cảm thấy buồn cười, thầm nghĩ:

– Đại sĩ, Đại sĩ, thật đã khổ công tìm cách làm việc thiện
để nghĩ ra một diệu kế như thế. Nhưng hôm nay tôi muốn làm cho Ngài phải xuất đầu lộ diện chơi. Ngài làm cho con em các nhà hào phú ném tiền một cách oan uổng, không ai có thể ném trúng Ngài, Ngài kén chồng như thế đủ để xây cầu rồi. Nếu không có chuyện gì xảy ra thì thật là toi công cho đám công tử thiếu gia kia quá, nên tôi muốn xem Ngài đối phó làm sao nếu phải làm vợ một kẻ phàm phu!

Lữ Động Tân bèn đưa mắt tìm một anh chàng thanh niên để giúp anh ta ném trúng cô gái chài lưới, làm khó dễ Bồ Tát Quán Âm xem sao! Khéo sao ông lại đứng ngay bên cạnh Vi Đà. Ông thấy anh chàng này phúc hậu lại chín chắn, chứ không phải loại công tử đẻ bọc điều kia, và ông cũng đã bắt gặp động tác móc tiền ra rồi lại bỏ vào của anh chàng. Ông nghĩ:

– Được rồi, Đại sĩ, tôi sẽ làm cho anh chàng này ném trúng Ngài, để xem Ngài làm sao?

Thế là ông vỗ vai Vi Đà, cười nói:

– Này cậu, cậu có muốn thử một chuyến không?

Vi Đà bị hỏi bèn đỏ bừng cả mặt, xấu hổ cúi đầu. Lữ Động Tân nói:

– Cậu không có gì phải xấu hổ, trai lớn phải có vợ, một tuyệt sắc giai nhân nh
ư thế đang kén chồng thì không nên bỏ qua cơ hội, biết đâu hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, cậu có duyên có phần với cô ấy thì sao?

Chàng thanh niên nhìn ông lão nói:

– Ông ơi, cháu cũng muốn thử chứ, nhưng nghĩ lại hai ngày vừa qua, biết bao nhiêu là vương tôn công tử ném không biết bao nhiêu là tiền mà ném không trúng, còn cháu chỉ có mấy đồng bạc trên thân, nếu đem ra ném thì chỉ có phí tiền thôi chứ làm sao trúng được. Hơn nữa, mấy năm vừa qua, cháu chỉ nghĩ tới có một điều mà thôi, đó là làm sao để dành tiền xây cầu. Tiền kiếm được hãy còn ít lắm, cháu không thể tự tiện nghĩ tới vấn đề lấy vợ của cá nhân mình mà đi tiêu phí những đồng tiền này.

Lữ Động Tân nghe thế cảm thấy rất mến anh chàng này và nghĩ thầm:

– Thì ra chàng trai trẻ này cùng có chung một ý nguyện với ngài Quán Âm, thật là hy hữu, hy hữu! Ta
phải giúp cho anh chàng ném trúng Quán Âm Đại sĩ, phá Ngài chơi. Rồi khi nào Ngài biết được và có nổi giận thì cũng dễ gỡ thế bí bằng cách để cho anh chàng này giúp đỡ Ngài trong việc xây cầu là xong!

Nghĩ thế rồi Lữ Động Tân nói với Vi Đà:

– Này cậu, để tôi nói cho cậu biết tại sao cô nương này lại kén chồng. Cô kén chồng bằng cách này là cũng chỉ vì muốn kiếm tiền xây cầu, cậu và cô ấy đều có cùng một ý chí nên tôi nghĩ rằng cậu sẽ ném trúng. Đôi bên kết hôn rồi chung lưng sát cánh với nhau lo chuyện xây cầu, không phải là thượng sách hay sao? Cậu cứ ném thử đi, nếu đúng duyên đúng phận, người khác ném mấy cũng không trúng nhưng cậu ném một lần là trúng. Không tin cậu cứ thử, mà dù ném không trúng đi nữa thì tiền này xem như cậu tặng cho cô ấy xây cầu chứ có mất mát đi đâu, cậu nghĩ tôi nói có đúng không?

Đúng ngay lúc ấy, giọng ông lão lái thuyền vọng tới:

– Bà con làng xóm ơi, trời đã tối rồi nên hôm nay ngừng ở đây, tôi muốn gác mái chèo về nhà nghỉ.

Lữ Động Tân nghe vậy vội thúc Vi Đà ném, Vi Đà luống cuống bèn ném bừa về phía cô gái một đồng tiền. Có lẽ vì trong suốt hai ngày Ngài Quán Âm dùng thần lực nên tiền không thể nào trúng tới mình Ngài, nay ông lão chèo thuyền đã ra hiệu ngừng để về nghỉ nên Ngài bèn xả thần lực. Thêm vào lại có Lữ Động Tân cố ý làm cho đồng tiền ném trúng Ngài nên ông thổi một cái, đồng tiền của Vi Đà theo hơi thần của ông mà rơi lên người cô gái chài lưới, không rơi bên phải, không rơi bên trái, không rơi ở trên hay ở dưới mà rơi ngay tim của cô. Lúc ấy ai cũng đã ngừng tay, chỉ còn có Vi Đà ném tiền, người đứng hai bên bờ ai cũng thấy rõ ràng, thế là sau hai ngày trời cuối cùng cũng có người ném trúng, không ai bảo ai mà mọi người đều reo hò nhảy cẫng lên vỗ tay hoan hô:

– Giỏi! Giỏi! Trúng rồi! Trúng rồi! Anh chàng này
tốt phước quá!

Bồ Tát Quán Âm giật mình kinh ngạc, bị ném trúng một cách bất ngờ nên Ngài lúng túng, không biết chuyện chi xảy ra, bèn nhìn Vi
Đà đang được mọi người hoan hô. Nhìn thấy rồi Ngài giận muốn đứt hơi vì trong đám đông, có Lữ Động Tân đang nhìn Ngài mà cười ha hả. Do đó Ngài biết ngay là có bàn tay phá rối của Lữ Động Tân.

Có tiếng người kêu:

– Ông lái thuyền ơi, mau chèo qua đây, chú rể đứng ở đây nè!

Bồ Tát Quán Âm rất bối rối nhưng không có cách nào hơn là để cho ông lão chèo thuyền về rước Lữ Động Tân và Vi Đà lên thuyền, một lời đã hứa đâu có dễ gì nuốt lại được!

Ông lão lái thuyền nhận ra Vi
Đà, mừng rỡ nói với cô gái chài lưới:

– Cô nương, cậu này chính là anh chàng thanh niên muốn xây cầu đây, đúng là trời có mắt!

– Đúng rồi, đúng
rồi, đây là duyên trời định - Lữ Động Tân nói. Cô nương à, lão phu đặc biệt tới đây để tác hợp cho hai người.

Bồ Tát Quán Âm nhìn Lữ
Động Tân như thể ông là con quái vật, vừa tức vừa giận mà không thể để lộ ra ngoài mặt. Tuy nhiên, nghe nói rằng anh chàng thanh niên này chính là Vi Đà, người muốn xây cầu, thì cũng đổi giận làm vui, thầm nghĩ rằng:

– Anh chàng này phúc hậu lương thiện lại là một tay thợ đá giỏi, để cho anh ta đứng ra xây cầu thì không có gì bằng.

Còn Lữ
Động Tân, Ngài Quán Âm biết ông là người hay phá phách trêu ghẹo người khác, nên Ngài cũng không giận nữa mà lại bảo rằng:

– Ông làm việc tốt, tôi xin cám ơn ông. Nhưng ông đùa lần này là quá lố, không nên đắc ý như vậy. Ông đã gieo gió thì bây giờ hãy gặt bão, theo tôi nghĩ, ông nên mau nói lên sự thật.

Ông lão lái thuyền và Vi
Đà nghe ngài Quán Âm và Lữ Động Tân nói chuyện với nhau như thể là người quen biết từ lâu, cảm thấy kỳ lạ nên hai người đều đứng ngây người ra nhìn. Lữ Động Tân nghe Ngài Quán Âm dạy như thế rồi thì cũng không dám đùa nữa, và cũng nghĩ rằng mình chỉ nên đùa vừa phải thôi, phải mau nói lên sự thật kẻo càng để lâu càng khó xử. Nghĩ thế rồi, Lữ Động Tân bèn nói sự thật cho ông lão chèo thuyền và Vi Đà nghe.

Khi biết mình
đang đứng trước mặt Bồ Tát Quán Âm và Lữ Động Tân, hai người vừa kinh sợ vừa vui mừng. Lại nghĩ đến ngài Quán Âm vì muốn có đủ tiền xây cầu mà phải nhọc tâm nghĩ diệu kế, mấy ngày qua thu được tiền đầy cả một khoang thuyền, hai người vô cùng kính phục tấm lòng từ bi và trí huệ của Ngài nên khấu đầu lễ bái không ngừng. 

Chuyện kén chồng chỉ là một mưu kế của Bồ Tát, tiên và phàm vĩnh viễn cách biệt nên một khi giải thích rồi, không có vấn đề gì nữa.

Bốn người đếm xong tiền thu được rồi, Bồ Tát Quán Âm nói với ông lão lái thuyền và Vi Đà:

– Chuyện xây cầu là chuyện quan trọng, nay ta ủy thác cho hai người. Vi Đà là người tốt, hãy chịu khó cố gắng thêm chút nữa. Hiện tại thì số tiền này đủ để xây cầu, mong hai người hãy mau tiến hành công việc, tranh thủ thời gian để cầu được xây càng mau càng tốt. Khi nào cầu xây xong, ta sẽ trở lại.

Nói xong, Ngài hiện ra Quán Âm bảo tướng trang nghiêm, rồi cùng Lữ Động Tân lên mây mà đi.

Ông lão lái thuyền và Vi
Đà được Ngài Quán Âm ủy thác việc này thì ngay ngày hôm sau là bắt tay vào việc, làm ngày làm đêm không dám trễ nãi, không tới một năm sau, một cây cầu hùng vĩ tráng lệ được bắc ngang sông Lạc Dương.

Đúng ngày cầu vừa xây xong, quả nhiên Ngài Quán Âm trở lại. Tuy Ngài vẫn xuất hiện dưới lốt một cô gái chài lưới, nhưng lần này ai cũng biết đó là Bồ Tát Quán Âm giáng lâm nên tất cả đều sụp xuống lễ lạy.

Bồ Tát nói với mọi người:

– Các vị hãy mau
đứng dậy, không nên tạ ơn ta. Cầu này mà hoàn thành là do sức đóng góp của tất cả quý vị, chính ta mới phải tạ ơn các vị.

Bồ Tát Quán Âm chúc mừng việc cầu đã hoàn thành, rồi lên mây trở về Nam Hải. Nh
ưng trước khi đi Ngài nói riêng với Vi Đà:

– Vi Đà, ngươi đã hoàn thành tốt đẹp việc xây cầu. Ngươi đã ném tiền trúng ta vì ta với ngươi có duyên phận. Ta thấy ngươi là người có tâm thiện lành, ngươi có muốn cùng ta về Phổ Đà Sơn không? Nếu muốn thì có thể ở bên ta mà tu hành cho tới chính quả, làm thần hộ Pháp cho ta, nếu không muốn thì cứ ở lại đây.

Vi Đà vội vàng đáp:

– Bồ Tát trên cao, Vi Đà con được Bồ Tát giúp đỡ, một lòng thề nguyện xây cầu viên mãn, cầu xây xong rồi, con luôn tạc dạ ghi lòng tâm đại từ đại bi của Bồ Tát. Nếu được theo Bồ Tát mà tu hành, thì đó là điều vinh hạnh mà con vẫn hằng mơ tưởng mà không dám nghĩ có thể thành sự thật. Con nguyện theo Bồ Tát về Phổ Đà Sơn.

Bồ Tát Quán Âm bèn đưa Vi Đà về Phổ Đà Sơn. Một vài năm sau, Vi Đà tu hành thành chính quả, được phong là thần Hộ Pháp, và được gọi là “Vi Đà Thiên Tôn”, thời thời khắc khắc đứng trước mặt Bồ Tát Quán Âm để hộ vệ Ngài.

6. QUÁN ÂM ĐỘ DI LẶC

Trước khi Bồ Tát Di Lặc thành Phật, ngài là con của một gia đình tài chủ rất giàu có.

Từ nhỏ sinh ra đã trắng trẻo mập mạp, suốt ngày c
ười hà hà, đặc biệt tốt bụng, luôn luôn đem tài sản trong nhà ra bố thí cho người nghèo. Khi Di Lặc lớn lên thì gia sản kếch sù kia đã bị đem cho hết sạch sành sanh rồi, cuối cùng cả quần áo trên thân cậu cũng bố thí hết, chỉ còn lại cái quần duy nhất. Nhưng cậu không hề hối hận cũng chẳng hề buồn, cả ngày mình trần trùng trục vẫn vui vẻ uỡn bụng mà cười.

Quán Âm Đại Sĩ biết được việc này thì trong tâm rất tán thưởng nhân cách của Di Lặc. Nhưng chuyện tai nghe sao rõ bằng mắt thấy, Ngài muốn tự mình thử thách anh chàng thanh niên này, nếu như danh bất hư truyền thì sẽ hóa độ cho cậu ta về Phổ Đà Sơn thành Phật. 

Một hôm, Ngài Quán Âm giả trang thành một cô gái nghèo, tìm
đến Di Lặc để cầu xin bố thí. Di Lặc thật là khó xử, trên thân chỉ còn có cái quần, ngoài ra không có lấy một vật gì khác, đứng trước mặt một cô gái làm sao cậu có thể cởi quần đem bố thí cho cô ta được! Cậu xoa bụng cười hề hề mà rằng:

– Cô
nương chờ một chút, tôi đến nhà mấy người nhà giàu xin cái gì về cho cô nương nhé!

Nói xong bèn xoay lưng đi ngay. Ngài Quán Âm nhẹ mỉm cười, kêu giật Di Lặc lại:

– Khoan đã! Bần nữ có hai chậu hoa ở
đây, tiên sinh một chậu tôi một chậu. Nếu hoa trong chậu của tiên sinh nở trước, thì tôi sẽ không xin tiên sinh bố thí cho gì cả; còn nếu hoa trong chậu của tôi nở trước thì tiên sinh phải cho tôi cái gì của chính tiên sinh, không được đi xin vật gì của ai khác.

Di Lặc nghe xong, không đòi hỏi gì h
ơn, vui vẻ cười dài, luôn miệng nói “được!”, nhưng thật ra trong tâm thì cậu không có một chủ ý gì.

Ngài Quán Âm và Di Lặc đến một nơi vắng vẻ, cả hai nhắm mắt ngồi bệt xuống đất trước mặt chậu hoa của mình.

Hai giờ trôi qua, Ngài Quán Âm hé mắt ra nhìn thì thấy chậu của mình thì không có lấy một nụ hoa, còn chậu của Di Lặc thì có một đóa hoa đã nở rồi. Bồ Tát Quán Âm vẫn cố tình muốn thử Di Lặc nên mới nhẹ nhẹ
đổi chỗ hai chậu hoa, rồi giả bộ làm ra vẻ ngạc nhiên và mừng rỡ kêu lên rằng:

– Hoa trong chậu của tôi đã nở rồi!

Tuy Di Lặc rất thật thà nhắm nghiền đôi mắt nhưng vẫn cảm biết khi Ngài Quán Âm đổi chỗ hai chậu hoa, cậu nghĩ thầm: “Người ta là một đại cô nương, ta phải nhường nhịn cô ta chứ có lý gì mà tị nạnh hơn thua!” Cậu bèn mở banh hai mắt, cười hề hề:

– Tôi thua rồi! Tôi thua rồi!

Bồ Tát Quán Âm thấy dáng điệu của cậu như thế thì cười:

– Tiên sinh thua rồi, bây giờ phải bố thí cái gì cho tôi!

Di Lặc gãi
đầu, xoa bụng và cười hì hì:

– Cô nương ơi, cô nương cũng thấy rồi mà, thật ra tôi không có gì để tặng cô nương hết. Tuy nhiên tôi hãy còn cái giải quần này!

Nói xong Di Lặc tháo cái giải quần ra trao cho Ngài Quán Âm, còn mình thì lấy hai tay xách quần, vui vẻ c
ười hoài.

Ngài Quán Âm rất cảm động nên nói thật cho Di Lặc biết mình là ai, và chủ ý của mình là gì. Di Lặc đồng ý ngay, theo Quán Âm Đại sĩ về Phổ Đà Sơn. 

Thần hộ Pháp của Quán Âm viện là ngài Vi Đà, thấy Bồ Tát Quán Âm đã về, đi theo sau có một anh chàng thanh niên mình trần trùng trục lại hai tay xách quần miệng cười hề hề, thì bất giác cau mày, mắt toé lửa, đưa chày hàng ma lên, khí lực hùng dũng uy nghi chận cửa đại điện nhìn Di Lặc hét: “Đứng lại!” 

Bồ Tát Quán Âm thấy Di Lặc bị chận ở ngoài đại điện thì vội vàng đến giải thích mọi sự cho ngài Vi Đà nghe, lúc ấy ngài Vi Đà mới ngây người ra để cho Di Lặc bước vào. 

Ngài Quán Âm nhìn Di Lặc, rồi lại nhìn ngài Vi
Đà, nói rằng:

– Di Lặc miệng luôn tươi cười, có thể đón khách thập phương. Vi Đà uy nghi lẫm liệt, làm Hộ Pháp bảo vệ điện Phật đúng lắm!

Từ đó trở đi, ngài Di Lặc, ngài Vi Đà, và tứ đại Kim Cương cùng nhau thủ hộ chùa chiền ở Thiên Vương Điện. Phật Di Lặc ngồi đối mặt với cửa chính, lúc nào cũng mang bộ mặt vui vẻ tươi cười hỉ hả.

7. QUÁN ÂM VÀ 18 VỊ LA HÁN

Ở chân núi Thiên Thai, khoảng hơn 3 cây số về phía bắc huyện Thiên Thai tỉnh Triết Giang, hiện nay có một ngôi chùa rất nổi tiếng tên là Quốc Thanh tự, do Kim Vương Dương Quảng đời nhà Tùy năm Khai Hoàng thứ 18 (598 DL), vâng lời Trí Giả Đại Sư mà xây nên, cũng là tổ đình Thiên Thai Tông của Phật giáo Trung Hoa. Trong giới Phật tử, ngôi chùa Thiên Thai này vẫn còn nổi danh trên khắp hoàn cầu.

Trong Đại Hùng Bảo Điện (Chính Điện) của chùa Quốc Thanh, có một bức tượng Quán Âm “Từ Hàng Phổ Độ” ở ngay trung tâm, và ngồi dọc xếp thành hai hàng ở hai bên điện có tượng 18 vị La Hán khắc bằng gỗ lim, từ đời nhà Nguyên.

Ban đầu, 18 vị La Hán chính là 18 người thợ đến làm công ở chùa này. 18 người thợ đã tỉ thí với Bồ Tát Quán Âm và thua cuộc nên được Ngài thâu làm 18 La Hán.

Sau khi chùa Quốc Thanh được xây lên rồi, Kim Vương Dương Quảng ban cho chùa rất nhiều ruộng đất, nên hòa thượng trụ trì phải mướn thợ đến cày cấy trồng trọt, tổng cộng là 18 người.

Còn việc c
ơm nước trong chùa thì có một bà lão rất già, đầu tóc bạc phơ, một tay đảm nhiệm. Các vị tăng trong chùa nói là lúc chùa còn đang xây thì đã thấy bà có mặt ở chùa rồi. Nhưng hiện nay chùa có 327 vị tăng thường trụ cùng 18 người thợ, bà vẫn còn là người duy nhất lo chuyện bếp núc, thế mà dọn cơm chưa từng một lần trễ giờ, cơm nấu chưa bao giờ khê cũng chưa bao giờ sống! Bà lão cũng chưa từng ngồi không, ngày ngày phải đi nhặt củi ở gần chùa rồi chất sẵn thành một núi to ở ngoài cửa, sau đó còn đi trồng rau ở trên núi trong một miếng đất của chùa. Các thầy trong chùa, từ lớn tới nhỏ ai cũng phải khen ngợi tán thán tính siêng năng cần cù của bà lão. 

Sự thật thì bà lão này không ai khác h
ơn là Quan Thế Âm Bồ Tát, vì Kim Vương Dương Quảng muốn xây chùa Quốc Thanh nên Ngài bí mật đến giúp một tay, để biến vùng đất này thành một thánh địa nổi danh của Phật giáo.

18 người thợ là những cậu thanh niên vạm vỡ khỏe mạnh, hiếu chiến, háo thắng. Họ đến chùa này, ngày ngày ăn cơm của bà lão nấu, vừa thơm vừa ngon, đáng lẽ phải biết mang ơn, nhưng trong đầu lại nảy ra một ý kiến quái gở.

Họ thấy bà lớn tuổi dường ấy mà làm việc lại giỏi như thế, nấu cơm cho rất nhiều người ăn mà bữa nào dọn cơm rau ra cũng đúng giờ, thật là kỳ lạ! Thế là một buổi sáng, ăn sáng xong, họ ra đồng làm việc, vừa làm vừa bàn tán với nhau, hay là mình tìm cách phá bà ấy chơi? Họ bàn mưu tính kế với nhau xong, thừa lúc bà lão vắng mặt, bèn lấy nước đổ lên đống củi dùng để đốt lửa thổi cơm trước cửa, khiến củi ướt sũng, rồi mới xuống núi. Họ cười thầm trong bụng rằng để trưa nay trở về xem bà làm sao để dọn cơm đây? Thế nào lại chẳng có dịp cười bà một phen! 

Nào có ngờ đâu rằng, buổi trưa trở về thì cũng như mọi bữa, cơm đã dọn ra sẵn cho mấy trăm người ăn, mười mấy mâm cơm vẫn thơm ngon như mọi bữa! 18 người thợ chạy ra ngoài cửa xem, thì thấy đống củi bị họ tưới ướt sáng nay bây giờ lại khô rang khô ráo, nên há hốc mồm đứng thừ người ra.

