Dấu tích vua Phật Trần Nhân Tông
ở Yên Tử trong lòng thi nhân
Đọc Thi Vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận -
NXB Giáo dục Việt Nam 6/2010)
Lịch sử nước ta có nhiều ông vua mộ đạo đặc biệt triều Trần có một ông vua xuất gia và trở thành ông tổ của một dòng tu Phật, đó là Trần Nhân Tông.Ông là vua anh hùng, hai lần chỉ huy quân dân ta đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược, lại là người có tài trị nước, tài thơ văn xuất chúng và am hiểu Phật học. Lên ngôi 1278 đến 1293 đã nhường ngôi cho con đi thuyết pháp các nơi và đến 1299, chính thức lên hẳn Yên Tử tu Phật, lập pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, sáng lập ra thiền học dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, trở thành vị tổ thứ nhất của dòng này. Người để lại tấm gương về một ông vua nhân từ, hòa nhã, tài trí, đảm lược, một tâm hồn cao khiết, từ bỏ mọi quyền lực, mọi dục vọng, trở về với thiên nhiên, không chỉ để tìm siêu thoát cho mình mà cho cả cõi chúng sinh. Người lánh đời nhưng không phải trốn đời mà đề cao thái độ hướng tâm, giác ngộ bằng chính cái tâm tĩnh lặng của mình, bằng chính sự hồn nhiên tĩnh tại, đi tu nhưng tâm hồn vẫn tỉnh táo, phóng khoáng và mặc dù thấu rõ tính chất mong manh dễ biến đổi của cuộc đời trước mắt, vẫn không phủ nhận cái đẹp, cái thực trong đời sống.
Ông vua Phật đã để lại dấu tích khắp nơi trên Yên Tử, nơi người đã tu Phật trong 10 năm nhưng điều quan trọng là những dấu tích ấy đã in vào lòng người trên 700 năm không một chút phai mờ và khi thi nhân của chúng ta, một người am hiểu lịch sử, am hiểu Phật học và cũng là một tín đồ đạo Phật đến Yên Tử, thì những dấu tích ấy đã thành thơ.
Trước khi trở thành thiền sư, Trần Nhân Tông đã là một ông vua của trần gian, một nhân vật lịch sử. Tác giả không nén được lòng ngưỡng mộ với vị vua anh hùng nên đã có những bài thơ nói cảm nghĩ trực tiếp của tác giả về nhà vua, những cảm nghĩ này có lẽ đã có trước khi tác giả lên Yên Tử: "Lên ngôi hoàng đế tuổi xuân xanh/ Triều Trần hưng thịnh đạo pháp lành/ Kinh luận nghi văn thành quốc đạo/ Hoan hỉ lòng dân sau chiến tranh" (Trần Nhân Tông lên ngôi hoàng đế, tr. 95). Một số bài thơ viết về hành trạng của nhà vua khi chưa xuất gia, như Vua Trần Nhân Tông thăm vua Chiêm, Vua Trần soạn sách. Ở những bài này, một mặt ta thấy nhà vua vẫn quan tâm đến quốc sự, một mặt đã báo hiệu một Vua Phật sắp xuất hiện. Ví dụ bài Vua Trần truyền ngôi (tr. 96): "Truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên/ Vua Trần soạn thảo giáo lí thiền/ Thạch Thất, Truyền Đăng, Thiền Tâm Thiết/ Tông môn thiền phái thất bách niên" hay bài thơ về sự ra đời của nhà vua như dự báo sự xuất hiện một vĩ nhân, một thánh nhân "Thái tử sinh ra ánh sắc vàng/ Khuôn mặt ngời lên đạo hào quang/ Vua cha yêu gọi là Kim Phật/ Đại Việt lừng danh vua nước Nam" (Kim Phật, tr. 94).
1299, Người mới chính thức xuất gia. Cũng từ đó, dấu tích của Người ở Yên Tử ngày càng đậm. Đầu tiên, tấm lòng Phật - Nhân của Người đã toả sáng: "Xuất gia hành đạo cung Vũ Lâm/ Về tu Yên Tử pháp Hương vân/ Đạo hiệu Trúc Lâm linh YênTử/ Tâm pháp lòng nhân - tỏa sáng ngần/ Núi tuyết ngày xưa Tất Đạt Đa/ Giã từ cung cấm điện ngọc ngà/ Ngày nay Thái thượng về Yên Tử/ Tâm thành tâm Phật có đâu xa".