Nhưng họ đâu có chịu thua, họ lại bàn mưu tính kế kiếm một cách khác quỷ quái hơn. Hôm ấy, họ đem từ ngoài vào một thúng cát vàng, chờ bà lão ra ngoài xếp củi, bèn đổ hết thúng cát vào nồi cơm rồi đắc ý cười hỉ hả xuống núi làm việc, xem lần này bà lão sẽ đương đầu cách nào nhé?

Bà lão gánh củi về, đã biết đám thợ giở trò gì rồi, trong lòng không khỏi buồn c
ười. Bà bèn dở nắp nồi lên, cầm một cái vớt bọt bằng đồng lớn, miệng nói “vớt cát đừng vớt gạo”, khuấy vào nồi cơm như thế vài dạo thì bao nhiêu cát bọn thợ đã đổ vào hồi sáng nay đã vớt ra hết không còn một hạt.

Đến trưa, cơm vẫn nấu xong như thường lệ, và cũng như thường lệ không sống không khê, thơm phưng phức, ngon tuyệt vời, không hề lẫn lộn một hạt cát nào. 18 người thợ trở về ăn cơm thấy thế lại ngẩn người ra, họ vẫn chưa phá được bà lão nên ăn mất ngon.

Nhưng những cậu thanh niên hiếu chiến háo thắng ấy đời nào chịu thua, họ lại bàn với nhau kiếm một kế khác hiểm hóc hơn nữa. Gạo trong chùa vốn được giao tới mỗi tháng trong vựa lúa. Vựa lúa của chùa Quốc Thanh cách nhà bếp rất xa, đầu tháng nào cũng có mấy vị tăng gánh về đổ vào trong một cái lu lớn cho bà lão. Hôm ấy là ngày cuối tháng, 18 người thợ ăn xong, chờ bà lão lên núi nhặt củi rồi bèn lấy bao nhiêu gạo còn lại trong lu giấu mất, “không bột đố gột nên hồ”, lúc nhặt củi về không có gạo để nấu cơm trưa, mà muốn đi gánh về thì cũng không thể kịp, để xem lần này bà làm sao trở tay?

Bà lão nhặt củi về, nhìn lu gạo thấy trống tr
ơn, biết ngay đây là mấy cậu thanh niên giở trò nữa, bà lại cười thầm. Chừng ấy mà có thể làm khó dễ Bồ Tát được sao? Ngài lấy thúng cát vàng mà bọn thợ đem tới hôm nọ, miệng nói “cát vàng biến thành gạo”, thế là trong nháy mắt, Ngài có một thúng gạo lớn. 

Đến giờ ăn trưa, 18 người thợ trở về, lại thấy trên bàn cơm rau đã dọn sẵn, thì ra bà lão vẫn nấu cơm được như thường khiến họ một lần nữa ngẩn tò te. Lần này, họ dần dần cảm nhận rằng bà lão không phải là người tầm thường, mà họ cũng không nghĩ được cách khác để phá bà, nên trong tâm đã cảm phục nhiều rồi.

Một hôm, 18 người thợ đang gặt lúa trên đồng, bà lão nhặt củi trên núi về bèn ghé đến. Nhìn họ gặt lúa nhanh như gió, Bồ Tát cũng phải công nhận họ thật là những người thợ giỏi và thầm tán thán, nghĩ rằng nếu thâu 18 anh chàng về làm La Hán bảo vệ chùa chiền thì không phải là một điều rất tốt hay sao?

Thế là Ngài nảy ra một ý kiến, nên tiến
đến chào những người làm công ấy.

– Các cậu mười mấy người nghe này, tôi hỏi các cậu, có phải các cậu đã phá tôi ba lần liên tiếp không? Các cậu có sao nói vậy, phải nói thật.

18 người làm công ngượng ngùng nói:

– Bà lão
ơi, đúng thế, chính chúng cháu đã tinh nghịch muốn phá bà lão chơi. Nhưng nay thì chúng cháu không dám nữa, bà lão thật là thần thông quảng đại, chúng cháu đã khuất phục rồi, chúng cháu thật tình xin lỗi, mong bà bỏ qua cho chúng cháu.

Bồ Tát cười:

– Bọn thanh niên các cậu mà biết khuất phục người khác sao, thí dụ như hôm nay tôi gặt lúa thi với các cậu xem ai gặt mau, thì các cậu có phục hơn không?

18 người làm công nghe nói tới chuyện thi gặt lúa thì không phục nữa mà nói:

– Bà lão
ơi, nấu cơm thì chúng cháu không phá nổi bà, chứ mà gặt lúa thì trong vòng 10 dặm, 100 dặm quanh đây không ai qua mặt chúng cháu được! Chúng cháu là tay nghề mà, không sợ bà đâu! Bà muốn thi thì thi, mà người thua mất gì, người thắng được gì, bà lão quyết định đi!

Bồ Tát nói:

– Nếu tôi thua thì tôi sẽ đãi các cậu một bữa tiệc 18 món, còn nếu các cậu thua thì phải ở lại chùa Quốc Thanh này làm La Hán, các cậu chịu không?

18 người làm công đâu có sợ bà lão, bèn đồng thanh trả lời:

– Chịu!

Sau đó bà lão đem tới một lưỡi liềm, cùng 18 người làm công mỗi người chiếm một luống cày, bắt đầu gặt xem ai gặt mau nhất. 18 người làm công nghĩ, chúng tôi trẻ tuổi khỏe mạnh, chân tay lanh lợi, còn bà thì già nua mà còn bị bó chân, làm sao chúng tôi thua bà được! 

Nghe tiếng Bồ Tát nói “Bắt đầu!”, thế là 19 người như ngựa phi điện chớp bắt đầu gặt lúa. Bà già tuy chân bó thật nhưng khi bắt đầu gặt thì hoàn toàn biến dạng, bà làm thoăn thoắt như bay. 18 người làm công chuyên tâm cúi đầu làm việc, thoáng một cái là xong nửa luống, có một người ngẩng đầu lên xem bà lão đã làm tới đâu rồi, nghĩ rằng không chừng bà đã ngã xuống đất cũng có, nào ngờ người ấy nhìn xong bỗng sững sờ, bà lão đã gặt xong luống cày, đang đứng ở đầu bên kia mà cười!

Bây giờ thì 18 ng
ười làm công hoàn toàn phục thiện. Họ gặt xong luống của mình rồi bèn nói với bà lão:

– Bà cụ ơi, chúng cháu hoàn toàn phục bà rồi. Bà không phải là người phàm, chắc bà là Bồ Tát, chúng cháu tình nguyện xin làm đệ tử của bà.

Bấy giờ Bồ Tát Quán Âm mới hiện bảo tướng Bồ Tát, nói với 18 người làm công rằng:

– Đúng rồi, ta là Bồ Tát Quán Âm, đến đây giúp Kim Vương Dương Quảng xây chùa lập thánh địa. Nếu các ông bằng lòng theo ta, ta sẽ thâu các ông làm La Hán, cùng ta bảo hộ ngôi chùa này, các ông nghĩ sao?

18 người làm công thấy bảo tướng của Bồ Tát Quán Âm rồi liền quỳ xuống dập đầu lạy lia lịa, bạch rằng:

– Bồ Tát đại từ đại bi, chúng con nguyện xin theo Bồ Tát.

Từ đó 18 người làm công biến thành 18 vị La Hán, ai đi chùa Quốc Thanh cũng có thể thấy tượng của họ ngồi dọc hai bên Đại Hùng Bảo Điện.

8. QUÁN ÂM THÂU TỨ ĐẠI KIM CANG

Bồ Tát Quán Âm thâu Long Nữ và Thiện Tài rồi thì Phổ Đà Sơn, đạo tràng của Ngài trở nên càng ngày càng hưng thịnh, khách hành hương càng ngày càng đông đảo, xa gần ai cũng nghe danh và còn gọi đảo này là Hải Thiên Phật Quốc.

Bốn đại Thiên Vương hộ vệ cửa Nam Thiên nghe thế, quyết định chính mắt mình nhìn thấy mới tin, thế là mỗi vị cầm vũ khí của mình, cưỡi mây lành hướng về Phổ Đà Sơn.

Bốn đại Thiên Vương còn được gọi là bốn đại Kim Cang. 

Quan điểm nhà Phật chia vũ trụ này làm ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Ở cõi Dục có Lục dục thiên, và tầng trời thứ nhất của Lục dục thiên, gần với thế gian nhất, chính là Tứ Thiên Vương Thiên, là nơi ngự trị của bốn vị Kim Cang này. Kinh Phật nói các vị này trụ ở lưng chừng núi Tu Di, ở đấy có ngọn Kiên Đà La, và ngọn này có bốn đỉnh tên là Tu Di Tứ Bảo Phong (bốn đỉnh báu của núi Tu Di). 

Nhiệm vụ của bốn Đại Thiên Vương là mỗi ngài bảo hộ một phương của thế gian, vì thế bốn Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Thiên Vương.

Vị Thiên Vương ở phương đông tên là Trì Quốc Thiên Vương, âm Phạn là Đa La Sất (Dh­tarāṣṭra), thân màu trắng, mang áo giáp mũ sắt, tay cầm cây đàn tì bà. Trì Quốc có nghĩa là giữ gìn bảo vệ cho cõi nước, vì ngài lấy từ bi làm đầu, bảo hộ chúng sinh. Vị này là thần âm nhạc nên tay cầm cây đàn tì bà, lấy âm nhạc để cảm hóa chúng sinh quy y Phật giáo. Thiên Vương này có tên khác là “Điều”.

Thiên Vương ở phương nam tên là Tăng Trưởng Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Lưu Ly (Virūhaka), thân màu xanh, mang áo giáp mũ sắt, tay nắm bảo kiếm. Vị Thiên Vương này có nhiệm vụ là làm cho chúng sinh tăng trưởng thiện căn, hộ trì Phật giáo, nên tay cầm bảo kiếm để bảo vệ cho Phật Pháp không bị xâm phạm. Vị này còn có tên là “Phong”.

Thiên Vương của phương tây tên là Quảng Mục Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Lưu Bác Xoa (Virū­pāka), thân màu đỏ, tay có quấn con rồng. Quảng Mục có nghĩa là dùng tịnh thiên nhãn để luôn luôn quán sát thế gian, hộ trì nhân dân. Tay cầm con rồng, hay cũng có thể coi như sợi dây thừng màu đỏ, nghĩa là dùng dây thừng trói người không tin Phật, khiến cho họ quy y Phật giáo. Vị này còn có tên là “Thuận”.

Thiên Vương của phương Bắc tên là Đa Văn Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Sa Môn (Vaiśravaa), thân màu đen, mang mũ giáp, tay cầm dù báu. Vị này dùng phúc đức để nghe ngóng khắp bốn phương, dù báu là để chế phục chúng ma, bảo hộ tài sản của nhân gian. Vị này còn có tên là “Vũ”.

Bốn vị Thiên Vương, hay còn gọi là bốn đại Kim Cang, hợp nhau để mang lại “phong điều vũ thuận” cho nhân gian.

Bốn vị Thiên Vương này là những vị thiên tướng lừng lẫy, người cao lớn, so với bậc thần tiên thường thì cao lớn gấp mười lần. 

Bốn vị Kim Cang uy phong lẫm lẫm bước xuống bãi cát Thiên Bộ Sa, lấy đường Vân Đầu, dọc theo đường Ngọc Đường vừa đi vừa ngắm cảnh núi. Họ thấy trên núi tự viện hùng tráng, chùa chiền mọc như rừng, cây cổ thụ cao chọc trời, hoa cỏ xanh rì rậm rạp, sóng biếc, cát vàng bủa quanh tứ bề, nên bị cảnh Hải Thiên Phật Quốc làm cho mê đắm, thật quả danh bất hư truyền, nên trong lòng ngầm thán phục. 

Họ vừa đi vừa thưởng ngoạn,vừa đi vừa say sưa nhìn ngắm nên đến giờ ăn cơm trưa lúc nào mà không hay. Họ đã ra đi lúc trời tảng sáng, đi không biết bao nhiêu là dặm đường, đến giờ là đã hơn nửa ngày trời nên cảm thấy bụng đói cồn cào, ruột sôi sùng sục, vội lo tìm xuôi tìm ngược xem có chỗ nào bố thí cơm chay mà tìm mãi không có. Trên thiên giới, bốn đại Kim Cang vốn quen muốn gì được nấy ngay, chưa bao giờ phải chịu cảnh đói khát như thế này nên tìm hoài mà không có gì ăn đâm ra cáu kỉnh, một vị Thiên Vương nổi giận la lên:

– Đạo tràng của vị Bồ Tát này chỉ là hư danh, cái gì mà một bát cơm chay cũng không có chỗ nào bố thí cả!

Bốn đại Thiên Vương bản tánh vốn nóng nảy, gặp điều không vừa ý là lửa giận bùng lên ngay, thế là cả bốn nhao nhao đả kích:

– Đại sĩ với chẳng tiểu sĩ, thật là không biết điều chút nào, bốn đại Kim Cang chúng ta giá lâm mà tại sao lại không ra đón tiếp!

– Đại sĩ dỏm, không biết nể mặt anh em chúng ta gì cả, khi nào gặp thì thế nào cũng phải làm cho bà ta biết tay mới xong!

Bồ Tát Quán Âm thật ra đã biết sự có mặt của bốn đại Kim Cang từ lâu,
nay nghe họ càu nhàu như thế, trong lòng không khỏi buồn cười, lập tức nảy ra một ý kiến.

Đương lúc bốn vị Kim Cang đang lớn tiếng mạt sát, bỗng nhiên từ rừng trúc tím trước mặt bay ra một làn khói bếp. Họ bèn rảo bước về phía rừng trúc tím, tìm quanh một lúc mới thấy khói bếp ấy là từ một căn nhà bé nhỏ, vừa thấp vừa hẹp bay ra. Bốn đại Kim Cang nhìn qua khe cửa thì thấy trong nhà có một thiếu phụ đang ngồi trước bếp nhóm lửa thổi cơm. 

Thiếu phụ trạc ngoài 30 tuổi, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ an tường, trang nhã. Cơm thổi đã chín, từng cụm, từng cụm khói thơm phức bay lọt ra ngoài khiến cho bốn đại Kim Cang càng cảm thấy đói thêm, không chờ được nữa, bèn gõ cửa nói:

– Cô nhỏ ơi, chúng tôi là bốn đại Kim Cang từ thiên giới xuống đây, xin cô bố thí cho chúng tôi nồi cơm ấy đi!

Người thiếu phụ chẳng tỏ vẻ gì là kinh sợ, trả lời:

– Mời quý vị vào nhà. Nồi c
ơm này là để đãi khách, đủ cho bốn vị dùng.

Bốn đại Kim Cang muốn bước vào nhà nhưng người nào cũng cao lớn, nhà lại nhỏ hẹp cao không tới đầu gối của họ, làm sao chui vào cho lọt đây? Họ còn đang lúng túng, người thiếu phụ mỉm cười thúc giục:

– Quý vị vào đi chứ, tại sao lại không vào?

Bốn vị quá muốn ăn cơm nên đành cúi đầu uốn lưng tiến vào nhà. Kỳ lạ thay, bước vào rồi thì căn nhà bé nhỏ ấy dường như được nới rộng ra, bốn vị Kim Cang có thể cử động thư thái, không thấy nhà nhỏ hẹp nữa mà còn thấy rộng rãi thoải mái là khác.

Người thiếu phụ mời họ ngồi xung quanh một cái bàn vuông và nói:

– Tôi xới cơm cho quý vị dùng.

Một vị Kim Cang nói:

– Cô nhỏ à, chúng tôi đói rã rời rồi, anh em chúng tôi lại ăn rất khoẻ, xin cô làm ơn nấu thêm cơm chứ cái nồi bé tí thế kia sợ không đủ cho chúng tôi no.

Ba vị còn lại cũng phụ họa:

– Đúng rồi, đúng rồi, nồi cơm bé tí ăn không đủ no.

– Xin bốn vị tướng quân yên lòng, đừng thấy nồi nhỏ mà lo sợ, cơm trong nồi ấy đủ cho quý vị ăn no bụng.

Người thiếu phụ nói rồi, xới cơm vào bốn cái bát đem đến bàn rồi tiếp:

– Nồi hãy còn c
ơm, quý vị dùng xong hãy tự tiện xới thêm, tôi ra ngoài giặt quần áo một chút, không ở lại hầu chuyện với quý vị được. Mời quý vị tự nhiên ăn cơm cho no.

Nói xong cô bèn xách một cái giỏ bước ra khỏi nhà. Bốn đại Kim Cang vội vàng nâng bát, vừa ăn vừa canh chừng nồi, ai cũng nghĩ “cái nồi có chút xíu, cơm này thì đủ cho ai ăn, ta nên ăn cho mau để xới trước”. Cả bốn người đều nghĩ như nhau nên ai nấy đều ăn thật mau. Kết quả là vị Kim Cang mặt trắng ăn xong trước, chỉ và mấy cái là cả bát cơm đã vào bụng, thế là vị này chạy mau như bay đến trước bếp lửa mở nồi xúc cơm. Nào ngờ cái vung như thể bị gắn dính vào nồi, không cách nào dở lên. Ông bèn buông bát xuống, dùng hai tay để mở nồi, dùng hết cả sức lực mà cái vung vẫn trơ trơ bất động.

Vị Kim Cang mặt trắng đỏ mặt tía tai, đứng ngây người ra. Vị Kim Cang mặt đen cũng vừa ăn xong bát cơm bèn qua xúc thêm, thấy vị Kim Cang mặt trắng mở vung không ra bèn cười chế nhạo và đẩy vị ấy sang một bên, tự mình đến giở nồi. Ông những tưởng việc này dễ như trở bàn tay mà thử mấy lần không xong, bèn đứng dạng hai chân, dồn hết sức mạnh nắm chặt vung, nhưng vì dùng sức quá mạnh, vung đã không nhúc nhích mà nồi lại vuột ra khỏi bàn tay khiến ông ngã lăn đùng xuống đất, giận quá chửi toáng lên. 

Hai vị Kim Cang còn lại cũng
đến thử và cũng thất bại, họ dùng sức đến đâu đi nữa vung vẫn dính chết vào nồi, trơ trơ bất động! 

Cuối cùng, bốn vị Kim Cang bèn đứng xếp thành hàng, vị đứng đầu cầm vung, vị đứng sau ôm bụng vị đứng trước, hễ nghe hiệu lệnh thì cùng nhau kéo về phía sau: “dô ta! dô ta!”. Họ dùng hết sức lực để “nhổ” cái vung ra khỏi nồi như người ta nhổ một củ cải ra khỏi đất, nhưng cái vung vẫn không hé ra chút xíu nào! Bốn vị cứ kéo tới kéo lui một hồi lâu, mệt quá nằm dài xuống đất thở phì phò, không còn nhúc nhích được, thật là xấu hổ!

Bỗng có tiếng cửa mở, người thiếu phụ bước vào phòng, thấy bốn đại Kim Cang nằm la liệt dưới đất nhăn răng méo miệng, buồn cười quá mà vẫn phải làm bộ kinh ngạc:

– Hẳn là bố
n vị tướng quân ăn no rồi nên nằm xuống nghỉ ngơi chăng?

Vị Kim Cang mặt đỏ vội vàng cải chính:

– Không phải, không phải, chúng tôi chưa ăn xong, mới chỉ ăn được có một bát cơm mà thôi!

Người thiếu phụ nói:

– Tại sao quý vị không ăn cho xong? Hay là quý vị chê nồi nhỏ, c
ơm trong nồi hãy còn đầy mà, sao quý vị không múc ăn thêm?

Vị Kim Cang mặt đỏ đáp:

– Vì mở vung không ra!

Thiếu phụ nói: 

– Sao lạ vậy? Cái vung bé tí ti thế này, bốn vị tướng quân sao lại mở không ra? Bốn vị là thiên tướng lừng danh trên thiên giới, sức mạnh vô địch, làm gì dở không lên một cái vung?

Bốn đại Kim Cang không trả lời được, người nào cũng cảm thấy ngượng ngùng, nhìn nhau không nói mà trong lòng phát hoảng.

Mọi người còn đang nghĩ ngợi thì người thiếu phụ bước đến trước bếp, đưa tay ra nhẹ nhàng nhấc vung lên và nói:

– Vung dễ mở lắm mà, bốn vị tướng quân, xin mời dùng thêm cơm!

Bốn đại Kim Cang sững sờ nhìn ng
ười thiếu phụ nhấc cái vung một cách ung dung nhẹ nhàng, nghĩ lại ban nãy bốn anh em phí bao nhiêu sức mà giở mãi không ra, cảm thấy thật là bất khả tư nghì! 

Vị Kim Cang mặt trắng cuối cùng nhanh trí nhất, trong thoáng chốc hiểu rõ ngọn nguồn, biết ng
ười thiếu phụ này không phải là người phàm, sau đó thoắt nhiên tỉnh ngộ la lên:

– Ối! Tôi hiểu rồi! Ngài là Quán Âm đại sĩ, anh em chúng con không thấy núi Thái Sơn, xin Bồ Tát thứ lỗi!

Ba đại Kim Cang kia cũng lớn tiếng nói:

– Bồ Tát thứ lỗi! Xin Bồ Tát tha thứ cho bọn chúng con ngu si!

Nói rồi, bốn đại Kim Cang quỳ xuống trước mặt người thiếu phụ dập đầu lạy liên tiếp. Quán Âm Đại sĩ mỉm cười:

– Xin bốn đại tướng quân đứng dậy, đứng dậy đi, dùng cơm xong hãy nói chuyện.

Ăn cơm xong, bốn đại Kim Cang nói:

– Đa tạ Đại sĩ, hôm nay chúng con nhờ ơn từ bi của Bồ Tát, vô vàn cảm tạ, bây giờ xin phép Đại sĩ cho chúng con trở về thiên đình.

Quán Âm Đại sĩ nói:

– Bốn đại tướng quân còn muốn trở về sao? Bốn vị muốn trở về thì không có vấn đề gì, tuy nhiên uy danh của bốn vị chấn động thiên đình, hôm nay chỉ có một cái vung mà nhấc không lên, chỉ e... thiên binh thiên tướng có còn tôn trọng quý vị chăng? Hay là họ sẽ cười chê? Theo ta nghĩ, hay là các vị ở lại đây theo ta tu hành, các vị nghĩ sao?

Sự thật, khi Bồ Tát Quán Âm biết có bốn đại Thiên Vương đến Phổ Đà Sơn, Ngài nghĩ rằng đất này đang thiếu thần hộ Pháp, nếu có cách nào giữ bốn đại Kim Cang này ở lại thì thật là thích hợp! Vì thế Ngài đã lập ra một kế kích thích ngạo khí của họ để giữ họ ở lại. 

Bốn đại Kim Cang nghe Quán Âm Đại sĩ nói như thế thì không có lời lẽ nào để trả lời, thật sự họ không còn mặt mũi nào mà trở về thiên đình nữa. 

Trải qua chuyện này rồi họ mới được thấy uy lực của Phật Pháp và thần thông vô tỉ của Bồ Tát Quán Âm. Họ vô cùng kính phục Đại sĩ, đồng lòng chấp thuận ở lại Phổ Đà Sơn, theo ngài Quán Âm học Phật Pháp và hộ vệ Phổ Đà Sơn.

Từ đấy, ở hai bên trái và phải của Thiên vương điện xuất hiện những bức tượng uy vũ hùng tráng của bốn đại Thiên Vương.

9. QUÁN ÂM THU PHỤC GIÀ LAM

Ngày xưa, có một con tàu cướp biển ngày ngày cứ lãng vãng quanh vùng cửa sông Hoàng, mà cầm đầu là tên giặc cướp Lam Lễ Dụ. Hắn tung hoành trên mặt biển, không có chuyện ác nào là không làm, thấy tàu buôn thì cướp hàng hóa, thấy thuyền chài thì đoạt cả mẻ cá của người ta, còn nếu gặp du thuyền thì lột hết vàng bạc của khách du lịch trên tàu. 

Tuy nhiên tên giặc cướp thô bạo kệch cỡm này vẫn còn một điều húy kỵ, đó là hắn không dám béng mảng tới Phổ Đà sơn cướp bóc chùa chiền hay nhiễu hại tín đồ, vì hắn rất sợ bị đức Bồ Tát Quan Thế Âm đại từ đại bi trừng phạt.

Một hôm, tàu cướp biển đi ngang qua hải phận bãi cát Thiên Bộ Sa, Lam Lễ Dụ đang ngồi trong khoang thuyền uống rượu, giương cặp mắt kèm nhèm nhìn quanh nhìn quất, bỗng hắn thấy dọc theo bờ biển Thiên Bộ Sa có một cô gái tay cầm giỏ tre, đang đùa nghịch bằng cách đạp trên đầu sóng mà đi đi lại lại.

Lam Lễ Dụ ngẩn người ra mà nhìn, nghĩ rằng: “Cô gái này bản lãnh thật cao, biết đạp trên đầu sóng mà đi!” Rồi hắn ra lệnh cho tên lâu la lái tàu chạy sát lại bờ biển. Khi có thể nhìn rõ, hắn đờ đẫn cả người vì cô gái đang đạp sóng kia là một thiếu nữ xinh đẹp như một nàng tiên trên thiên giới! 

Lam Lễ Dụ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nghĩ rằng nếu bắt cô gái này về làm áp thuyền phu nhân thì ta chẳng phải nh
ư cọp thêm vây sao? Thật là nhất cử lưỡng tiện! Càng nghĩ càng thấy đẹp lòng, càng thấy ham muốn, bất giác nghếch mặt lên trời cười hô hố, rồi lập tức truyền lệnh cho một tên lâu la thả chiếc thuyền tam bản xuống chèo cho hắn đi vào bờ.

Không ngờ thiếu nữ nọ nhìn thấy Lam Lễ Dụ b
ơi thuyền tới gần thì nhoẻn miệng cười và quay đi, tiếp tục đạp sóng hướng tới động Triêu Dương. Lam Lễ Dụ lòng nóng như lửa đốt, luôn miệng hối lâu la: “Chèo mau, chèo mau đuổi theo cô ta!” và nhắm hướng động Triêu Dương mà thẳng tiến. Nhìn thì mắt thấy như đã gần bắt được cô gái rồi, nhưng cô gái lại quẹo về hướng miếu Hải Triều. Lam Lễ Dụ không nhẫn nại được nữa, vừa đuổi theo vừa la: “Cô kia đứng lại! Đứng lại ngay!”

Cô gái không lộ chút gì là lo sợ, cứ chốc chốc quay đầu lại nhìn, nh
ưng vẫn khoan thai tiến tới phía trước, mỗi bước chân đi làm cho những giọt hoa biển bắn lên tung toé, trông thật là hồn nhiên và dễ thương! Lam Lễ Dụ chạy theo mà cả người bốc khói, tâm ác nổi dậy, bèn rút cung tên bắn cô gái một phát.

Làm như cô gái có cặp mắt đằng sau đầu, cô chờ tên bay tới gần mình rồi mới ung dung đưa cánh tay ngọc lên “phụp”, chụp lấy mũi tên trong tay, không quay đầu mà cũng không dừng lại, chân vẫn tiếp tục đạp trên đầu ngọn sóng mà đi. Lam Lễ Dụ thấy thế giật mình, miệng la oai oái: “Giỏi! Thật là cao cường! Bản lãnh cô gái này quả là phi phàm!” 

Hắn vừa kinh sợ vừa thích thú, nhưng cũng lại vừa cáu vừa thẹn, bèn nhắm hai cánh tay của cô gái bắn liên tiếp hai mũi tên, trong lòng nghĩ: “Bây giờ xem cô mình có thoát được tay ta không nhé!” Ý tưởng chưa dứt trong đầu đã thấy bàn tay phải của người thiếu nữ đưa lên chụp lấy mũi tên thứ nhất, và chuyển qua phía trái chụp lấy mũi tên thứ hai, xong cô còn quay đầu lại cười, và tiến vào một con đường nhỏ hướng tới miếu Hải Triều.

Lam Lễ Dụ ngây người kinh hoàng, sững sờ đứng lại, khi tỉnh hồn thì không thấy bóng dáng cô gái đâu, mà chỉ thấy chiếc giỏ tre của cô bỏ lại dưới đất. Hắn vội vàng tiến tới nhìn, thấy trong giỏ chỉ có một con cá không to không nhỏ, đang yếu ớt quẫy quẫy đuôi. Thật lâu sau tên ma đầu kia mới hiểu thông ra, nổi trận lôi đình la lên: “Cá trong giỏ! Cô ta muốn ám chỉ ta đây mà! Cô nương thật là to gan, dám đem tên ta ra mà giễu cợt!”.

Lập tức hắn giận dữ dùng chân đá chiếc giỏ tre bay xuống biển và hậm hực chạy tiếp đi tìm người thiếu nữ kia.

Hắn điên cuồng chạy vào đại điện của miếu Hải Triều, nhưng ngước đầu lên chỉ thấy tòa sen của Ngài Quán Âm, phía trước có một lư hương, và trong lư hương có cắm ba mũi tên nhọn mà hắn đã bắn ban nãy, đuôi tên còn bốc khói nghi ngút, giống hệt ba cây hương thơm dịu! Hắn bước đến một cách tức tối toan rút tên ra khỏi lư nhưng kéo tới lồi cả con mắt, ba cây tên vẫn trơ trơ bất động. Lúc ấy tên cướp biển mới cảm thấy sợ hãi, mặt mày tái mét không còn một giọt máu, toàn thân toát mồ hôi lạnh, muốn quay đầu chạy trốn ra khỏi miếu nhưng tại sao chân hắn như có mọc rễ, cất bước không lên như thế này!

Người đời thường nói: “Kẻ xấu mới hay thấp thỏm lo sợ.” huống chi là một tên cướp biển đã tạo bao nhiêu tội ác! Nhưng khi hắn ngước mắt lên nhìn tượng Ngài Quán Âm trên tòa sen, và lại nhìn những mũi tên đang bốc khói thì đột nhiên đại ngộ, vội lập cập quỳ xuống đất, dập đầu lạy không ngừng.

Hôm sau hắn giải tán hết bọn lâu la, nhận chìm tàu c
ướp, còn mình thì tự đóng một cái gông bằng gỗ, cạo đầu nhẵn thín và từ đó ngày ngày quay mặt vào tường cầu xin ngài Quán Âm tha thứ tội lỗi cho mình.

Về sau, Quán Âm Đại sĩ thấy ông đeo gông quay mặt vào tường ròng rã ba năm, biểu lộ rõ ràng sự quyết tâm sám hối tội lỗi xưa để trở thành một con người mới, bèn chính thức truyền giới cho ông, đặt tên là Già Lam, làm đệ tử của Phật.

Từ đó ông đi theo Quán Âm Đại sĩ, trải qua không biết bao nhiêu là chướng nạn, hoàn toàn lột xác, tu hành chứng được chính quả và được mọi người gọi là Bồ Tát Già Lam.

10. QUÁN ÂM KHÔNG CHỊU ĐI

Tương truyền đời vua Đường Tuyên Tông, có một vị tăng người Nhật tên là Huệ Ngạc đến Trung Quốc. Thầy đã từng viếng thăm rất nhiều núi cao sông rộng, đã từng lễ bái rất nhiều chùa cổ, chùa lớn. 

Hôm ấy, phong trần dày dạn, thầy rảo bước lên núi Ngũ Đài, một trong những thánh địa Phật giáo ở Trung Quốc. Cảnh Ngũ Đài Sơn rất đẹp, với những tảng đá linh sừng sững, những cây tùng cổ chọc trời, những dòng nước róc rách từ khe núi chảy ra, với trăm hoa đua nhau khoe sắc, hoặc những mái chùa ẩn hiện sau lùm cây, núi thẳm. Thật là một phong cảnh huyền bí, thanh tịnh.

Thầy Huệ Ngạc và phương trượng của Ngũ Đài Sơn cùng nhau tụng kinh, nói Pháp, tham thiền, đánh cờ, hai người trở thành đôi bạn tri kỷ.

Một hôm, thầy Huệ Ngạc thấy được một bức tượng Bồ Tát Quán Âm ở hậu viện của chính điện. Tượng khắc bằng gỗ đàn hương, thần thái an tường, mọi chi tiết được khắc một cách cân xứng và tỉ mỉ, cho tới búi tóc, lông mi cũng tinh vi sinh động như người sống.

Thầy Huệ Ngạc đứng trước tượng Bồ Tát Quán Âm, hết ngắm nghía đến tán thán, say mê đến nỗi thầy phương trượng đến mời dùng cơm, thầy cũng không nghe thấy.

Thầy phương trượng thấy thầy say mê như thế bèn hỏi:

– Pháp sư thấy tôn tượng Bồ Tát điêu khắc thế nào?

Thầy Huệ Ngạc không tiếc lời khen ngợi:

– Đẹp! Đẹp! Tôi đến từng tuổi này, lần thứ nhất mới thấy được một bức tượng như thế! Điêu khắc tinh vi đến nỗi biểu hiện được thái độ an tường của Đại Sĩ, thật là một đức Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát sống vậy!

Thầy phương trượng thấy thầy quá ưa thích nên cười tủm tỉm mà nói:

– Nếu Pháp sư ái mộ Ngài như thế thì tôi xin cúng dường pháp sư đem về thờ đó!

Thầy Huệ Ngạc nghe thế vội vàng chắp tay lễ tạ. Thầy tiếp lấy bức tượng, mừng quá không kềm chế được nên quyết định trở về Nhật Bản lập tức, xây chùa thờ tượng của Ngài để cho người Nhật có cơ duyên đến lễ bái Bồ Tát. 

Thầy Huệ Ngạc rời Ngũ Đài Sơn rồi còn đến Cửu Hoa Sơn, cuối cùng từ Thiên Đài Sơn xuống tàu ở cửa biển Linh Giang, giương buồm về nước.

Hôm ấy, tàu đến hải phận Phổ Đà Sơn, bỗng nhiên có một ngọn gió lớn thổi đến, thổi mạnh đến nỗi tàu nghiêng bên này, ngả bên kia rồi cuối cùng xoay vòng vòng tại chỗ. Thầy Huệ Ngạc không còn cách nào hơn là cho tàu tiến đến một thung lũng trong đảo Phổ Đà, hạ buồm thả neo, chờ sóng yên gió lặng rồi mới tính chuyện đi tiếp.

Hôm sau, gió đã yên và sóng đã lặng. Thầy Huệ
Ngạc lại cho giương buồm nhổ neo. Nhưng tàu vừa mới rời khỏi thung lũng, mặt biển đột nhiên nhả ra từng cuộn từng cuộn sương mù màu trắng xám. Sương mù bay lên mỗi lúc mỗi cao, giống như một bức mành vải được treo ngay trước mặt tàu vậy, ngăn không cho tàu đi tiếp. 

Thầy Huệ Ngạc thấy chuyện kinh dị, đứng trên boong tàu ngước mặt lên trời, thì trên đầu là một khoảng trời xanh biếc; nhìn trái nhìn phải, thì hai bên bức mành sương mù là màu nước biển xanh trong. Thầy Huệ Ngạc đành cho quay mũi tàu, đi vòng bức mành sương mù mà tiến tới phía trước. Những hễ mũi tàu hướng về bên trái thì mành sương mù cũng bay về bên trái; hễ quay về bên phải thì mành sương mù cũng phất phới bay về bên phải. Con tàu cứ chuyển lui chuyển tới trên biển mà không tiến lên được, cuối cùng phải quay về hải phận của Phổ Đà Sơn. 

Thầy Huệ Ngạc không nghĩ ra cách nào khác nên lại đành một lần nữa cho tàu đến thung lũng, hạ buồm thả neo, chờ sương tan rồi sẽ đi tiếp.

Qua sáng sớm thứ ba, mặt trời đỏ ửng từ đáy biển từ từ trồi lên, phóng ngàn tia ánh ráng nhuộm sáng cả bốn phương trời. Thầy Huệ Ngạc ra đứng ở khoang tàu ngước nhìn lên trời thì thấy giữa những áng mây ngũ sắc có một toà lầu nguy nga lộng lẫy, cờ phướng sáng ngời, tiên nữ vây quanh, phóng ánh sáng màu ngọc chói lòa cả mắt. Thầy rất hoan hỉ, chắp tay đảnh lễ, rồi lập tức cho giương buồm, nhổ neo. Nhưng kỳ lạ thay, tàu vừa rời khỏi thung lũng thì những cảnh vật kỳ diệu trên trời cũng đột nhiên biến mất, mây đen che kín mặt trời, gió biển khơi dậy những ngọn sóng khổng lồ. 

Thầy Huệ Ngạc đâm ra lo lắng, nghĩ rằng mình đã trì hoãn ở
đây hết mấy ngày trời rồi, lần nào cũng kết thúc như vậy thì bao giờ mới có thể thỉnh tượng Ngài Quán Âm về Nhật Bản đây? Thôi thì chút gió, chút sóng có là gì đâu, cứ cho tàu chạy! Mau cho tàu chạy!

Thầy Huệ Ngạc yêu cầu đoàn thủy thủ lái tàu đi ngược gió, rẽ sóng hướng về phía trước mà đi. Gió trở nên dữ dội hơn, sóng vọt cao hơn, nhưng thầy Huệ Ngạc không hoảng không loạn, cứ điềm tĩnh đứng ở mũi tàu mà chắp tay tụng kinh niệm Phật.

Tuy gió và sóng từ từ bình lặng trở lại, nh
ưng tàu chưa đi được bao xa bỗng nhiên đứng lặng như thể mọc rễ rồi vậy. Thầy cúi đầu nhìn thì thấy có từng đóa, từng đóa hoa sen sắt nổi lên, trong nháy mắt, cả mặt biển Phổ Đà Sơn đều phủ kín hoa sen sắt, con tàu buồm bị bao vây và kềm chặt ở giữa.

Thầy Huệ Ngạc quá sợ hãi, tâm nghĩ rằng cứ mỗi lần tàu chạy là
đều bị sóng gió ngăn chận, hôm nay lại có hoa sen sắt kềm chặt khóa tàu đứng yên, không lẽ đó là vì Quán Âm Đại sĩ không chịu đi Nhật Bản chăng? Thầy trở lại khoang tàu, quỳ trước tượng Bồ Tát Quán Âm khấn nguyện rằng:

– Nếu như chúng sinh ở Nhật Bản không có cơ duyên được chiêm ngưỡng thánh nhan, đệ tử nguyện tuân lệnh Bồ Tát, Bồ Tát chỉ đâu đệ tử đi đó, và xây chùa viện để thờ Bồ Tát ở nơi ấy.

Khấn chưa dứt lời đã nghe “lập cập, lập cập”, từ đáy biển nổi lên một con trâu sắt. Trâu sắt một mặt bơi thẳng về phía trước, một mặt há miệng thật to nuốt chửng những đóa hoa sen sắt. Chỉ một lúc sau, trên mặt biển bỗng mở ra một con đường vừa đủ cho tàu chạy. 

Thầy Huệ Ngạc
cho tàu chạy theo con trâu sắt, và nương theo con đường mới được mở ra ấy mà tiến. Không lâu sau, lại nghe “lập cập, lập cập”, con trâu sắt chìm xuống đáy biển sâu, và những đóa sen mới đây còn tràn đầy mặt biển cũng không còn nữa. Thầy Huệ Ngạc định thần nhìn kỹ, thì ra con tàu đã trở lại thung lũng của Phổ Đà Sơn.

Mây đã tan, trời quang đãng, mặt trời đã treo cao trong h
ư không. Lúc ấy có một người đánh cá họ Trương từ trên núi xuống, nói với thầy Huệ Ngạc rằng:

– Tôi đã thấy hết những gì xảy ra mấy hôm
nay, ngài đi không được đâu! Thôi chi bằng thỉnh Pháp sư đến nhà tôi ở lại vài bữa rồi hãy đi!

Thầy Huệ Ngạc thấy vị này sốt sắng như thế thì nhận lời. Tay thầy ôm bức tượng Bồ Tát Quán Âm, đi theo người đánh cá trèo lên núi Phổ Đà. Phóng tầm mắt nhìn ra xa thì thấy một bãi cát vàng óng ánh, thủy triều lúc dâng lúc lùi, những đỉnh núi cây cỏ xanh tươi vây quanh đảo, rồi xa hơn nữa là mặt biển như một tấm gương sáng mang mang không biên giới.

Sáng thì th
ưởng thức mặt trời mọc, đêm thì lắng nghe tiếng thủy triều, nếu so với Ngũ Đài Sơn thì đảo này có một nét đặc sắc khác hẳn. Thầy Huệ Ngạc lại nghĩ, Bồ Tát Quán Âm đã không muốn sang Nhật thì mình ở lại đây xây chùa, để Ngài Quán Âm định cư ở Phổ Đà Sơn vậy!

Người đánh cá họ Trương nghe tới chuyện xây chùa thì mừng rỡ vô cùng, tình nguyện nhường căn nhà tranh của mình biến thành một ngôi miếu nhỏ. Tạo miếu xong thầy Huệ Ngạc bèn đặt tượng lên thờ, và sáng tối lễ bái.

Từ đó, bức tượng Bồ Tát Quán Âm khắc bằng gỗ đàn hương đã lưu lại ở Phổ Đà Sơn. Còn căn miếu nhỏ kia thì được mang tên “Bất Khẳng Khứ Quán Âm Viện” (Viện Quán Âm không chịu đi).

11. HẢI THIÊN PHẬT QUỐC

Dưới chân núi Phật Đỉnh, ở bên đường Hương Vân có một tảng đá lớn nghiêng hẳn về phía trước như chực đổ xuống, trên đá có khắc bốn chữ “Hải Thiên Phật Quốc” với nét bút hùng tráng, nét khắc tinh xảo. Bốn chữ đẹp như một bức tranh thư pháp ấy không phải do một văn nhân học sĩ nào viết, mà là bút tích của một vị tướng quân nổi danh đời nhà Minh, tên là Hầu Kế Cao, nhờ dẹp tan giặc Nụy mà sử sách đề tên.

Hầu Kế Cao là một vị tướng quân văn võ song toàn, ra trận thì cầm binh như thần, tài ba vũ bão, mà bình thường thì lại là một tín đồ Phật giáo thuần thành. Năm Vạn Lịch, ông lãnh đạo quân binh diệt giặc Nụy, nhờ chiến thuật cao cường nên đánh trăm trận trăm thắng, khiến Nụy quân phải rút tàn binh ẩn náu trên đảo Lãng Cương, một hòn đảo hiểm trở, núi đồi nhấp nhô như sóng nước.

Người ta nói “Lãng Cương 3 quả núi, lên xuống thật nguy nàn” cũng không ngoa. Đảo này rất xa đất liền, giáp với biển sâu, trên biển thì sóng to gió lớn và nhiều đá ngầm, chỉ có những con thuyền nhỏ và nhẹ mới có thể lách giữa những tảng đá ngầm ấy mà đi, người nào không biết đường đi nước bước thì không cách gì đến gần bờ được.

Lúc ấy, Hầu Kế Cao cùng binh lính trấn thủ trên mặt
biển, mấy lần đem quân chinh phạt nhưng vì giặc Nụy ẩn trốn rất sâu trong đảo nên mấy lần đi không đều lại về không. Ông khổ tâm suy nghĩ tính toán, nhưng không làm sao tìm được mưu chước nào để đánh đuổi bọn giặc này.

Dầu cho việc quân gian khổ, nhưng đêm đêm Hầu Kế Cao vẫn ngồi trước tượng Ngài Quán Âm tĩnh tọa một lúc, một là để tịnh dưỡng tâm thần, và hai là lợi dụng những lúc an tĩnh như thế để mà mưu tính kế hoạch.

Đêm hôm ấy, Hầu Kế Cao ngồi trước bàn thờ ngây người ra mà nhìn tượng Ngài Quán Âm. Đột nhiên, ông nghe hương thơm từ bàn thờ tỏa xuống, định thần lại nhìn kỹ thì thấy tượng Ngài Quán Âm lớn dần, lớn dần, đôi mắt hơi mở to một chút, và còn nghe Ngài nói:

– Thiên thời, địa lợi, nhân hòa! Thiên thời, địa lợi, nhân hòa! 

Hầu Kế Cao mừng quá kêu lên:

– Đúng rồi! Thiên thời, địa lợi, nhân hòa!