Tấm lòng Phật - Nhân đó đã thể hiện trong sự tích những cung nữ theo Người lên Yên Tử, người đã khuyên họ trở về lập gia đình. Người rất đau lòng trước việc một số cung nữ đã trẫm mình. Người cho lập chùa giải oan cho họ. Số còn lại, Người đã cấp một vùng đất rộng cho họ sinh sống. Vùng đất ấy nay còn có tên là làng Năm Mẫu. Tương truyền xưa đó là một cái hồ. Vua lập đàn cầu Phật tổ, nước hồ rút cạn thành cánh đồng xanh mỡ màng: "Lòng vua trĩu nặng nỗi lo buồn/ Cung nữ theo vua về sơn môn/ Mênh mang u tịch rừng hoang vắng/ Thung sâu vượn hú chẳng xóm thôn/ Lòng hồ Năm Mẫu nước mênh mông/ Lập đàn Phật tổ thấu tấm lòng/ Lòng hồ nước cạn đầy tôm cá/ Năm Mẫu xanh tươi một cánh đồng" (Làng Năm Mẫu, tr. 106).
Từ đây dấu tích của Trần Nhân Tông gắn với việc tu thiền của ông. Ngay ở bên dòng suối tương truyền khi mới lên Yên Tử, ông đã tắm ở đó, đã mọc lên một ngôi chùa và câu thơ trong trẻo, tươi vui ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên Yên Tử hay ca ngợi người xưa đã rửa sạch lòng trần "Trưa hè oi ả tiếng suối reo/ Chim ca lảnh lót giữa lưng đèo/ Hoa rừng hương sắc hương theo gió/ Đàn cá xuôi dòng nước trong veo/ Đây chính nơi xưa suối vua Trần/ Tìm nơi đất Phật để dừng chân/ 700 năm đã bao dời đổi/ Suối đẹp chùa xưa vẫn sắc xuân" (Suối tắm, tr. 22).
Tất cả những nơi vua tham thiền nhập định đều để lại dấu tích đó là những cái am, những ngôi chùa và cả những gốc cây...
Am Ngọa Vân, nói vua Trần vẫn thường thiền định, đã hơn một lần vào thơ "Lối xưa ngập cỏ Am Ngọa Vân/ Thiền định xa xa bóng vua Trần/ Mây phủ quanh người như gấm biếc/ Đời Trần đuốc sáng vĩnh hằng xuân" (Am thiền định, tr. 131). Khác với ai đó hay quá khứ hoá hiện tại, Hoàng Quang Thuận khi nói về vua Phật lại hay hiện tại hoá quá khứ làm cho ta thấy Người như vẫn phảng phất ở đâu đây, ngay trong cảnh vật sống động xưa và nay: "Sớm cưỡi mây chơi cùng non bước/ Đêm về bến nghỉ lót trăng nằm/ Tiếng sáo thiền ca vui bất tận/ Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng" (Am xưa, tr. 124). Hay nói đúng hơn là tác giả đã vĩnh viễn hóa dấu tích của người xưa để khắc ghi tấm lòng tri ân, ngưỡng mộ của muôn đời với con người đã hòa vào sông núi: "Nước chảy xuôi dòng cùng năm tháng/ Am nhỏ chùa xưa chẳng đổi thay/ Dấu tích vua Trần về Yên Tử/ Một dòng suối tắm giữa trời mây" (Dấu tích vua Trần, tr. 114); "Một dải lụa vàng vắt ngang núi/ Đường vào Yên Tử đá nhấp nhô/ Dấu xưa hài cỏ vua Trần đến/ Đường thiền giác đạo đến bây giờ" (Đường núi, tr. 115).
Cả cái gốc đa mà xưa nhà vua thiền cũng đi vào trí nhớ của nhân dân và cũng trở thành bất tử vì đã được truyền sự sống "Cổ thụ cây đa tự ngàn xưa/ Tán lá xum xuê phủ vườn chùa/ Thiền định vua Trần chiều xưa ấy/ Năm tháng dãi dầm giữa gió mưa/ Nghỉ lại một đêm đượm giấc nồng/ Mơ màng giấc điệp giữa hư không/ Khung cảnh thần tiên trong cõi mộng/ Sau hè hoa bưởi nụ đâm bông" (Cây đa cổ thụ, tr. 120). Chính sự sống từ tâm thiền của vua Phật đã truyền tới Phật tử Hoàng Quang Thuận bây giờ khi đi lên với Người.