Nhưng trong chớp mắt, tượng Ngài Quán Âm đã nhỏ lại như cũ.

Lúc ấy trời đã tờ mờ sáng, nh
ưng Hầu Kế Cao không hề cảm thấy mệt mỏi hay buồn ngủ. Ông lên tàu chiến chạy thẳng tới đảo Câu Kỷ. Trên đảo này, một mặt ông hỏi han dân chài, một mặt ông quan sát tình hình. Lên tới chóp đỉnh của hòn đảo nhỏ, thấy những chiếc thuyền đánh cá lấm tấm trên mặt biển ông chợt nghĩ ra một diệu kế, vội vàng trở về căn cứ và bắt đầu xếp đặt một chiến thuật khôn khéo, tinh tế.

Một vài ngày sau, có bốn chiếc thuyền đánh cá giăng lưới trên mặt biển Lãng Cương. Tướng giặc Nụy nhìn thấy mừng thầm, vung đao lên hét:

– Mau! Hãy mau bắt lấy thuyền chài!

Trong khoảnh khắc, từ thung lũng Lãng C
ương túa ra hơn mười chiếc thuyền Nụy, đâm thẳng vào những chiếc thuyền đánh cá. Dân chài trên thuyền vội vàng cắt dây, vứt bỏ lưới mà chạy trốn. Giặc Nụy đuổi sát theo sau không nhả, thẳng tiến đến đảo Câu Kỷ. Bỗng nhiên, tiếng hiệu lệnh tù và vang dậy, bốn chiếc thuyền câu nhanh nhẹn quay đầu lại đối mặt với thuyền Nụy và xông thẳng tới, những người dân đánh cá ban nãy ai cũng có giáo mác, chuẩn bị hỗn chiến với giặc Nụy. Quân lính trên đảo Câu Kỷ cũng ào ạt đánh trống hỗ trợ, lên thuyền trợ chiến. Giặc Nụy thấy bị tấn công bốn bề thì hoảng hốt mở đường máu mà chạy.

Đúng vào lúc thuyền Nụy đuổi theo thuyền đánh cá, rời xa hải phận Lãng Cương thì Hầu Kế Cao dẫn một đoàn “nam phương binh” rất giỏi về thủy chiến, lên thuyền nhỏ đi đường tắt âm thầm đến đảo Lãng Cương. Như những bóng ma, họ tiêu diệt đám Nụy binh ở lại hậu cứ thủ đồn trong chớp nhoáng và chiếm lấy đảo.

Đám bại quân từ đảo Câu Kỷ chạy thoát về đến Lãng C
ương thì vội vàng bỏ thuyền lên bờ, những tưởng thu thập tàn binh tổ chức kháng chiến. Nhưng Hầu Kế Cao đã phi thân nhảy lên một tảng đá lớn, dương cung lắp tên, “phụp” một tiếng, tên tướng Nụy bị một mũi tên vào cổ chết tốt. Lính Nụy như rắn mất đầu luống cuống chạy tán loạn. Hầu Kế Cao hô “sát”, thế là binh sĩ từ trên núi đổ xuống xáp la cà với binh Nụy. Sau một trận đánh kịch liệt, giặc Nụy bị dồn vào ngõ bí, lớp nhảy xuống biển, lớp mổ bụng tự sát, chẳng bao lâu không còn một người.

Nhờ chiến thuật thần diệu lấy ít đánh nhiều, Hầu Kế Cao đã toàn thắng.

Trong lòng tràn ngập niềm vui, ông bèn
đến đảo Phổ Đà nào xây chùa, nào tạo tượng, và tự tay viết cuốn “Phổ Đà Sơn ký” để biểu lộ lòng thành của mình đối với Ngài Quán Âm.

Trong lúc du ngoạn, ngắm thắng cảnh cùng các chùa miếu cổ xưa của đảo, nhìn quanh thấy trời và nước hỗ tương chiếu sáng cho nhau, phong cảnh quá ư tráng lệ, bất giác ông buộc miệng khen rằng:

– Phổ Đà Sơn thật là một cõi Phật giữa trời và biển!

Tức thì ông vung bút viết lên bốn chữ “Hải Thiên Phật Quốc”, rồi m
ướn thợ khắc lên đá ngay sau đó.

Từ đó, Hải Thiên Phật Quốc trở thành một tên khác của Phổ Đà Sơn.

12. THÁP ĐA BẢO

Xưa thật là xưa, giữa chùa Phổ Tế và động Phạm Âm có một bãi cát rất dài, mặt đưa ra ngoài biển chính là Bách Bộ sa ngày nay. Khi thủy triều lên thì sóng biển vọt cao lên tới trước cửa chùa Phổ Tế. Đến mùa nước lũ tháng tám thì sóng còn cao hơn thế nữa.

Có một năm nọ, vị hoàng thái tử đương triều đến Phổ Đà Sơn dâng hương cúng dường Bồ Tát Quán Âm. Hôm ấy rơi đúng vào ngày lễ trung thu tháng 8, hoàng thái tử ngồi trước cửa Đại Viên Thông điện, ngắm trăng, nghe sóng vỗ. Bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên xô ngã thái tử, ngay cả cái mũ cũng bị gió thổi rơi xuống biển. Thái tử kinh hãi hỏi vị hòa thượng trụ trì:

– Gió sao lại thổi mạnh đến thế, có yêu quái gì gây ra nông nỗi?

Vị hòa th
ượng trụ trì đáp rằng:

– Ở dưới bãi cát trước cửa chùa có một con rồng nhỏ. Con rồng này ban đầu ở trong biển, thường hay nhảy lên cao rồi lặn xuống đáy làm cho sóng to gió lớn, bị thần hộ pháp quất cho một roi gãy xương sống, nên mới chui xuống bãi cát tịnh dưỡng vết thương. Có khi nó hắt hơi, lăn lộn hay duỗi chân cho khoan khoái, hễ nó động đậy thì trên núi liền nổi gió, trên biển liền nổi sóng, thật là làm tình làm tội người ta!

Thái tử nói:

– Đúng là nghiệt súc! Có cách nào giữ cho nó nằm yên không?

Hoà thượng trụ trì đáp:

– Muốn cho con nghiệt súc ấy nằm yên không có gì khó, chỉ cần xây một tòa bảo tháp là xong!

Thái tử nghe thế vui mừng nói:

– Thế thì quá tốt, tôi về tâu việc này lên cho phụ v
ương rõ, rồi truyền chỉ xây tháp, giữ con nghiệt súc nằm yên!

Hòa th
ượng trụ trì liền chắp tay thi lễ:

– Thái tử vui lòng xây tháp, thật là Bồ Tát hộ trì!

Hôm sau Hòa th
ượng trụ trì đưa một số người thợ nề, thợ đá đến bãi cát, bốc một nắm cát bùn đưa lên mũi ngửi, cúi rạp người xuống dán lỗ tai lên cát nghe ngóng, từ đông sang tây, từ tây sang đông, đi tới đi lui. Cuối cùng, ngài đến cửa núi Phạm Sơn không xa Bách Bộ sa, lấy thiền trượng vẽ lên một vòng tròn và nói:

– Đây là chỗ xây tháp!

Hoàng thái tử tỏ vẻ không hiểu, vị trụ trì bèn giải thích rằng:

– Muốn xây tháp trấn rồng thì phải xây đúng tại chỗ yết hầu của nó tính lên bảy tấc.

Hoàng thái tử nghe thầy trụ trì nói có lý, bèn phái một ông quan áo vàng l
ưu lại Phổ Đà Sơn trông coi việc xây cất bảo tháp, còn mình thì trở về kinh.

Trọn một năm trời trôi qua, một tòa tháp bốn góc xinh xắn
được xây lên, đó chính là tháp Đa Bảo hiện nay vậy. Vì tháp này do một vị thái tử triều nhà Nguyên cúng dường việc xây cất nên cũng có tên là tháp Thái Tử.

Hôm ấy tháp vừa xây xong xuôi, cũng rơi đúng vào ngày lễ trung thu, con rồng nhỏ cũng vừa mới tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Nó tính duỗi chân, trườn mình cho thư thái thân rồng, nhưng nó cảm thấy toàn thân không được tự tại, bèn mở to mắt rồng xem xét, thấy có bốn cây cột trụ vừa to vừa dài kềm chặt đầu cuống họng, khiến cho nó không có cách nào động đậy. Nó cảm thấy nóng nảy vô cùng, muốn lấy sừng rồng húc gãy cột trụ nhưng phía trên lại có một cuốn kinh Pháp Hoa trấn giữ, cho nên nó húc thế nào đi nữa cũng không vùng vẫy được.

Nó bèn nổi giận, hất đầu rồng, hắt hơi thật mạnh, một trận cuồng phong bèn nổi lên cuốn đỉnh tháp xuống biển. Thấy thân tháp cũng gần muốn xiêu đổ, vị quan thái giám áo vàng lo sợ vô cùng, vội chạy đi tìm hòa thượng trụ trì. 

Đúng ngay lúc ấy, đột nhiên trong viện sau của thiền tự có ánh sáng vàng chiếu lên rực rỡ, một gian phòng từ trước đến nay vốn bị bỏ trống khóa chặt bỗng bật mở, khóa rơi xuống đất. Mọi người chạy lên xem, bên trong thấy có một bàn thờ Phật, trên bàn có đài sen báu, trên đài sen chỉ có một bình bát bằng lưu ly đang phóng ánh sáng vàng, trên bát có đắp một giải lụa vàng với hàng chữ: “Đa Bảo tháp trấn nghiệt long, lưu ly bát bình yêu khí” (Đa Bảo tháp trấn giữ nghiệt long, bình bát lưu ly dẹp trừ yêu khí).

Vị hoà thượng trụ trì thấy thế vội bưng cái bình bát lưu ly, cứ ba bước lễ một lễ, lên tới tháp Đa Bảo, đặt bát lưu ly lên đỉnh tháp.

Thật là kỳ lạ, sóng gió lập tức lặng yên và tháp Đa Bảo không còn lung lay nữa. 

Từ đó, nước thủy triều chỉ dâng lên đến Bách Bộ Sa là ngừng, Đa Bảo Tháp vững vàng đứng cao sừng sững trên đảo Phổ Đà!

13. HAI RÙA NGHE PHÁP

Trên một dốc núi gần Bàn Đà Thạch ở Tây Thiên có hai hòn đá hình dáng giống hai con rùa biển, được người ta đặt tên là đá “hai rùa nghe Pháp” (Nhị quy thính Pháp thạch). Có người đã viết về hai con rùa đá mấy câu thơ như sau:

Thuở xưa nghe đất Bàn Đà linh,
Muôn loài từng ở đấy nghe Kinh.
Vì sao hai rùa phải hóa đá?
Hay vì trộm Pháp bởi t
ư tình?

Tương truyền vào thuở xưa thật là xưa, trên núi Phổ Đà chưa có tăng có tục và chùa chiền, Ngài Quán Âm tu hành một mình, cứ đêm đêm đoan tọa trên tảng đá Bàn Đà tụng kinh. Trong những đêm trăng sáng rực rỡ, dưới ánh nguyệt lung linh giọng của Ngài càng thêm truyền cảm, hấp dẫn nên lôi cuốn hết tất cả thú vật chim chóc trên núi cũng như cá tôm rùa ốc dưới biển. Cứ mỗi lần Ngài Quán Âm tụng kinh là chúng túa đến bao vây tảng đá Bàn Đà, Ngài chưa đi thì chúng cũng chưa về.

Tin này truyền đến long cung dưới đáy biển, khiến Long vương lấy làm quái lạ. Một đêm nọ, Long vương lén đến biển Liên Hoa, quả nhiên thấy rất nhiều loài thủy tộc đang say sưa, mê mẩn ngẩng đầu nghe Bồ Tát Quán Âm tụng kinh. Long vương nghĩ rằng: 

– Quán Âm Đại sĩ đang tụng kinh gì khiến cho loài thủy tộc động lòng
đến dường ấy? Nếu lấy được kinh này đem về Thủy Tinh cung mà đọc, biết đâu các loài thủy tộc sẽ phục tòng ta hơn?

Càng nghĩ Long vương càng đẹp dạ, khoái trá, bèn trở về Thủy Tinh cung và lập tức triệu thừa tướng Rùa đến hầu, truyền cho ông ta làm sao lấy về cho được bộ kinh mà Ngài Quán Âm đang tụng. Thừa tướng Rùa duỗi dài cổ ra, vỗ ngực bẩm Long vương rằng:

– Ý kiến của bệ hạ thật là t
uyệt diệu! Thần xin bảo đảm với bệ hạ rằng sau 81 ngày, thần sẽ lấy trộm được bộ kinh ấy đem về đây hiến dâng cho bệ hạ!

Trong đám thuộc hạ của thừa tướng Rùa có hai con rùa biển trí nhớ rất tốt, thừa tướng bèn truyền lệnh cho chúng mỗi chiều phải lén đi nghe Bồ Tát Quán Âm tụng kinh, cho đến khi trời sáng mới được về long cung phục mệnh.

Hai con rùa vâng lệnh đi nghe lén kinh. Ban đầu chúng chỉ đến biển Liên Hoa, lẫn lộn trong đám cá tôm, nhô đầu lên im lặng ghi nhớ thuộc lòng, nhưng về sau càng nghe càng thấm, bèn dần dần xích lại gần Quán Âm động. Đến đêm thứ 81, chúng lại càng bò đến gần tảng đá Bàn Đà hơn khiến cho chim muông thú vật đang đứng trên dốc núi lúc ấy phải hoảng sợ, con thì bay, con thì chạy, náo động hẳn lên.

Trên tảng đá Bàn Đà, Bồ Tát Quán Âm chỉ cần nhìn lướt qua hai con rùa liền biết ngay đấy là mật thám của Long Vương sai đến trộm kinh, bất giác nhè nhẹ mỉm cười, tiếng tụng kinh của Ngài nghe càng êm ái hơn, lôi cuốn hơn. Hai anh chàng rùa nghe mê say đến nỗi tiếng mõ canh tư không nghe thấy, qua đến tiếng mõ canh năm cũng chẳng nhúc nhích, mà trời hừng sáng rồi chúng cũng không động đậy. Chuyện gì đã xảy ra vậy?

Số là Ngài Quán Âm vốn luôn luôn chủ trương “chúng sinh bình đẳng”, bây giờ Long vương muốn hai con rùa đến trộm kinh, chỉ với dụng ý muốn dùng kinh làm khí giới để chế ngự các loài thủy tộc. Điều này hoàn toàn ngược lại với tôn chỉ của nhà Phật, làm sao Bồ Tát Quán Âm lại cho Long vương toại ý được?

Do đó trong lúc tụng kinh, Ngài đã phương tiện dùng chút pháp thuật điểm hai con rùa khiến chúng đứng yên. Vì thế, từ đó trở đi chúng cứ giữ nguyên tư thế của mình, con thì duỗi cổ, con thì ngóc đầu.

Long vương và thừa tướng Rùa ngồi dưới Thủy Tinh cung khoái trá đợi hai con rùa đem kinh về, nhưng đợi hoài đợi mãi mà không thấy chúng về. Họ nào có biết là hai con rùa đã hóa đá rồi!

14. ĐÀI THIÊN ĐĂNG

Lúc ban đầu, Phật Đỉnh Sơn không có chùa chiền, chỉ có một cái đình bằng đá nhỏ xíu. Trong am Duyệt Lĩnh có một chú sa di tên là Viên Huệ vừa đúng 15 tuổi. Mỗi ngày chú đều trèo lên Phật Đỉnh Sơn đốn củi. Từ sáng sớm chú đã lên tới đỉnh núi, trời tối mịt mới trở về am, trong ngày khi mệt thì ngồi nghỉ trong cái đình bằng đá, cứ thế mãi không bao giờ gián đoạn.

Có một buổi trưa nọ trời oi bức lạ thường, Viên Huệ ngồi trong đình hóng mát, ngẩng đầu lên nhìn ra xa, thấy trên mặt biển mây trời sắc màu lộng lẫy thật là huy hoàng. Một đoàn chim biển từ xa bay đến, xoay tròn trên Phật Đỉnh Sơn thật lâu như không muốn rời xa. Ngắm những cảnh tượng ấy, Viên Huệ như có ý nghĩ riêng tư gì, chú nghĩ: 

– Phật Đỉnh Sơn đối diện với biển rộng, đẹp như tiên cảnh, giá như xây được mái chùa trên này thì không những hấp dẫn được hàng vạn hàng ngàn du khách hành hương mà còn có thể tăng thêm phần tráng lệ cho Nam Hải Phật quốc này.

Ý nghĩ này nh
ư mọc rễ trong tâm chú, thế là chú vội vàng thu xếp gánh củi rồi gấp rút trở về am Duyệt Lĩnh, mới vào cửa đã nói ầm lên:

– Sư Phụ, con đã thấy ánh sáng của Phật trên Phật Đỉnh Sơn! Đó là một mảnh đất lành, mình phải cất ngôi chùa lớn trên ấy mới được!

Vị hoà th
ượng đương gia không đồng ý, đáp rằng:

– Tuy Phật Đỉnh Sơn quả thật là một vùng đất quý, nhưng dễ gì mà cất ngôi chùa lớn trên ấy? Nào ngói, nào gạch, nào gỗ, lấy ở đâu ra?

Viên Huệ chớp chớp mắt trả lời:

– Đệ tử nguyện đi bốn phương hoá duyên.

Vị hòa
thượng già nhìn Viên Huệ, vừa tò mò lại vừa cảm thấy buồn cười, bèn nói bừa rằng:

– Con mà hóa duyên xây được chùa thì thầy nguyện sẽ nhóm lửa thổi cơm cho con làm trụ trì trong ba năm.

Viên Huệ liền xin thầy một bộ cà sa cũ và một cái mõ, rồi rời Phổ
Đà Sơn lên đường đi hóa duyên.

Qua biển rồi, chú lênh đênh vượt suối băng ngàn, lên thác xuống ghềnh, ngày đi đêm nghỉ, đi hết 6 tháng mới đến tỉnh Phúc Kiến. 

Một hôm, chú đi theo con đường mòn khúc khuỷu, băng qua một quả núi, quẹo qua một chỗ ngoặt thì đột nhiên thấy một ngôi làng, đằng trước là biển, đằng sau là một dãy núi cao. Chú đi nghe ngóng một hồi thì biết rằng trong làng có một ông tài chủ giàu có, mẹ ông là tín đồ Phật giáo, ăn chay niệm Phật đã lâu năm. Viên Huệ mừng rỡ, ba chân bốn cẳng chạy đến trước cửa nhà tài chủ, nhắm mắt đứng thẳng, gõ mõ không ngừng tay. 

Tài chủ nghe tiếng mõ bèn ra cửa xem, thấy một chú sa di vừa nhỏ con vừa nhỏ tuổi, mặc một bộ cà sa vừa dài vừa rộng lại vừa cũ kỹ, trên l
ưng cõng cái mõ bằng gỗ vừa to lại vừa nặng, bộ dạng thật khôi hài, ai thấy cũng phải buồn cười. Ông bèn hỏi:

– Chú tiểu ơi, chú xuất gia ở chùa nào, hóa duyên gì, và đọc kinh nào rồi?

Viên Huệ chắp tay vái chào, cười đáp một cách chân thành:

– Xuất gia ở Quán Âm miếu, miếu ở Phổ Đà Sơn, miệng tụng kinh Di Đà, xin thí chủ bố thí kết duyên lành!

Tài chủ nghe xong, kêu người bưng ra bát cơm chay và mời:

– Từ Phổ Đà Sơn đến đây đường xa thăm thẳm, mời chú dùng bát cơm chay này cho đỡ đói, nghỉ ngơi một chút rồi hãy tiếp tục đi!

Viên Huệ nhìn bát c
ơm chay, lắc đầu mà rằng:

– Ngài Quán Âm hiển linh, phóng ánh sáng chiếu lên Phật Đỉnh Sơn, thí chủ có duyên xin ủng hộ chút gỗ để xây chùa!

Tài chủ nghe chuyện ủng hộ gỗ xây chùa thì trong lòng không vui, bèn lắc đầu bỏ đi.

Viên Huệ đã quá hoan hỉ lúc mới đến hóa duyên, ngờ đâu tài chủ không cho gì cả nên cảm thấy trong lòng lo lắng. Chú chớp mắt, trong đầu nghĩ ra một kế, bèn làm như thái độ của tài chủ chẳng hề làm cho chú quan tâm chút nào. Chú ngồi xuống xếp bằng, và ra sức bình sinh gõ mõ “cốc, cốc” vang lừng. 

Tiếng gõ mõ làm kinh
động bà mẹ già của tài chủ. Bà lão này chuyên ăn chay niệm Phật, đã lâu muốn đến Phổ Đà Sơn hành hương một chuyến nhưng chỉ vì bị con trai ngăn trở nên chưa đi được. Vì vậy bà cứ u uất trong lòng, sầu não lâu ngày nên sinh căn bệnh kỳ lạ. Nay bỗng nghe tiếng mõ, liền hối a hoàn ra cửa xem đó là chuyện chi. Nghe nói đó là một chú tiểu từ Phổ Đà Sơn tới, bà lên tinh thần ngay, đứng dậy ra cửa tiếp đón.

Viên Huệ thấy bà lão từ trong nhà b
ước ra, cách ăn mặc của bà làm cho chú đoán được ngay rằng đây là mẹ của tài chủ. Chú khoan thai đứng dậy, miệng lẩm bẩm:

– Tin Phật phải thành tâm! Thành tâm Phật mới linh!

Nói xong, chú quày quả bỏ đi.

Bà cụ vội vàng gọi lại:

– Chú tiểu ơi, trở lại đây! Chú tiểu ơi, trở lại!

Viên Huệ n
ghe tiếng kêu, không những không trở lại mà đi càng lúc càng mau rồi mất hút trong nháy mắt. Bà cụ lo lắng, cảm thấy lồng ngực như bị thắt nghẹn, đôi chân mềm nhũn và ngã nhào xuống đất. Tài chủ thấy vậy, vội vàng bồng mẹ già trở về phòng, nào xoa ngực, nào đấm lưng, cứ thế thật lâu bà lão mới từ từ hồi tỉnh lại, miệng cứ kêu lên “Phổ Đà Quán Âm! Phổ Đà Quán Âm!”