Những huyền thoại về nhà vua Phật in dấu vào Yên Tử đã được "vật thể hóa" và nay lại được "thi hóa". Trên Yên Tử có Chùa Cấm Thực tương truyền chùa được dựng để nhớ chuyện vua Trần và Bảo Sái gặp ba tên cướp, nhà vua đã cho ba tên cướp suất cơm của hai người còn mình và Bảo Sái thì uống nước suối và đã cảm hóa chúng (Chùa Cấm Thực, tr. 37). Cả ba tên cướp về sau đều thành tín đồ ngoan đạo của phái Trúc Lâm (Kẻ cướp đường, tr. 25). Lòng nhân từ của vua Phật còn thuần hoá cả thú dữ như rắn, hổ (Hổ thiêng, tr. 62). Hang Giếng trên Yên Tử gắn với huyền thoại hổ dữ lấy chân cào vách đá để tạo ra một giếng nước ngọt dâng cho nhà chùa. (Chùa Một Mái, tr. 23) có tên Thanh Long động tức rồng xanh, có loài rắn xanh không cắn ai bao giờ...
Bản thân nhà vua xuất gia tu hành nhưng vẫn chế thuốc cứu người. Ngày nay trên Yên Tử gần am cỏ Ngọc Vân của vua Trần Nhân Tông có cái am đặt tên là am Dược Tiên để nhớ công vua chế thuốc Hoàng Ngọc Sương từ cây cỏ để chữa bệnh cho các nhà sư và dân quanh vùng (Ngọa Vân lưng núi, tr. 107).
Đã là con người thì ai cũng có thân mà có thân là có sinh, có diệt. Đức vua Phật cũng có một ngày viên tịch. Đó là ngày 16-11-1308. Mặc dù vẫn biết tinh thần Người, linh hồn Người là bất diệt nhưng từ đây trên Yên Tử vắng hình bóng của Người thì cỏ cây và muôn loài không thể không bùi ngùi, thương tiếc. "Suốt mấy hôm liền mây trút mưa/ Cây cối ngả nghiêng phục bên chùa.../ Chim rừng cất tiếng khóc bi ai/ Hầu vượn quanh am than thở hoài". Nhưng Người không mất mà Người hiển Phật nên "Buổi sáng ngày sau trời quang đãng/ Một dải Ngân Hà ánh sao mai.../ Hương trầm lan toả khắp rừng núi/ Đưa tiễn Ngài về điện Như Lai."
Thi Vân Yên Tửkhông kết thúc như một thiên du ký mà như một khúc tưởng niệm như trên đã nói, nét đậm nhất của Thi Vân Yên Tử là dấu tích của vua Phật Trần Nhân Tông trên Yên Tử nhưng là dấu tích trong lòng người, trong lòng thi nhân. Có tấm lòng ấy mới có thơ. Tấm lòng ấy trong bài nào, trong chi tiết nào cũng thể hiện và rõ nhất, khái quát nhất là trong ba bài Luận đời (tr. 158), Cảm thán (tr. 45) và Yên Tử trường xuân (tr. 19). Bài Luận đời coi như lời tổng luận bằng thơ cả tập thơ của nhà khoa học, nhà thơ, Phật tử Hoàng Quang Thuận "Đời giống mây trời trên đỉnh núi/ Phù Vân tán tụ một kiếp người/ Vinh hoa phú quý vòng tục luỵ/ Bể khổ trần gian kẻ đầy vơi/ Hào quang toả sáng đỉnh Phù Vân/ Ngọa Vân Yên Tử theo ngày tháng/ Linh Sơn đất Phật mãi trường xuân".
Có điều nhà khoa học, nhà tư tưởng, nhà Phật học Hoàng Quang Thuận là nhà thơ nên những cảm nghĩ của ông về Yên Tử, trước hết, trên hết và sau hết là sự rung động của con tim, sự rung động đó lại ngân lên bằng vần điệu, bằng hình tượng nghệ thuật để cuốn hút chúng ta theo bước của thi nhân vào cõi thiêng, cõi đẹp của Đất nước, của tâm linh Việt.