Hôm ấy, người nhà của tài chủ ai cũng lo mời thầy, sắc thuốc, bận rộn cho đến nửa đêm. Đúng lúc bà lão sắp chợp mắt ngủ thì đột nhiên từ rừng cây trên núi sau nhà vọng lại âm thanh một hồi mõ dòn tan. Bà lão ngồi nhổm dậy, lắng tai chăm chú nghe. Nghe một hồi lâu, bà cười khúc khích, mãi cho đến khi trời tảng sáng, tiếng mõ dừng bặt thì bệnh tình của bà lại tái phát. 

Sự kiện như thế kéo dài liên tục ba ngày ba đêm. Tài chủ hoảng hốt, đành đi kiếm Viên Huệ. Nhưng kiếm khắp cùng, từ trên núi xuống đến thung lũng, kiếm cũng không ra tăm tích của chú. 

Thật ra, cái hôm Viên Huệ bỏ đi rồi, chú bèn trốn trong một cái động đá trên núi, chờ tới nửa đêm mới ra khỏi động, đến khu rừng sau nhà tài chủ ngồi gõ mõ không ngừng, ngày nào cũng thế. Nay chú thấy tài chủ đưa người đi tìm mình thì cố ý lãng tránh, đi đường vòng lẻn vào nhà tài chủ, đứng trước giường bệnh ra sức gõ mõ nữa.

Bà lão mở bừng đôi mắt ra nhìn, thấy chú tiểu của Phổ
Đà Sơn ngày nào thì hoan hỉ vô cùng, bệnh tình thuyên giảm rất nhiều. Bà nhất định cho rằng Viên Huệ là Quán Âm sống, nên vừa đốt hương vừa hứa lễ tạ ơn, luôn mồm nguyện cúng gỗ xây chùa. Khi bà lão khấn hứa như thế và cúng dường chú rồi thì như uống được thuốc tiên, chỉ mấy ngày sau là hoàn toàn khỏi căn bệnh kỳ quặc kia. Tài chủ thấy Phổ Đà Quán Âm quả có linh nghiệm thật, cũng đồng ý ủng hộ.

Viên Huệ bó mớ gỗ đã hóa duyên được lại thành từng bè và thuận theo dòng nước mà chở về Phổ Đà Sơn. Tuy nhiên Phật Đỉnh Sơn trên núi cao, đường đi lại hẹp, gỗ thì vừa thô vừa dài, làm sao đem số gỗ ấy lên núi được đây? Chính đương lúc Viên Huệ đang nhìn đống gỗ to lớn ấy một cách ưu sầu thì bỗng nhiên gió nổi lên, mây cuồn cuộn, một lớp sương mù u ám bao phủ cả mặt biển rộng. Viên Huệ thấy thế tự bảo:

– Thôi chết rồi, thuyền đánh cá trên biển lâm nguy rồi!

Chú lo sợ quá, phăng phắc trèo một mạch lên Phật Đỉnh Sơn, và trên vách đá cheo leo của Bồ Tát Đỉnh, chú thu một đống củi thật lớn nhóm lửa lên. Chỉ trong chớp mắt, lửa bốc lên phừng phực trên đỉnh núi chiếu khắp bốn phương, từ xa cũng nhìn thấy, giống như một ngọn đèn trời vậy.

Lúc ấy những chiếc thuyền chài đang lạc hướng thấy trên núi có một ngọn đèn đỏ, ai cũng nghĩ rằng đó là Bồ Tát Quán Âm treo đèn trời để dẫn đường cho đám thuyền chài trở về đúng hướng. Không bao lâu, đám thuyền chài trên biển nhắm ngọn đèn đỏ mà chèo và tất cả đều hướng về hải cảng của Phổ Đà Sơn.

Viên Huệ thấy họ bèn la to lên:

– Bồ Tát hiển linh, chúng ta phả
i xây chùa trên Phật Đỉnh Sơn! Mọi người mau lại góp một tay khiêng gỗ! Góp một tay khiêng gỗ!

Dân chài nghe tiếng kêu gọi bèn kẻ gánh người gồng, kẻ khiêng người vác, tranh nhau mà làm, chẳng bao lâu toàn bộ số gỗ ấy đều được khiêng lên Phật Đỉnh Sơn.

T
rên Phật Đỉnh Sơn, lấp ló trong màu xanh thúy ngọc của cây cỏ, một mái chùa lớn được xây lên, hiện này là Huệ Tế thiền tự vậy.

Ngày chùa vừa xây xong, vị đương gia hòa thượng của Miếu Duyệt Âm mừng khấp khởi trèo lên Phật Đỉnh Sơn, tìm xuống nhà bếp tính thổi cơm ba năm, Viên Huệ can mãi nhưng vị thầy già nhất định không nghe, Viên Huệ đành phải để thầy xuống bếp nhóm ba bếp lửa để đền bù lại lời nguyện của ba năm về trước.

Về sau, Viên Huệ còn xây một ngôi miếu nhỏ trên Bồ Tát
đỉnh và đêm nào trời phủ sương mù, chú sẽ “mở đèn trời” để hướng dẫn đám thuyền chài trở về bến an ổn.

Từ đó, Bồ Tát Đỉnh cũng có tên là Thiên Đăng Đài (Đài đèn trời).

15. ĐOẢN CÔ ĐẠO ĐẦU

Xưa thật là xưa có hai người chị dâu em chồng sống chung với nhau. Hai chị em ăn tiêu rất cần kiệm ròng rã suốt mười năm trời, khó khăn lắm mới dành dụm được một số tiền. Thế là hai chị em chuẩn bị một giỏ hương đèn hoa quả, cùng nhau lấy thuyền đến Phổ Đà Sơn dâng hương và lễ bái Bồ Tát Quán Âm.

Lúc ấy Phổ Đà Sơn chưa có bến đò, thuyền bè cứ thế mà đậu dọc theo một bãi cạn đầu phía tây của Nam Thiên Môn, và lấy dây thừng cột thuyền lại ở đấy.

Thuyền đến Phổ Đà Sơn đúng lúc thủy triều xuống, khách hành hương vội xuống thuyền đi mất, chỉ có cô em chồng là còn ngồi đó ôm bụng, yên lặng cúi đầu không nhúc nhích. Người chị dâu gấp đi nên thúc giục, cô bèn lí nhí nói với chị rằng mình đang có kinh nguyệt, thân không thanh tịnh nên không dám bước chân lên đất thánh. Người chị dâu nghe thế, giậm chân thình thịch trách rằng:

– Cô lớn đầu như thế mà tới ngày kinh nguyệt cũng tính không ra. Bây giờ lên không lên, xuống không xuống, ái dà! Đó chính là nghiệp tội của cô đó thôi!

Người chị dâu khiển trách cô em chồng một trận xong, chỉ đành tự xách giỏ lên bờ đi dâng hương một mình.

Ông lão lái đò cũng lên bờ uống r
ượu rồi, trong khoang thuyền chỉ còn lại mỗi một mình cô gái nhỏ. Nghĩ đi nghĩ lại thân phận mình, muốn dâng hương mà không dâng được còn bị chị dâu chê trách cho một trận, cô tủi thân chỉ biết khóc, nước mắt tuôn thành dòng, vừa ân hận mà cũng vừa sợ hãi. Bốn giờ đã trôi qua, nước triều lại dâng lên cao. Nước triều phủ cả bãi cát, con thuyền theo sóng mà lắc tới lắc lui, cô gái ngồi một mình trên thuyền vừa đói vừa khát, nghĩ lại thật là đau lòng!

Ngay lúc ấy, từ rừng trúc tím có một bà lão b
ước ra, một tay chống gậy, một tay xách giỏ tre, bước những bước chân run rẩy đến chỗ chiếc thuyền. Bà còng lưng xuống nhặt một vốc đá nhỏ, và vừa đi vừa ném từng viên đá xuống nước biển nghe “bõm, bõm”. Viên đá vừa chìm xuống đáy biển thì lập tức biến thành một tảng đá ngầm trồi lên khỏi mặt nước. Bà lão đi đến đâu ném đá đến đó, và trên bãi cạn một hàng đá ngầm mọc lên ngay ngắn, thẳng đến chỗ chiếc thuyền, giống như một cái bến đò vậy. 

Bà lão lên thuyền, c
ười tủm tỉm nói với cô gái:

– Cô nương, cô đói rồi phải không?

Vừa nói bà vừa dở chiếc khăn hoa đậy giỏ tre, lấy ra một bát cơm rau thơm phưng phức đặt trước mặt cô gái.

Cô em chồng thấy bà lão đem thức ăn tới, kinh ngạc hỏi:

– Thưa bà, bà làm sao biết được là cháu đang đói bụng ở nơi này?

Bà lão c
ười cười:

– Chị dâu của cô bảo tôi đem cơm đến cho cô dùng đó, cô dùng mau đi!

Cô em chồng đói chịu không nổi nữa, nghe nói chị dâu gởi thức ăn đến thì b
ưng bát đũa lên và lấy và để . Ăn no rồi, cô mới đỏ mặt cám ơn bà lão. Bà lão không nói không rằng, thu dọn bát đũa, xách giỏ bỏ đi. Cô em chồng mỏi mệt, dựa vào khoang thuyền mà đánh một giấc.

Ông lão lái thuyền uống r
ượu xong trở lại, mở to cặp mắt kèm nhèm. Quái lạ! Làm sao chỗ này lại biến thành một cái bến đò? Hay là ta đi lộn đường rồi chăng? Ông lão dụi dụi mắt, tính toán cẩn thận. Đâu có lộn! Chiếc thuyền nhỏ nhà mình đây mà!

Lúc ấy bà chị dâu cùng những người khách dâng hương cũng vừa về đủ, nghe lão lái đò nói họ cũng lấy làm lạ. Bà chị dâu bước mau vào khoang thuyền lay cô em chồng dậy, hỏi cô bến đò làm sao hiện ra? Cô gái lắc đầu nói không biết. Bà chị dâu vừa lấy trong giỏ ra hai cái bánh lớn, vừa trách cô rằng:

– Đoảng như cô là cùng! Chỉ biết ngủ chứ không biết gì nữa hết. Thôi, mau ăn bánh đi!

Cô em chồng ngạc nhiên:

– Chị cho người đem cơm về cho em rồi mà?

Bà chị dâu cũng ngạc nhiên:

– Ai cho người đem cơm về cho cô hồi nào? Cô nằm mơ đấy hẳn?

Cô em chồng kể lại chuyện bà lão
đem cơm ban nãy. Ông lái đò nghe xong vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vỗ đùi reo lên:

– Người đã tạo cái bến đò này và đem cơm đến cho cô, chắc chắn là Quan Thế Âm Bồ Tát!

Những người đồng thuyền, ai cũng mừng cho cô gái vì cô đã được chính mắt nhìn thấy Ngài Quán Âm hiện thân, lại còn được Bồ Tát đem thức ăn cho ăn nữa.

Bà chị dâu hãy còn nghi ngờ, bèn chạy một mạch
đến Đại Hùng Bảo Điện của ngôi chùa trước mặt nhìn lên tượng Ngài Quán Âm, nhìn kỹ thì quả nhiên thấy vạt dưới của chiếc áo Ngài mặc hãy còn vết ướt của nước biển. Lúc ấy bà mới chịu tin lời của ông lão lái đò là đúng.

Từ đấy, Phổ Đà Sơn mới có bến đò. Lại vì có câu chuyện chị dâu chê trách em chồng ở đấy nên bến đò này mới có tên Đoản Cô Đạo Đầu (Đầu đường cô bị trách).

16. BÁT GIÁC ĐÌNH

Có một lần, vua Ung Chính nhà Thanh nghe nói rằng Phổ Đà Sơn là một thắng cảnh nổi danh toàn quốc, bèn tỏ ý muốn thân hành lên núi lễ bái Quán Âm để cho trăm họ trong thiên hạ biết rằng mình đây là một vị minh quân thánh hiền đại từ đại bi. Các quan trong triều nghe thế, đều can gián rằng Phổ Đà Sơn cách xa ngàn trùng, đường xá hiểm trở, chi bằng vua viết một bài văn khắc lên ngự bia, phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn cai quản việc xây một mái đình để thờ bia văn ấy cho toàn dân có dịp kính phục ngưỡng mộ.

Ung Chính nghe thế hết sức đẹp lòng, bèn phái khâm sai
đến Phổ Đà Sơn để xây dựng mái đình.

Mái đình che chở ngự bia phải xây ở
đâu mới thích hợp? Vị khâm sai đứng ở khung cửa sổ chùa Phổ Tế, nhìn về phía trước chỉ thấy một bãi đầm lầy, nếu xây đình ngự bia ở bên cạnh đầm lầy thì cửa vào của chùa Phổ Tế sẽ bị che kín, không được! Nếu xây trên bờ đối diện của cái đầm thì lại rất thích hợp, nhưng phải đi vòng qua cầu Vĩnh Thọ, thế cũng không được! 

Vị khâm sai thấy thật khó xử, ông nhíu chặt đôi lông mày, băng qua cầu Vĩnh Thọ, bước qua rồi đột nhiên kêu lên một tiếng: 

– Đúng rồi! Xây cầu mới! Ở giữa đầm thì xây cái đình tám góc (bát giác), hai bên đình thì xây cái cầu bằng
đá, khiến cho chùa Phổ Tế và đình ngự bia thông qua lại với nhau. Như thế vừa có cầu vừa có đình, thật là hùng tráng và trang nhã. Nếu vua mãn ý thì thế nào cũng thăng cho mình ba cấp quan là ít! 

Quả nhiên, Ung Chính nhìn qua bản tấu th
ư, hỏi han một phen rồi bảo ông phải lo trông coi việc xây cất cho cẩn thận, để sớm về kinh thành phục chỉ.

Khâm sai đắc ý vô cù
ng, lập tức sai người tìm thợ thuyền xa gần, nào thợ đá, thợ mộc, thợ hồ, tới Phổ Đà Sơn nghe ông đọc thánh chỉ, và ra kỳ hạn trong vòng 100 ngày công việc phải xong.

Đầm lầy này nước thì sâu, bùn thì dơ, đám thợ thuyền ngâm mình trong đầm, mệt bở hơi tai sống dở chết dở, tốn một tháng tròn nền móng của đình mới xuất hiện lên khỏi mặt nước. Nền đình mỗi ngày một cao lên, không lâu nữa có thể dựng cột lợp ngói rồi. Khâm sai thấy tiến trình như thế thì rất vui mừng, vuốt râu gật đầu cười lên thích chí. Nào ngờ tiếng cười chưa dứt, chỉ nghe vọng lên “cô lô, cô lô”, bọt nước từ giữa đầm sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình đổ sụp xuống đáy không còn thấy đâu nữa.

Khâm sai lo lắng quá hai chân nhảy cỡn, mắng người cai thợ một trận, ra lệnh xây lại, không được trì hoãn kỳ hạn. Vị cai thợ chỉ biết ngậm đắng nuốt cay không nói ra lời, hướng dẫn mọi người đi kiếm vật liệu khác chở tới, lại ngâm mình trong đầm cả ngày lẫn đêm, một lần nữa mệt bở hơi tai sống dở chết dở, một tháng sau móng đình mới xuất hiện lên mặt nước trở lại. Khâm sai nóng ruột muốn cho mau xong, thôi thúc thợ thuyền khiêng gỗ xây đình. Có ai ngờ, cột đình mới dựng lên xong thì cũng một lần nữa, từ giữa đầm lại vọng lên “cô lô cô lô”, bọt nước sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình chìm xuống đáy nước không còn thấy đâu nữa.

Hai tháng đã trôi qua rồi, đừng nói gì tới cái đình tám góc, nội bóng dáng cái móng đình vẫn ch
ưa thấy được. Khâm sai sốt ruột như thiêu như đốt, cả người cứ thế mà quay mòng mòng. Những tưởng mau xong việc mà về kinh lãnh thưởng, nay sự thể như thế này, đừng nói tới chuyện đầu đội mũ lông công (mũ của quan liêu trong lễ phục đời nhà Thanh), mà tính mạng của cả nhà chưa chắc đã giữ được. Ông càng nghĩ càng sợ, càng sợ càng dữ dằn, bèn hét lên ra lệnh lôi người cai thợ ra chém đầu làm gương!

– Khoan đã!

Chỉ thấy một ông già khoan thai, từ tốn đến trước mặt khâm sai, cung tay vái chào và nói:

– Đại nhân bớt giận, đây là đất Phật thanh tịnh, làm sao có thể động dao giết người được?

Khâm sai liếc mắt nhìn, thấy lão già đầu đội
mũ cỏ, chân mang dép cỏ, áo bằng vải thô, dáng vẻ tầm thường nhưng mở miệng nói chuyện thì giọng thật oai hùng, sang sảng. Viên khâm sai đúng lúc đang bực bội, thấy một ông già không biết từ đâu lại mà còn tự nhiên xía vào chuyện của mình, lại càng thêm bực tức, lửa giận bốc lên phừng phừng gắt rằng:

– Ông là ai mà dám to gan đến thế?

Lão già không lộ ra chút gì là hoảng hốt sợ hãi, đáp rằng:

– Tôi từ vạn lý xa xăm đặc biệt tới đất Phật xây đình.

Khâm sai nghe ông lão nói mình biết xây đình vừa mừng vừa nghi, nhíu mắt nhìn ông lão từ trên xuống d
ưới để đánh giá rồi quát rằng:

– Ông đừng nói xằng nói điên, người như ông mà có thể xây nổi một cái đình tám góc sao?

– Xây một cái đình tám góc nhỏ xíu, có gì là khó? - Ông già trả lời thẳng thắn. Nh
ưng phải chịu ba điều kiện của tôi.

Khâm sai thấy cử chỉ của ông không giống phàm nhân, sau một lúc dò xét, suy nghĩ chín chắn rồi mới nói:

– Được rồi. Chỉ cần ông biết xây một cái đình tám góc, ra điều kiện gì ta cũng chịu.

– Thứ nhất, thả ông cai thợ.

Khâm sai đáp:

– Ta bằng lòng.

– Thứ hai, tạo đình trên đất Phật thì phải lấy từ bi làm c
ăn bản, không được tùy tiện mắng mỏ công nhân.

Khâm sai đáp:

– Được, được!

– Thứ ba, xin đại nhân thêm cho kỳ hạn.

Đến đây khâm sai lắc đầu lia lịa:

– Không được! Phải xây đúng kỳ hạn, nếu không ta sẽ bắt tội ông!

– Ha ha!

Ông lão ngẩng mặt c
ười dài, rồi nghiêm sắc:

– Xử tử người thì dễ, xây đình mới khó. Bây giờ kỳ hạn 100 ngày gần tới rồi, ông làm sao để về kinh phục chỉ đây?

Câu hỏi này đánh trúng vào chỗ yếu của khâm sai, ông suy nghĩ mãi thấy không có cách nào khác, chỉ đành gật đầu chấp thuận.

Ngày hôm sau, ông lão không nói không rằng, một mình một thân nhảy xuống đầm cỏ sình lầy, sờ soạn bên này, rờ rẫm bên kia, suốt cả ba ngày mới tìm ra một cái “miệng rồng”
ngay ở giữa đầm. “Miệng rồng” này thông qua biển lớn Đông Hải, bình thường thì bị bùn dơ bịt kín, nhưng đến ngày thủy triều lớn thì “cô lô, cô lô”, bọt sủi lên mặt nước, và bùn dơ hay rác rưởi gì cũng đều bị hút xuống đáy biển. 

Ông lão tìm ra
được “miệng rồng” rồi thì hớn hở trèo lên bờ. Lúc ấy tất cả đám thợ thuyền đều đứng chờ xem ý định của ông lão là gì, bèn vây xung quanh ông xin giao cho việc làm. Ông lão chỉ cười mà đáp:

– Không có gì gấp, các ông hãy chuẩn bị vật liệu đi!

Mọi người nghe thế đều ngẩn người ra:

– Vật liệu đã chuẩn bị xong từ lâu rồi, bây giờ ông giao việc gì khác đi chứ!

Ông lão nhìn mọi ng
ười rồi chỉ lên núi, chỗ có một đống đá vụn mà nói:

– Gánh hết chỗ đá vụn ấy xuống đây, chất lên hai bên bờ đầm, sẽ có lúc cần dùng!

Mọi ng
ười không biết ông lão đang nghĩ gì trong đầu nhưng không dám cưỡng lệnh, chỉ đành đi gánh đá vụn, không đầy một ngày, hai bên bờ đầm chất một đống đá vụn cao thật là cao. Tuy nhiên, ông lão trốn biệt trong một gian thiền phòng của chùa Phổ Tế, cửa đóng kín mít nhưng đèn đuốc sáng choang, và cả ngày chỉ nghe “sầm sập, sột soạt” chẳng ai biết ông đang làm gì trong ấy.

Sau ba ngày, mọi người vẫn thấy ông lão trốn trong thiền phòng chưa ló mặt ra, họ bắt đầu bàn tán xôn xao, người thì nói:

– Ông già này không có tài cán gì cả, chúng ta bị lừa rồi!

Người khác cho rằng:

– Ông già này dường như không muốn sống, tới đây tìm cái chết hay sao ấy!

Trong lúc mọi người đang bàn tán như thế thì đột nhiên nghe tiếng “cô lô cô lô” quen thuộc từ giữa đầm vọng lên, và nước sủi bọt không ngừng.

Ông già nghe âm thanh ấy, “sầm” một tiếng từ thiền phòng phóng ra, hai tay ôm một con rồng gỗ
điêu khắc thật tinh xảo, đầu hất lên trời, duỗi chân dương móng, hệt như một con rồng thật. Ông già chạy đến gần đầm phóng con rồng gỗ lên trời, nghe “vù vù”, rồi có một con rồng toàn thân dát vàng đâm đầu xuống đầm, chúi xuống đáy nước. Đám thợ thuyền há hốc mồm ngây người ra mà nhìn, ông lão lớn tiếng giục giã họ đẩy đống đá vụn xuống đầm. Trong nháy mắt, từ giữa đầm lầy không còn thấy nước sủi lên nữa.

Ông lão lại nhẹ nhàng phi thân xuống ao, h
ướng dẫn đám công nhân khiêng đá đắp móng đình.

Kỳ lạ, lần này móng đình xây xong vững như bàn thạch, không còn sụp đổ nữa.

Chẳng bao lâu sau, một ngôi đình tám góc trang nhã xinh xắn
được xây lên, hai bên đình là cây cầu đá nối ngự bia với cửa chính của chùa Phổ Tế. 

Về sau người ta dọn sạch đầm lầy xung quanh đình, biến đầm trở thành một hồ sen. Mỗi lúc hoa sen nở rộ, tòa đình tám góc này trở nên một quang cảnh đặc biệt đẹp mắt.

17. THUNG LŨNG CÁT BAY

Ngày xưa có một người rất nghèo, nghèo rớt mồng tơi, tên là Đắc Tài, đã 30 tuổi đầu mà vẫn còn chưa vợ. Có một năm kia, Đắc Tài đến Phổ Đà Sơn dâng hương, nguyện cầu Bồ Tát Quán Âm gia hộ cho mình sớm phát tài. Hắn lễ từ chùa trước đến chùa sau, lên Phật Đỉnh Sơn, rồi theo đoàn khách hành hương đến Phạm Âm Động lễ bái Bồ Tát Quan Thế Âm.

Phạm Âm Động nằm ở mé đông của Thanh Lũy Đầu. Lúc ấy, giữa Thanh Lũy Đầu và Phổ Đà Sơn là một nhánh sông rộng, hai đầu thông với biển, lúc triều lên thì gió to sóng lớn và nước chảy xiết, mà lúc triều xuống thì lại trở thành một dải đất bùn lầy, khi dẫm lên thì chân lún xuống, dính bùn chặt cứng. Những người muốn đến Phạm Âm Động chỉ đành chờ nước triều xuống rồi cởi giày, xắn quần đạp trên con đường bùn lầy ấy mà đi.

Khi Đắc Tài đến chỗ ấy, nhìn thấy dải bùn lầy thì đột nhiên nghĩ ra một kế để làm tiền, bèn âm thầm suy đi tính lại: nếu tậu được con thuyền tam bản thì có thể chèo thuyền ở chỗ này, một là làm việc thiện kiếm phước, hai là nửa phần còn lại của cuộc đời coi như chắc ăn. 

Càng nghĩ hắn càng thấy ý kiến này rất hay, nên sau khi rời Phạm Âm
Động, hắn bèn đến bờ sông xây một mái nhà lá, ngày ngày quyên tiền khách hành hương qua lại để mua một chiếc thuyền nhỏ. Hương khách cũng thấy ý kiến này rất hay nên ai nấy hùn nhau mở hầu bao dốc tiền ra giúp hắn.

Sau vài tháng, Đắc Tài tính lại số tiền quyên được thì thấy đã dư sức mua một chiếc thuyền tam bản. Nhưng những đồng tiền bạc sáng lòa loà, những đồng tiền đồng khua leng keng khiến hắn đổi ý:

– Hề hề, đang phát tài phát lộc thế này thì làm sao bỏ ngang cho
được! Vả lại ta cũng chưa xây nhà gạch cơ mà!

Đến năm thứ ba, Đắc Tài đã dùng tiền mua thuyền mà khách hành hương đã đóng góp để xây lên một căn nhà gạch ba gian trang bị đầy đủ, và còn cưới được một bà vợ nữa! Khi thấy những điều cơ bản mà mình hằng mong muốn nay đã có đủ, Đắc Tài mới kêu người đóng cho mình một chiếc thuyền tam bản, chèo đò qua lại giữa Thanh Lũy Đầu và Phổ Đà Sơn. 

Nhưng chèo được vài ba ngày, hắn cảm thấy cách kiếm ăn này quá vất vả mệt mỏi mà tiền thâu vào lại chẳng có bao nhiêu, bèn nảy ra một ý kiến mới.

Hắn đi mua một bức tượng Quán Âm nhỏ thờ ở đầu thuyền rồi đặt trước bàn thờ một cái vại đã rửa sạch, trên vại dán một tấm giấy đỏ với hàng chữ “thuyền từ độ khắp, vui lòng giúp đỡ”. Từ đó ngày nào hắn cũng móc từ vại ra một số tiền không nhỏ. Nếu có ngày hương khách ném quá ít tiền vào vại, hắn sẽ cố ý chèo làm sao cho thuyền dao động thật mạnh, thế là thiện nam tín nữ phải kinh sợ, không thể không quỳ trước tượng Bồ Tát khấn nguyện và ném thêm tiền đồng, tiền bạc vào vại. 

Hương khách rất hận nhưng không dám làm mất lòng hắn, dầu sao họ cũng lệ thuộc vào hắn để đi đi về về trên dòng sông ấy!

Có một hôm thuyền không có khách, Đắc Tài bèn đậu thuyền ở ven bờ sông, đem bầu rượu già cùng vài khúc cá khô, ngồi dưới đuôi thuyền mà nhâm nhi hưởng nhàn.

– Ông lái thuyền ơi, cho tôi qua sông nào!

Đột nhiên có một giọng nói thanh tao trong trẻo từ bờ sông vọng lại. Đắc Tài ngoảnh mặt lại nhìn, ôi chao, thì ra đấy là một cô nương xinh đẹp mỹ miều! Cô gái tay đeo làn tre nhỏ, nửa làn đựng cát vàng óng ánh. Cô mặc nguyên một bộ quần áo màu tím thật là thanh tân, trông cô không khác gì tiên nữ xuống trần. Đắc Tài cảm thấy lòng rạo rực, vội vàng đặt cốc rượu xuống, đưa tay đỡ cô gái xuống thuyền. Nhưng cô gái không để ý tới hắn, nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền một mình. Đắc Tài hơi quê, bẻ mạnh mái chèo tách thuyền ra khỏi bờ sông. Thấy hai bên bờ không có một bóng người, hắn bèn chèo thuyền thật chậm rãi, hai con mắt dán chặt vào người cô gái.

Cô nương à, cô tới đây cầu phúc hay cầu con vậy?

Cô gái ngồi ngay ngắn trên thuyền, nhẹ cười nhạt mà đáp:

– Tôi cầu thiền.

– Cô cầu thuyền? Đắc Tài cười một cách nham nhở. Thuyền rồng hay thuyền tam bản cũng là thuyền, cô nương muốn thuyền thì tại hạ chính là thuyền đây!

Nói xong hắn bèn lấy chân đá vào mạn thuyền, tay trái liều lĩnh đẩy mái chèo thật mạnh, con thuyền nhỏ bèn lắc lư một cách dữ dội. Nhưng cô gái không hề tỏ vẻ hoảng sợ, chỉ mỉm cười ngồi rất an ổn, làm như thuyền càng lắc cô càng thấy thú vị. Đến khi Đắc Tài mệt lử, nằm dài trước bánh lái giả chết, cô gái mới bước đến, nắm lấy mái chèo và “két, két”, con thuyền lao vun vút trên sông một cách vững chải.

– Hề hề, thì ra cô n
ương đây cũng là tay chèo thuyền nhà nghề!

Đắc Tài thừa cơ hội vừa nói vừa nắm lấy cánh tay cô gái, nhưng nào ngờ khi nhìn lại thì thấy mình đang nắm đuôi mái chèo gỗ cứng ngắc! Hắn đưa mắt tìm cô gái thì không còn thấy bóng dáng của cô đâu, ngay cả chiếc làn tre cũng không còn nữa.

Đắc Tài bất giác giật mình kinh sợ. Ngay lúc hắn đang kinh hoàng bất an thì bỗng nhiên gió lớn nổi lên, sóng cao tới trời đẩy chiếc thuyền tam bản lên cao rồi “huỵch” một tiếng, đâm xuống một tảng đá lớn vỡ thành gỗ vụn! Đắc Tài khó khăn lắm mới trèo được lên bờ, vội vàng đâm đầu chạy về nhà. Nhưng từ chân núi nhìn lên thì cái nhà gạch ba gian đã bị cuồng phong cuốn đi rồi, bà vợ cũng biến đâu mất! Thế là Đắc Tài trở lại nghèo rớt mồng tơi y hệt như ba năm trước.

Thì ra cô gái chèo thuyền kia chính là Quán Âm đại sĩ hóa thân. Khi cuồng phon
g lắng xuống, Ngài trở lại bổn tướng trang nghiêm của mình, đứng trên bờ sông bốc một nắm cát trong làn tre rải lên mặt nước, trong phút chốc dòng sông to rộng từ từ bị cát vàng phủ kín. Dòng sông đã biến thành thung lũng, người ta gọi đó là “Phi Sa Áo” (thung lũng cát bay). Từ đấy, hương khách muốn đến Phạm Âm Động không cần phải lệ thuộc vào người lái đò nữa!

 

18. CỔ PHẬT ĐỘNG

Trên núi Phổ Đà, ở phía tây bắc của Thung Lũng Cát Bay, có một động đá gọi là Cổ Phật Động, trong đó có thờ một “nhục thân Phật”. Lai lịch của Cổ Phật Động này là một câu chuyện khá thú vị.

Xưa thật là xưa, trong động này có một vị cao tăng được mọi người gọi là Nhân Quang Sư. Nhân Quang Sư có hai người đệ tử, người lớn tên là Huệ Tính, và người trẻ hơn tên là Huệ Minh. 

Thầy Huệ Minh tính tình thật thà trung hậu, trong khi thầy Huệ Tính thì xảo quyệt khôn khéo, biết quan sát sắc mặt và lời nói của s
ư phụ để chiều theo và lấy lòng. Lúc ra ngoài đường, bao giờ thầy cũng cầm một cây chổi quét một cái rồi mới bước một bước, để tỏ ra rằng thầy là người từ bi, đến một con kiến thầy cũng không nhẫn tâm giẫm lên và giết hại. Khi hai anh em đi hái rau, thầy Huệ Minh thì lo hái rau tươi rau tốt, còn thầy Huệ Tính thì trái lại chỉ hái lá già, lá hư về nấu ăn, ra mòi một bậc chân tu, tu hành khổ hạnh.

Tuy vậy, Nhân Quang Sư vẫn đối đãi với hai đệ tử một cách bình đẳng, không phân biệt thân sơ, khiến Huệ Tính rất phiền não trong lòng.

Không lâu sau, tuổi già sức yếu, Nhân Quang Sư biết đã đến lúc mình sắp viên tịch, trước phút lâm chung ngài căn dặn hai vị đệ tử Huệ Tính và Huệ Minh rằng:

– Thầy lìa trần rồi, hai con hãy lấy một cái vại và bỏ di thể của thầy ở trong ấy. Sau đúng 3 năm 6 tháng, hãy mở vại ra khám. Nếu nh
ư di thể của thầy rữa mục thì thôi, coi như không có gì đáng nói, nhưng nếu chân thân không hoại thì điều đó chứng minh thầy đã tu thành chính quả, lên cõi Cực Lạc rồi. Lúc đó các con hãy đem chân thân vào động mà thờ phụng cho người ta đến lễ cúng, hai con hãy nhớ kỹ.

Nhân Quang Sư nói xong liền ngừng thở. Huệ Tính, Huệ Minh làm đúng theo di chúc của thầy.

Sư phụ mất rồi, Huệ Tính mới để lộ bộ mặt thật tham lam của mình. Lúc sinh tiền Nhân Quang Sư thường đeo bên mình một cái hồ lô, Huệ Tính ngỡ rằng trong đó chắc là có bảo vật gì đây nên lấy ra xem, thấy hồ lô trống rỗng. Thầy chúc ngược nó xuống thì thấy có ba hạt ngũ cốc rơi ra: một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê. Huệ Tính không tìm thấy vật gì đáng tiền bèn vứt hồ lô rồi bỏ đi. Huệ Minh vội nhặt lên, bỏ ba hạt ngũ cốc vào trở lại như cũ và cẩn thận giấu đi.

Sau
ba năm sáu tháng, Huệ Tính và Huệ Minh mở vại ra khám, quả nhiên thấy chân thân bất hoại của Nhân Quang Sư ngồi xếp bằng ngay ngắn trên bồ đoàn, sắc mặt, thần thái không khác gì lúc sinh tiền. Huệ Minh thấy thế thì vô cùng sung sướng, vội sụp xuống lễ lạy, còn Huệ Tính tuy cũng miễn cưỡng lễ một lễ song trong tâm thì bất mãn: Sư phụ lên cõi Cực Lạc, bỏ mặc huynh đệ chúng tôi không thèm lo đến, thật là nhỏ mọn!

Tin đồn rằng Nhân Quang Sư đã để lại chân thân bất hoại thật là nhiệm mầu được lưu truyền khắp Phổ Đà Sơn. Thế là nào tăng nào tục, toàn dân của Phổ Đà Sơn đem bánh trái lên động cúng dường, khiến cái động đá nhỏ bé trở thành nhiệt náo hẳn lên. 

Có hai tên vô lại từ Thượng Hải lên Phổ Đà Sơn du ngoạn, nghe tin này bèn nảy ra một ý kiến bất lương. Hai người thông đồng với Huệ Tính, lén trộm “nhục thân Phật” ra khỏi động với một giá hối lộ là 500 đồng tiền, đưa trước 300 đồng, chờ mọi sự thành công tốt đẹp thì mới đưa 200 đồng còn lại. 

Đương lúc nửa đêm, Huệ Tính bèn khiêng chân thân của sư phụ đi theo hai tên vô lại lên thuyền chạy về Thượng Hải.

Hôm sau Huệ Minh tắm rửa súc miệng xong, bèn đi thắp hương cho sư phụ như mọi ngày. Nhưng thầy kinh hoàng khám phá Phật tòa trống rỗng, “nhục thân Phật” không biết ở nơi nào. Thầy vội vàng chạy đi tìm sư huynh, sư huynh cũng biệt tăm biệt tích. Huệ Minh chạy cùng khắp Phổ Đà Sơn nhưng vẫn không tìm ra “nhục thân Phật” lẫn sư huynh, nên ngày ngày ngồi trước Phật tòa đau khổ ứa nước mắt.

Một hôm có một vị khách hành hương họ Vương lên tới động. Ông nhìn thấy cái hồ lô trên bàn thờ, mừng quá reo lên:

– Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!

Huệ Minh ngạc nhiên hỏi:

– Khách nhân tìm thấy gì ạ?

Vị khách không trả lời mà hỏi ngược lại:

– Có phải trong cái hồ lô này đã từng đựng một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê không?

– Thưa đúng rồi ạ, hiện giờ vẫn còn.

Huệ Minh vừa nói vừa đổ hồ lô ra cho khách xem ba hạt ngũ cốc. Người khách đặt ba hạt ngũ cốc lên lòng bàn tay, ngắm nghía kỹ lưỡng rồi như nghĩ ra chuyện gì:

– Ái dà, thì ra “Muộn Hàng S
ư” ở nơi này...

Huệ Minh nói:

– Thầy chúng tôi tên là Nhân Quang Sư, hình như ngài đã gặp thầy chúng tôi rồi thì phải?

Người khách gật đầu, kể lại chuyện xưa.

Thì ra vị h
ương khách họ Vương sống gần Tô Châu. Hai vợ chồng tới trung niên mới có được một cậu con trai nên cưng quý vô cùng. Nào ngờ từ khi mới lọt lòng, thằng bé không ngừng gào khóc, bao nhiêu y sư thuốc thang đều không chút công hiệu nên hai vợ chồng vô cùng khổ não. Vừa may Nhân Quang Sư đến Tô Châu, đi ngang cửa nhà hai vợ chồng họ Vương, thấy một cô nữ tỳ đang bồng một đứa trẻ sơ sinh và cô dỗ dành thế nào đi nữa đứa bé cũng không ngừng la khóc. Nhân Quang Sư đến gần, đưa tay ra nhè nhẹ vuốt lên đầu thằng bé, tiếng khóc của đứa bé nhỏ dần tức thì. Ngài vuốt một cái nữa, tiếng khóc ngừng bặt. Vuốt lần thứ ba, đứa bé toét miệng ra cười tuy mặt còn đầm đìa nước mắt, nụ cười ngây thơ của nó khiến ai thấy cũng phải thương.

Vợ chồng họ Vương biết được có một vị hòa thượng chữa được bệnh khóc của con thì vội vàng mời Nhân Quang Sư vào nhà, cảm tạ không ngớt lời. Họ hỏi xem phải chăng Nhân Quang Sư đang đi hóa duyên? Ngài hóa tiền hay hóa thức ăn? Nhân Quang Sư đáp: Hóa thức ăn. 

Vợ chồng họ Vương vội mở rộng cửa nhà kho, thỉnh Nhân Quang Sư tùy tiện muốn lấy bao nhiêu lúa gạo thì lấy. Nhân Quang Sư chỉ lấy ba hạt ngũ cốc, một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê, bỏ vào cái hồ lô đeo trên lưng, miệng niệm “A Di Đà Phật” rồi thong thả quay đi. 

Hai vợ chồng vội chạy theo hỏi:

– Cao tăng pháp hiệu là gì? Núi tiên Ngài tu ở chỗ nào?

Nhưng họ chỉ loáng thoáng nghe ngài đáp từ xa:

– Tôi ở Nam Hải Phổ Đà, người ta gọi tôi là Muộn Hàng sư.

Chuyện này xảy ra đã gần mười năm rồi, bây giờ đứa con đã lớn, vị khách họ Vương vẫn không quên công đức của Nhân Quang Sư, nên đặc biệt đến Phổ Đà để tìm ngài.

Vì đọc sai
tên Nhân Quang Sư thành Muộn Hàng Sư nên ông tìm thật lâu mà tìm không ra, nay nhìn thấy cái hồ lô và ba hạt ngũ cốc mới nhận được người.

Thầy Huệ Minh nghe khách kể lại chuyện xưa thì cảm động vô hạn, tuôn nước mắt mà nói:

– Khách nhân không biết đó th
ôi, sư phụ chúng tôi tạ thế đã hơn ba năm rồi. Ngài có để lại chân thân bất hoại nhưng đã bị kẻ trộm lấy đi mất rồi.

Vị khách họ Vương nghe thế giật mình:

– Xin lỗi thầy, chân thân của Nhân Quang Sư bị cướp đi bao lâu rồi?

– Gần một tuần rồi.

Vị khách vỗ đầu gối nói:

– Đúng rồi, đúng rồi, thảo nào khi tôi đi ngang Thượng Hải nghe có người nói là “Đại Thế Giới” đang triển lãm “Nhục thân Phật”, người đến xem như kiến. Chắc chắn đó là chân thân của Nhân Quang Sư rồi.

Huệ Minh nghe chân thân của thầy bị đem đi triển lãm nh
ư thế thì đau lòng khóc òa lên. Khách họ Vương an ủi:

– Thầy yên tâm đi, tôi, Vương mỗ, sẽ đem chân thân của ngài Nhân Quang Sư về Phổ Đà Sơn, dẫu có phải bỏ mình đi nữa! Ngày mai chúng ta đi Thượng Hải.

Nói lại về hai tên vô lại đem “nhục thân Phật” trộm được đến Thượng Hải triển lãm ở Đại Thế Giới. Nào ngờ “nhục thân Phật” này, ba ngày đầu thì còn coi được, ba ngày sau thì da và thịt từ từ tuột xuống còn lại có một bộ xương người chết. Khách đến xem ai cũng sợ hãi bỏ trốn, và kết tội ông chủ của Đại Thế Giới là tên bịp bợm, lừa tiền người ta, rồi còn đem lên cửa quan tố cáo. Ông chủ của Đại Thế Giới một mặt thâu “nhục thân Phật” về, một mặt đi tìm thầy Huệ Tính thanh toán, không những đòi lại số tiền 300 đồng đã đặt trước mà còn đánh cho thầy một trận nên thân. Thầy Huệ Tính vừa giận vừa hối hận, chiều hôm ấy hộc máu tươi, nằm liệt trên giường không dậy nổi.

Chính lúc đó, vị khách họ Vương đưa Huệ Minh đến Thượng Hải. Hai người đến cửa quan để kiện, những vị quan ở đấy sợ dư luận công chúng nên vội vàng đòi ông chủ của Đại Thế Giới phải đưa “nhục thân Phật” về Phổ Đà Sơn và bồi thường một số tiền tổn thất cho chùa.

Thắng kiện rồi, Huệ Minh đến quán trọ thăm sư huynh vừa bệnh vừa sạt nghiệp, Huệ Tính khóc nức nở, xấu hổ muốn chết quách. Huệ Minh thấy sư huynh đã biết hối lỗi nên không trách móc lấy một lời, trả tiền cơm nước quán trọ và thuốc men rồi dìu thầy lên thuyền trở về Phổ Đà Sơn.

“Nhục thân Phật” về đến động núi, người khách họ Vương bèn mời thợ giỏi, thợ khéo về điểm trang lại và giát vàng lên nhục thân, mua sắm bàn ghế, màn trướng toàn bộ mới tinh, và còn xây một cái am nhỏ trước mặt động để thờ phụng nhục thân của hoà thượng Nhân Quang Sư, bây giờ đã được người ta tôn xưng là “Cổ Phật”.

Từ đấy, trước cảnh sắc mới mẻ, khách hành hương trở lại đông đảo hơn trước. Mọi người tranh nhau đến chiêm ngưỡng và lễ bái “nhục thân Phật” trong động, và cũng từ đó mà động đá này được đặt tên là Cổ Phật Động.

19. KỶ BẢO LĨNH

Thiên Bộ Sa và Bách Bộ Sa được nối liền với nhau bằng một ngọn núi nhỏ, giống như cái kỷ trà tựa sát vào cái ghế, và trên ấy rải rác rất nhiều những hòn đá lớn đá nhỏ khác nhau, thiên hình vạn trạng, giống như vô số ngọc ngà châu báu được rải lên kỷ trà vậy. Vì vậy mà người ta gọi chỗ ấy là “Kỷ Bảo Lĩnh”. 

Truyền rằng những hòn
đá nói trên đã từng thật sự là trân châu mã não, vàng bạc châu báu biến thành.

Trên sườn núi phía đông của Kỷ Bảo Lĩnh có một cái am tên là Duyệt Lĩnh, thật ra chỉ là một túp lều tranh thuộc quản hạt của chùa Pháp Vũ. 

Thời ấy, thầy trụ trì chùa
Pháp Vũ chỉ chu cấp thức ăn và áo mặc cho mỗi một người trong mỗi túp lều mà thôi, mà am Duyệt Lĩnh lại có hai vị thầy tu. Để bù vào chỗ thiếu, vị thầy đương gia của am Duyệt Lĩnh tên là Trân Đạo gọi sư đệ là chú Tính Lương đi khai khẩn một thửa ruộng nhỏ ở bên cạnh am, mỗi năm bốn mùa cũng gặt hái được khá nhiều rau cải. 

Am Duyệt Lĩnh chỉ là một túp lều tranh nên tiền hương đèn cúng dường thâu được không bao nhiêu, vì thế thầy Trân Đạo nhất tâm nhất ý muốn xây một ngôi chùa lớn.

Có một năm kia, thầy Trâ
n Đạo kêu đau lưng, mỏi vai nên bảo chú Tính Lương tới thửa ruộng nọ trở đất. Chú Tính Lương phải dùng hết sức lực huy động cây đinh ba để trở đất, trở hoài trở mãi, trở cho tới phân nửa thửa ruộng. Chú bổ xuống một phát đinh ba thì phát giác một cái động, qua một lỗ nhỏ bằng cái miệng chén, phóng lên những tia ánh sáng chói lọi. Lấy làm lạ, Tính Lương muốn coi ánh sáng đó từ đâu ra, nên lại gắng sức đào đất. Đột nhiên, “huỵch” một tiếng, Tính Lương rơi xuống một cái động lớn. Trong động có một loại sánh sáng kỳ lạ, thì ra đó là trân châu chiếu chói cả mắt. 

Đây là đâu? Tính Lương nhìn một cách kỹ lưỡng, ui da! nguyên cái động như một cái ổ chim, bốn bề là vách đá, bên trong có 18 cái chum đựng vàng sáng chói, 18 chum khác đầy bạc sáng lòa và và 18 chum nữa đựng đầy trân châu mã não đủ màu đủ sắc!

Đúng lúc chú tiểu Tính Lương đang đứng ngây người ra nhìn, thì trong động vang lên âm thanh rổn rảng:

“Tính Lương , Tính Lương, thật thà hiền lương, muốn vàng muốn bạc, cứ lấy mà hưởng!”

Chú Tính Lương ngạc nhiên nhìn quanh bốn phía, không thấy có hình bóng một người nào, bèn hỏi:

– Ông là ai?

– Ta là Thạch Hòa th
ượng. Chú muốn lấy gì thì lấy, muốn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, mau lấy đi!

Tính Lương nhìn chum này, ngó chum kia, cuối cùng chỉ chọn một viên trân châu sáng chói cả mắt.

Đôi mắt sáng quắc của Thạch Hòa th
ượng loang loáng hiện lên trên vách tường:

“Tính Lương, Tính Lương, thật thà hiền lương, chỉ lấy một thứ, sau có hối chăng?”

– Viên ngọc sáng chói như thế, con lấy để làm đèn soi đường, thế cũng đủ rồi, không nên tham lam!

Tính Lương vừa trả lời vừa leo lên miệng động. Chú quay đầu lại nhìn thì không thấy động bảo vật đâu nữa. Chú ngây người một lúc, rồi cắm đầu trở đất tiếp.

Gần chiều tối, Tính Lương trở về thiền phòng, hân hoan lấy viên trân châu từ trong ngực áo ra. Úi dào! Cả phòng sáng rực! Đúng lúc ấy thầy Trân Đạo về tới, nhìn thấy ánh sáng của trân châu, bèn buộc miệng la lên:

– Ôi! Dạ minh châu!

Vừa nói, bèn chụp lấy hạt bảo châu và hỏi luôn mồm:

– Sư đệ, chú lượm cái này ở đâu ra vậy?

T
ính Lương nở một nụ cười mộc mạc, và đem chuyện chiều qua đã xảy ra lúc chú trở đất ngoài ruộng kể lại hết cho sư huynh nghe. Thầy Trân Đạo nghe kể thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng:

– Sư đệ ơi, vậy là Bồ Tát tặng vàng bạc tài sản cho mái chùa nghèo của chúng ta rồi đó. Chuyện này tuyệt đối chú không được nói cho người ngoài biết, nghe chưa?

Tính Lương ậm ừ vâng dạ rồi lo đi làm công phu khuya, xong lên giuờng đi ngủ. Nhưng thầy Trân Đạo thì làm sao ngủ được! Thầy mở mắt thao láo, mơ hồ nhìn thấy từng chum, từng chum đựng đầy vàng óng ánh, rồi từng chum, từng chum đựng đầy bạc chói loà nhảy múa tiến tới trước mặt mình… Thầy nhẫn nhục chịu đựng như thế cho tới nửa đêm, rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi giường, cõng cái đinh ba len lén dọ dẫm ra đến giữa ruộng, mau mắn đào lấy đào để. Đào hoài đào mãi cho tới khi cái hố đã lớn đại rồi mà vẫn chưa thấy vàng bạc gì cả. Thầy tiếp tục đào cho tới khi phương Đông hừng sáng thì mệt mỏi kiệt sức, tiu nghĩu ủ ê trở về chùa.

Sáng sớm ngày hôm sau, Tính Lương đi ra ruộng dồn đất đã xới đắp lên thành luống, thấy cái hố lớn ở ngay giữa ruộng, ngỡ rằng bảo vật đã bị người ta cướp mất, vội vàng trở về báo cho sư huynh biết. Thầy Trân Đạo nghe dở khóc dở cười, tròng mắt láo liên, nói với Tính Lương:

– Chắc sư đệ nằm mộng đó. Thôi, hôm nay chú đi đào bảo vật lấy thêm vàng bạc đi. Có vàng có bạc mình mới có thể mở lớn ngôi chùa, sửa sang cho mới mẻ, đó là một cơ hội làm công đức ngàn năm mới có một lần đó chú à.

Tính Lương suy nghĩ một lúc thấy cũng có lý, nên lại đi đào bảo vật. Không lâu sau, chú đào được đến cửa động, từ từ trèo xuống, thấy từng chum từng chum vàng bạc châu báu ở bên trong mới yên lòng, chắp tay lại nói:

– Bạch Thạch Hòa Th
ượng, hôm nay con lại đến nữa! Sư huynh con nói có vàng có bạc mới có thể mở lớn và sửa sang mái chùa lá. Lần này cho con xin thêm một chút vàng bạc nữa nhé.

Cặp mắt sáng loang loáng của Thạch Hòa th
ượng lại chiếu rực trên vách tường, hoà thượng cười nói:

“Tính Lương, Tính Lương, thật thà hiền lương, muốn nhiều muốn ít, tùy ý lấy đi!”

Tính Lương nghe thế mới cẩn thận nhặt lên ba khối vàng, xong lại nhặt lên ba khối bạc, rồi hứng chí trèo ra khỏi động đem về chùa giao hết sáu khối vàng bạc cho sư huynh. Thầy Trân Đạo vui lòng tươi cười hỏi:

– Sư đệ, chú tìm ra lại động bảo vật rồi phải không?

T
ính Lương đáp:

– Vâng, tìm thấy rồi, vẫn còn đầy bảo vật ở trong ấy.

Thầy Trân Đạo nghe vậy càng vui mừng hơn nữa:

– Tìm thấy rồi sao chỉ lấy về ít quá vậy?

Tính Lương thật thà cười:

– Chính sư huynh nói với tiểu đệ là có vàng có bạc mới xây mới lại ngôi chùa lá của mình, thì sáu khối vàng bạc này đủ để làm chuyện đó rồi!

Thầy Trân Đạo cứng lưỡi, bực dọc trở về thiền phòng tự nghĩ:

– Mình
đào cả đêm mà đào không thấy, còn nó mới đi có chút xíu mà đã tìm ra, tại sao lạ vậy?

Thầy Trân Đạo muốn số châu
báu trong động phải là của mình toàn bộ, nên trong lòng cứ nóng như lửa đốt. Đêm hôm ấy, thầy tắm rửa thắp hương, bái lạy Bồ Tát rồi lại lén ra ruộng đào bảo vật. Nhưng thầy đào liên tiếp ba đêm mà đêm nào cũng về tay không. Không biết làm cách nào hơn, thầy đành chỉ biết dỗ ngọt Tính Lương, bảo chú đi đào một lần nữa, còn mình thì sẽ đi theo sau bén gót. Đào tới động bảo vật rồi, nhưng khi trèo xuống thì thấy bốn bề trong động trống rỗng, cái động trước đây vốn đầy chum vàng chum bạc mà nay không còn chum nào cả.

Thầy Trân Đạo đấm lưng đấm ngực giận dữ mắng rằng:

– Tính Lương, mi muốn giấu bảo vật dành cho riêng mình phải không? Hừ, nếu hôm nay mà tìm không ra bảo vật thì ta sẽ đến gặp sư phụ trụ trì, tố cáo mi tội “thấy vàng mờ ám lương tâm, làm điều sỉ nhục Phật môn” cho mi xem! 

Đáng thương thay cho Tính Lương, cực khổ đào đất cả đêm rồi mà còn bị ghép tội oan uổng, đỏ mặt tía tai mà không nói được nửa câu bào chữa!

Ngay lúc ấy cặp mắt loang loáng sáng của Thạch Hòa th
ượng hiện lên trên vách đá:

“Tí
nh Lương hiền lương, lại bị oan uổng; Trân Đạo vô đạo, tham lam phát cuồng!”

– Yêu quái, yêu quái!

Nghe tiếng của Thạch Hòa th
ượng, thầy Trân Đạo sợ mất cả hồn vía, quay đầu trèo trở lên nhưng quá hoảng sợ nên cứ hễ trèo lên thì lại tụt xuống, cuối cùng Tính Lương phải lấy cây đinh ba bợ mông của thầy để giúp cho thầy lên tới được mặt đất.

Tiếng cười của Thạch Hòa thượng lại vang lên, hòa thượng một mặt cười, một mặt từ vách đá bước xuống, chỉ cái túi đầy ắp châu báu đang cõng trên lưng mà nói với thầy Trân Đạo rằng:

– Mấy người đào lung tung làm vỡ hết mấy cái chum của ta, nay ta sẽ đem mấy thứ bảo vật này kiếm ngọn núi tiên khác ở cho yên thân.

Nói xong, hòa th
ượng ra khỏi động, hướng lên dốc núi bắt đầu trèo lên. Thầy Trân Đạo lo sợ quá, bèn đoạt lấy cây đinh ba từ trên tay chú Tính Lương, rượt theo Thạch Hòa thượng lên núi. Rượt lên tới đỉnh núi, không cần biết gì nữa, thầy phát một nhát đinh ba vào túi châu báu. Chỉ nghe “linh đinh đinh”, bao nhiêu trân châu mã não, vàng bạc châu báu đều rơi lông lốc rải rác đầy trên sườn núi, nhưng chỉ trong nháy mắt là tất cả đều biến thành những hòn đá to đá nhỏ!

Thầy Trân Đạo buồn phiền vô hạn, bỏ trở về chùa lá nằm dài ba ngày ba đêm. Trong suốt ba ngày ba đêm ấy thầy suy nghĩ cạn cùng, thấy rằng tham lam thật là một điều không ổn.

Để chứng tỏ lòng thành của mình, thầy Trân
Đạo bèn đi đổi hết mấy khối bạc khối vàng lấy tiền xây lên một ngôi thiền viện rộng lớn, hiện nay chính là am Duyệt Lĩnh. Trước cửa am có một cái ao nguyệt ấn, chính là cái hố mà ngày xưa thầy đã đào, còn lưu lại cho đến ngày nay!

 

20. QUÁN ÂM VÀ THỔ ĐỊA

Ở đâu cũng có một ông thần thổ địa, giống như mỗi địa phương phải có một quan chức an ninh vậy. Nhưng ở chân núi Hoa Oanh tỉnh Tứ Xuyên lại không có thần thổ địa! Tại sao lạ thế? Về chuyện này, ở đây có một câu chuyện khá thú vị được lưu truyền.

Lúc đó, ngôi chùa ở Ngũ Lý Pha dưới chân núi Hoa Oanh đang được trùng tu. Dân chúng ở Ngũ Lý Pha là những Phật tử thuần thành, ai cũng đóng góp tiền bạc mướn vài chục người thợ gạch, thợ nề về tu sửa ngôi chùa. Nhưng chỗ xây cất cách thị trấn rất xa, trên núi lại khó kiếm thức ăn thức uống, họ bèn mời một người tới chuyên lo nấu ăn cho thợ thuyền. Nhưng điều kiện làm việc quá khổ cực, nào gánh nước, nào nấu nướng thật là nhọc nhằn, người nào tới cũng chỉ làm được vài ngày rồi xin thôi vì làm không nổi. Mời người khác đến thay thế chỉ được vài ngày rồi cũng đi.

Một hôm, có một ông lão râu trắng đến tìm vị tr
ưởng lão cai quản việc sửa chữa ngôi chùa, nói rằng mình tự nguyện lên núi nấu cơm cho thợ. Vị trưởng lão nhìn ông lão râu tóc bạc phau phau, tạng người thì gầy còm, với cái tướng ấy thì làm sao gánh nước thổi cơm nổi? Nghĩ vậy, ông bèn can:

– Thưa cụ, việc này không phải là một việc nhẹ nhàng đâu. Phải gánh nước, phải thổi cơm; mà gánh nước thì phải đi thật xa mới có nước. Chùa đã mời nhiều anh thanh niên trẻ tuổi về làm, mà tất cả đều chỉ làm có vài hôm là xin nghỉ hết. Họ than cực quá làm không nổi, vậy thì cụ làm sao chịu được?

Ông lão c
ười ha hả, trả lời:

– Làm nổi, làm nổi! Ông đừng chê tôi lớn tuổi, cái bộ xương già này còn chịu cực được mà! Mấy ông thợ làm việc mệt nhọc như thế để xây chùa sửa miếu, nếu không cho mấy ông ấy ăn uống đàng hoàng thì họ lấy sức đâu mà làm? Xin trưởng lão an tâm, tôi cam đoan không thua gì bọn trai tráng khoẻ mạnh đâu. Tôi không sợ mệt, dọn cơm chắc chắn không bao giờ trễ nãi!

Trưởng lão nửa tin nửa ngờ nhưng không có lời nào để đối đáp với ông lão. Hơn nữa, người có khả năng thì lại kiếm không ra nên đành chấp thuận vậy.

Ông lão quả nhiên nói không ngoa, làm vi
ệc vượt hẳn bọn trai tráng. Ông đi thật xa mới tới cái suối trên núi để múc hai thùng nước thật đầy gánh về, đường đi cũng phải vài dặm, thế mà ông lão da mồi tóc bạc này lại gánh một cách nhẹ nhàng thư thái, đi nhanh như bay, đi đi về về mấy lần là các lu nước trong chùa đã đầy ắp.

Gánh nước xong xuôi ông lại lên đến giữa núi nhặt củi, và chẳng bao lâu lại cõng về một bó củi thật to, thong thả ung dung chồng củi ở trước cửa nhà bếp để phơi nắng cho khô.

Khoảng một giờ trước bữa ăn, ông mới bước vào nhà bếp và thật là thần kỳ, chỉ trong một giờ mà ông đã sửa soạn xong bữa cơm cho vài chục người ăn, tất cả đều được bày biện tươm tất trên bàn, cơm thơm phưng phức, rau thơm lừng lựng, thợ thuyền ăn ngon miệng nên luôn luôn hớn hở tươi cười.

Ông lão là ng
ười rất tốt, gặp thợ thuyền lúc nào cũng chào hỏi chuyện trò vui vẻ. Thợ mà có bệnh là ông lập tức lo lắng cho, đem trà đem nước cho uống tận tình. Nhưng ông có một khuyết điểm lớn là hay nói, thích la cà chuyện phiếm với những người thợ trẻ tuổi, mà nói toàn là chuyện nghe có vẻ như khoác lác, thần kỳ, thí dụ lúc còn trai trẻ ông đã một mình đánh đuổi được hơn một chục tên cướp, hay là ông ăn uống rất khoẻ, có lần đánh cá với người ta ông đã tu cả chục cân rượu già một lúc... Ông lại kể đã từng đánh nhau với yêu quỷ, rất nhiều hồ ly tinh đã bị ông đánh cho chạy dài! Ngoài ra ông cũng đã gặp rất nhiều Bồ Tát, thần tiên nữa... 

Lúc cao hứng nói chuyện như thế, ông quên cả thời gian. Có một lần, gần tới giờ cơm chiều rồi mà ông hãy còn đứng ba hoa với những người thợ mới vừa bãi việc. Một vài người thấy trời sắp tối mới nhắc rằng:

– Ông bác ơi, ông nhìn xem đã giờ nào rồi, ông mau về nấu ăn đi chứ! Trời đã sắp tối, ông chưa đi thì bao giờ mới được ăn cơm?

Ông lão nói:

– Ờ phải rồi, đúng đấy, trời đã sắp tối, nh
ưng mấy người đừng lo, tôi về làm một tý là xong ngay!

Quả nhiên, ông lão về
đến nhà bếp rồi, chỉ một chút xíu sau là gọi mọi người vào bàn, và trên bàn cơm rau đã dọn ra sẵn sàng. Có người thấy điều ấy lạ lùng bèn hỏi ông lão:

– Ông bác ơi, ông làm sao mà mau quá vậy?

Ông lão đáp:

– Ậy, tại làm xong từ trước lâu rồi!

Tuy nhiên cơm canh còn nóng hổi, còn bốc khói nghi ngút, không thể nào nói là làm xong từ trước được. Tuy nhiên cũng chẳng ai nghi ngờ gì cả, chỉ khen ông lão nhanh nhẹn và ăn cơm một cách khoái chí, vui vẻ.

Có một lần, ông lão lên núi gánh n
ước, gánh nước xong liền đi nhặt củi, hôm ấy có thể nói là khó tìm hơn mọi lần nên ông lão đi thật lâu. Khi ông vác củi trên đường về thì đi ngang qua công trường xây chùa, đúng ngay lúc ấy có một người thợ sơ ý, bị một viên gạch từ trên nóc chùa rơi xuống trúng lỗ đầu. Ông lão thấy thế bèn ở lại giúp mọi người săn sóc nạn nhân, nào cõng ông ta đến một túp lều gần đó, vừa xức thuốc vừa băng bó vết thương, bận bịu một lúc thì đã đến giữa trưa, phải có người nhắc nhở:

– Ông bác à, gần giữa trưa rồi mà ông bác vẫn chưa đi làm cơm, bây giờ làm sao cho kịp?

Ông lão chỉ nói:

– Úi dà, giữa trưa rồi, tôi phải đi gấp!

Lúc ấy thợ thuyền đã ngừng tay, cùng nhau đến phòng ăn, thì thấy ông lão
đi như bay vượt qua mặt họ. Mọi người nghĩ rằng ông lão đã giúp chăm sóc người thợ bị thương quên cả làm cơm, nên chắc chắn hôm nay sẽ bị ăn trễ và phải chờ đợi. Thế nhưng, kỳ lạ thay, khi họ vừa bước tới phòng ăn thì thấy cơm canh nóng hổi đã dọn sẵn trên bàn, ông lão đứng đó không lộ vẻ gì là cấp bách cả. Điều này làm cho mọi người phải kinh ngạc, thầm nghĩ rằng ông lão này hẳn phải là thần tiên, ông chỉ tới trước có mấy phút mà làm xong mọi sự rồi sao? Có người lại hỏi ông, ông bèn cười ha hả:

– Làm xong từ trước rồi!

T
uy nhiên từ hôm đó trở đi, có một người thợ để ý theo dõi ông lão. Theo dõi ông một lúc thì khám phá ra rằng mỗi ngày ông lão chỉ gánh nước nhặt củi chứ không hề làm cơm, cả ngày ông ở ngoài đường và hiếm khi đặt chân vào nhà bếp. Thế nhưng ngày nào đi làm về cơm nước cũng được nấu nướng xong xuôi chỉnh tề. Người thợ nọ không nhẫn nại được nữa, bèn hỏi thẳng ông lão:

– Ông bác ơi, sao mỗi ngày chỉ thấy ông bác đi gánh nước nhặt củi chứ không thấy nấu cơm, vậy thì cơm canh này ai nấu vậy?

Ông lão bị hỏi bấ
t ngờ chỉ ấp a ấp úng, không nói được câu nào. Người thợ lại hỏi:

– Ông bác, ông nói thật đi, có sao nói vậy, ông đừng có giấu cháu. Ông bác có phải là Bồ Tát không?

Ông lão bị
đẩy vào chân tường nên không có cách nào hơn là nói thật:

– Tôi không phải l
à Bồ Tát! Ôi, thôi được, tôi nói thật cho chú nghe, cơm này không phải tôi nấu, chú muốn biết ai nấu thì đi theo tôi. Nhưng có điều tôi cho chú xem, nhưng bằng bất cứ giá nào chú cũng không được kể lại cho người khác biết. Chú mà nói ra là chết tôi đấy!

Nói xong ông lão
đưa người thợ len lén đến nhà bếp, từ khe cửa bên ngoài nhìn vào trong.

Ôi, trong bếp khói bốc mịt mù, quả nhiên có một người đang bận rộn thổi cơm. Ban đầu, khói dày quá nên không nhìn rõ được người đang thổi cơm, một lúc sau khói tan bớt đi thì mới thấy đó là một cô gái rất xinh đẹp, người quấn một cái váy thêu hoa lan, thái rau làm bếp vừa khéo léo vừa nhanh nhẹn. 

Người thợ từ bên ngoài đờ người ra, anh ta phải kiễng chân để nhìn cho rõ, quá kinh ngạc nên vô ý động phải cánh cửa khiến cánh cửa mở toang ra. Cô gái thấy có người nhìn trộm bèn chui vào lò lửa đỏ rực mà biến mất. Ông lão ngây người ra một lúc rồi than rằng:

– Ôi chao, chú nhìn trộm
đủ rồi, can chi mà chú làm bật tung cánh cửa vậy? Bây giờ khổ thân tôi rồi! Bồ Tát Quán Âm bắt tội tôi, tôi phải làm sao đây?

Thì ra Bồ Tát Quán Âm biết chùa
đang tu sửa xây cất mà thiếu người nấu cơm, vấn đề trở nên nan giải, vì thế Ngài âm thầm đến để giúp đỡ. Ngài bàn tính trước rất kỹ với thổ thần địa phương, chia việc ra minh bạch: thần thổ địa thì gánh nước nhặt củi đồng thời giữ bí mật cho Ngài ở trong nấu bếp. Nhưng vị này lại quá thích ba hoa nên đã để lộ bí mật.

Kh
i người thợ đi khuất rồi, Ngài Quán Âm mới từ lò lửa bước ra, trách thần thổ địa rằng:

– Ông gánh nước thì lo gánh nước, ta đã dặn ông không được nói rùm beng lên mà ông không nghe lời, còn đem người lạ đến nhìn trộm là nghĩa làm sao?

Bồ Tát nói đến đây,
bèn dùng cái phất trần đuổi muỗi quét một cái, quét thần thổ địa bay ra xa tới hơn chục dặm, không cho ông được làm việc chung với Ngài nữa.

Vì thế, chùa
được trùng tu xong, ở núi Hoa Oanh, nguyên một vùng trong vòng hơn mười dặm không có thần thổ địa! 

21. HOA ĐẠO VẼ TRỘM TƯỢNG LA HÁN

Xưa thật là xưa, trên đảo Tù Tiên có một ngôi chùa tên là Linh Âm tự, vị thầy trụ trì pháp hiệu là Hoa Đạo. Khách hành hương lai vãng không đông nên mức sống của chùa cũng hơi khó khăn. 

Một năm kia, thầy Hoa Đạo lên Phổ Đà Sơn dự lễ khai quang của Bồ Tát Quán Âm, nhìn thấy chùa Pháp Vũ có La Hán Đường, trong ấy có 18 tượng kim thân La Hán, thần thái mỗi vị mỗi khác, hấp dẫn khách hành hương đến rất đông. Thầy nghĩ: Giá như Linh Âm tự cũng xây một phòng “La Hán Đường” đắp 18 tượng La Hán thì chắc là tiền hương hỏa sẽ khá lên rất nhiều.

Nghĩ thế xong, trong trí thầy chợt loé lên một mưu kế, thầy bèn xuất tiền mướn một vị du tăng biết vẽ, nhờ vị ấy vẽ trộm phạm tướng của 18 La Hán, đem trở về Linh Âm tự, rồi vội vội vàng vàng xây một tòa La Hán Đường và nắn 18 tượng La Hán một cách qua loa sơ sài. 

Quả nhiên La Hán Đường lôi cuốn rất nhiều thiện nam tín nữ, nguyện vọng của thầy Hoa Đạo đã được thỏa mãn. Không ngờ việc thầy nhờ người vẽ trộm tượng La Hán không hề thoát khỏi cặp mắt của Quán Âm Đại sĩ. 

Xây La Hán Đường, tạo tượng La Hán thật ra không có gì đáng trách nhưng động cơ của thầy Hoa Đạo khi làm việc này thì không được chính đáng cho lắm, khiến cho Quán Âm cảm thấy khó chịu trong lòng.

Một năm sau, Quán Âm Đại sĩ bước lên đài sen bay đến gặp thầy Hoa Đạo và thăm Linh Âm Tự một phen.

Hôm ấy thầy Hoa Đạo mặc tăng bào bằng lụa, trên khoác chiếc cà sa dệt bằng cỏ đay, đang vui vẻ tháp tùng một vài vị tài chủ quyền quý đi dạo trong La Hán Đường, bỗng nghe một chú sa di thưa rằng ngoài khách đình có một vị xưng là Thiền sư Diệu Hải đến thăm chùa. Thầy đành cáo biệt các vị thí chủ ấy, và bước đến phòng khách với một dáng điệu hiên ngang, cao kỳ. 

Ngước mắt nhìn, thầy chỉ thấy Thiền sư Diệu Hải nọ đầu đội mũ tăng cũ kỹ, chân mang giày cỏ rách mướp, thân khoác cà sa vải thô, cổ đeo chuỗi tràng hạt nhỏ rức, tuổi không ngoài 30, chỉ có tướng mạo thì có thể nói là phi phàm. Thầy Hoa Đạo hỏi thăm qua loa, hỏi một cách lạnh lùng:

– Thiền sư quang lâm chùa nghèo này là để giảng kinh thuyết Pháp hay là...

Thầy cố ý bỏ lửng cuối câu, và nhìn thẳng vào mặt Thiền s
ư Diệu Hải không chớp mắt. Thiền sư Diệu Hải cười nhẹ, đáp rằng:

– Trên đường hóa duyên đi ngang qua đây, tôi muốn xin thầy cho tôi ở trọ quý chùa vài ngày, vì có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật.

Thầy Hoa Đạo nghe “có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật” mới bảo chú sa di dọn chỗ ăn chỗ ngủ cho khách, còn mình thì từ đó không buồn để ý đến Thiền sư Diệu Hải nữa.

Thiền sư Diệu Hải thấy thầy Hoa Đạo đối với mình lãnh đạm như thế chỉ chỉ lắc đầu cười buồn, nhưng lại lợi dụng cơ hội ấy để được hưởng cảnh thanh nhàn tự tại, từ sáng đến tối chỉ đi dạo trong La Hán Đường. Ngài thấy tuy bên ngoài nhìn thì rất đẹp mắt, nhưng móng nhà, khung nhà xây lại không chắc chắn chút nào. Hơn nữa, 18 tượng La Hán, tượng nào cũng đắp sai kiểu, nên trong lòng có phần bất mãn và lo lắng, nhưng phần bất mãn thì ba, còn lo lắng thì lên tới bảy phần! Chiều hôm sau, Thiền sư tìm thầy Hoa Đạo nói rằng:

– La Hán Đường của quý chùa khung nhà thì không vững, tượng La Hán thì đắp sơ sài cẩu thả, móng nhà thì lún xuống một cách nguy hiểm, nếu không mau sửa sang lại thì 18 tượng La Hán thế nào cũng bị hủy diệt.

Nghe thế thầy Hoa Đạo không chút bằng lòng, chỉ lạnh lùng niệm một câu “A Di
Đà Phật!” rồi phất tay áo bỏ đi. Thiền sư Diệu Hải nổi giận, thoạt đầu tính dùng lời nghiêm nghị quở trách, nhưng nghĩ lại, thầy Hoa Đạo hiện đang tự mãn đắc ý, trách thầy không ích lợi gì, thôi thì để cho sự thật dạy cho thầy bài học vậy.

Sáng sớm hôm sau, Thiền s
ư Diệu Hải múa bút đề ba chữ lớn “Đại Bi Sơn” để lại, và lặng lẽ rời bỏ Linh Âm tự. Ba chữ Đại Bi Sơn ngụ ý “Người mượn cửa Phật để mưu cầu lợi dưỡng là người rất đáng thương”, mà cũng ám chỉ người viết ba chữ ấy chính là Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Tiếc rằng lúc ấy thầy Hoa Đạo không hề hiểu ý.

Ba năm sau, một đêm nọ sấm chớp ầm ầm, mưa gió tơi bời. Bỗng nhiên nghe tiếng “rầm, rầm!”, La Hán Đường của Linh Âm tự, móng nhà lở sụt, khung nhà nghiêng đổ, 18 tượng La Hán cũng ngã lăn ngã lóc khiến thầy Hoa Đạo cứ điếng người kinh hãi, nhớ lại lời Thiền sư Diệu Hải, hối hận thì không kịp nữa.

Chùa Linh Âm bị tai nạn như thế, khách hành hương cũng thưa dần và lạnh nhạt đi. Thầy Hoa Đạo không còn mặt mũi nào giữ chức trụ trì ở đấy nữa, nên cũng âm thầm ra đi vân du bốn phương.

Sau đó nhiều năm, thầy đã nếm
đủ mùi gian khổ, cuối cùng cũng tỉnh ngộ. Thầy bèn trở về Linh Âm Tự, kiếm lại mấy chữ mà Quán Âm Đại sĩ đã viết, đóng khung thành một tấm biển và treo trên cửa vào của chính điện, còn mình thì chỉ là một vị thầy tu làm việc khổ nhọc, chân thành tụng kinh niệm Phật để chuộc lỗi lầm xưa.

22. CHUÔNG THẦN

Xưa thật là xưa, chùa Pháp Vũ chỉ là một cái am nhỏ, tên là am Hải Triều. Vị tổ thứ nhất của am Hải Triều tên là Đại Trí, đã dày công đúc một cái chuông đại hồng bằng đồng đen nặng hơn bảy ngàn cân treo tại lầu chuông, mỗi ngày sáng và chiều thỉnh chuông hai lần.

Tiếng chuông trong trẻo rền vang, dư âm tới cuối ngày vẫn chưa dứt, cho đến Long Vương ở Thủy Tinh cung biển Đông Hải cũng nghe thấy, suốt ngày đứng ngồi không yên, chỉ muốn dẫn một đạo binh tướng cá, tướng rùa đến ngoài bãi cát Thiên Bộ Sa bái kiến Ngài Quán Âm.

Về sau có bọn cướp Hồng Mao xâm nhập Phổ Đà Sơn, đi đến đâu là cướp bóc tài vật của dân chúng đến đó. Nghe nói chuông đồng của am Hải Triều là một bảo vật, nên tên đầu sỏ của bọn Hồng Mao phái khoảng mười tên cướp lực lưỡng, hấp tấp khiêng chuông đồng lên tàu đang đậu ngoài khơi, chở về nước của chúng.

Tàu cướp về đến nước Hồng Mao, bọn giặc phải ra sức bằng hai cọp chín trâu mới khiêng nổi chuông lên bờ. Nhưng vừa đến cửa thành thì chúng làm cách nào cũng không nhấc nổi chuông đồng. Cả bọn nhốn nháo cả lên, viện binh thêm cả một đoàn người đến góp sức, làm gãy mấy cây đòn bẫy mà chuông vẫn không xê xích một tơ một hào nào.

Việc này làm chấn động toàn quốc. Vua nước Hồng Mao cũng cảm thấy lạ kỳ, bèn đích thân ra khỏi thành để nhìn tận mắt, nhưng khi ông vừa bước chân đến cửa thành thì chiếc chuông đồng tự nhiên kêu “loong coong” một tiếng và lún dần xuống đất, chẳng bao lâu bị đất bùn lấp kín.

Nhà vua bất mãn kêu ng
ười đào chuông lên, đào ngày đào đêm, không những không đào được chuông mà chuông càng ngày càng lún sâu xuống. Vua hoàn toàn cụt hứng, chỉ biết bỏ cuộc và ra lệnh từ đấy không còn ai được đào chuông nữa.

Thoáng m
ột cái mà hơn 10 năm trôi qua, nước Hồng Mao có một vị quốc vương khác lên ngôi. Có một hôm, chỗ cái chuông bị chôn đột nhiên vang lên tiếng “đinh! đoong!” ngày đêm không ngừng, khiến cho người Hồng Mao sợ hãi hoảng hốt. Vị quốc vương mới đứng ngồi không yên, vội vàng hạ lệnh đào chuông thần lên:

– Phải đào chuông thần lên!

Người Hồng Mao đổ về từ bốn phương tám hướng. Cửa thành trở nên chật ních, người đông như kiến. Già trẻ lớn bé đều một lòng cầu nguyện thượng đế bảo hộ cho họ bình an, một mặt nguyền rủa bọn cướp biển đã cướp chuông thần về.

Cuối cùng, chuông lớn được đào lên rồi, trên mặt chuông có khắc rõ ràng bảy chữ “Nam Hải Phổ Đà am Hải Triều”. Vị quốc vương mới đã mời đến vài chục người tu đạo của họ, ngày đêm thay phiên nhau khấn vái, nhưng tiếng chuông rền vang trong trẻo vẫn không chịu ngừng. Vị quốc vương này mới nghĩ rằng nếu giữ chuông trong nước mãi thì cả nước sẽ phỉ nhổ ông, vì thế quyết định trả chuông về xứ sở. Nhưng cái chuông ngàn cân như thế, làm sao chở về nổi? Quốc vương và quần thần trong triều ai cũng lo âu phiền não.

Có một nhà buôn người Phúc Kiến, đúng lúc ấy đang ở nước Hồng Mao buôn bán. Khi biết được tin này, ông vội vàng xin yết kiến quốc vương, và trình bày ý nguyện phụ trách việc chở chuông thần về cố hương. Quốc vương rất vui mừng, lập tức gọi một vị đại thần đưa ông đi đến chỗ chuông thần. Ra tới ngoài cửa thành, nhà buôn Phúc Kiến chạy đến xem thì quả nhiên thấy đây là thần khí nhà Phật của nước mình, lập tức quỳ xuống, thành tâm khấu đầu đảnh lễ ba lần, đầu đập xuống đất thật kêu. Tiếng chuông thần bỗng nhiên ngừng bặt, người Hồng Mao đứng nhìn xung quanh reo hò hoan hô từng đợt.

Các vị thầy của am Hải Triều nghe nói đã tìm
được chuông thần về, vội vàng xuất công xây một lầu chuông mới. Nhà buôn Phúc Kiến hộ tống chuông thần, vượt trăm sông ngàn núi mới về tới Phổ Đà Sơn.

Ngày chuông thần về tới là ngày lầu chuông cũng vừa xây xong, tất cả các thầy của am Hải Triều đều ra sức, người kéo kẻ khiêng, treo chuông thần lên lầu chuông mới.

Tiếng chuông trong trẻo của am Hải Triều lại vang rền trở lại trong khắp đảo từ đấy.

23. HÒA THƯỢNG LỊCH SƠN BẮT RÙA

Trước cửa chùa Phổ Tế có một hồ sen, hoa sen ở đó đặc biệt tinh khiết, hương thơm đặc biệt ngào ngạt.

Năm ấy có một viên khâm sai của hoàng thành đến chơi Phổ Đà Sơn, được ăn một bát chè hạt sen thơm phức, về tới triều đình bèn hết lòng tán dương khen ngợi.

Nhà vua nghe được, bèn hạ thánh chỉ truyền lệnh mỗi năm Phổ Đà Sơn phải tiến cống hạt sen. Từ đó trở đi, hạt sen trong hồ bị đưa lên triều cống cho hoàng đế không chừa một hạt nào còn lại. Chư tăng trong chúng ai cũng căm phẫn nhưng không ai dám lên tiếng.

Về sau, có một vị hòa th
ượng đến chùa Phổ Tế cư ngụ, ngài tên là Pháp sư Lịch Sơn. Vị hoà thượng này râu trắng dài tới ngực, lông mày dài che mặt, khí phách phi phàm, được mọi người mệnh danh là “lão tăng trăm tuổi”.

Hoà thượng Lịch Sơn nghe nói mỗi năm Phổ Đà Sơn phải triều cống hạt sen cho hoàng đế, trong lòng không phục, bèn viết gởi lên triều đình một bản tấu thư, tâu rằng trong hồ có một con rùa đen đã thành tinh rất ham ăn, đêm nào cũng về ăn vụng hết hạt sen trong hồ nên hạt sen vô cùng khan hiếm, thỉnh cầu hoàng đế miễn cho việc triều cống.

Hoàng đế nhận bản tấu thư xong thì giận quá, râu tóc dựng ngược, cặp mắt muốn lồi ra ngoài! Ông thừa biết hạt sen của Phổ Đà Sơn hằng năm phải hiến cống triều đình, tất cả đều dành cho ông dùng, “rõ ràng họ muốn nhục mạ ta là con rùa đen thành tinh đây mà!”

Nghĩ thế xong ông nắm lấy ngự bút, toan viết lời phê phán, song vừa mới viết xuống bốn chữ “Lịch Sơn hoà thượng” thì ngừng lại. Tại sao vậy? Ban đầu ông tính viết là “Lịch Sơn hòa thượng nhục mạ hoàng đế, xử tử!”, nhưng nghĩ kỹ lại thì thấy không được, trong bản tấu thư giấy trắng mực đen ghi rằng “con rùa đen thành tinh ăn vụng hạt sen”, làm sao có thể bảo đó là một câu “nhục mạ hoàng đế” được! Kết tội Lịch Sơn hòa thượng “nhục mạ hoàng đế”, há chẳng phải ngầm công nhận rằng hoàng đế chính là con rùa đen thành tinh ăn vụng hạt sen hay sao! Làm thế thì tránh sao khỏi bị thiên hạ chê cười! Phải kiếm một cách khác để trừng trị Lịch Sơn hòa thượng mới được. 

Một tay cầm ngự bút, một tay cầm bản tấu thư, cuối cùng ông cũng tìm ra một cách. Ông ngoáy bút một lúc rồi đổi lời phê như sau:

“Lịch Sơn hòa thượng có nhiệm vụ phải bắt con rùa đen thành tinh, nếu không bắt được, xử tử!”

Sau đó ông phái vị khâm sai bữa trước trở lại Phổ Đà Sơn tuyên đọc thánh chỉ.

Chư tăng của Phổ Đà Sơn nghe xong thánh chỉ, ai cũng sững sờ và kinh hoàng. Chỉ có Lịch Sơn Hòa thượng là không chút lo âu, tiếp xong thánh chỉ bèn nói với khâm sai:

– Nếu muốn bắt rùa tinh thì thế nào ngó sen cũng bị hủy hoại, lúc ấy sẽ không còn hạt sen nào
để hiến cống lên cho hoàng thượng. Lão tăng không dám chịu trách nhiệm ấy, xin đại nhân xét cho!

Vị khâm sai nghe thế thầm nghĩ: “Ông Lịch Sơn Hòa thượng này thật là không phải tay vừa!” rồi bèn làm bộ xuề xoà, cười nói:

– Nếu bắt được rùa tinh thì về đến kinh đô rồi lão thần nhất định sẽ tâu lên sự thật, cầu xin hoàng thượng xá miễn cho các vị việc triều cống!

Lịch Sơn Hòa thượng nghe thế cười ha hả:

– Đại nhân thậ
t là người biết thông cảm cho phận kẻ thấp cổ bé miệng, lão tăng rất khâm phục. Không phải như kẻ khác, ngoài thì thơn thớt nói cười mà sau lưng lại giết người không dao bằng những lời sàm tấu, thật là đáng ghét! Vậy thì chúng ta cùng ra hồ bắt rùa đi!

Lị
ch Sơn Hòa thượng dẫn đầu chư tăng của toàn chùa, mặc áo cà sa, chắp tay cúi đầu, miệng đọc kinh Phật, đến hồ sen sai người tát cạn hồ nước, rồi chọn mười vị tăng mạnh khoẻ cường tráng nhảy xuống hồ bắt rùa. Mò mẫm như thế liên tiếp ba ngày ba đêm, cuối cùng họ mới mò ra được một con rùa đen bằng đá nằm ở dưới cầu Vĩnh Thọ. Hòa thượng Lịch Sơn bảo mấy vị tăng ấy đem dây thừng cột chặt con rùa đá rồi đem nó lên xem xét, ôi, con rùa này nặng tới ngàn, vạn cân là ít!

Lịch Sơn Hòa thượng chỉ con rùa đen nói với khâm sai rằng:

– Thưa đại nhân! Con rùa đá này tu luyện thành tinh, tạo nghiệp tội trên đất Phật, may được thánh chỉ của hoàng thượng nên lão tăng mới trừ được cái hại này!

Khâm sai bước tới rờ đầu rồi gõ lưng con rùa, đảo mắt nhìn quanh rồi nói:

– Đâ
y là con rùa đá, làm sao có thể ăn vụng hạt sen được? Này, nói dối là bị tội khi quân chứ không phải chuyện đùa đâu!

Lịch Sơn Hòa thượng mỉm cười đáp:

– Đại nhân không rõ
đấy thôi! Con rùa này là do Bát Tiên đánh mất lúc họ qua sông đó mà! Lúc đầu nó chỉ là một con rùa nhỏ bằng ngọc đen, nhờ tu luyện lâu năm ở đây nên mới trở nên to lớn như thế. Ngày nó ngủ, đêm mới thức dậy lén ăn hạt sen trên đất Phật với ý nguyện mau đắc chính quả. Mặc dầu nó đã thành tinh, nhưng không có phép để thăng thiên hay độn thổ cho nên một khi bị mặt trời chiếu vào rồi thì bao nhiêu công phu tu hành đều mất trọn. Đại nhân có thể đem con rùa này về hoàng thành, thỉnh hoàng thượng xem qua để thấu rõ cho lòng thành của bần tăng đi bắt rùa trừ yêu cho Phổ Đà Sơn!

Vị khâm sai nọ ng
he Lịch Sơn Hòa thượng nói thế thì bán tín bán nghi, cảm thấy thật là khó xử. Con rùa đá nặng cả ngàn cân, nếu đem về kinh thành thì phải mất rất nhiều thời gian, rất nhiều công sức. Hơn nữa phải đi đường biển xa xôi, trên biển gió thuận thì không nói gì, mà nếu gặp gió mưa bão bùng thì thật là không thể kham nổi lao khổ! Ông bèn làm bộ thân thiết nói rằng:

– Nay pháp sư đã hàng phục được yêu tinh, trừ hại cho đất Phật, lão thần sẽ về tâu điều này lên cho Thánh thượng là được rồi. Còn con rùa đá này, thôi thì cho nó ở lại đây, sau này bắt nó đội bia vậy!

Lịch Sơn Hòa thượng nghe khâm sai nói thì trong bụng mừng thầm, vội cúi đầu tạ ơn “Tuân mệnh!”.

Khâm sai biết bản lãnh của Lịch S
ơn Hòa thượng, không dám nấn ná ở lại lâu, đành tiu nghĩu trở về kinh báo cáo kết quả nhiệm vụ cho hoàng đế. 

Từ đấy, Phổ Đà Sơn không còn phải triều cống hạt sen cho vua nữa.

Về sau, có người nói chính Lịch Sơn Hòa thượng đã ngầm sai người thả rùa đá đen này xuống hồ trước rồi.

Đúng là: “Sư đi nước cờ cao, khâm sai bị hàng phục!”.